Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG KINH DOANH NGÂN HÀNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.91 KB, 25 trang )

LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ RỦI RO
TÍN DỤNG TRONG KINH DOANH NGÂN HÀNG
1.1. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI QUẢN
TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG.
1.1.1.Tín dụng ngân hàng
1.1.1.1 Khái niệm
Trước hết tín dụng ngân hàng được định nghĩa là hoạt động giao dịch về
tài sản giữa ngân hàng và khách hàng. Trong đó ngân hàng chuyển giao vốn tín
dụng cho khách hàng dưới dạng một vài loại tài sản nào đó và khách hàng cam kết
sẽ trả lại trong một khoảng thời gian nhất định.
Hoạt động tín dụng ngân hàng có những đặc điểm cần lưu ý sau:
Thứ nhất, giao dịch tín dụng được thực hiện trên cơ sở sự tin tưởng giữa
hai bên khách hàng và ngân hàng. Trong đó khách hàng tin tưởng ngân hàng về
khả năng cung cấp dịch vụ và thực hiện những cam kết đối với khách hàng còn
ngân hàng tin tưởng ở khả năng hoàn trả cũng như tính sẵn lịng hồn trả của khách
hàng. Nghiên cứu lý luận quản trị rủi ro tức là đứng trên góc độ ngân hàng thì đặc
điểm này có ý nghĩa quan trọng vì rủi ro ở đây nằm ở chỗ khách hàng có hồn trả
khoản vay cho ngân hàng hay khơng trong đó tính “sẵn lịng hồn trả” của khách
hàng giữ vai trò quyết định.
Thứ hai, giao dịch được thực hiện trên cơ sở chuyển giao tài sản từ phía
ngân hàng cho khách hàng. Ngân hàng cấp tín dụng thực chất là tài trợ vốn cho
khách hàng mà vốn là một khái niệm mang tính vơ hình do đó nó phải được biểu
hiện dưới một hình thái hữu hình nào đó mà ta gọi là tài sản. Tài sản này có thể là
tiền, máy móc, thiết bị, hàng hóa, …nhưng chủ yếu là dưới hình thái tiền. Ý nghĩa
của việc nghiên cứu đặc điểm này trong quản trị rủi ro tín dụng nằm ở chỗ rủi ro ở
đây nằm trong quá trình lưu chuyển vốn. Cụ thể là vốn được chuyển từ ngân hàng
tới tay khách hàng dưới hình thái tiền tệ (là chủ yếu), sau đó tùy theo mục đích sử
dụng của mình mà khách hàng tiếp tục chuyển hóa hình thái tiền tệ đó sang các


hình thái khác…cuối cùng nó lại quay về hình thái tiền tệ để hồn trả ngân hàng.


Trong dịng lưu chuyển vốn đó rủi ro có thể xảy ra ở bất kỳ khâu nào và điều cần
lưu ý ở đây là rủi ro đó sẽ xảy ra đối với khách hàng trước rồi mới đến ngân hàng.
Bởi vậy để quản trị được rủi ro thì ngân hàng phái kiểm sốt khách hàng từ việc
khách hàng đã chuyển hóa đồng vốn vay như thế nào.
Thứ ba, giá trị hoàn trả của khách hàng phải lớn hơn giá trị ban đầu.
Đến kỳ đáo hạn, khách hàng phải hoàn trả khoản vay cho ngân hàng bao gồm
khoản vay gốc và một khoản lãi vay. Khoản lãi vay này dùng để trang trải các chi
phí mà ngân hàng bỏ ra (như chi phí huy động vốn, chi phí các hoạt động…) và để
ngân hàng có lợi nhuận. Việc tính tốn lãi của khoản vay liên quan đến vấn đề lãi
suất và rủi ro lãi suất cũng nằm trong hệ thống rủi ro kinh doanh mà ngân hàng
phải đối mặt, tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này thì rủi ro lãi suất
sẽ không được đề cập đến.
Thứ tư, khách hàng cam kết sẽ hoàn trả khoản vay cho ngân hàng đúng
hạn. Đặc đỉểm này hết sức quan trọng trong quá trình nghiên cứu quản trị rủi ro tín
dụng vì những lý do sau. Trước hết, khoản tiền mà ngân hàng cho vay khơng thuộc
sở hữu của ngân hàng vì ngân hàng chỉ là một đơn vị trung gian tài chính thực hiện
“kinh doanh tiền gửi” nói nơm na là “đi vay để cho vay” . Hoạt động kinh doanh
tiền gửi này có một quy tắc là khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng với bất kỳ
thời hạn nào thì ngân hàng khơng có quyền từ chối nếu khách hàng đó muốn rút
tiền trước thời hạn, ngược lại khi ngân hàng cho vay một khách hàng nào đó thì dù
có bất cứ lý do gì cũng khơng được phép địi khách hàng đó thanh tốn nếu chưa
đến hạn. Bởi vậy, việc các khoản vay được thanh tốn đúng hạn có ý nghĩa quan
trọng trong việc đảm bảo khả năng thanh khoản của ngân hàng. Trong trường hợp
này, rủi ro tín dụng nếu xảy ra sẽ có thể là nguyên nhân của rủi ro thanh khoản mà
bất kỳ ngân hàng nào cũng luôn lo sợ phải đối mặt. Một điều nữa đối với tính đúng
hạn của khoản hồn trả là “liệu ngân hàng có muốn khách hàng trả trước hạn hay
khơng?”. Tất nhiên sẽ khơng có một cán bộ tín dụng nào từ chối nếu khách hàng
đến trả tiền trước hạn. Tuy nhiên nếu chuyện đó xảy ra cũng sẽ ảnh hưởng đến kế
hoạch dư nợ của ngân hàng cũng như lợi nhuận dự kiến mà ngân hàng tính tốn.
Tóm lại, việc tính toán thời hạn của khoản vay và quản lý để thu nợ đúng hạn có



vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa sử dụng vốn sai mục đích của khách hàng
cũng như thực hiện các kế hoạch của ngân hàng.
1.1.1.2. Các loại tín dụng ngân hàng
Hoạt động tín dụng ngân hàng có thể phân loại theo các tieu thức sau đây:
Thứ nhất, Theo phương thức cấp tín dụng thì tín dụng ngân hàng bao gồm
các loại: Cho vay, chiết khấu thương phiếu, bảo lãnh ngân hàng, cho thuê tài chính,
thẻ tín dụng.
Thứ hai, theo thời hạn cấp tín dụng bao gồm :
- Ngắn hạn: thời hạn <= 1 năm ( chủ yếu tài trợ bằng vốn lưu
động)
- Trung hạn: 1< thời hạn <= 5 năm ( tài trợ dự án)
- Dài hạn: thời hạn > 5 năm.
Thứ ba, theo mục đích sử dụng bao gồm : Tín dụng tiêu dùng, tín dụng
nơng nghiệp, tín dụng BĐS.
Thứ tư, theo phương pháp hoàn trả gồm: Trả gốc và lãi một lần, trả gốc và
lãi nhiều lần
Thứ năm, theo xuất xứ việc tài trợ tín dụng bao gồm: Tài trợ trực tiếp, tài
trợ gián tiếp
1.1.2. Rủi ro tín dụng và sự cần thiết phải quản trị rủi ro tín dụng
trong kinh doanh ngân hàng.
1.1.2.1. Khái niệm rủi ro
Trong nền kinh tế thị trường, bất kỳ hoạt động kinh doanh nào cũng tiềm
ẩn những rủi ro. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại cũng không
tránh khỏi rủi ro. Vậy rủi ro là gì?
Rủi ro là sự kiện xảy ra không theo ý muốn và ảnh hưởng xấu đến hoạt
động kinh doanh của Ngân hàng thương mại.
Hoạt động kinh doanh ngân hàng rất nhạy cảm, có liên quan đến nhiều lĩnh
vực khác nhau của nền kinh tế, chịu sự tác động của nhiều nhân tố khách quan và

chủ quan như kinh tế, chính trị, xã hội … Từ đó cũng gây ra những thiệt hại khơng
nhỏ cho ngân hàng. Hơn nữa, ngân hàng kinh doanh không những chỉ huy động
vốn và cho vay mà còn rất nhiều lĩnh vực khác như thanh toán, bảo lãnh, kinh


doanh ngoại hối, chứng khốn, góp vốn liên doanh, dịch vụ thẻ đại lý … Vì vậy có
thể nói rằng rủi ro ngân hàng rất đa dạng.
Do đặc thù kinh doanh của mình nên hoạt động kinh doanh ngân hàng có
rất nhiều các loại rủi ro, bao gồm:
- Rủi ro tín dụng.
- Rủi ro lãi suất.
- Rủi ro thanh khoản.
- Rủi ro hối đoái.
- Rủi ro thiếu vốn khả dụng.
- Rủi ro trong tín dụng quốc tế
- Các rủi ro khác.
Trong số các loại rủi ro kể trên thì rủi ro tín dụng là loại rủi ro lớn nhất và
phức tạp nhất do tín dụng là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu và đồng thời là nghiệp vụ
tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao nhất của ngân hàng. Bởi vậy mối lo lắng lớn nhất trong
hoạt động tín dụng cũng chính là rủi ro tín dụng.
Rủi ro tín dụng có nhiều cách định nghĩa trong đó theo Điều QĐ493 của
Thống đốc ngân hàng Nhà Nước Việt Nam thì rủi ro tín dụng được định nghĩa là
“là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do
khách hàng khơng thực hiện hoặc khơng có khả năng thực hiện nghĩa vụ của
mình theo cam kết”.
Như vậy rủi ro tín dụng phát sinh khi một hoặc các bên trong hợp đồng tín
dụng khơng có khả năng thanh tốn cho các bên cịn lại. Ngân hàng thương mại là
một trung gian tài chính thực hiện nghiệp vụ vay tiền của người này để cho người
khác vay. Như vậy rủi ro tín dụng đối với ngân hàng xuất phát từ cả hai phía là
người cho vay (chủ nợ của ngân hàng) và người đi vay (con nợ của ngân hàng).

Trường hợp thứ nhất là người gửi tiền (người cho ngân hàng vay) muốn rút tiền mà
ngân hàng lại khơng thanh tốn được, thực ra bản chất đấy là rủi ro thanh khoản
nhưng nó lại liên quan mật thiết đến trường hợp thứ hai là ngân hàng không thu
được đầy đủ các khoản cho vay bao gồm cả khoản gốc và lãi, hoặc việc thanh toán
các khoản nợ (gồm gốc và lãi vay) không đúng hạn. Điều này xảy ra khi khách
hàng vay tiền của ngân hàng khơng có khả năng trả nợ hoặc cố ý không trả nợ.


Ngồi ra rủi ro tín dụng được biểu hiện là tỷ lệ nợ quá hạn cao. Ở các nước tỷ lệ
này lên đến 5% tổng dư nợ thì được coi là báo động. Ở nước ta tỷ lệ này dao động
trong khoảng 10 –11% tổng dư nợ.
1.1.2.2. Các loại rủi ro tín dụng.
Việc phân loại rủi ro tín dụng nhằm hiểu rõ hơn về từng loại rủi ro và có
biện pháp quản lý riêng cho từng loại. Rủi ro tín dụng có thể được phân loại như
sau:

a) Theo nguyên nhân của rủi ro
Phân loại theo nguyên nhân thì rủi ro tín dụng bao gồm 2 loại là rủi ro do
nguyên nhân khách quan và rủi ro do nguyên nhân chủ quan, cụ thể như sau:
Thứ nhất, rủi ro tín dụng do nguyên nhân khách quan bao gồm:
-

Rủi ro do môi trường kinh tế có biến động bất lợi: điều này dẫn
đến việc đầu tư vốn kinh doanh của khách hàng gặp khó khăn
và khách hàng khơng thể trả nợ cho ngân hàng.

-

Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi: Hệ thống văn bản
pháp luật còn nhiều bất cập, quản lý của các cơ quan nhà nước

tại địa phương cịn nhiều yếu kém, hệ thống thơng tin quản lý
hạn chế.

-

Rủi ro từ chính sách: Những thay đổi trong chính sách của nhà
nước hoặc thay đổi một số quy định của luật pháp cũng có thể
gây nên rủi ro cho hoạt động tín dụng ngân hàng.Ví dụ khi ngân
hàng đã kí quyết định cho một DN vay vốn sản xuất pháo vào
thời điểm Nhà nước chưa cấm buôn bán sản xuất pháo đến khi
Nhà nước ra quyết định cấm sản xuất pháo (khi hợp đồng cịn
hạn) thì rõ ràng DN không thể hoạt động và tất nhiên không thể
trả nợ cho ngân hàng.

Thứ hai, rủi ro tín dụng do nguyên nhân chủ quan bao gồm:
-

Rủi ro do nguyên nhân từ phía khách hàng: Sử dụng vốn sai mục đích

đã cam kết, khơng thiện chí trong việc trả nợ, khả năng quản lý
kinh doanh kém, tình hình tài chính khơng lành mạnh…


-

Rủi ro do nguyên nhân từ phía ngân hàng : cơng tác kiểm tra
nội bộ yếu kém, cán bộ cịn bất cập về trình độ chun mơn
hoặc đạo đức nghề nghiệp dẫn đến các sai phạm, thiếu kiểm tra
và giám sát khách hàng sau khi cho vay; sự liên kết và hợp tác
giữa các ngân hàng thương mại còn lỏng lẻo, CIC (trung tâm

thơng tin tín dụng) chưa phát huy được vai trị…

b)Theo tính chất của rủi ro
Theo cách phân chia này thì rủi ro tín dụng có thể phân làm hai loại:
Một là, rủi ro mất vốn: ngân hàng không thu được các khoản gốc và lãi của
khoản vay do người vay cố ý không trả nợ hoặc mất khả năng trả nợ.
Hai là, rủi ro đọng vốn: do khách hàng sử dụng vốn không hiệu quả hoặc
gặp phải rủi ro nên khơng thể thanh tốn khoản nợ đúng hạn.
1.1.2.3. Sự cần thiết phải quản trị rủi ro tín dụng trong kinh doanh ngân

hàng
Trong nền kinh tế thị trường, chức năng kinh tế cơ bản của ngân hàng là
cung cấp tín dụng. Trong cơ cấu tổng tài sản của phần lớn các ngân hàng thương
mại thì dư nợ tín dụng chiếm tới hơn 50%, thu nhập từ tín dụng chiếm khoảng từ
50% đến gần 70% tổng thu nhập của ngân hàng. Bên cạnh đó, rủi ro trong kinh
doanh ngân hàng có xu hướng tập trung vào danh mục tín dụng. Bởi vậy, khi ngân
hàng lâm vào tình cảnh khó khăn về tài chính thì ngun nhân thường phát sinh từ
hoạt động tín dụng của ngân hàng. Rủi ro tín dụng nếu xảy ra sẽ có thể gây nên các
thiệt hại sau đây:
Thứ nhất, đối với nền kinh tế: hoạt động ngân hàng có liên quan đến hoạt
động của nhiều đối tượng khác nhau trong nền kinh tế. Bởi vậy, khi rủi ro tín dụng
xảy ra đối với một ngân hàng nào đó thì sẽ tác động đến tâm lý những người gửi
tiền ở những ngân hàng khác và nghiêm trọng nhất là tình trạng đổ xơ đến ngân
hàng rút tiền. Như vậy, chỉ một ngân hàng phá sản cũng có thể gây ra hội chứng
Domino khiến một loạt các ngân hàng khác gặp khó khăn. Ngồi ra, ngân hàng phá
sản sẽ tác động đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, khơng có tiền trả
lương dẫn đến đời sống cơng nhân viên gặp khó khăn. Hơn nữa, sự hoảng loạn của


các ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Nó làm cho nền kinh tế

bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định. Thêm
nữa, với xu thế toàn cầu hóa hiện nay thì nền kinh tế của một qc gia có vấn đề
cịn có thể tác động xấu đến nền kinh tế thế giới, bời mỗi quốc gia đều có sự phụ
thuộc hay liên hệ với một vài quốc gia nào đó trong khu vực hoặc trên thế giới.Hãy
nhìn lại cuộc khủng hoảng tài chính châu Á (1997) hay gần hơn là cuộc khủng
hoảng tài chính Nam Mỹ (2001-2002) đã làm rung chuyển toàn cầu.
Thứ hai, đối với ngân hàng: khi gặp rủi ro tín dụng, ngân hàng không thu
được vốn và lãi của khoản cho vay nhưng vẫn phải trả vốn và lãi cho khoản tiền đã
vay từ người gửi khi đến hạn, điều này làm cho ngân hàng mất cân đối trong việc
thu chi. Nợ không thu được làm giảm vịng quay vốn tín dụng và do đó việc kinh
doanh khơng hiệu quả.Như đã phân tích ở phần trước, rủi ro tín dụng xảy ra thì
ngân hàng phải tiếp tục đối mặt với rủi ro thanh khoản tức là mất khả năng thanh
toán cho người gửi tiền và do đó mất uy tín với khách hàng.bản than ngân hàng
cũng khơng thể thanh tốn các khoản lương cho nhân viên của mình nên những
người có năng lực sẽ thun chuyển cơng tác, gây khó khăn cho ngân hàng.
Nói tóm lại, rủi ro tín dụng của một ngân hàng khi đã xảy ra có thể gây
nên thiệt hại ở mức độ khác nhau: nhẹ nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận khi
không thu hồi được lãi cho vay, nặng nhất khi ngân hàng không thu được vốn lãi,
nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến ngân hàng bị lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng này
kéo dài không khắc phục được, ngân hàng sẽ bị phá sản, gây hậu quả nghiêm
trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy
trong công tác quản trị ngân hàng thương mại không thể không quan tâm đến
quản trị rủi ro đặc biệt là rủi ro trong hoạt động tín dụng.


1.2. NỘI DUNG QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Nghiên cứu xác định các loại rủi ro
Để quản trị được rủi ro, trước hết phải xác định được các loại rủi ro mà
ngân hàng có thể gặp phải. Công việc này bao gồm:

Nhận dạng rủi ro: ngân hàng trước hết phân tích cơ cấu cho vay theo các
tiêu thức như thời hạn, khách hàng, phương thức cấp vốn, hình thức tài trợ…và xác
định các loại rủi ro có thể có đối với mỗi loại hình và khả năng rủi ro xảy ra của
từng loại. Đối với mỗi loại rủi ro thì việc nhận dạng bao gồm theo dõi rủi ro, xem
xét rủi ro, nghiên cứu môi trường hoạt động cụ thể nhằm thống kê những rủi ro đã
và đang xảy ra đồng thời cố gắng dự báo những rủi ro có thể xảy ra trong tương lai
để đề ra những biện pháp kiểm soát và tài trợ phù hợp. Các phương pháp thường
được sử dụng là phân tích các báo cáo, phân tích các hợp đồng vay vốn cụ thể và
làm việc trực tiếp với các bộ phận có liên quan khi rủi ro xảy ra
Phân tích định tính rủi ro: Đây là một phương pháp truyền thống và đơn
giản nhất để phân tích và đo lường rủi ro tín dụng. Việc phân tích rủi ro tín dụng sử
dụng cơng cụ chính là hệ thống chỉ tiêu tài chính đánh giá khách hàng:
-

Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh tốn (Liquidity
ratios)

-

Nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lời (Profitability ratios)

-

Nhóm chỉ tiêu cơ cấu tài chính (Leverage ratios)

-

Nhóm chỉ tiêu hoạt động (Activity ratios)

Việc phân tích này nhằm mục đích trả lời câu hỏi “liệu khách hàng vay

vốn này có thể tin tưởng được khơng”. Trong kinh doanh ngân hàng thì “chữ tín
q hơn vàng”. Ngân hàng chấp nhận cho vay dựa trên niềm tin rằng khách hàng
sẽ trả nợ cho mình đúng hạn. Mà sự tin tưởng là một khái niệm trừu tượng vì vậy
ngân hàng cố gắng thẩm định khách hàng thông qua những tiêu chí có thể đo lường
được để khẳng định được thiện chí trả nợ của người vay. Như đã nói ở phần trước,
việc khách hàng có trả nợ hay khơng phụ thuộc vào việc người đó có “khả năng trả
nợ” và tính sẵn lịng trả nợ” trong đó tính sẵn lịng trả nợ là quyết định vì nếu


người vay sẵn sàng trả nợ thì dù tài chính có khó khăn anh ta cũng sẽ cố gắng xoay
sở để tìm cách trả ngân hàng nhưng nếu anh ta khơng muốn trả (đúng hạn) thì dù
có khả năng trả nợ đi nữa thì ngân hàng cũng khơng thể địi được nợ (đúng hạn).
Những tiêu chí được dùng để đánh giá thường được các chuyên gia khái
quát với tên gọi “6C” : tư cách (character), năng lực (Capacity),thu nhập (Cash),
bảo đảm (Collateral), điều kiện (Conditions), kiểm soát (Control).
Đo lường rủi ro: đây là điều mà các nhà quản lý ngân hàng rất quan tâm,
vì rủi ro nếu đo lường được thì việc phịng ngừa sẽ dễ dàng hơn. Trong hoạt động
ngân hàng thì đo lường rủi ro được thể hiện trên 2 phương diện:
Một là, đo lường hay xác định số thiệt hại do rủi ro gây ra: phản ánh hậu
quả rủi ro được xác định sau khi rủi ro đã xảy ra rồi. Số này có thể là số tuyệt đối,
hoặc số tương đối theo các tiêu thức khác nhau như giá trị thiệt hại, số lần bị rủi ro,
tỉ lệ tài sản bị rủi ro... Sau một thời gian nhất định, các con số phản ánh rủi ro trong
kỳ có thể như sau:
Tổng giá trị tài
sản bị rủi ro kỳ
báo cáo
Tổng %
tài sản
bị rủi ro
trong kỳ


=

=

=

Tổng giá trị tài sản bị thiệt hại rủi ro
mỗi lần trong kỳ
Tổng giá trị TS rủi ro trong kỳ x 100%
Tổng giá trị các TS có sinh lời trong kỳ

Hai cơng thức trên dùng để xác định tài sản bị rủi ro đã xảy ra. Theo quan
điểm xác suất thống kê, ta có thể lượng hố được khả năng bị rủi ro của mỗi loại
tài sản có của ngân hàng.
Hai là, đo lường khả năng bị rủi ro (xác suất bị rủi ro): dựa vào cơng thức
tính xác suất của một biến cố ngẫu nhiên theo quan điểm thống kê, xác định xác
suất rủi ro tín dụng ngân hàng như sau:


P rủi ro

=

Số món cho vay bị rủi ro trong
kỳ báo cáo
Tổng số lần cho vay trong kỳ
Báo cáo

x100%


hoặc

P rủi ro

=

Tổng giá trị tài sản bị rủi ro
Tổng giá trị các món cho vay
trong kỳ

x100%

Đồng thời, ngân hàng cịn có thể tính xác suất rủi ro dự kiến, hay tổn thất
dự kiến EL (Expected Loss) theo khả năng vỡ nợ PD (Probability of Default) với
mức độ tổn thất khi vỡ nợ LGD (Loss Given Default) theo công thức sau:
EL = Giá trị khoản vay x PD x LGD
Theo các công thức này, nếu mỗi món cho vay coi như thực hiện một phép
thử và nếu có số liệu thống kê rủi ro đầy đủ, xác suất bị rủi ro của từng loại tài sản
của ngân hàng có thể xác định được một cách tương đối chính xác trong từng thời
kỳ, từng lĩnh vực đầu tư, từng loại hình tín dụng,... Điều này có ý nghĩa rất quan
trọng thể hiện ở các góc độ sau:
- Trên cơ sở xác suất rủi ro đã tính tốn, ngân hàng có thể xây dựng cơ cấu
lãi suất cho phù hợp đảm bảo kinh doanh có lãi. Bởi vì, lợi nhuận ngân hàng thu
được trên cơ sở lãi cho vay, lãi suất này phải đảm bảo chi trả phần tiền lãi đi vay,
chi phí quản lý ngân hàng, bù đắp được rủi ro và có lãi. Đối với mỗi tài sản có của
ngân hàng, nếu mức độ rủi ro cao, độ an tồn thấp thì lãi suất của chúng phải cao
hơn.
- Dựa vào xác suất rủi ro của từng loại tài sản có, người ta xây dựng các
hệ số rủi ro của từng loại tài sản làm cơ sở tính hệ số an tồn vốn của ngân hàng

hoặc làm cơ sở để tính phí bảo hiểm cho từng loại tài sản.


1.2.2. Xây dựng chiến lược, kế hoạch QTRR tín dụng
Trên cơ sở việc nghiên cứu tính tốn các loại rủi ro ngân hàng mình đã và
có thể gặp phải, ngân hàng tiến hành xây dựng các chiến lược dài hạn để quản trị
những rủi ro đó và cụ thể hóa thành các kế hoạch quản trị cho từng giai đoạn cụ
thể.
1.2.2.1. Chiến lược quản trị rủi ro
Tại các ngân hàng thương mại Việt nam, việc triển khai quản trị rủi ro mới
ở thời kỳ sơ khai nên việc xây dựng chiến lược quản trị rủi ro cho một thời kỳ dài
cũng chưa được thực hiện một cách đầy đủ, chỉ có một số ngân hàng lớn làm được
việc này. Theo xu thế phát triển chung thì quản trị rủi ro phải trở thành hoạt động
trung tâm trong các tổ chức tài chính_ngân hàng. Bởi lẽ quản lý và kiểm sốt chặt
chẽ các rủi ro giúp cho việc sử dụng vốn có hiệu quả từ đó nâng cao hiệu quả các
hoạt động khác trong ngân hàng. Đặc trưng của kinh doanh ngân hàng là tính rủi ro
lớn hơn bất kì một hoạt động kinh doanh nào khác nên chấp nhận kinh doanh ngân
hàng tức là phải chấp nhận rủi ro. Cũng với lý do như vậy bất kì ngân hàng thương
mại nào cũng phải thực hiện quản trị rủi ro tín dụng nhằm nhằm đảm bảo cho hoạt
động tín dụng ngân hàng nói riêng và việc kinh doanh của ngân hàng đó nói chung.
Xây dựng chiến lược quản trị rủi ro tín dụng là xây dựng và thực thi các chính sách
và biện pháp quản lý tín dụng nhằm đạt mục tiêu an toàn, hiệu quả và phát triển
bền vững. Chiến lược quản trị rủi ro tín dụng phải đạt được mục tiêu tối đa hóa tỷ
suất thu nhập đã được điều chỉnh rủi ro hoặc giảm tối đa chênh lệch giữa mức sinh
lời thực tế và kỳ vọng. Nói cách khác mục tiêu của quản trị rủi ro tín dụng là để
kiểm soát mức độ rủi ro hoặc tổn thất tín dụng trong phạm vi mà ngân hàng cho là
hợp lý và chấp nhận được. Để làm được điều đó, các ngân hàng đều cố gắng đánh
giá, ước lượng và dự đốn mức tổn thất dự kiến trung bình và cả mức tổn thất
ngoài dự kiến nữa.
1.2.2.2. Kế hoạch quản trị rủi ro

Đây là sự cụ thể hóa chiên lược quản trị rủi ro thành những công việc cụ
thể nhằm quản lý rủi ro tín dụng trong mỗi giai đoạn. Đó là các kế hoạch quản lý
các khoản nợ vay, quản lý khách hang, quản lý các khoản nợ xấu. Trong mỗi kế


hoạch phải có tính tốn các bước cơng việc cần thực hiện, dự trù các biện pháp giải
quyết những vấn đề nảy sinh (các biện pháp có thể xử lý khi rủi ro xảy ra). Kế
hoạch quản trị rủi ro cũng phải để ra các công cụ mà ngân hàng sử dụng để quản trị
rủi ro. Các công cụ thường được sử dụng như:
a) Chính sách tín dụng.
Đây là một văn bản cung cấp cho cán bộ tín dụng và các nhà quản lý một
khung chỉ dẫn chi tiết để ra các quyết định tín dụng và định hướng danh mục đầu
tư tín dụng của ngân hàng. Nội dung cơ bản thường gồm:
-

Mơ tả thị trường tín dụng mục tiêu.

-

Cơng bố các tiêu chuẩn đối với danh mục cho vay.

-

Phân định quyền hạn, trách nhiệm những người liên
quan trong việc ra quyết định cho vay.

-

Quy trình, thủ tục vay vốn.


-

Quy định chính sách, phương pháp xác định lãi suất, các
khoản phí, thời hạn vay vốn.


b) Giới hạn cấp tín dụng.
Để hạn chế rủi ro, ngân hàng sẽ quy định hạn mức cấp tín dụng tối đa cho
mỗi cấp quản trị. Nó có thể quy định cho từng chi nhánh, từng phịng giao dịch
hoặc theo loại sản phẩm tín dụng.
Giới hạn tín dụng được hiểu là mức tín dụng an tồn tối đa trong đó doanh
nghiệp quản trị được hoạt động của mình một cách hiệu quả và với mức này rủi ro
ngân hàng có thể chịu đối với doanh nghiệp là thấp nhất.Giới hạn tín dụng gồm
hạn mức của tồn bộ các hoạt động hay dịch vụ chứa đựng rủi ro mà ngân hàng
cấp cho khách hàng (như dư nợ, mở L/C, bảo lãnh…). Khi vượt qua giới hạn này,
rủi ro đã ở quá mức cho phép.
Giới hạn tín dụng được tính tốn trên cơ sở chính sách tín dụng ngân hàng,
xếp hạng tín dụng của khách hàng, lĩnh vực kinh doanh và quy mô hoạt động của
khách hàng, khả năng quản trị của bản thân ngân hàng.
c) Xếp hạng tín dụng khách hàng.


Ngân hàng thực hiện việc đánh giá rủi ro của khách hàng theo định kỳ từ
đó xếp hạng tín dụng cho khách hàng. Việc xếp hạng này giống như phân loại các
khách hàng theo các nhóm có độ rủi ro khác nhau nhằm có biện pháp quản lý hiệu
quả đối với khách hàng cũng như sớm phát hiện và ngăn chặn các dấu hiệu bất
thường xảy ra.
d) Tài sản thế chấp.
Tài sản thế chấp là nguồn đảm bảo cho ngân hàng trong trường hợp không
thu được nợ từ khách hàng. Tuy nhiên đây chỉ là điều kiện cần đẻ khách hàng được

xét cho vay. Trên thực tế nhiều ngân hàng ỷ lại vào tài sản này và lơ là trong việc
thẩm định khách hàng với tâm lý nếu khơng địi được nợ thì bán tài sản thế chấp đi
để bù. Đây là một quan điểm rất thiển cận và thiếu trách nhiệm rất cần được chấn
chỉnh nếu muốn nâng cao chất lượng họat động tín dụng.
e) Đa dạng hóa danh mục đầu tư.
Công cụ này cũng dựa trên nguyên tắc phân tán rủi ro thường được các
chuyên gia nhắc đến là “không bỏ tất cả trứng vào một giỏ”. Để quản trị tốt danh
mục đầu tư thì ngân hàng cần nghiên cứu từng thị trường, ngành hàng, loại sản
phẩm tín dụng…với các đặc điểm hoạt động khác nhau, mức độ rủi ro khác nhau
nhằm tìm ra thị trường tín dụng mục tiêu và một cơ cấu danh mục đầu tư cân đối.
1.2.3. Tổ chức thực hiện kế hoạch quản trị rủi ro tín dụng
Kế hoạch quản trị rủi ro tín dụng được triển khai ngay từ khâu đầu tiên của
quy trình tín dụng tức là phải quản trị rủi ro từ khi tiếp cận khách hàng đến khi hợp
đồng được thanh lý.
1.2.3.1. Lựa chọn khách hàng
Đây là giai đoạn ngân hàng tiến hành thu thập các thông tin về khách hàng
nhằm đưa giá các đánh giá về mức độ rủi ro và chọn lựa những khách hàng ít rủi ro
nhất. Để lựa chọn được những khách hàng có độ rủi ro thấp nhất thì ngân hàng có
thể sử dụng những kỹ thuật lượng hóa rủi ro khách hàng mà một trong đó là kỹ
thuật xếp hạng tín dụng. Mục đích của xếp hạng tín dụng là đánh giá được tình
hình hoạt động, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán… của khách hàng trên cơ


sở phân tích các báo cáo tài chính, hồ sơ lưu trữ của khách hàng…Đối với khách
hàng doanh nghiệp thì quy trình đánh giá này bao gồm các cơng việc chính:
Thứ nhất, đánh giá chung về doanh nghiệp: Xác định loại doanh nghiệp,
nghành nghề kinh doanh, điểm mạnh, điểm yếu, nguồn nhân lực, tài sản đảm
bảo…
Thứ hai, đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp: phân tích các số
liệu trên các bảng báo cáo (bảng cân đối kế toán, báo cao kết quả kinh doanh, báo

cáo lưu chuyển tiển tệ...) từ đó đưa ra các nhận xét về các chỉ tiêu tài chính như cơ
cấu tải chính, tỷ trọng các khoản vốn, tỷ suất tự tài trợ, tình hình sử dụng vốn, v.v.
Thứ ba, phân tích tình hình nợ và khả năng thanh tốn
Thứ tư, phân tích thị trường của doanh nghiệp: tình hình khách hàng, cạnh
tranh.
Thứ năm. đánh giá các điều kiện kinh tế chung.
Cụ thể cách đánh giá như thế nào thì có nhiều cách trong đo có mơ hình
chấm điểm tín dụng là mơ hình đơn giản và thơng dụng hơn cả. Tư tưởng của mơ
hình này là dùng một đại lượng tổng hợp “Z” để đánh giá độ rủi ro tín dụng của
một người vay. Thước đo này được tính tốn dựa trên giá trị các chỉ số tài chính
của người vay và tầm quan trọng của các chỉ số đó trong việc quyết định xác suất
vỡ nợ của người vay vốn.
Cơng thức tính Z là:
Z = 1,2X1 + 1,4X2 + 3,3X3 + 0,6X4 + 1,0X5
Với:
X1 : vốn lưu động ròng / tổng tài sản ( NC/TA)
X2 : lợi nhuận giữ lại / tổng tài sản ( NI/TA)
X3 : lợi nhuận trước thuế và lãi vay/ tổng tài sản ( EBIT/ TA)
X4 : thị giá cổ phiếu / giá trị ghi sổ nợ dài hạn
X5 : doanh thu / tổng tài sản ( S/TA)
Giá trị của Z càng nhỏ thì xác suất vỡ nợ của khách hàng càng cao. Do vậy
khi Z mang dấu âm thì khách hàng thuộc nhóm có nguy cơ vỡ nợ rất cao. Theo mô


hình này khách hàng có trị số Z< 1,81 bị coi là có độ rủi ro cao nên ngân hàng sẽ
khơng cho vay ít nhất khi khách hàng chưa cải thiện được điểm số lớn hơn 1,81.
Ưu điểm của mô hình này tính tốn đơn giản dựa trên các chỉ tiêu tài chính
quen thuộc đánh giá khách hàng và kết quả tính tốn rất dễ xử lý, thuận tiện cho
ngân hàng ra quyết định. Tuy nhiên mơ hình vẫn có một số nhược điểm:
-


Chỉ phân chia khách hàng thành 2 loại “vỡ nợ” và “không vỡ nợ” nên
tương đối cứng nhắc với thực tế đa dạng và phức tạp.

-

Các trọng số của các chỉ tiêu trong công thức chưa được chứng minh
rõ ràng, hơn nữa khi điều kiện kinh tế thay đổi thì tầm quan trọng của
các chỉ tiêu cũng thay đổi nhưng trong cơng thức đã khơng được tính
đến.

Khơng tính đến các yếu tố định tính nhưng khá quan trọng trong thực tế
như “mối quan hệ truyền thống” giữa khách hàng và ngân hàng hay “uy tín” đã có
của khách hàng trên thị trường.
1.2.3.2. Ra quyết định và kiểm sốt tín dụng
a) Ra quyết định tín dụng
Đây là bước có ý nghĩa quyết định đối với ngân hàng ngân hàng có thể gặp
phải rủi ro trong tương lai khơng là do bước quyết định này. Bởi lẽ đó trước khi ra
quyết định thì hồ sơ phải được thẩm định kỹ lưỡng bởi cả bộ phận tín dụng lẫn bộ
phận chuyên thẩm định riêng. Theo quy định thì cơ quan có thẩm quyền cao nhất
trong việc ra quyết định tín dụng là Hội đồng tín dụng. Việc thẩm định khơng
những chỉ có thẩm định tình hình tài chính của khách hàng mà cịn phải thẩm định
tính khả thi của phương án sử dụng vốn. Tựu trung lại, để được chấp nhận cấp tín
dụng thì khách hàng cần thỏa mãn năm điều kiện là:
1) Đủ tư cách pháp lý.
2) Vốn vay được sử dụng hợp pháp
3) Khách hàng có tình hình tài chính lành mạnh, đảm bảo hồn trả tiền

vay đúng hạn cam kết.
4) Khách hàng có phương án, dự án khả thi và hiệu quả

5) Thực hiện đảm bảo tiền vay theo quy định.


b) Kiếm sốt tín dụng
Sau khi hợp đồng tín dụng được ký kết, cán bộ tín dụng liệu có thể cho qua
và tạm quên đi cho đến khi hợp đồng đáo hạn? Chắc chắn là khơng. Bởi lẽ trong
q trình khách hàng thực hiện dự án của mình rất nhiều bất trắc có thể xảy ra do
những biến động của môi trường hoặc những vấn đề chủ quan phát sinh khác. Cán
bộ tín dụng cần phải nhạy cảm với những diễn biến bất thường và kiểm tra định kỳ
các khoản tín dụng cho đến ngày đáo hạn. Điều này giúp cho việc phát hiện những
rủi ro tiềm ẩn từ đó tìm ra biện pháp phịng ngừa và đối phó kịp thời.
1.2.3.3. Xử lý tín dụng có vấn đề
Q trình kiểm tra tín dụng thường xuyên nếu phát hiện những dấu hiệu
bất thường thì ngân hàng cần khẩn trương tìm biện pháp thu hồi những khoản tín
dụng “ có vấn đề” đó. Một số điểm cần lưu ý khi thực hiện cơng việc này:
Thư nhất, tận dụng mọi cơ hội có thể để thu hồi nợ.
Thứ hai, mọi vấn đề phải được khám phá khẩn trương và báo cáo kịp thời.
Thứ ba, tránh xung đột với bộ phận cho vay bằng cách thực hiện xử lý độc
lập với chức năng cho vay.
Thứ tư, phân tích sơ bộ những khoản tín dụng có vấn đề và tìm ngun
nhân rồi khẩn trương hội ý với khách hàng. Sau khi đã xác định được được rủi ro
thì nhanh chóng xây dựng kế hoạch hành động và bổ sung hồ sơ tín dụng.
Thứ năm, chuyên gia phải cân nhắc mọi phương án có thể và dự tính những
nguồn có thể dùng để thu hồi nợ.


Bảng số 01: Những biểu hiện của một khoản tín dụng xấu và một chính sách
tín dụng kém hiệu quả
Các biểu hiện của tín dụng có vấn đề
Trả nợ vay không đúng kỳ hạn

hoặc thất thường
Thường xuyên xin sửa đổi thời hạn, gia
hạn tín dụng
Có hồ sơ đảo nợ (mỗi lần vay mới thì
nợ gốc giảm xuống một ít)
Lãi suất tín dụng cao khơng bình
thường (để bù đắp rủi ro tín dụng)
Tài khoản phải thu hay hàng tồn
kho tăng khơng bình thường
Hệ số địn bẩy tăng
Thất lạc hồ sơ (đặc biệt các báo cáo
tài chính của khách hàng)
Chất lượng bảo đảm tín dụng thấp
Tin vào đánh giá lại tài sản để tăng
vốn CSH của khách hàng
Thiếu báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Khách hàng dựa vào nguồn thu bất
thường để trả nợ

Các biểu hiện của chính sách tín dụng
kém hiệu quả
Sự lựa chọn khách hàng không đúng với
cấp độ rủi ro của họ
Chính sách cho vay phụ thuộc vào những
sự kiện có thể xảy ra trong tương lai.
Cho vay trên cơ sở lời hứa của khách hàng
duy trì số dư tiền gửi lớn
Thiếu kế hoạch rõ ràng để thanh lý từng
khoản tín dụng
Tỷ lệ tín dụng cao cho khách hàng có trụ

sở ngoài lãnh địa của ngân hàng
Tỷ lệ cho vay nội bộ cao
Có xu hướng thái quá trong cạnh tranh
(cấp tín dụng xấu để giữ chân khách hàng)
Cho vay hỗ trợ các mục đích đầu cơ
Khơng nhạy cảm với sự biến đổi các điều
kiện môi trường kinh tế

(Nguồn: FDIC, Bank Examination Policies, Washington, D.C, selected years.)


1.2.4. Đánh giá hoạt động quản trị rủi ro
Đối với mỗi một hoạt động quản trị nào thì khâu kiểm tra đánh giá cũng
có một ý nghĩa rất quan trọng. Nó cung cấp cho nhà quản trị những thơng tin cần
thiết về việc thực hiện thực hiện hoạt động quản trị như thế nào, những gì đã làm
được, những gì chưa làm được cũng như những vấn đề cần được chấn chỉnh. Kết
quả của công tác đánh giá cũng giúp nhà quản trị đưa ra các gợi ý để việc thực hiện
hoạt động được tốt hơn. Đối với công tác quản trị rủi ro thì điều này càng đặc biệt
có nhiều ý nghĩa. Việc đánh giá chất lượng công tác quản trị rủi ro phải tiến hành
trên các khía cạnh chủ yếu sau:
Một là, đánh giá việc tổ chức điều hành quản trị rủi ro: đánh giá việc tổ
chức bộ máy, phân công nhân sự, quản lý các thông tin…Việc đánh giá phải chỉ ra
điểm mạnh, điểm yếu cũng như các nguyên nhân nhằm đưa ra các biện pháp hoàn
thiện tổ chức quản trị rủi ro.
Hai là, đánh giá hiệu quả việc tổ chức thực hiện QTRR: quy trình thực
hiện có nghiêm ngặt, chặt chẽ hay khơng, những khâu nào thực hiện tốt, khâu nào
chưa tốt, khâu nào còn bất cập. Tương tự cũng phải chỉ ra được các nguyên nhân
của các mặt mạnh, yếu đó.
Ba là, đánh giá được kết quả của cơng tác QTRR: QTRR có thực sự hiệu
quả khơng thể hiện ở chính những kết quả nó mang lại. Bởi vậy ngân hàng tính

tốn, thống kê được số rủi ro đã xảy ra, các loại rủi ro hay gặp nhất, nguyên nhân,
mức độ ảnh hưởng, thiệt hại thực tế, kết quả của việc xử lý… Xác định được nhờ
có QTRR mà số lượng, mức độ thiệt hại giảm đi như thế nào, so sánh với kế hoạch
đặt ra. Từ đó có chiến lược để hồn thiện hoạt động này trong tương lai.
Một điểm cần lưu ý nữa là việc đánh giá không phải chỉ tiến hành sau mỗi
chu kỳ kinh doanh mà cần phải tiến hành ngay trong quá trình tổ chức, ở tất cả các
khâu, các bộ phận có liên quan để trực tiếp hỗ trợ, chấn chỉnh các hoạt động ngay
khi thực hiện và phát hiện kịp thời các bất cập để đề ra biện pháp khắc phục.


1.3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN
DỤNG. KINH NGHIỆM QTRR TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG HIỆN
ĐẠI TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC RÚT RA CHO CÁC NHTM VIỆT
NAM
1.3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản trị rủi ro tín dụng.
Để quản lý được các rủi ro thì trươc hết phải biết là rủi ro đó xảy ra như thế
nào cũng như cơ chế tác động của nó. Vì vậy thực chất xem xét những nhân tố ảnh
hưởng đến công tác quản trị rủi ro tín dụng cũng chính là xem xét những nhân tố
ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng. Sau đây là những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến rủi
ro tín dụng đã được hệ thống hóa.
Một là, các yếu tố thuộc về phía ngân hàng bao gồm các yếu tố như:
-

Chính sách quản trị tín dụng của ngân hàng.

-

Mơ hình quản trị rủi ro rín dụng ngân hàng áp dụng
và quy trình thủ tục cấp tín dụng.


-

Trình độ chun mơn và phẩm chất đạo đức của cán
bộ tín dụng.

-

Cơng tác kiểm tra giám sát sau khi cho vay.

-

Tăng trưởng tín dụng quá nhanh vượt tầm kiểm soát
và tâm lý dễ dãi trong quyết định cho vay khi kinh tế
tăng trưởng.

-

Tâm lý lối mịn khi cho vay: cho vay DNNN là an
tồn, tâm lý ỷ lại tài sản thế chấp…

-

Khơng tính đến mức độ rủi ro của khách hàng khi định
giá khoản vay.

-

Danh mục cho vay khơng đa dạng hóa

-


Quản trị nhân lực còn nhiều bất cập.

Hai là, các yếu tố thuộc nền kinh tế như: Chu kỳ kinh tế, biến động trong
chính sách, tình hình lạm phát, lãi suất, thị trường Bất động sản.


Ba là, các yếu tố thuộc khách hàng bao gồm: các yếu tố thc nội tại của
khách hàng như tình hình tài chính, đạo đức của khách hàng, tài sản đảm bảo…;
các yếu tố khách quan ngồi ý chí của khách hàng như thiên tai, hỏa hoạn, trộm
cắp…
1.3.2. Kinh nghiệm quản trị rủi ro tín dụng tại một số ngân hàng
thương mại trên thế giới
1.3.2.1 .Các NHTM trên thế giới tổ chức hoạt động quản trị rủi ro tín
dụng như thế nào?
Tại các ngân hàng thương mại trên thế giới, hoạt động quản trị rủi ro nói
chung và quản trị rủi ro tín dụng nói riêng được tổ chức một cách chuyên nghiệp
và bài bản. Tại mỗi ngân hàng đều có một bộ phận chuyên trách về quản trị rủi ro.
Do yêu cầu cạnh tranh ngày càng cao và cũng để tăng hiệu quả kinh doanh thì các
ngân hàng thương mại hiện đại có xu hướng tách bộ phận quản lý rủi ro ra khỏi các
bộ phận kinh doanh. Tại đây họ hoạt động độc lập với các phòng kinh doanh cũng
như các phòng ban nghiệp vụ khác. Rủi ro được nghiên cứu một cách hệ thống và
được tính tốn đo lường cụ thể các mức độ của nó. Những số liệu này được chuyển
về phòng ban nghiệp vụ để họ có thể chủ động trong kinh doanh. Như vậy, nói
riêng trong lĩnh vực tín dụng thì phịng tín dụng sẽ không trực tiếp thực hiện việc
đo lường rủi ro của các khách hàng hay các hồ sơ xin vay vốn mà có bộ phận
chuyên trách giúp họ làm việc này. Điều này giúp cho việc sử dụng nguồn lực tốt
hơn và nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng.
Tại nhiều nước trên thế giới, hầu hết các tổ chức cho vay lớn đều xây dựng
bảng xếp hạng tín dụng đối với các khách hàng hiện tại và tiềm năng của họ. Sau

đây là ví dụ về xếp hạng tín dụng tiêu dùng thường được các ngân hàng Mỹ áp
dụng:
Mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng (áp dụng đối với khách hàng cá
nhân):
Các yếu tố quan trọng liên quan đến khách hàng sử dụng trong mơ hình
cho điểm tín dụng tiêu dùng bao gồm: hệ số tín dụng, tuổi đời, trạng thái tài sản, số


người phụ thuộc, sở hữu nhà, thu nhập, điện thoại cố định, số tài khoản cá nhân,
thời gian công tác. Sau đây là những hạng mục và điểm thường được sử dụng:
Bảng số 02: Các hạng mục và cho điểm tín dụng
STT

Điểm số

Nghề nghiệp của người vay- chuyên gia hay phụ trách kinh

10-8-7-5-

doanh- cơng nhân có kinh nghiệm (tay nghề cao)- nhân viên

1

Các hạng mục xác định chất lượng tín dụng

4-2

văn phịng- sinh viên- cơng nhân khơng có kinh nghiệmcơng nhân bán thất nghiệp
2


Trạng thái nhà ở- nhà riêng- nhà thuê hay căn hộ- sống

6-4-2

cùng bạn hay người thân
3

Xếp hạng tín dụng- tốt- trung bình- khơng có hồ sơ- tồi

10-5-2-0

4

Kinh nghiệm nghề nghiệp- nhiều hơn một năm- từ một năm

5-2

trở xuống
5

Thời gian sống tại địa chỉ hiện hành- nhiều hơn một năm-

2-1

từ một năm trở xuống
6

Điện thoại cố định- có - khơng có

2-0


7

Số người sống cùng (phụ thuộc)- Khơng- Một- Hai- Ba-

3-3-4-

Nhiều hơn ba

4-2

Các tài khoản tại ngân hàng- cả tài khoản tiết kiệm và phát

4-3-2-0

8

Hành séc- chỉ tài khoản tiết kiệm- chỉ tài khoản phát hànhséc khơng có


Khách hàng có điểm số cao nhất theo mơ hình với 8 mục nêu trên là 43
điểm, thấp nhất là 9 điểm. Giả sử ngân hàng biết mức 28 điểm là ranh giới giữa
khách hàng có tín dụng tốt và khách hàng có tín dụng xấu, từ đó ngân hàng hình
thành khung chính sách tín dụng theo mơ hình điểm như sau:
Tổng số điểm của khách hàng

Quyết định tín dụng

Từ 28 điểm trở xuống


Từ chối tín dụng

29 – 30 điểm

Cho vay đến 500 USD

31 – 33 điểm

Cho vay đến 1.000 USD

34 – 36 điểm

Cho vay đến 2.500 USD

37 – 38 điểm

Cho vay đến 3.500 USD

39 – 40 điểm

Cho vay đến 5.000 USD

41 –43 điểm

Cho vay đến 8.000 USD

1.3.2.2. Tổ chức hoạt động QTRR tín dụng tại các NHTM Việt Nam.
Theo đánh giá chung về công tác QTRR của các ngân hàng trong khu vực,
so sánh với một số nước điển hình như Singapore, Malaysia, Hàn quốc, và các
ngân hàng đạt tiêu chuẩn quốc tế thì các NHTM Việt Nam mới ở giai đoạn đầu

của công tác quản trị rủi ro. Hoạt động quản trị rủi ro đã được nhắc đến từ khá lâu
nhưng thực tế triển khai hoạt động này tại ngân hàng thương mại Việt Nam còn
nhiều vấn đề đáng bàn. Khoan hãy nói về việc chi phí cho việc tổ chức riêng một
bộ phận chuyên trách về công việc này mà trước hết là chúng ta chưa có cán bộ
được đào tạo chuyên môn về lĩnh vực này. Hơn nữa một vấn đề gặp phải khác là
thói quen trong tư duy và phương thức làm việc vốn có từ lâu. Ai cũng biết kinh


doanh ngân hàng là chấp nhận rủi ro và các ngân hàng cũng cố gắng để giảm thiểu
những rủi ro này. Tuy nhiên cách làm của họ là bộ phận nghiệp vụ nào tự làm công
việc hạn chế rủi ro của bộ phận ấy, cán bộ nào tự chịu trách nhiệm với dự án mình
phụ trách và rủi ro được xem xét theo từng giao dịch, từng hợp đồng cụ thể. Quản
trị rủi ro ở NHTM Việt Nam mới chỉ dừng lại ở việc ước tính số lượng các giao
dịch và phân tích rủi ro ở trạng thái tĩnh trong từng giao dịch. Về tổ chức hoạt động
thì vẫn ở giai đoạn sơ khai. Chỉ ở các ngân hàng lớn hoặc các hội sở chính thì mới
có trung tâm quản trị rủi ro riêng, còn tại các chi nhánh (mà số lượng chiếm chủ
yếu) thì việc quản trị rủi ro được thực hiện tản mạn ở các phòng nghiệp vụ. Cụ thể
trong lĩnh vực tín dụng, cán bộ tín dụng vừa phải thực hiện chức năng cho vay, thu
nợ lại phải kiêm luôn công tác thẩm định và quản lý rủi ro. Điều này làm quá tải
công việc và lại làm giảm hiệu quả của từng công việc, bên cạnh đó cũng làm tăng
nguy cơ vi phạm đạo đức ở các cán bộ tín dụng.
Thực tế các NHTM Việt Nam hầu như chưa ứng dụng xếp loại rủi ro tín
dụng trong quy trình quản trị rủi ro tín dụng. Có một số ngân hàng lớn đang thử
nghiệm kỹ thuật xếp loại tín dụng đối với doanh nghiệp lớn, cịn chấm điểm tín
dụng đối với doanh nghiệp nhỏ, khách hàng cá nhân và xếp loại khoản vay thì hầu
như chưa được đề cập đến. Tuy nhiên, ngay cả với với xếp loại tín dụng đang làm
thử cũng cần phải bàn thêm, vì hầu hết những thử nghiệm đang được thực hiện
thiên về phương pháp xếp loại của cơ quan xếp loại độc lập hơn là của NHTM.



Sơ đồ 1: Mơ hình tổ chức quản trị rủi ro tại các NHTM lớn tại Viêt Nam

HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ

GIÁM ĐỐC

PHỊNG, BAN NGHIỆP VỤ KẾ TỐN KIỂM TỐN TRUNG TÂM QUẢN LÝ RỦI RO BAN NGHIỆP VỤ
PHÒNG
NỘI BỘ
PHÒNG,

1.3.2.3. Bài học kinh nghiệm rút ra cho các ngân hàng thương mại Việt
Nam
Từ việc nghiên cứu các kinh nghiệm quản trị rủi ro của các ngân hàng
thương mại trên thế giới và thực trạng quản trị rủi ro hiện nay của các ngân hàng
thương mại Việt Nam, có thể rút ra các bài học kinh nghiệm cho các ngân hàng
thương mại Việt Nam là:
Thứ nhất, ngân hàng nên tách bạch, phân công rõ chức năng nhiệm vụ của
các bộ phận và tuân thủ chặt chẽ các khâu trong quy trình cấp tín dụng. Có thể
thấy điều này ở các ngân hàng Bangkok bank và Siam comercial bank (SCB) của
Thái Lan. Quy trình cấp tín dụng của họ có thể khái qt như sau: tiếp xúc khách
hàng, phân tích tín dụng, thẩm định tín dụng, đánh giá rủi ro, quyết định cho vay,
thủ tục giấy tờ hợp đồng, đánh giá chất lượng, xem lại khoản vay.
Thứ hai, tuân thủ nghiêm ngặt các ngun tắc trong quy trình cấp tín dụng.
Nhìn lại cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính Châu Á năm 1997 - 1998, rất nhiều


ngân hàng của Thái Lan chỉ quan tâm đến tài sản thế chấp chứ khơng quan tâm
nhiều đến dịng vận động của luồng tiền của khách hàng. Mà rủi ro tín dụng phát
sinh chủ yếu trong q trình vận động của dịng tiền này. Hậu quả là có lúc nợ xấu

lên đến 40% (1997 - 1998). Một trong các nguyên nhân chủ yếu là do một số ngân
hàng đã không tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc tín dụng trong q trình cấp
tín dụng. Tuy nhiên hiện nay, nhiều ngân hàng khơng chỉ chấp hành triệt để
ngun tắc tín dụng mà cịn đặc biệt chú trọng đến thơng tin của khách hàng như:
tư cách, hiệu quả kinh doanh, mục đích vay, dòng tiền và khả năng trả nợ, khả
năng kiểm soát vay, năng lực quản trị và điều hành, thực trạng tài chính...
Thứ ba, áp dụng các phương pháp cho điểm tín dụng khách hàng (Credit
Scoring) làm cơ sở ra quyết định.
Thứ tư, tuân thủ nguyên tắc phân quyền trong ra quyết định tín dụng. Tức
là, quy định rõ ràng việc ra quyết định tín dụng theo mức tăng dần: mức phán
quyết của một người, một nhóm người hay hội đồng quản trị. Ví dụ tại các ngân
hàng của Thái lan quy định : >10 triệu Baht: 1 người chịu trách nhiệm; = 100 triệu
Baht: phải qua 2 người chịu trách nhiệm; = 3 tỷ Baht phải do HĐQT quyết định.
Thứ năm, giám sát khoản vay sau khi ký kết hợp đồng. Sau khi cho vay,
ngân hàng phải coi trọng việc kiểm tra, giám sát các khoản vay bằng cách tiếp tục
thu thập thông tin về khách hàng, thường xuyên giám sát và đánh giá xếp loại
khách hàng để có biện pháp xử lý kịp thời các tình huống rủi ro.


×