Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Skkn “sử dụng kỹ thuật mảnh ghép trong giảng dạy sinh học cấp thcs

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 12 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chọn đề tài
Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, thì kiến thức
ln được tìm kiếm trên mạng intenet một cách “dễ dàng và miễn phí”. Vì thế
giáo viên hiện nay khơng cịn là người truyền thụ kiến thức mà là người hỗ trợ
học sinh, hướng dẫn tìm chọn và xử lý thơng tin. Vị trí của nhà giáo không phải
được xác định bằng sự độc quyền về thông tin và trí thức có tính đẳng cấp, mà
bằng trí tuệ và sự từng trải của mình trong quá trình dẫn dắt học sinh tự học.
Trước thực tế đó việc đưa những kỹ thuật dạy học tích cực như: kỹ thuật
động não, kỹ thuật tia chớp, kỹ thuật khăn trải bàn, kỹ thuật ổ bi, kỹ thuật XYZ,
kỹ thuật mảnh ghép,...vào giảng dạy Sinh Học nhằm nâng cao chất lượng hiệu
quả giảng dạy, đồng thời đảm bảo phát triển phẩm chất và năng lực học sinh là
vô cùng cần thiết.
Trong q trình thực hiện tơi nhận thấy sử dụng kỹ thuật mảnh ghép trong
giảng dạy Sinh học có nhiều ưu điểm. Chính vì vậy tơi chọn cho mình đề tài
“Sử dụng kỹ thuật mảnh ghép trong giảng dạy Sinh Học cấp THCS” với hi
vọng cùng chia sẻ kinh nghiệm với đồng nghiệp, cùng nhau vận dụng vào thực
tiễn dạy học nhằm phát triển năng lực và tạo hứng thú học tập cho học sinh,
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục mơn Sinh Học trong nhà trường.
II. Mục đích nghiên cứu
- Giúp giáo viên nhận thấy việc sử dụng kĩ thuật dạy học tích cực trong
dạy học Sinh học là hợp lí, mang lại hiệu quả cao.
- Giúp học sinh có hứng thú học tập mơn Sinh học,
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Sử dụng kỹ thuật mảnh ghép trong giảng dạy Sinh
Học cấp THCS
- Phạm vi nghiên cứu: Do thời gian và tài liệu còn hạn chế nên phạm vi
nghiên cứu của đề tài chỉ giới hạn ở:
+ Chương trình mơn Sinh học cấp trung học cơ sở;
+ Địa bàn nghiên cứu: Học sinh trường THCS mà tôi đang giảng dạy.
IV. Phương pháp nghiên cứu


* Nhóm phương pháp nghiên cứu lí thuyết:
Tơi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu lí thuyết như phương pháp hệ
thống, phân tích, tổng hợp... theo hướng sưu tầm, thu thập và nghiên cứu các
loại tài liệu như: sách, báo, giáo trình, các tài liệu tham khảo,… có liên quan đến
việc sử dụng các kĩ thuật dạy học trong dạy học môn Sinh học cấp trung học cơ
sở, từ đó tiến hành phân tích, tổng hợp, khái qt hố và chọn lọc những nội
dung lí thuyết cần thiết cho đề tài.
* Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:

1 / 12


- Phương pháp điều tra, quan sát: Để có cơ sở thực tiễn cho những nhận
xét, đánh giá liên quan đến đề tài, tôi đã tiến hành điều tra thông qua: dự giờ,
phát phiếu điều tra.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Soạn và giảng dạy một số bài cụ thể
trong chương trình Sinh học cấp trung học cơ sở. Thực tế giảng dạy sẽ là cơ sở để
kiểm chứng hiệu quả và tính khả thi của đề tài.
V. Kế hoạch nghiên cứu
Đề tài này được nghiên cứu trong năm học 2019 - 2020, từ tháng 8/2019
đến cuối tháng 4/2020.
B. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
I. Lý thuyết chung về kỹ thuật mảnh ghép
- Kỹ thuật các mảnh ghép là kĩ thuật dạy học mang tính hợp tác, kết hợp
giữa cá nhân, nhóm và liên kết giữa các nhóm nhằm giải quyết một nhiệm vụ
phức hợp, kích thích sự tham gia tích cực cũng như nâng cao vai trị của cá nhân
trong q trình hợp tác. 
- Cách tiến hành:           
Vịng 1: Nhóm chuyên gia: Lớp học sẽ được chia thành các nhóm (khoảng
từ 3- 6 người). Mỗi nhóm được giao một nhiệm vụ với những nội dung học tập

khác nhau. Ví dụ: Nhóm 1: Nhiệm vụ A, Nhóm 2: Nhiệm vụ B, Nhóm 3: Nhiệm
vụ C, Nhóm 4: Nhiệm vụ D.
Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút, suy nghĩ về câu hỏi, chủ
đề và ghi lại những ý kiến của mình. Khi thảo luận nhóm phải đảm bảo mỗi
thành viên trong từng nhóm đều trả lời được tất cả các câu hỏi trong nhiệm vụ
được giao và trở thành chuyên gia của lĩnh vực đã tìm hiểu và có khả năng trình
bày lại câu trả lời của nhóm ở vịng 2.
Vịng 2: Nhóm mảnh ghép: Hình thành nhóm mới khoảng từ 3-6 người (bao
gồm 1-2 người từ nhóm 1; 1-2 từ nhóm 2; 1-2 người từ nhóm 3…), gọi là nhóm
mảnh ghép.
Các câu hỏi và câu trả lời của vịng 1 được các thành viên trong nhóm mới chia
sẻ đầy đủ với nhau. Khi mọi thành viên trong nhóm mới đều hiểu, được tất cả
nội dung ở vịng 1 thì nhiệm vụ mới sẽ được giao cho các nhóm để giải quyết
(lưu ý nhiệm vụ mới này phải gắn liền với kiến thức thu được ở vòng 1)
Các nhóm mới thực hiện nhiệm vụ trình bày và chia sẻ kết quả.

II. Sử dụng kỹ thuật mảnh ghép vào thực tế giảng dạy sinh học.

2 / 12


Trong quá trình áp dụng kỹ thuật mảnh ghép vào thực tế giảng dạy ở trường
THCS Lương Thế Vinh tôi nhận thấy nếu theo đúng lý thuyết của kỹ thuật
mảnh ghép thì việc thực hiện sẽ gặp những khó khăn sau:
- Sĩ số các lớp học đều từ 40 đến 47 học sinh nếu chia từ 3 đến 6 học sinh
cho một nhóm thì số nhóm sẽ được khoảng từ 8 đến 15 nhóm. Với số nhóm
nhiều như vậy thì việc chia 1 bài dạy ra từ 8 đến 15 đơn vị kiến thức tương ứng
từ 8 đến 15 nhóm sẽ làm cho bài giảng vụn vặt, và không phù hợp với diện tích
lớp học ở trường.
- Với bài dạy mà tất cả các đơn vị kiến thức phải sử dụng mẫu vật thì việc

chuẩn bị đầy đủ mẫu vật cho tất cả các nhóm sẽ rất nhiều.
C. CÁC GIẢI PHÁP TIẾN HÀNH
I. Nghiên cứu kỹ bài giảng
- Cần nghiên cứu kỹ xem bài giảng đó có phù hợp để đưa kỹ thuật mảnh ghép
vào khơng?
Ví dụ 1. Các bài thực hành khơng đưa kĩ thuật mảnh ghép vào vì chỉ có một hoạt
động duy nhất đó là thực hành như:
+ Bài 12: Thực hành- tập sơ cứu và băng bó cho người gãy xương, Sinh học 8
+ Bài 36: Thực hành- Quan sát cấu tạo trong của ếch đồng trên mẫu mổ, Sinh
học 7
+ Bài 42: Thực hành- Quan sát mẫu mổ chim bồ câu, Sinh học 7
Hoặc các bài chỉ có duy nhất 1 nội dung như:
+ Bài 10: Cấu tạo miền hút của rễ, Sinh học 6
+ Bài 54:Tiến hoá về tổ chức cơ thể, Sinh học 7
+ Bài 55:Tiến hoá về sinh sản, Sinh học 7
+ Bài 56:Cây phát sinh giới động vật, Sinh học 7
-Tưởng tượng xem khi sử dụng kỹ thuật mảnh ghép thì học sinh sẽ hoạt động
như thế nào? Và cần phải sử dụng những tranh ảnh hay mẫu vật gì? Có nên kết
hợp kỹ thuật mảnh ghép với các kỹ thuật dạy học khác?
Ví dụ 2. Bài 42 : Ảnh hưởng của ánh sáng lên đời sống sinh vật, Sinh học 9
+Sử dụng mẫu vật: Ngọn cây cong về phía ánh sáng, cây trồng làm cảnh trong
nhà
+ Sử dụng video: Kiến, ong di chuyển theo hướng ánh sáng; tập tính động vật
sống dưới đáy biển, trong đất
- Sau đó thiết kế các nhiệm vụ học tập tương ứng với số nhóm chun gia và
thiết kế nhiệm vụ của nhóm mảnh ghép.
Ví dụ 3. Bài 3: Tế bào, Sinh học 8
+Chia lớp thành 4 nhóm,nhiệm vụ của các nhóm chuyên gia như sau:
~ Nhóm 1: Tìm hiểu thành phần tế bào và vẽ cấu tạo của một tế bào điển hình
~ Nhóm 2: Tìm hiểu chức năng các bộ phận trong tế bào và trình bày dưới dạng

sơ đồ
~ Nhóm 3: Tìm hiểu thành phần hố học tế bào
~ Nhóm 4: Tìm hiểu hoạt động sống của tế bào, sưu tầm video minh hoạ
+Nhiệm vụ của nhóm mảnh ghép:Tổng hợp thành phần, chức năng, thành phần
hoá học và hoạt động sống của tế bào.
3 / 12


II. Tìm hiểu sĩ số của mỗi lớp, trình độ, năng lực của học sinh trong lớp,
diện tích lớp học để chia nhóm và giao nhiệm vụ sao cho phù hợp.
1. Nếu lớp học có sĩ số ít, (dưới 30 em /1lớp) diện tích lớp đủ rộng thì sẽ
tiến hành kỹ thuật mảnh ghép theo lý thuyết chung:
2. Nhưng nếu lớp có sĩ số đơng nhiều hơn 30 em /1lớp, với diện tích lớp học
khơng rộng rãi thì tơi có những kinh nghiệm sau:
a. Với bài học (hoặc 1phần bài học) chỉ có 2 đơn vị kiến thức độc lập và
tương đương. Thì tiến hành như sau:
Bước 1: GV chia lớp thành 6 nhóm chuyên gia (2 bàn là 1 nhóm ) như hình 1
Bước 2: Trộn nhóm
Sau khi nhóm chuyên gia thực hiện xong nhiệm vụ để mỗi em đều thực sự trở
thành chuyên gia thì yêu cầu các con trộn nhóm trở thành 6 nhóm mảnh ghép
như sau: các bàn số A2 và B2 đổi chỗ cho nhau, A4 và B4 đổi chỗ cho nhau, A6
và B6 đổi chỗ cho nhau.
Sau khi đổi chỗ lớp có 6 nhóm mới gọi là 6 nhóm mảnh ghép -> Mỗi nhóm
mảnh ghép gồm 2 nửa, 1 nửa thành viên của nhóm chẵn và một nửa thành viên
của nhóm lẻ.
Bước 3: GV u cầu nhóm mảnh ghép hoạt động nhóm.
Hình 1
Nhóm chun gia
Nhóm
1

Nhóm
2
Nhóm
3

A1
A2
A3
A4
A5
A6

Hình 2
Nhóm mảnh ghép
Nhóm
4
Nhóm
5
Nhóm
6

B1
B2
B3
B4
B5
B6

N
Nhóm

2
Nhóm
3

óm 1
A1
B2
A3
B4
A5
B6

Nhóm
4
Nhóm
5
Nhóm
6

B1
A2
B3
A4
B5
A6

- Các bạn ở nhóm lẻ có nhiệm vụ chia sẻ kiến thức của nhóm mình cho các bạn
nhóm chẵn và ngược lại.
- Yêu cầu sau khi hoạt động nhóm xong tất cả các thành viên của nhóm mảnh
ghép đều trả lời được tất cả các câu hỏi của phiếu học tập để từ đó thực hiện

nhiệm vụ mới của nhóm mảnh ghép.
Ví dụ: Với bài học chỉ có 2 đơn vị kiến thức độc lập và tương đương
+ Bài 42: Ảnh hưởng của ánh sáng lên đời sống sinh vật, Sinh học 9
+ Bài 5: Kính lúp, kính hiển vi và cách sử dụng, Sinh học 6
+ Bài 34:Vitamin và muối khoáng, Sinh học 8
b. Với bài học có 4 đơn vị kiến thức, và trong bài có sử dụng mẫu vật tranh
ảnh. Để tiết kiệm mẫu vật tránh lãng phí và bảo vệ động vật, thực vật tự
nhiên nhưng vẫn đảm bảo đủ để các con quan sát :
Ví dụ. Bài 29: Các loại hoa, Sinh học 6
Bước 1: Chuẩn bị trước giờ học: Giả sử lớp học có 40 học sinh
4 / 12


- Chuẩn bị 4 biển nhỏ, mỗi biển có một màu màu xanh, đỏ, tím, vàng tương
ứng với 4 trạm đặt trên bàn 4 nhóm.
- Chuẩn bị 40 bơng hoa bằng giấy (10 màu xanh +10 màu đỏ +10 màu tím +
10 màu vàng). Đầu giờ học chia 40 bơng hoa cho 4 nhóm chun gia mỗi nhóm
10 bơng: 2( hoặc 3) xanh + 2( hoặc 3) đỏ + 2(hoặc 3) tím + (2 hoặc 3) vàng )
Rồi cho các em đeo lên ngực áo.
- Chia tranh ảnh, mẫu vật theo 4 chủ đề, tương ứng với 4 đơn vị kiến thức
của 4 nhóm chun gia và đặt ln ở 4 trạm.
Bước 2:Vào giờ học
-Vòng 1: Chia lớp thành 4 nhóm chuyên gia với số lượng học sinh xấp xỉ
nhau: VD: Lớp có 40 HS thì mỗi nhóm 10 em. Cho các em ngồi như hình 3
-Vịng 2:
+ Ghép nhóm để tạo ra các nhóm mảnh ghép từ 4 nhóm chuyên gia ban đầu.
Sau khi nhóm chuyên gia thực hiện xong nhiệm vụ học tập giáo viên cho các
con 1 phút để các con ghép nhóm. Học sinh đeo hoa màu nào sẽ di chuyển đến
trạm có biển màu đó (đeo hoa xanh sẽ di chuyển đến vị trí bàn có biển màu
xanh...). Như vậy mỗi nhóm mảnh ghép đều có 10 người (bao gồm 2-3 người từ

nhóm 1; 2-3 từ nhóm 2; 2-3 người từ nhóm 3…) Và ngồi như hình 4
Hình 3
Hình 4

+Hoạt động của nhóm mảnh ghép: giáo viên hướng dẫn học sinh lần lượt di
chuyển đến 4 trạm, tại mỗi trạm 1 chuyên gia của trạm sẽ dựa trên mẫu vật
thuyết trình cho 4 -5 bạn của nhóm khác để cùng nhau hồn thành nhiệm vụ mới
(khi đi đến trạm 1, mỗi bạn là chuyên gia của nhóm 1 sẽ thuyết trình cho 4 đến 5
bạn của nhóm khác ). Đảm bảo tất cả lớp bạn nào cũng được làm chuyên gia
thuyết trình cho các bạn khác về lĩnh vực mà nhóm mình phụ trách.
D. KẾT QUẢ THỰC HIỆN
Để kiểm nghiệm tính khả thi của đề tài, tơi đã thiết kế một số giáo án có sử
dụng kĩ thuật mảnh ghép để tiến hành thực nghiệm giảng dạy ở học sinh khối 6
của trường THCS tôi đang giảng dạy. Bài học được chọn để soạn và giảng dạy
thực nghiệm phải tiêu biểu có nội dung cho phép sử dụng kĩ thuật mảnh ghép
cho các mảng kiến thức và hình thức trình bày trong sách giáo khoa. Việc lựa
chọn lớp để giảng dạy thực nghiệm và đối chứng phải có trình độ tương đương
nhau và ở mức trung bình đại diện cho chất lượng học sinh khối lớp 6 của
trường.
5 / 12


Sau khi kết thúc các bài giảng bằng kỹ thuật mảnh ghép tơi đã hỏi các em
học sinh  là “Em có thích học 1 bài học mới có sử dụng kỹ thuật mảnh ghép
khơng? Vì sao?”.
Em Nguyễn Thu Phương cho rằng: Khi thầy sử dụng kĩ thuật mảnh ghép
chúng em chẳng những tiếp thu kiến thức, kinh nghiệm từ cô mà có thể học hỏi,
trao đổi, bổ sung kiến thức, kinh nghiệm từ bạn bè.
Em Tạ Văn Mạnh : Thầy sử dụng kĩ thuật mảnh ghép có ưu điểm là tạo
điều kiện cho mỗi người học tiếp thu một cách trọn vẹn tất cả nội dung bài học,

tiết kiệm thời gian mà kiến thức người học tiếp thu đầy đủ và dễ hiểu. Thái độ
tích cực của người dạy đã góp phần tác động đến người học, do đó người học
cũng tích cực tham gia bài học.
Em Nguyễn Thu Hiền: Thầy sử dụng nhiều phương pháp như thảo luận
nhóm, tự nghiên cứu, kĩ thuật mảnh ghép tạo cho lớp sinh động, các em có thể
hiểu bài và nắm vững kiến thức ngay trên lớp, các em có điều kiện trao đổi kiến
thức với các bạn, học hỏi lẫn nhau.
Tôi rất vui và hạnh phúc vì các em học sinh đều có chung nhận xét là việc
sử dụng kỹ thuật các mảnh ghép làm cho tiết học thêm hứng thú, lớp học sinh
động, làm việc có hiệu quả, giúp các em hiểu kiến thức một cách nhanh chóng. 
Bên cạnh đó, trong Hội thi giáo viên dạy giỏi cấp huyện được tổ chức
tháng 12/2019 vừa qua, tôi cũng đã sử dụng kỹ thuật mảnh ghép vào bài giảng
của mình (Bài 29: Các loại hoa – Sinh học 6).Từ đó đã nhanh chóng thu hút,
kích thích được sự hứng thú, tích cực học tập của học sinh và được Ban giám
khảo đánh giá cao. Tôi vinh dự đạt giải nhất và được tiếp tục dự thi GVG cấp
thành phố.

6 / 12


7 / 12


8 / 12


9 / 12


Sau tiết học đó tơi khảo sát trong thời gian 15 phút bằng 2 câu hỏi:

1. Phân biệt hoa lưỡng tính và hoa đơn tính? Nêu ví dụ hoa lưỡng tính, hoa đơn tính?
2. Có mấy cách xếp hoa trên cây?Ví dụ?
Kết quả như sau:

* Về kiến thức, kĩ năng:
Sau khi chấm bài kiểm tra, tôi tiến hành xử lý điểm theo toán học thống kê
và thu được kết quả như sau:
* Lớp 6B có áp dụng “kĩ thuật mảnh ghép”:
* Lớp 6C không áp dụng “kĩ thuật mảnh ghép”:

Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5-6
Lớp

Sĩ số

SL

TL
%

SL

TL
%

SL

TL
%


Dưới 5
SL

TL
%

TB trở lên
SL

TL %

6B

44

15

34,1

20

45,5 9

20,4

0

0

44


100

6C

44

5

11,4

15

34,1 22

50

2

4,5

42

95,5

Qua các bảng trên cho thấy kết quả điểm bài kiểm tra giữa lớp thực nghiệm
và lớp đối chứng có sự khác biệt rõ rệt: ở lớp thực nghiệm, tỉ lệ học sinh có điểm
khá, giỏi cao hơn và tỉ lệ học sinh có điểm dưới trung bình lại thấp hơn so với
lớp đối chứng; từ đó mặt bằng điểm trung bình của lớp thực nghiệm (100%)
cũng cao hơn lớp đối chứng (95,5%). Điều này chứng tỏ lớp thực nghiệm lĩnh

hội kiến thức sâu sắc hơn lớp đối chứng.
Những con số trên thực sự là những “con số biết nói”, chứng tỏ trong dạy
học Sinh học có sử dụng kĩ thuật mảnh ghép mang lại hiệu quả cao hơn. Việc sử
dụng kĩ thuật mảnh ghép trong dạy học môn Sinh học đã phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo, phát triển được năng lực học tập của học sinh.
* Về tinh thần, thái độ học tập:
Ở lớp thực nghiệm, do bài giảng lồng ghép sử dụng kĩ thuật mảnh ghép có
khả năng thu hút, lơi cuốn và thúc đẩy động cơ học tập của học sinh nên hầu hết
các em đều hứng thú say sưa tìm tịi, khai thác tri thức dưới sự hướng dẫn của
giáo viên. Do vậy hiệu quả trước tiên là đã khơi dậy hứng thú học tập, kích thích
tư duy, học sinh hiểu bài nhanh, khơng khí lớp học nhẹ nhàng, giảm căng thẳng,
học sinh thêm hiểu và thêm yêu Sinh học.
Như vậy so với phương pháp truyền thống thì hiệu quả của việc sử dụng
“kĩ thuật mảnh ghép” phù hợp trong các tiết dạy mang lại hiệu quả cao.
I.Kết Luận

E. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
10 / 12


Qua nghiên cứu, áp dụng đề tài vào thực tiễn dạy học Sinh học, tôi đã rút ra
một số bài học cho bản thân và cũng là kinh nghiệm trong việc sử dụng kĩ thuật
mảnh ghép trong dạy học Sinh học cấp THCS:
Đảm bảo những thông tin từ các mảnh ghép lại với nhau có thể hiểu được
bức tranh tồn cảnh của một vấn đề và là cơ sở để giải quyết một nhiệm vụ phức
hợp ở vòng 2.
 
Các chuyên gia ở vịng 1 có thể có trình độ khác nhau, nên cần xác định
yếu tố hỗ trợ kịp thời để tất cả mọi chun gia có thể hồn thành nhiệm vụ ở
vòng 1, chuẩn bị cho vòng 2.

Số lượng mảnh ghép không nên quá lớn để đảm bảo các thành viên có thể
truyền đạt lại kiến thức cho nhau.
Đặc điểm của nhiệm vụ mới ở vòng 2 là một nhiệm vụ phức hợp và chỉ có
thể giải quyết được trên cơ sở nắm vững những kiến thức đã có ở vịng 1. Do đó
cần xác định rõ những yếu tố cần thiết về kiến thức, kĩ năng, thông tin,…cũng
như các yếu tố hỗ trợ cần thiết để giải quyết nhiệm vụ phức hợp này.
        Nhằm nâng cao khả năng tự học, tự nghiên cứu của sinh viên, tạo ra đội
ngũ giáo viên trong tương lai độc lập, sáng tạo. Trong quá trình giảng dạy giáo
viên phải năng động hơn và biết kết hợp nhiều phương pháp:
Trước khi lên lớp giảng viên phải giới thiệu trước cho sinh viên một số tài
liệu có liên quan đến học phần mình giảng dạy để sinh viên có thời gian tìm
kiếm và tự nghiên cứu.
Khoảng thời gian trên lớp giáo viên giao cho từng nhóm sinh viên một
chủ đề nào đó để nghiên cứu kỹ. Mỗi nhóm các sinh viên sẽ thảo luận tìm ra nội
dung theo yêu cầu của giảng viên. Phương pháp này giúp sinh viên rèn luyện
cho sinh viên tính tự học, tự nghiên cứu và tự tin khi trình bày một vấn đề nào
đó trước đám đơng.
Khi sinh viên đã chuẩn bị tốt tâm thế học tập như tài liệu và nội dung bài
học thì việc sử dụng kỹ thuật các mảnh ghép là khâu cuối cùng để các sinh viên
có cơ hội nêu ý kiến của mình và ai cũng được tham gia vào nội dung của bài
học hay một vấn đề mà giảng viên nêu ra. Về phía giảng viên  thì trong quá trình
sử dụng các mảnh ghép phải dành thời gian theo dõi sinh viên thảo luận nhóm
và trình bày kết quả, có như vậy thì người học có điều kiện trao đổi trực tiếp với
giáo viên và ý thức rằng mình làm việc một cách nghiêm túc.
Sau khi thực hiện đổi mới các phương pháp dạy học theo định hướng phát
triển năng lực học sinh tôi nhận thấy việc áp dụng kỹ thuật mảnh ghép rất hiệu
quả vì nó phát triển các năng lực tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác năng lực
giải quyết vấn đề, đặc biệt là năng lực thuyết trình , ..cho học sinh. Tuy nhiên để
11 / 12



áp dụng được vào thực tế, phù hợp với điều kiện nhà trường, phù hợp với năng
lực của học sinh, giáo viên phải thực sự tâm huyết, nỗ lực, nhiệt tình, khơng
ngừng học hỏi, tìm tịi để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, và luôn luôn
sáng tạo.
II.Khuyến Nghị
Đề nghị Phòng Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo thường
xuyên tổ chức các chuyên đề thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, tổ chức
những buổi sinh hoạt chun mơn theo cụm để giáo viên có dịp trao đổi, học hỏi
và chia sẻ kinh nghiệm với đồng nghiệp về việc sử dụng các kĩ thuật dạy học
tích cực trong dạy học mơn Sinh học , nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy
và học mơn Sinh học trong nhà trường.
Trên đây là những kinh nghiệm của tôi về việc sử dụng kỹ thuật mảnh ghép
trong giảng dạy Sinh Học cấp THCS. Trong quá trình thực hiện đề tài này, mặc
dù đã rất cố gắng song chắc chắn đề tài khơng tránh khỏi những hạn chế, thiếu
sót. Kính mong q thầy cơ đóng góp ý kiến để đề tài của tơi được hồn thiện
hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!

12 / 12



×