Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

Tiểu luận cao học nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo đối với đồng bào các dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.71 KB, 38 trang )

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề địi nghèo là một vấn đề của toàn cầu, của mọi thời đại. Trong
lịch sử phát triển của nhân loại nghèo đói ln đi đơi với phát triển kinh tế, đã
có nhiều giải pháp đưa ra nhưng cho đến hôm nay, đói nghèo vẫn là nỗi ám
ảnh thường trực đối với cả loài người. Thế giới đã chứng kiến những thảm
họa của chiến tranh, thảm họa của thiên tai, dịch bệnh với bao nỗi kinh hoàng.
Thế nhưng hậu quả do nạn đói gây ra cũng vơ cùng khủng khiếp. Điều đáng
sợ hơn nữa là: nếu như các cuộc đấu tranh dù có khốc liệt vơ cùng nhưng rồi
trước sau cũng được giải quyết, nếu như những thảm họa thiên tai, dịch bệnh
gây ra nhưng cũng từng bước được khắc phục thì vấn đói nghèo của nhân loại
lại là một vấn đề vừa cấp bách, vừa phức tạp lại như căn bệnh kinh niên khó
bề chạy chữa.
Đói nghèo là nỗi bất hạnh và là một phi lý lớn. Trong khi nền văn minh
thế giới đã đạt được những thành tựu to lớn về khoa học kỹ thuật, làm tăng
đáng kể của cải vật chất xã hội, tăng thêm vượt bậc sự giàu có cho con người,
thì thảm cảnh đoe đẳng mãi trên lưng con người lại vẫn là sự nghèo đói. Hàng
tỷ người, thực tế là 1/3 dân số thế giới vẫn khốn cùng và đói khát. Thiệt thịi
lớn nhất là trẻ em. Hàng ngày có gần 100 triệu trẻ em khơng có cái ăn, trên
100 triệu trẻ em vơ gia cư chỉ sống nhờ vào sự bố thí hoặc sống dựa vào sự
lao động quá sức, kể cả bằng các nghề đặc biệt như là móc túi, mại dâm; trên
50 triệu trẻ em làm việc trong những ngành có hại; hàng trăm triệu trẻ em tuổi
từ 6 -11 không được cắp sách đến trường.
Đói nghèo diễn ra tất cả các châu lục với những mức độ khác nhau.
Đặc biệt ở các nước đang phát triển, sự đói nghèo của dân cư đang là một vấn
đề nhức nhối rất cấp bách phải tháo gỡ nhưng cũng vơ cùng khó khăn trong

1



việc thực hiện xóa đói giảm nghèo. Ở Việt Nam, Đảng ta ln coi trọng vấn
đề đói nghèo và xóa đói giảm nghèo là giải phóng con người khỏi áp bức, bất
công, thực hiện công bằng xã hội. Chủ nghĩa xã hội là quá trình kiến tạo hạnh
phúc và cũng là q trình đấu tranh vì sự cơng bằng, đấu tranh để thủ tiêu
nguồn gốc bất công xã hội. Ngay từ những ngày đầu mới thành lập nước Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa, một trong những nhiệm vụ đầu tiên mà Bác Hồ đã
chỉ đạo là chống giặc đói. Vấn đề cơng bằng xã hội – vấn đề có quan hệ trực
tiếp và quyết định đối với việc xóa đói giảm nghèo đã được Đảng ta luôn
quan tâm chú ý. Những Đại hội Đảng gần đây, từ Đại hội VI đến Đại hội X,
Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, nhiều văn bản đề cập tới vấn đề công bằng xã
hội. Chúng ta hiểu công bằng xã hội vừa là mục tiêu vừa là động lực để phát
triển. Công bằng xã hội địi hỏi phải thực hiện tốt chương trình xóa đói giảm
nghèo, an ninh xã hội.
Trong các văn kiện quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam, vấn đề
xóa đói giảm nghèo được nhiều lần đề cập tới. Để đảm bảo và hướng tới công
bằng xã hội, Đảng ta đã khẳng định “ Khuyến khích làm giàu hợp pháp,
chống làm giàu phi pháp đi đơi có chăm no xóa đói, giảm nghèo, thu hẹp
khoảng cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng căn cứ cách
mạng và kháng chiến cũ, các gia đình thuộc diện chính sách, làm cho mọi
người mọi nhà đều tiến cuộc sống ấm no, hạnh phúc, ai cũng có việc làm, có
cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành và chữa bệnh, từng bước thực hiện
điều Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong ước”. Nhất là đói nghèo ở các vùng
sâu vùng xa cũng được Đảng đặc biệt quan tâm, đề cập đến nhiều trong các
văn kiện của Đảng.
Với quan điểm đó. Đảng, Nhà nước ta đã đưa ra nhiều biện pháp,
nhiều chính sách để giải quyết vấn đề xóa đói giảm nghèo, đặc biệt là đối với
các vùng sâu vùng xa với các chương trình lớn như: chương trình 134,
chương trình 135- I, II… , đưa xóa đói giảm nghèo vào các chương trình mục

2



tiêu của quốc gia. Bước đầu những chính sách đã đạt được những thành to
lớn: Tỷ lệ người nghèo, tính theo chuẩn nghèo quốc tế, đã giảm liện tục từ
hơn 60% năm 1990 xuống còn 18,1% năm 2004 và đến năm 2009 là 11% và
đạt nhiều thành tựu khác nữa. Bên cạnh những kết quả đạt được thì xóa đói
giảm nghèo ở nước ta vẫn còn nhiều tồn tại, còn nhiều khó khăn. Điều đó
cũng phản ánh một phần nào đó hiệu quả việc thực hiện các chính sách xóa
đói giảm nghèo chưa cao.Yêu cầu cấp thiết hiện nay là tìm ra các giải pháp để
đưa các chính sách xóa đói giảm nghèo đạt hiệu quả cao, nhất là đói với các
vùng dân tộc thiểu số. Đây chính là lý do em chọn đề tài: “Nâng cao hiệu
quả việc thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo đối với đồng bào các
dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay” làm đề tài tiểu luận mơn Chính sách
cơng.
2. Mục đích của đề tài
Đề tài góp phần làm rõ những vấn đề lý luận chung về chính sách xóa
đói giảm nghèo ở các vùng dân tộc thiểu số, những vùng khó khăn, làm rõ
tình hình thực hiện chính sách đó ở các vùng dân tộc thiểu số nước ta hiện
nay. Từ đó đề tài tập trung vào việc đưa ra các giải pháp để nâng cao hiệu quả
chính sách xóa đói giảm nghèo đối với đồng bào các dân tộc thiểu số ở nước
ta trong giai đoạn hiện nay
3. Nhiệm vụ của đề tài
Trình bày những vấn đề ly luận xung quanh chính sách xóa đói giảm
nghèo đối với các dân tộc thiểu số
Đánh giá tình hình thực hiện các chủ trương, chính sách xóa đói giảm
nghèo của Đảng, Nhà nước ở các vùng dân tộc thiểu số
Đưa ra các giải pháp để nâng cao hiệu quả chính sách xóa đói giảm
nghèo đối với các vùng dân tộc thiểu số
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu


3


Đối tượng: chính sách xóa đói giảm nghèo đối với đồng bào các vùng
dân tộc thiểu số
Phạm vi: các vùng dân tộc thiểu số
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: đề tài sử dụng phương pháp luận Macxit là chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Phương pháp riêng: thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh, đánh giá kết
luận
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục đề
tài có 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về chính sách xóa đói giảm
nghèo đối với đồng bào các dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay
Chương 2: Tình hình thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo đối với
đồng bào các dân tộc hiện nay ở nước ta hiện nay
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách xóa
đói giảm nghèo đối với đồng bào các dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay

4


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH
XĨA ĐÓI GIẢM NGHÈO ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO CÁC DÂN TỘC
THIỂU SỐ
1.1 KHÁI NIỆM, MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG CỦA CHÍNH SÁCH
XĨA ĐÓI GIẢM NGHÈO ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO CÁC DÂN TỘC

THIỂU SỐ.
1.1.1 Khái niệm chính sách xóa đói giảm nghèo
1.1.1.1 Khái niệm Chính sách cơng
Chính sách cơng và khoa học về chính sách cơng là một trong những
vấn đề hệ trọng của chính trị và khoa học chính trị, tuy nhiên cho đến nay trên
thế giới cũng như ở nước ta đến nay vẫn chưa thống nhất, thậm chí cịn có
những quan niệm trái ngược nhau:
Ở nước ta, chính sách cơng thường được hiểu là chính sách. Song thuật
ngữ chính sách cũng được hiểu theo nghĩa hẹp – là những chủ trương cụ thể
của Nhà nước trong một lĩnh vực nào đó. Một số chương trình đã cố gắng đưa
ra quan niệm về chính sách: “ Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực
hiện đường lối, nhiệm vụ, chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất
định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng
của chính sách tùy thuộc vào tính chất đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh
tế,văn hóa, xã hội…”. Các nhà nghiên cứu đã có cách tiếp cận cụ thể hơn: “
Chính sách cơng là chương trình hoạt động hướng đích của chủ thể nắm hoặc
chi phối quyền lực cơng cộng … Đó là một chương trình hoạt động được suy
tính một cách khoa học, liên quan với nhau một cách hữu cơ và nhằm mục đích
tương đối cụ thể; chủ thể hoạch định chính sách cơng nắm quyền lực nhà nước:
chính sách cơng bao gồm những gì được thực sự thi hành chứ không phải là
những lời tun bố” hoặc “ Chính sách cơng là những hành động ứng xử của

5


nhà nước với các vấn đề phát sinh trong đời sống cơng cộng, được thể hiện
bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm thức đẩy xã hội phát triển”.
Về cơ bản, các định nghĩa về chính sách cơng tập trung vào chính sách
quốc gia – những chương trình hành động của chính phủ nhằm đạt được các
mục tiêu nhất định.

Từ những quan điểm trên, rút ra định nghĩa như sau: Chính sách công
là quyết định của các chủ thể quyền lực nhà nước, nhằm quy định mục đích,
cách thức và chế định hành động của những đối tượng liên quan, để giải quyết
những vấn đề nhất định mà xã hội đặt ra. Đó là tổng thể các chuẩn mực, biện
pháp mà nhà nước sử dụng để quản lý xã hội
1.1.1.2 Quan niệm nghèo đói
Trên thế giới có nhiều quan niệm khác nhau về nghèo đói tùy thuộc vào
điều kiện phát triển của mỗi quốc gia, mỗi giai đoạn là không giống nhau như:
Theo quan niệm trước đây:
Người ta thường đánh đồng nghèo đói với mức thu nhập thấp. Coi thu
nhập là tiêu chí chủ yếu để đánh giá sự nghèo đói của con người. Quan niệm
này có ưu điểm là thuận lợi trong việc xác định số người nghèo dựa theo
chuẩn nghèo, ngưỡng nghèo. Nhưng thực tế chứng minh rằng việc xác định
đói nghèo theo thu nhập chỉ đo được một phần của cuộc sống. Thu nhập thấp
không phản ánh hết được các khía cạnh của đói nghèo, nó khơng cho chúng ta
biết được mức khốn khổ và cơ cực của những người nghèo. Do đó quan niệm
này cịn rất nhiều hạn chế.
Theo quan niệm hiện nay:
Hiện nay do sự phát triển của nền kinh tế thế giới, quan điểm đói nghèo
đã được hiểu rộng hơn, sâu hơn và cũng có thể hiểu theo các cách tiếp cận
khác nhau:

6


Hội nghị bàn về giảm nghèo đói ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương
do ASCAP tổ chức tháng 9 năm 1993 tại Băng Cốc, Thái Lan đã đưa ra khái
niệm về định nghĩa đói nghèo: “ Nghèo đói là trạng thái một bộ phận dân cư
không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà
những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh

tế xã hội và phong tục tập quán của địa phương”.
Quan niệm của Việt Nam:
Hiện nay ở Việt Nam có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh khái
niệm nghèo đói, song y kiến chung nhất cho rằng: Ở Việt Nam thì tách riêng
đói và nghèo thành hai khái niệm riêng biệt.
Nghèo: là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thoái mãn
một phần những nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp
hơn mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
Đói: là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối
thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu và vật chất để duy trì cuộc sống.
Đó là các hộ dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ 1 đến 3 tháng, thường vay
mượn cộng đồng và thiếu khả năng chi trả. Giá trị đồ dùng trong nhà không
đáng kể, nhà ở dột nát, con thất học, bình quân thu nhập dưới 13kg
gạo/người/tháng ( tương đương 45.000VND).
Việt Nam công nhận định nghĩa chung về nghèo đói do Hội nghị chống
nghèo đói khu vực Châu Á – Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng
Cốc, Thái Lan tháng 9 năm 1993 đưa ra: “ Nghèo là bộ phận dân cư không
được hưởng và thỏa mãn nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu
này đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và
phong tục tập quán địa phương”.
1.1.1.3 Quan niệm xóa đói giảm nghèo

7


Xóa đói: là làm cho bộ phận dân cư đói nâng cao thu nhập, nâng cao
mức sống từ đó mà vượt qua tiêu chí đói. Biểu hiện ở tỷ lệ phần trăm và số
lượng người đói giảm xuống bằng khơng trong một thời gian nhất định.
Giảm nghèo: là làm cho một bộ phận dân cư nghèo nâng cao thu
nhập, nâng cao mức sống, từng bước thốt khỏi tình trạng nghèo. Biểu hiện ở

tỷ lệ phần trăm và số lượng người nghèo giảm xuống theo thời gian.
Xóa đói giảm nghèo: là tổng thể các biện pháp, chính sách của nhà
nước và xã hội hay là của chính đối tượng thuộc diện nghèo đó, nhằm tạo
điều kiện để họ có thể tăng thu nhập, thốt khỏi tình trạng nghèo đói, khơng
đáp ứng được những nhu cầu tối thiểu trên cơ sở chuẩn nghèo được quy định
theo từng địa phương, khu vực, quốc gia.
1.1.1.4 Chính sách xóa đói giảm nghèo
Chính sách xóa đói giảm nghèo là tổng thể các quan điểm, tư tưởng,
các giải pháp và công cụ mà Nhà nước sử dụng để tác động lên các chủ thể
kinh tế xã hội nhằm giải quyết vấn đề đói nghèo, thực hiện mục tiêu xóa đói
giảm nghèo, từ đó xây dựng một xã hội giàu đẹp.
1.1.2 Mục tiêu của chính sách xóa đói giảm nghèo
Giảm bớt khoảng cách giàu nghèo trong xã hội, nhằm mục tiêu tổng
quát xây dựng một đất nước dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
1.1.3 Đối tượng của chính sách xóa đói giảm nghèo
Đối tượng là các đồng bào dân tộc thiểu số ở nước ta, những vùng sâu
vùng xa nơi mà cuộc sống còn nhiều khó khăn và có cuộc sống cách biệt với
đời sống kinh tế xã hội của cả nước.
1.2

NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN ĐÓI NGHÈO Ở CÁC

VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ.

8


1.2.1 Nguyên nhân khách quan
- Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu vừa trải qua một cuộc

chiến tranh kéo dài và gian khổ, cơ sở hạ tầng bị tàn phá, ruộng đất bị bỏ
hoang, bom mìn, nguồn nhân lực chính của các hộ gia đình bị giảm sút giảm
do mất mát trong chiến tranh, thương tật hoặc phải xa gia đình để tham gia
chiến tranh, học tập và cải tạo trong một thời gian dài.
- Chính sách nhà nước thất bại: sau khi thống nhất đất nước việc áp
dụng chính sách tập thể, cải tạo cơng thương nghiệp và chính sách giá lương
tiền đã đem lại kết quả xấu cho nền kinh tế vốn đã ốm yếu của Việt Nam suy
kiệt toàn bộ nguồn lực của đất nước và hộ gia đình ở nơng thơn, miền núi
cũng như thành thị, lạm phát tăng cao có lúc lên đến 700% năm.
- Hình thức sở hữu: việc áp dụng chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu nhà
nước và tập thể của các tư liệu sản xuất chủ yếu trong một thời gian dài đã
làm thui chột động lực sản xuất.
- Việc huy động nguồn lực nông dân quá mức, ngăn sông cấm chợ đã
làm cắt rời sản xuất với thị trường, sản xuất nông nghiệp đơn điệu, công
nghiệp thiếu hiệu quả, thương nghiệp tư nhân lụi tàn, thương nghiệp quốc
doanh thiếu hàng hóa làm thu nhập đa số bị giảm sút trong khi dân số tăng
cao.
- Lao động dư thừa ở nơng thơn khơng được khuyến khích ra thành thị
lao động, không được đào tạo để chuyển sang khu vực cơng nghiệp, chính
sách quản lý bằng hộ khẩu đã dùng biện pháp hành chính để ngăn cản nơng
dân di cư, nhập cư vào thành phố.
1.2.2 Nguyên nhân chủ quan
- Sự chênh lệch giữa các vùng miền, thành thị và nông thôn, giữa các
dân tộc vùng cao. Do điều kiện tự nhiên ở mỗi vùng là khác nhau nên sự phát
triển kinh tế cũng khác nhau. Ở đồng bằng thì có địa hình thuận lợi hơn, đất

9


đai màu mỡ, đường xá thuận lợi hơn rất nhiều so với những điều kiện vơ cùng

khó khăn của đồng bào miền núi, địa hình núi non hiểm trở, đi lại khó khăn
lại điều kiện khí hậu rất hà khắc. Do đó mà đồng bằng kinh tế phát triển hơn,
tỷ lệ nghèo đói thấp hơn so với miền núi.
- Mơi trường sớm bi hủy hoại trong khi người nghèo lại sống nhờ
vào nông nghiệp. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh mà trong khi đó các
biện pháp bảo vệ môi trường lại không được quan tâm đúng mức nên tình
trạng ơ nhiễm đang rất nghiêm trọng ở nước ta. Sự ô nhiễm về nguồn nước,
đất, những yếu tố quyết định trực tiếp tới sản xuất nông nghiệp, ảnh hưởng
không nhỏ tới nguồn thu của nhân dân.
- Hiệu quả quản lý của chính phủ cịn chưa cao. Sự quản lý lỏng nẻo
trong công tác bảo vệ môi trường của các cơ quan có trách nhiệm đã dẫn đến
hậu quả nghiệm trọng về môi trường, việc quản lý các rừng đầu nguồn cũng
khơng được triệt để nạn phá rừng vẫn cịn tiếp tục. Điều đó sẽ dẫn đến những
hậu quả khó lường cho sau này.
Như vậy, trên đây là những nguyên nhân cơ bản nhất dẫn đến nghèo
đói ở các vùng dân tộc cũng như các vùng trong cả nước. Ngoài ra cịn nhiều
ngun nhân khác như: trình độ học vấn. nguồn lực, năng lực hạn chế và do
chính bản thân người nghèo cũng dẫn đến nghèo đói nơi đây.
1.3 NỘI DUNG, Ý NGHĨA VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA CHÍNH
SÁCH XĨA ĐÓI GIẢM NGHÈO ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO CÁC DÂN
TỘC THIỂU SỐ.
1.3.1 Nội dung của chính sách xóa đói giảm nghèo
Chính sách xóa đói giảm nghèo đối với đồng bào các dân tộc thiểu số
có nội dung rất da dạng, nhiều khía cạnh, nhiều lĩnh vực. Bao gồm các nội
dung chính sau:
1.3.1.1 Chương trình phát triển nơng thơn, thủy lợi, giao thông

10



 Chương trình về thủy lợi, giao thơng
Đây là chương trình đầu tiên và kéo dài thời gian nhất cho đến nay nó
vẫn được tiếp tục. Đa số người nghèo tập trung nhiều nhất ở những vùng sâu
vùng xa mà chính những nơi này giao thơng thủy lợi rất yếu kém, do đó Nhà
nước ta đã có chủ trương hỗ trợ cho những khu vực này với khẩu hiệu “ Nhà
nước và nhân dân cùng làm”. Việc phát triển giao thơng và thủy lợi sẽ tạo đà
cho sự hịa nhập giữa miền ngược và miền xuôi, thúc đẩy kinh tế miền núi
phát triển, tăng năng suất lao động góp phần bình ổn lương thực trong vùng.

 Chương trình định canh, định cư
Từ những năm đầu của thập kỷ 60 thế kỷ XX, Đảng và Nhà nước ta
đã nhìn nhận vấn đề định canh đinh cư có tầm vóc cực kỳ quan trọng nhằm
làm thay đổi bộ mặt kinh tế xã hội miền núi, vùng dân tộc, thực tế đây là cách
sống ổn định, văn minh, tiến bộ. Nó tác động sâu sắc tới tâm tư tình cảm của
dân tộc thiểu số, từng bước xóa bỏ những phong tục tập quán lạc hậu gây bất
lợi cho sự phát triển để hòa nhập vào sự phát triển chung. Chương trình này
bắt đầu từ 1968, và nó đã trở thành một chương trình rất đắc lực trong việc
giảm nghèo đói. Mục tiêu của nó nhằm biến người nhu canh du cư thành
người định cư, tức là giúp những người nghèo nhất những người dễ bị rủi ro
nhất trở thành những người sống ổn định, nó có đối tượng phục vụ cụ thể và
rất thiết thực đối với người nghèo miền núi.

 Chương trình tư vấn, dịch vụ, chuyển giao khoa học công nghệ
Đây là chương trình đặc biệt có ý nghĩa trong việc phát triển kinh tế
miền núi theo hướng chuyển dịch cơ cấu cây trồng mới và sản xuất hàng hóa
tập trung. Nó được hiểu là một chương trình bao gồm nhiều công việc, dự án
triển khai trên diện rộng, chủ yếu tập trung vào khâu khuyến nông, khuyến
lâm, khoa học kỹ thuật, vật tư sản xuất, tín dụng nơng thơn.
1.3.1.2 Chương trình giải quyết việc làm


11


Trên cơ sở Nghị quyết 120/HĐBT ngày 11/4/1992, một chương
trình có tầm quan trọng tác động tới việc xóa đói giảm nghèo. Đó là chương
trình xúc tiến việc làm, chương trình ra đời nhằm giải quyết gánh nặng nhân
lực trong quá trình tổ chức, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước theo yêu cầu
đổi mới, cung cấp tín dụng, bồi thường, trợ cấp cho người ra khỏi biên chế
nhà nước để tạo việc làm, buôn bán nhỏ và các hoạt động kinh tế phù hợp vói
kinh tế thị trường.
1.3.1.3 Chương trình tín dụng
Nhà nước ta đã có chủ trương thực hiện các khoản tín dụng cho vay mở
rộng tới hộ nhân, và theo Quyết định số 525/QĐ- TTg ngày 31/8/1995 của thủ
tướng chính phủ cho phép thành lập ngân hàng phục vụ người nghèo để giúp
người nghèo vay vốn phát triển sản xuất, giải quyết các nhu cầu đời sống, góp
phần thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo. Ngân hàng phục vụ người
nghèo có chức năng khai thác các nguồn vốn của các tổ chức, cá nhân trong
và ngoài nước, tiếp nhận các nguồn vốn của Nhà nước đối với người nghèo và
các nguồn vốn khai thác khác. Nhà nước cho phép được lập quỹ cho người
nghèo vay thực hiện chương trình của chính phủ đối với người nghèo.
Hoạt động của ngân hàng người nghèo vì mục tiêu xóa đói giảm
nghèo, khơng vì mục đích lợi nhuận, thực hiện bảo tồn vốn ban đầu, phát triển
vốn, bù đắp chi phí. Ngân hàng phục vụ người nghèo thực hiện việc cho vay
trực tiếp đến hộ nghèo có sức lao động nhưng thiếu vốn, được cho vay để
phát triển sản xuất khơng phải thế chấp tài sản, có hồn trả vốn và theo lãi
suất quy định. Ngân hàng phục vụ người nghèo được xét miễn thuế doanh
nghiệp và thuế lợi tức để giảm lãi suất cho vay đối với người nghèo.
1.3.1.4 Chương trình giáo dục y tế
 Chương trình giáo dục:


12


Giáo dục là vấn đề đặc biệt được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội quan
tâm, nhất là đối với các đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu vùng xa. Chương
trình giáo dục gồm các chương trình sau:
- Chương trình nâng cao chất lượng phổ thơng các cấp
- Chương trình củng cố và mở rộng cơ sở vật chất kỹ thuật cho giáo
dục tiểu học
- Chương trình tăng cường đẩy mạnh giáo dục phi chính thức
- Chương trình cải tiến hệ thống dạy nghề đáp ứng nhu cầu thị trường
- Chương trình 7 của Bộ giáo dục và đào tạo về hệ thống phổ thông
dân tộc nội trú

 Chương trình y tế:
Chương trình y tế chăm sóc bảo vệ sức khỏe nhân dân nói chung vốn
có thâm niên từ trước rất lâu so với chương trình xóa đói giảm nghèo. Hai đối
tượng được chương trình này quan tâm là bà mẹ và trẻ em, đó là hai đối tượng
dễ bị tổn thương và rủi ro trong cuộc sống gia đình và xã hội. Chương trình
này bao gồm các hoạt động phòng chống bướu cổ, phòng chống bệnh sốt rét,
nước sạch cho miền núi, vùng nơng thơn, tiêm phịng và xóa xã trắng y tế.
Những hoạt động này nhằm cải thiện và nâng cao khả năng đề kháng đối với
bệnh tật, chữa trị và phòng ngừa dịch bệnh hau xảy ra ở miền núi vùng đồng
bằng dân tộc thiểu số.
1.3.1.5 Chương trình quốc gia số 06/CP
Chương trình này với nội dung là phịng chống và kiểm sốt ma túy
theo Nghị quyết số 60/CP của Chính phủ ra ngày 29/01/1993, nhằm mục tiêu
phịng và kiểm sốt ma túy mang nghĩa chính trị xã hội và quốc tế rộng lớn.
Song quá trình thực hiện này lại có một nghĩa rất lớn đối với đồng bào dân tộc
thiểu số, vận động đồng bào từ bỏ trồng cây thuốc phiện và thay thế bằng cây

trồng vật nuôi để bù đắp sự thiếu hụt từ nguồn thu cây thuốc phiện.
13


1.3.1.6 Chương trình hỗ trợ dân tộc đặc biệt khó khăn
Đối tượng của chương trình này là các dân tộc thiểu số khó khăn và có
dân số ít ( tren dưới một vạn người). Đa số hộ nằm ở vùng sâu vùng xa khó
khăn về mọi mặt: kinh tế, giáo dục, y tế… Đó là những dân tộc quá cách biệt
với các khu vực kinh tế đang năng động và hầu như chưa được kinh tế thị
trường ảnh hưởng và tác động tới. Tính đặc biệt của chương trình này là đầu
tư khơng hồn lại, tức là cho khơng.
1.3.1.7 Chương trình bảo vệ mơi trường
Vấn đề mơi trường khơng chỉ là mối quan tâm của nước ta mà là vấn
đề mang tính tồn cầu, Chính phủ đã có nhiều cố gắng trong việc bảo vệ mơi
trường, chi phí cho bảo vệ môi trường của năm sau cao hơn năm trước mà nổi
bật là chương trình 327 phủ xanh đất trống đồi trọc. Chương trình bảo vệ mơi
trường nhằm mục tiêu nâng cao kiến thức, tập huấn kỹ thuật cho đồng bào
miền núi. Những yêu cầu, biện pháp bảo vệ môi trường dễ hiểu, thiết thực đối
với họ. Đồng thời, có các chương trình chuyển giao khoa học kỹ thuật để họ
có thể thâm canh tăng năng suất lao động trên đất nơng nghiệp hiện có và
quan trọng hơn là khơng mở rộng diện tích canh tác khi dân số tăng hoặc do
thiếu đất bằng cách chuyển đất rừng làm nương rẫy. Trọng tâm của chương
trình là xóa đói giảm nghèo nhưng khơng phá vỡ tính ổn định của tự nhiên.
Có thể thấy rằng, xóa đói giảm nghèo và bảo vệ mơi trường là hai mặt của
q trình cải thiện tính bền vững của mơi trường sống, có giá trị lâu bền với
các đồng bào vùng dân tộc thiểu số.
1.3.2 Ý nghĩa và sự cần thiết của chính sách xóa đói giảm nghèo đối
với đồng bào các dân tộc thiểu số.
Đồng bào các vùng dân tộc thiểu số chủ yếu sống ở miền núi, những
nơi địa hình hiểm trở và điều kiện tự nhiên khắc nghiệt. Cuộc sống của họ vô

cùng khó khăn: ăn khơng đủ no, mặc khơng đủ ấm chứ nói gì đến mặc đẹp,
nhà ở thì tạm bợ chỉ cần những cơn bão đi ngang qua cũng làm cho họ trở
14


thành người khơng nhà ngay… Vì vậy mà chính sách xóa đói giảm nghèo của
Đảng, Nhà nước đưa ra có ý nghĩa rất lớn đối với các dân tộc thiểu số.
Hiện nay, đất nước đang trong giai đoạn phát triển, hội nhập kinh tế
quốc tế đã thu được nhiều thành tựu đáng kể trong phát triển kinh tế, tăng
trưởng kinh tế khá cao. Bên cạnh nền kinh tế phát triển còn tồn tại và nảy sinh
nhiều vấn đề xã hội, nhất là khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường thì
khoảng cách giàu - nghèo ngày càng mở rộng giữa khu vực thành thị và nông
thôn,đặc biệt là giữa đồng bằng với miền núi, các vùng dân tộc. Để giải quyết
vấn đề đó, nhà nước phải nhận thức được mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh
tế với xóa đói giảm nghèo. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện để khắc phục tình
trạng nghèo đói, lạc hậu, để cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống cho
dân cư, nhất là đồng bào các dân tộc vùng thiểu số. Xóa đói giảm nghèo là
yếu tố cơ bản đảm bảo công bằng và tăng trưởng kinh tế trên diện rộng được
coi là một bộ phận quan trọng của chiến lược và là nhiệm vụ chung của xã hội
và chính người nghèo. Vì vậy, xóa đói giảm nghèo cho các dân tộc thiểu số là
vấn đề cấp thiết hiện nay ở nước ta.

15


CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XĨA ĐĨI
GIẢM NGHÈO ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

1.2 NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TRONG VIỆC THỰC HIỆN

CHÍNH SÁCH XĨA ĐĨI GIẢM NGHÈO Ở CÁC VÙNG DÂN TỘC
THIỂU SỐ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
1.2.1 Chương trình phát triển, nơng thơn, thủy lợi, giao thơng
1.2.1.1 Chương trình thủy lợi, giao thơng
Thập kỷ cuối thế kỷ XX, việc phát triển giao thông nông thôn được
phát triển trong toàn quốc với phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm
đã huy động được nhiều nguồn nhân lực, vật lực, tiền của, phát triển được
trên 150.000 km đường bộ và 35.700 km đường thủy. Nhưng ở miền núi còn
rất nhiều khó khăn, làm một km đường rất tốn kém vì núi đá và địa hình phức
tạp, đóng góp của dân về tiền của không nhiều và cuối cùng là ngân sách Nhà
nước đầu tư cho giao thông miền núi còn xa mới đáp ứng được nhu cầu.
Trong các xã đặc biệt khó khăn chủ yếu ở miền núi, vùng sâu vùng xa với nỗ
lực hết mình của Nhà nước và địa phương đạt được một số kết quả đáng khích
lệ: 90% xã đặc biệt khó khăn có đường đến trung tâm xã, 68% thơn bản có
đường ơ tơ chạy qua.
Bảng: Tiếp cận đường giao thông ở trong làng xã (%)

Nhóm
đa số
Trung Bình
% Xã có đường ơ tơ

Nhóm dân tộc
thiểu số

94,1
90,3
16

68,0

94,9


%

Thơn

bản



76,4

66,2

đường ơ tơ
Nguồn: Tính tốn của nhóm tác giả từ số liệu BLS

Nhìn vào bảng trên, ta có thể thấy tỷ lệ tiếp cận với đường ơ tơ của
nhóm dân tộc thiểu số chiếm một tỷ lệ khá cao (chiếm 68%), trong đó tỷ lệ xã
có đường ơ tơ cao hơn cả nhóm đa số nhưng tỷ lệ thơn bản có đường ơ tơ lại
thấp hơn. Điều đó cho thấy việc đưa đường ô tô vào các thôn bản ở vùng sâu
vùng xa là rất khó khăn.
2.2.1.2 Chương trình định canh, định cư
Vấn đề định canh định cư từ lâu đã được Đảng và Nhà nước ta hết sức
quan tâm. Nó được thể hiện rõ nét nhất qua chương trình 327 được Hội đồng
Bộ trưởng ( nay là Chính phủ) quyết định ngày 15/09/1992. Chương trình này
nhằm vào mục tiêu phủ xanh đất trống đồi trọc, bãi bồi, bãi cát sơng biển và
đối tượng của nó mở rộng tới nhiều hộ gia đình dân tộc thiểu số miền núi.
Ngay trong hai năm đầu triển khai chưa trình đã được vay 67 tỷ 230 triệu

đồng ( 1 triệu đồng/hộ) để phát triển 400.495 ha đất thành kinh tế hộ, trồng
được 19.500 ha cao su. 11.500 ha chè, 7.000 ha cà phê, 18.500 cây ăn quả và
giải quyết việc làm cho 68.300 hộ trải dài trên địa bàn gần 220 huyện, 700 xã
miền núi.
Tính đến 1998 cả nước ta cịn 356.000 hộ với 2,246 triệu nhân khẩu ở
1.939 xã của 38 tỉnh thuộc đối tượng định canh định cư, trong đó có 82.300
hộ, 507.000 nhân khẩu cơ bản đã hoàn thành định canh định cư. Đối tượng
còn lại tiếp tục định canh định cư có 25.714 hộ với 157.000 nhân khẩu đang
cịn du canh du cư.
Hiện nay về cơ bản đã hoàn thành việc định canh định cư cho đồng bào
dân tộc thiểu số và cả nước. Tổng kinh phí thực hiện khoảng 500 tỷ đồng từ
17


ngân sách trung ương, định canh định cư cho 118.000 hộ, di dân xây dựng
vùng kinh tế mới 38.925 hộ và sắp xếp ổn định cuộc sống 23.543 hộ di dân tự
do.
2.2.1.3 Chương trình tư vấn, dịch vụ, chuyển giao khoa học kỹ thuật
Từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX dịch vụ này đã có sự tiến bộ đáp
ứng tương đối tốt nhu cầu đầu vào cho sản xuất nơng, lâm, ngư nghiệp.
Về cơ sở hạ tầng thì trong 2 năm (1999 và 2000) đã hỗ trợ đầu tư
6.500 cơng trình cơ sở hạ tầng ở các xã nghèo, bình qn mỗi xã được xây
dựng 2,5 cơng trình, ngoài ra các địa phương đã huy động được trên 17 triệu
ngày công lao động của nhân dân tham gia xây dựng các cơng trình, huy động
đóng góp bằng tiền và hiện vật trong nhân dân với trị giá hàng chục tỷ đồng.
Đến 4/2001 đã có trên 5.000 cơng trình hồn thành đưa vào sử dụng.
Nhưng khó khăn cịn tồn tại trong việc thực hiện chương trình này qua
tìm hiểu từ hai phía nhà đầu tư và người được đầu tư cho thấy:
Về phía đầu tư do đi lại khó khăn, thiếu cán bộ khoa học tâm huyết lên
với đồng bào miền núi vì chế độ chính sách đãi ngộ chưa tương xứng để

khuyến khích chất xám khoa học kỹ thuật đưa vào sản xuất ở miền núi; mặt
khác, mức độ thử nghiệm gặp rủi ro cao…
Về phía được đầu tư địi hỏi phải có trình độ nhận thức nhất định mới
có thể tiếp thu được cơng nghệ. Những hộ nghèo rất hiếm có trình độ hiểu
biết do phía đầu tư yêu cầu. Người được nhận những chương trình loại này đa
phần lại rơi vào các hộ khá và giàu nên mơ hình chung người nghèo lại bị loại
khỏi trị chơi.
Một vấn đề rất cần quan tâm đến ở miền núi là công nghệ bảo quản sau
thu hoạch và công nghệ chế biến nông phẩm. Thực chất những nội dung lớn của
chương trình này chưa được hoạt động mạnh mẽ, phần lớn chỉ dừng lại ở khuyến
nông và khuyến lâm, chỉ đơn thuần là đưa giống mới cho người sản xuất để tăng

18


thu nhập. Sự chuyển giao công nghệ theo đúng nghĩa của nó thì chưa làm được
bao nhiêu, mới chỉ dừng lại ở cây chè, cây cà phê, cây cao su. Hiệu quả hoạt
động của trên 200 trạm khuyến nông cấp huyện và 61 trạm cấp tỉnh chưa đạt yêu
cầu, đặc biệt ở những huyện miền núi trạm chưa đủ cán bộ, mạng lưới mỏng
khó có thể tiếp cận được với đồng bào các dân tộc thiểu số.
Nhu cầu dịch vụ, chuyển giao kỹ thuật ở miền núi chưa được đáp ứng
tương xứng nên khơng thể có hàng hóa đủ tiêu chuẩn chất lượng cho thị
trường hiện nay và không đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
2.2.2 Chương trình giải quyết việc làm
Với mục tiêu là giải quyết việc làm cho đồng bào các dân tộc thiểu số,
trong quá trình triển khai thực hiện các chương trình, chính sách xóa đói giảm
nghèo thì một hệ thống trung tâm xúc tiến việc làm đã được hình thành trên
cả nước, góp phần tích cực để có thêm nhiều người có thu nhập và ổn định
cuộc sống. Từ khi thực hiện chương trình đến nay đã có hàng vạn lao động đã
được hưởng lợi ích từ chương trình này.

Các dự án hướng dẫn cách làm ăn, khuyến nông, lâm, ngư với kinh phí
thực hiện là 25 tỷ đồng, trong đó ngân sách Trung ương đầu tư trực tiếp cho
chương trình là 17 tỷ đồng, hướng dẫn trên 2 triệu lượt người nghèo; xây
dựng được trên 400 mơ hình trồng lúa, ngơ lai, đậu tương… năng suất cao đã
được người nghèo áp dụng vào sản xuất.
Đội ngũ cán bộ xóa đói giảm nghèo chuyên trách đã được quan tâm
bố trí, đến cuối năm 2001 đã có 1.798 xã thuộc 22 tỉnh, thành phố có cán bộ
chuyên trách xóa đói giảm nghèo tại chỗ, 14 tỉnh đã tăng cường trên 2000 cán
bộ tỉnh, huyện, trí thức trẻ tình nguyện cho các xã nghèo
Đã biên soạn 2 tập tài liệu tập huấn cho cán bộ xóa đói giảm nghèo cấp
tỉnh, huyện, xã, tổ chức tập huấn cho trên 80.000 lượt cán bộ xóa đói giảm
nghèo các cấp.

19


Tuy nhiên, chương trình xúc tiến việc làm ở miền núi, vùng dân tộc
thiểu số sẽ khó khăn và nặng nề hơn nhiều lần so với ở đồng bằng. Một điều
cấp thiết nữa là cần có người biết tiếng dân tộc để truyền thụ kiến thức và
hướng dẫn cách làm. Đội ngũ này hiện nay dường nhu chưa đáng kể, chưa đủ
tiêu chuẩn am hiểu về tiếng và chưa đủ về lượng để phân phối cho một địa
bàn rộng lớn chiếm 2/3 diện tích cả nước.
2.2.3 Chương trình tín dụng
Thực tế cho thấy từ năm 1991 chúng ta đã thực hiện tín dụng cho vay
mở rộng đối với hộ nơng dân. Tháng 3 năm 1995 Qũy cho vay ưu đãi hộ
nghèo phát triển sản xuất ra đời sau đó đổi tên là Ngân hàng chính sách xã
hội. Việc cho vay đói với đồng bào vùng dân tộc thiểu số đã thu được những
kết quả sau:
Cuối năm 2002 tổng nguồn vốn của ngân hàng người nghèo là 7.083
tỷ VNĐ, trong đó vốn điều lệ là 1.105 tỷ đồng bằng tiền vay từ ngân hàng nhà

nước, ngồi ra cịn nhận vốn ủy thác từ ngân sách địa phương và huy động
vốn của hộ nghèo 398 tỷ đồng. Từ nguồn vốn khiêm tốn đó sau 7 năm hoạt
động đã cho vay tổng doanh số 14.895 tỷ đồng, số lượng hộ nghèo được vay
trên 7,7 triệu hộ. Số hộ còn dư nợ là 2,8 triệu hộ. Bình quân mỗi hộ được vay
2,5 triệu đồng và đến năm 2001 là 5 triệu đồng.
Đáng chú là có 55 vạn hộ thuộc đồng báo các dân tộc thiểu số được
vay với dư nợ 1300 tỷ. Tính đến 31/12/2002 ngân hàng người nghèo đã đưa
64 vạn hộ thoát nghèo trong đó có 7,6 vạn hộ thuộc dân tộc thiểu số, và cứ 8
hộ thì có 1 hộ thốt nghèo. Về chất lượng tín dụng thì chỉ có 1,71 % là nợ quá
hạn, kết quả tài chính bước đầu khả quan. Tổng thu nhập 2.435 tỷ đồng, số
lượt hộ nghèo được vay 7,7 triệu hộ.
Một số tồn tại trong hoạt độn của ngân hàng phục vụ người nghèo là:
Do thụ động trơng chờ vào vốn trung ương rót xuống khơng có mạng lưới chi
nhánh riêng nên ngân hàng phục vụ người nghèo chưa có một cơ chế hoạt
20



×