Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Tự do hoá lói suất ở VN - Thực trạng và Giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.73 KB, 58 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Tự do hóa tài chính và hội nhập quốc tế của hệ thống Ngân hàng Việt Nam
là một vấn đề mang tính chiến lược và là xu thế phát triển tất yếu trong nền
kinh tế hiện đại. Trong quá trình này lãi suất là biến số kinh tế quan trọng,
biến động không ngừng và cần được “tự do hoá” trong nền kinh tế thị trường
hiện nay. Việc theo dõi và nghiên cứu về tự do hoá lãi suất là cần thiết trong
thời điểm hiện nay khi nền kinh tế nước nhà đang đứng trước cánh cửa hội
nhập. Thông qua đề tài “Tự do hoá lãi suất ở Việt Nam - Thực trạng và giải
pháp” xin được phản ánh một cái nhìn tổng quan về tiến trình này ở nước ta,
những thành tựu cũng như thiếu sót. Đề tài mong đóng góp một phần nào đó
kiến thức về tiến trình tự do hoá lãi suất cũng như những biện pháp để xây
dựng một nền tảng lãi suất hoàn thiện hơn trong tương lai.
Bố cục của đề tài được chia làm 3 phần lớn :
_ Phần 1 đề cập tới cơ sở lý luận và những khái niệm cần biết về tự do
hoá lãi suất
_ Phần 2 phản ánh thực trạng tiến trình tự do hoá lãi suất đã và đang được
diễn ra ở nước ta
_ Phần 3 là giải pháp và đề xuất trong thời gian tới
Đề án được viết dựa trên kiến thức bản thân cùng với tham khảo các loại
tài liệu nhưng chắc chắn vẫn còn nhiều thiếu sót, mong nhận được sự góp ý
để đề án được hoàn thiện hơn.

Xin trân thành cảm ơn cô giáo Lê Phong Châu đã tận tình giúp đỡ em
hoàn thành đề tài này

1
PHẦN I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT

Lãi suất là một trong những biến số kinh tế được theo dõi một cách chặt
chẽ nhất trong nền kinh tế. Diễn biến của lãi suất có tác động rất lớn tới sức


khoẻ của nền kinh tế. Nó ảnh hưởng tới quyết định tài chính của các cá nhân
trong xã hội, các quyết định đầu tư….Lãi suất cũng được đánh giá là một
trong những công cụ hữu hiệu trong chính sách tài chính tiền tệ của quốc
gia. Trong thời đại mới đòi hỏi các nền kinh tế phải mở cửa hội nhập trong
đó tự do hoá tài chính là tất yếu trong đó tự do hoá lãi suất chính là một
trong những nội dung quan trọng. Để tìm hiểu rõ về vấn đề này và cụ thể là
thực trạng tự do hoá lãi suất đã và đang diễn ra ở nước ta, chúng ta hãy bắt
đầu từ những vấn đề cơ bản về lãi suất.
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ LÃI SUẤT
1. KHÁI NIỆM
Trong hoạt động ngân hàng tài chính, chúng ta sẽ thấy một khái niệm
được gọi là “lãi suất hoàn vốn”, đây chính là thước đo chính xác nhất của
“lãi suất ”. Khi dùng đến thuật ngữ lãi suất có nghĩa là chúng ta ám chỉ do
là lãi suất hoàn vốn.
Có nhiều phương pháp chung để tính toán lãi suất nhưng quan trọng nhất
là lãi suất hoàn vốn, một lãi suất làm cân bằng giá trị hiện tại của tiền thanh
toán nhận được theo một công cụ nợ với giá trị hôm nay của công cụ đó. Vì
khái niệm tiềm ẩn trong việc tính lãi suất hoàn vốn có một ý nghĩa tốt về mặt
kinh tế, các nhà kinh tế coi nó là phép đo lãi suất chính xác nhất. Ở phạm vi
đề tài này chúng ta tạm thời không bàn đến các phương pháp đo lãi suất mà
xin được làm rõ các khía cạnh về phân loại lãi suất và các nhân tố ảnh hưởng
tới lãi suất để làm cơ sở cho việc nghiên cứu tự do hoá lãi suất.
2. PHÂN LOẠI LÃI SUẤT
Có rất nhiều cách phân loại lãi suất, dưới đây xin được đi vào một số cách
phân loại chủ yếu:
2.1 Phân loại theo nguồn sử dụng :
Theo tiêu thức này lãi suất được chia làm 2 loại
_ Lãi suất huy động: là loại lãi suất quy định tỉ lệ lãi phải trả cho các hình
thức nhận tiền gửi của khách hàng. Để đảm bảo sự công bằng, trong nền
kinh tế thị trường, về mặt kinh tế, việc xác định các loại lãi suất huy động

khác nhau chỉ căn cứ vào đối tượng huy động (tiền hay vật đảm bảo có giá
trị) và thời hạn huy động.
2
_ Lãi suất cho vay: là loại lãi suất quy định tỷ lệ lãi mà người đi vay phải
trả cho người cho vay.
Về lý thuyết, các mức lãi suất cho vay khác nhau được căn cứ vào tỷ suất
lợi nhuận bình quân của đối tượng đầu tư và thời hạn cho vay. Tuy nhiên,
với ý nghĩa là một công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, điều đó không phải
bao giờ cũng đúng, vì nó còn tuỳ thuộc vào mục tiêu chính trị, xã hội của
mỗi quốc gia trong từng thời kỳ.
Công thức lý thuyết:
2.2 Phân loại theo giá trị thực:
Theo tiêu thức này lãi suất chia làm 2 loại:
_ Lãi suất danh nghĩa: là loại lãi suất được xác định cho một kỳ hạn gửi
hoặc vay, thể hiện trên quy ước giấy tờ thoả thuận trước.
Theo Frederic S.Miskin, trong điều kiện có lạm phát, lãi suất danh nghĩa
không phản ánh giá trị thật của số lãi nhận được hoặc trả. Trong điều kiện có
lạm phát cao, thời gian càng dài thì sức mua của các khoản lãi càng giảm đi
một cách vô hình.
_ Lãi suất thực: là loại lãi suất xác định giá trị thực của khoản lãi được trả
hoặc thu được.
Theo Irving Fisher, một chuyên gia kinh tế lớn của thế kỷ XX cho rằng:
Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa - Tỷ lệ lạm phát dự đoán
Các nhà kinh tế học thường sử dụng 2 phương pháp để dự đoán về lạm
phát.
+ Phương pháp 1: Lạm phát được dự đoán trên cơ sở xem xét tỷ lệ lạm
phát trong quá khứ
+ Phương pháp 2: Lạm phát được dự đoán trên cơ sở phân tích và vận
dụng thực tế.
Sự phân biệt giữa lãi suất thực tế và lãi suất danh nghĩa có ý nghĩa rất quan

trọng. Bởi lẽ, đối với người có tiền, nhờ đoán biết được lãi suất thực mà họ
quyết định nên gửi tiền vào ngân hàng hay mang đi kinh doanh trực tiếp.
Còn đối với người cần vốn, nếu dự đoán được tương lai có lạm phát và trong
suốt thời gian đó lãi suất cho vay không đổi hoặc có tăng nhưng tốc độ tăng
không bằng lạm phát thì họ có thể yên tâm vay để kinh doanh mà không sợ
lỗ vì trượt giá khi trả nợ.
3
Lãi suất
cho vay
=
Lãi suất
huy động
Chi
phí
Rủi ro
tối
thiểu
Lợi
nhuận
+ + +
Chính sách lãi suất thực chứ không phải lãi suất danh nghĩa ảnh hưởng đến
đầu tư, đến việc tái phân phối thu nhập giữa con nợ và chủ nợ, sự lưu thông
về vốn ngắn hạn giữa các nước khác nhau.
Ngân hàng chỉ thực sự thúc đẩy tích luỹ khi đưa ra được chính sách lãi
suất thực dương. Lãi suất như vậy mới có thể khuyến khích người ta tiết
kiệm, hạn chế tiêu dùng hiện tại, mặt khác làm cho tài sản ít sinh lợi trở nên
kém hấp dẫn và ít được ưa thích hơn. Nhờ đó nguồn vốn tiềm tàng trong xã
hội dễ được huy động và biến thành khoản đầu tư thực sự thúc đẩy tăng
trưởng của nền kinh tế, đẩy lùi lạm phát.


2.3 Phân loại theo độ dài thời gian:
Cơ sở của cơ chế lãi suất này là ở chỗ thời gian thuê vốn (cả huy động và
cho vay) càng dài thì lợi nhuận làm ra càng nhiều, đồng thời tính rủi ro mất
vốn cũng càng cao. Vì vậy, mối quan hệ giữa các loại lãi suất này như sau:
_ Lãi suất huy động dài hạn cao hơn lãi suất huy động ngắn hạn.
_ Lãi suất cho vay trung hạn cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn, lãi suất
cho vay dài hạn cao hơn lãi suất cho vay trung hạn.
Tuy nhiên trên thực tế, chính phủ cũng dùng công cụ lãi suất để góp phần
điều chỉnh cơ cấu nền sản xuất xã hội trong những giai đoạn nhất định
Chẳng hạn, đối với những nước mới thoát khỏi chiến tranh, kinh tế khủng
hoảng, Chính phủ ban hành một chính sách lãi suất trong đó lãi suất cho vay
dài hạn lãi thấp hơn lãi suất cho vay ngắn hạn nhằm khuyến khích việc xây
dựng cơ sở hạ tần, kiến thiết nền sản xuất xã hội nhanh hơn.
2.4 Phân loại theo loại tiền:
Đó là lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ. Mối quan hệ giữa lãi suất ngoại tệ
có ảnh hưởng đến việc khuyến khích xuất khẩu hay nhập khẩu.
Để khuyến khích xuất khẩu, người ta thường áp dụng cơ chế lãi suất ngoại
tệ trong cho vay thấp hơn, trong huy động cao hơn so với lãi suất nội tệ và
ngược lại.
Tuy nhiên, vấn đề xuất khẩu mạnh hay nhập khẩu mạnh còn tuỳ thuộc vào
nhiều yếu tố khác, trong đó có chính sách tỷ giá chi phối.
2.5 Phân loại theo phương pháp tính lãi:
Theo cách phân loại này lãi suất được chia làm 2 loại

4
Lãi suất
thực sau
khi đóng
thuế
Lãi suất danh

nghĩa
Thuế thu
nhập biên tế
Tỷ lệ lạm phát
được dự đoán
= _ _
Lãi đơn (Simple interest rate)
Là tỷ lệ theo năm, tháng, ngày của số tiền lãi so với số tiền vay ban đầu
không gộp lãi vào tiền vay ban đầu để tính lãi thời hạn kế tiếp.


P : Số tiền vay ban đầu
F : Số tiền vốn và lãi thu về trong tương lai
n : Thời hạn tín dụng
i : Lãi suất đơn (trên đơn vị thời hạn tín dụng)
Lãi suất kép (Compuond Interest)
Là tỷ lệ theo năm, tháng, ngày của số tiền lãi so với số tiền vay, số tiền
vay này tăng lên do có gộp lãi qua từng thời kỳ cho vay (lãi mẹ đẻ lãi con)
P : Số tiền vay ban đầu
Fn : Số tiền vốn và lãi thu về trong tương lai
n : Thời hạn tín dụng
i : Lãi suất đơn
I : Lãi suất kép
Tính I : Lãi suất kép
Hay :
Ngoài ra chúng ta còn quan tâm tới lãi suất hoà vốn bình quân
5
F = P (1 + n.i)
Fn = P . (1 + i)
n

Fn – P
I =
P.n
(1 + i)
n
- 1
I =
n
3. LÃI SUẤT HOÀ VỐN BÌNH QUÂN
Lãi suất hoà vốn bình quân là mức lãi suất cho vay chung mà tại đó tổng
số lãi thu được từ việc cho vay nhiều nguồn khác nhau theo các mức lãi suất
hoà vốn tương ứng khác nhau sẽ vừa đủ để trả tổng số lãi phải trả từ các
nguồn huy động.
Trong những điều kiện bình thường, người ta thường áp dụng phương
pháp bình quân gia quyền để tính lãi suất hoà vốn bình quân.


Với :
Ai : Các loại vốn huy động từ 1 đến i
ri : Lãi suất hoà vốn của loại i
Rbq : Lãi suất hoà vốn bình quân
Li : Lãi huy động nguồn i
(i =1→n)
Trong thực tế, lãi suất hoà vốn bình quân (Rbq) thường cao hơn theo công
thức trên vì lý do số vốn huy động được (các Ai) không phải được cho vay
hoàn toàn do 2 nguyên nhân:
_ Thứ nhất, phải nộp một tỷ lệ nhất định trên toàn bộ số vốn huy động vào
NHTW theo quy định về nộp dự trữ bắt buộc, đồng thời còn phải để lại tại
quỹ một tỷ lệ nhất định phòng bất ổn trong cán cân thanh toán của TCTD đó.
_ Thứ hai, không phải ngân hàng nào và không phải lúc nào toàn bộ số vốn

khả dụng đều được cho vay hết, do việc cho vay còn lệ thuộc vào nhu cầu
vay vốn của xã hội.
Lãi suất hoà vốn bình quân chịu ảnh hưởng của 4 nhân tố:
+ Mức lãi suất huy động từng nguồn
+ Cơ cấu nguồn vốn huy động
+ Tỷ lệ số vốn khả dụng
+ Nhu cầu vay thực tế của nền kinh tế
Trong phân tích tài chính của các TCTD, việc nghiên cứu xác định lãi suất
hoà vốn bình quân có ý nghĩa thực tiễn về nhiều mặt: làm cơ sở tính toán
6
∑ Ai . ri
Rbq =
∑ Ai
Li
ri =
Ai
mức lãi suất cho vay tối thiểu, giảm bớt lãi suất cho vay bằng cách giảm lãi
suất huy động từ nguồn huy động hoặc chủ động điều chỉnh cơ cấu nguồn
vốn huy động để giảm bớt số lãi phải trả, mở rộng phạm vi tín dụng, tận
dụng cho vay hết số vốn khả dụng…
4. PHÂN LOẠI LÃI SUẤT TÍN DỤNG
Lãi suất tín dụng là một bộ phận quan trọng trong hệ thống các công cụ
chính sách và vì vây phân loại lãi suất tín dụng có ý nghĩa về mặt thực tế.
Căn cứ vào nhiều tiêu thức khác nhau có thể phân chia lãi suất tín dụng
thành các nhóm sau:
_ Căn cứ vào nghiệp vụ Huy động vốn:
+ Lãi suất tiền gửi không kỳ hạn
+ Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn
+ Lãi suất tiết kiệm
+ Lãi suất các loại giấy tờ có giá

_ Căn cứ vào nghiệp vụ Sử dụng vốn:
+ Lãi suất chiết khấu các giấy tờ có giá
+ Lãi suất cầm cố
+ Lãi suất cho vay bằng tiền
+ Lãi suất cho vay ưu đãi
_ Căn cứ Quan hệ điều tiết vốn trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng
+ Lãi suất cơ bản: là lãi suất do NHTW công bố làm cơ sở cho các
TCTD ấn định lãi suất kinh doanh. Dựa trên lãi suất cơ bản và biên độ do
NHTW ấn định, các TCTD xác định mức lãi suất kinh doanh phù hợp. Điều
này tạo nên lợi thế cạnh tranh và giải quyết hợp lý mối quan hệ lợi ích giữa
các chủ thể tham gia, vừa bảo đảm ngân hàng kiểm soát được lãi suất thị
trường.
+ Lãi suất tái chiết khấu: là lãi suất cho vay ngắn hạn mà NHTW áp
dụng với NHTM thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu giấy tờ có giá.
+ Lãi suất thị trường liên ngân hàng: là lãi suất cho vay giữa các
NHTM trên thị trường tiền tệ.
_ Căn cứ vào giá trị thực của lãi suất thì có hai loại là lãi suất thực và lãi
suất danh nghĩa như đã nêu ở trên
5.CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LÃI SUẤT
5.1 Mức cung cầu tiền tệ
Cung tiền tệ là tổng thể tiền tệ được sử dụng để giao dịch thanh toán trên
thị trường. Các nhà kinh tế đã định nghĩa M là tiền giao dịch bao gồm: M1 là
tổng số tiền kim khí và tiền giấy lưu thông bên ngoài ngân hàng cộng với
tiền gửi ngân hàng có thể rút ra bằng séc và định nghĩa rộng hơn M2 bao
7
gồm những tài sản như tài khoản tiền gửi tiết kiệm ngoài tiền kim khí, tiền
giấy và tiền gửi ngân hàng có thể rút ra bằng séc.
Quyền kiểm soát mức cung tiền tệ được dành riêng cho Chính phủ, bởi vì
hạn chế mức cung tiền tệ là điều cần thiết để tiền có giá trị.
Nhân dân và các doanh nghiệp cần tiền để làm phương tiện giao dịch, trao

đổi mua bán hàng hoá, dịch vụ…Các nhân tố này hợp thành mức cầu về tiền
tệ để giao dịch.
Cung cầu tiền tệ ảnh hưởng đến lãi suất nào điều này được minh hoạ ở đồ
thị dưới đây (H1)
Đường thẳng đứng SS biểu thị NHTW giữ cung cấp tiền tệ ở một lượng
nhất định trước gọi là M. Đường cong về mức cung tiền tệ được vẽ thẳng
đứng vì việc cung cấp tiền tệ được định ra ở M cho mọi lãi suất.
Công chúng muốn giữ lượng tiền M1 khác nhau ở mức lãi suất khác nhau,
lãi suất thấp thì số tiền dôi ra lớn hơn.
Giao điểm giữa cung và cầu trên đồ thị xác định lãi suất cân bằng. Đây là
mức lãi suất ở điểm số lượng tiền do NHTW đề ra làm mục tiêu phù hợp với
số tiền mà công chúng muốn nắm giữ.
Sự thay đổi cung cầu tiền tệ sẽ ảnh hưởng tới lãi suất .
(H1): Đồ thị biểu diễn mối quan hệ cung cầu tiền tệ và lãi suất
Khi NHTW muốn kiềm chế lạm phát, sẽ thực hiện một chính sách thắt chặt
tiền tệ thông qua các công cụ của nó (thay đổi tăng mức dự trữ bắt buộc,
giảm lãi suất chiết khấu, giảm hạn mức tín dụng). Mức cung tiền tệ sẽ giảm
đi, đường SS dịch chuyển sang trái S’S’, lãi suất tăng. Trên đồ thị lãi suất từ
(i) chuyển sang (iA).
Lãi suất tăng, mức đầu tư sẽ giảm, mức cầu tiền tệ giảm, các nhà doanh
nghiệp và các gia đình sẽ cắt giảm lượng tiền mặt và tài khoản séc của họ,
8
Lãi suất
(%năm)
P
Tiền tệ (M1)
D
M
S
đường DD sẽ dịch chuyển về bên trái tạo thành D’D’. Điểm giao nhau giữa

S’S’ với D’D’ tại điểm A’’ với mức lãi suất cân bằng mới (iA’).
(H2): Ảnh hưởng cung cầu tiền tệ đến lãi suất
Ngược lại, khi NHTW lo sắp có suy thoái, sẽ tăng mức cung cầu tiền tệ
bằng việc bơm tiền ra lưu thông qua các công cụ chính sách tiền tệ. Lãi suất
có xu hướng giảm xuống. Tín dụng trở nên dồi dào hơn, lãi suất trên đồ thị
chuyển từ (i) sang (iB). Kết quả là việc tiến hành các dự án đầu tư mới trở
nên có lợi hơn, số tiền chi tiêu về nhà máy, thiết bị, kho hàng tăng lên, người
tiêu dùng có khuynh hướng mua nhiều hàng hơn, chính quyền địa phương
tăng ngân sách xây dựng trường học, đường xá. Vốn đầu tư tăng tổng mức
cầu tăng lên, dịch đường DD sang phải tạo ra thăng bằng trên thị trường mới
(H3).
Ngoài ra những thay đổi dự định trong tổng cầu tiền tệ (không phải do sự
thay đổi trong mức giá cả, tổng sản phẩm, hoặc lãi suất gây nên), cũng ảnh
hưởng dến lãi suất cân bằng. Ví dụ một cuộc sụp đổ tài chính hàng loạt xảy
ra làm cho nhiều công ty phá sản, trái khoán trở thành một tài sản bị nhiều
rủi ro nhiều hơn, dân chúng muốn chuyển từ việc giữ trái khoán sang giữ
tiền, họ sẽ giữ nhiều tiền hơn với mọi lãi suất và mọi sản phẩm. Kết quả cầu
tiền tệ tăng lên, đường DD dịch chuyển sang phải trên đồ thị, lãi suất tăng
lên và ngược lại
9
A
A’
S’
M’ M
A’’
(iA)
(i)
(iA’)
Tiền
Lãi suất

(%năm)
(H3): Ảnh hưởng cung cầu tiền tệ đến lãi suất
Nghiên cứu nhân tố cung cầu tiền tệ tác động qua lại đến lãi suất có một ý
nghĩa quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách tiền tệ. Khi nào thì
NHTW bơm tiền ra lưu thông về để điều chỉnh lãi suất thị thị trường một
cách hợp lý, trên cơ sở đó ổn định thị trường, thúc đẩy sự tăng trưởng cuẩ
nền kinh tế, giảm lạm phát.

5.2 Lạm phát
Chúng ta hãy sử dụng đồ thị để giải thích sự biến động của lạm phát ảnh
hưởng tới lãi suất như thế nào.
Trước tiên hãy giả định, mức giá cả ổn định và dự tính về lạm phát trong
tương lai là không đáng kể, cung quỹ cho vay được biểu hiện bằng Do và io.
Khi lạm phát tăng, dù ở từng mức lãi suất riêng lẻ hay ở tất cả mọi lãi suất,
yếu tố kích thích làm tăng cung quỹ cho vay gần như triệt tiêu bởi giá trị
thực tế của vốn gốc và tiền lời thu được đã hao mòn do tác động của lạm
phát. Trong tình hình ấy những người có khả năng cho vay không muốn giữ
tiền mặt, đổ xô đi mua hàng hoá dự trữ vàng, ngoại tệ. Điều đó dẫn đến cung
quỹ cho vay giảm, đường So chuyển về bên trái tạo thành S1, lãi suất tăng.
Lạm phát tăng, không chỉ làm giảm độ lớn của cung mà còn kéo theo việc
tăng thêm quy mô về cầu quỹ cho vay. Bởi vậy lãi suất danh nghĩa cho
10
D”
D
S
S”
B’
D”
D
B”

A
S S”
M M”
Tiền
Lãi suất
(%năm)
(i’B)
(i)
(iB)
trước, khi lạm phát dự tính tăng lên, chi phí thực của việc đi vay tiền giảm
xuống, kích thích người ta di vay hơn là cho vay.
Người đi vay sẽ kiếm được khoản thu lợi do giá hàng hoá được mua bằng
tiền đi vay sẽ tăng lên, đường Do dịch chuyển sang phải tạo thành D1. Do
cầu quỹ cho vay tăng, lãi suất tăng.
Một sự giảm xuống của cung và một sự tăng lên của cầu đối với quỹ cho
vay sẽ đẩy lãi suất tăng từ io đến i1.
Theo Friedman, ông cho rằng trong mọi trường hợp tỷ lệ lạm phát của một
nước là cực kỳ cao trong bất cứ thời kỳ kéo dài nào, thì tỷ lệ tăng trưởng của
cung ứng của cung ứng tiền tệ là cực cao.
(H4): Mối quan hệ giữa lạm phát ảnh hưởng đến quỹ cho vay và lãi suất
Tóm lại: khi lạm phát dự tính tăng, lãi suất tăng. Điều này có một ý nghĩa
quan trọng trong việc dự đoán lãi suất khi nền kinh tế có xu hướng lạm phát
tăng. Trên cơ sở đó có một chính sách lãi suất hợp lý. Khi lạm phát cao, Nhà
nước cần phải nâng lãi suất dang nghĩa, đảm bảo cho lãi suất thực dương,
hoặc Nhà nước tung vàng và ngoại tệ ra bán để kiềm chế lạm phát.
Nhiều nhà kinh tế đã khuyến nghị rằng cuộc chiến chống lạm phát nhất
định sẽ thất bại nếu chúng ta muốn hạ thấp lãi suất.
Bài học kinh nghiệm ở Việt Nam vào những năm 1985 – 1988 khi lạm
phát đã ở mức ba con số song lãi suất danh nghĩa vẫn còn rất thấp, đã ảnh
hưởng xấu đến nền kinh tế và càng đẩy lạm phát tăng nhanh.

11
S1
So
Do
D1
i1
io
Lãi suất
Tiền vay

5.3 Sự ổn định của nền kinh tế
_Ảnh hưởng đến cung tiền vay: khi nền kinh tế ổn định và phát triển, của
cải tăng lên, công chúng chỉ muốn giữ một số tiền giao dịch đủ cho nhu cầu
sử dụng, họ muốn đầu tư vào những tài sản thay thế có lợi tức dự tính cao,
như việc đầu tư vào trái khoán công ty. Bởi vì nền kinh tế ổn định, thị
trường trái khoán trở nên ổn định hơn, rủi ro trái khoán giảm, trái khoán trở
thành một tài khoản hấp hẫn hơn, vì vậy cung tiền vay tăng lên, đường cung
dịch chuyển về bên phải, lãi suất có xu hướng giảm.
_ Ảnh hưởng đến cầu tiền vay: khi nền kinh tế đang phát triển nhanh, nhất
là trong giai đoạn phát đạt của một chu kì kinh doan, các công ty càng có
nhiều ý định vay vốn và tăng số dư nợ nhằm tài trợ cho các cuộc đầu tư
được trông đợi là sinh lợi. Cầu tiền vay tăng lên, đường cầu dịch chuyển về
bên phải, lãi suất có xu hướng tăng lên.
_ Khi đường cung và đường cầu tiền vay dịch về bên phải, sẽ đạt một điểm
cân bằng mới trên sơ đồ về phía bên phải (H5). Tuy nhiên, nếu đường cung
dịch chuyển nhiều hơn đường cầu thì lãi suất cân bằng mới có xu hướng
giảm xuống. Ngược lại, nếu đường cầu dịch nhiều hơn đường cung thì lãi
suất cân bằng mới tăng lên.

(H5): Mối quan hệ giữa ổn định kinh tế với lãi suất

Ý nghĩa khi nghiên cứu ảnh hưởng của nhân tố trên:
Trong nền kinh tế ổn định và có xu hướng phát triển, Nhà nước nên sử
dụng các công cụ lãi suất để tăng vốn đầu tư vào những lĩnh vực cần phát
12
Lãi suất
Do
D1
S1
So
i1
io
Quỹ cho vay
triển cho sự cân đối của nền kinh tế, đặc biệt từ các nguồn vốn trên thị
trường trái khoán.

5.4 Các chính sách của Nhà nước
Mục tiêu của một nền kinh tế phát triển là:
_ Tạo ra sản lượng cao, tăng nhanh chóng tổng sản phẩm quốc dân.
_ Đạt tỷ lệ người có công ăn việc làm cao, tỷ lệ thất nghiệp.
_ Đảm bảo ổn định giá cả trong điều kiện thị trường tự do hoạt động.
_ Cân bằng xuất nhập khẩu.
Để đạt được mục tiêu trên, Nhà nước phải sử dụng các công cụ bằng các
chính sách có thể điều chỉnh tốc độ và phương hướng của hoạt dộng kinh tế
Quá trình thực hiện các chính sách của Nhà nước, đều tác động lãi suất
cân bằng trên thị thị trường.
 Chính sách tài chính
Chính sách tài chính bao gồm chi tiêu của Chính phủ và thuế khoá. Chi
tiêu của Chính phủ là một nhân tố then chốt định mức tổng chi tiêu.
Khi Nhà nước thực hiện một chính sách tài chính bành trướng (tăng chi
tiêu Chính phủ và giảm thuế) sẽ ảnh hưởng đến thăng bằng của thị trường

hàng hoá và thị trường tiền tệ, từ đó ảnh hưởng đến lãi suất.
Khi chi tiêu của Chính phủ tăng trực tiếp làm tăng tổng cầu, đường cầu
dịch chuyển về bên phải, khi Chính phủ giảm thuế, làm cho nhiều thu nhập
hưon được sẵn sàng để chi tiêu và làm tăng tổng sản phẩm bằng cách tăng
chi tiêu tiêu dùng. Mức cao hơn của tổng sản phẩm làm tăng lượng cầu tiền
tệ, đường cầu dịch chuyển về bên phải, lãi suất tăng.
Ngoài ra thuế còn có thể tác động đến mức sản lượng tiềm năng, chẳng
hạn việc giảm thuế đánh vào thu nhập từ đầu tư mới làm cho cácc ngành
tăng đầu tư vào máy móc, nhà máy, tổng sản phẩm tiềm năng được tăng lên,
tăng lượng cầu tiền tệ, đường cầu dịch chuyển về bên phải, lãi suất tăng lên.
 Chính sách tiền tệ
Với tư cách NHTW của các ngân hàng, NHTW thực hiện vai trò chỉ huy
đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng của một quốc gia. Với công cụ lãi suất,
NHTW có thể điều tiết nền kinh tế vĩ mô bằng các phương pháp sau:
_Ngân hàng có thể quy định lãi suất cho thị trường, chủ động điều chỉnh
lãi suất để điều chỉnh tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, hạn chế
hoặc mở rộng hoạt động tín dụng nhằm đạt được mục tiêu giảm lạm phát và
tăng trưởng kinh tế theo từng thời kỳ.
_ NHTW thực hiện chính sách lãi suất tái chiết khấu: NHTW tái chiết
khấu các chứng từ do NHTM xuất trình với điều kiện ngân hàng phải trả một
lãi suất nhất định do NHTW đơn phương quy định.
13
Mỗi khi lãi suất chiết khấu thay đổi đều có xu hướng làm tăng hay giảm
chi phí cho vay của NHTW đối với các NHTM và do đó khuyến khích hoặc
cản trở nhu cầu xin vay. Vì vậy thông qua việc điều chỉnh lãi suất chiết
khấu, NHTW có thể khuyến khích mở rộng hay làm giảm khối lượng tín
dụng mà ngân hàng thương mại cấp cho nền kinh tế. Do thay đổi lãi suất
chiết khấu NHTW có thể tác động gián tiếp vào lãi suất thị trường.
Một lãi suất chiết khấu cao hơn hay thấp sẽ làm thay đổi lượng vay của
ngân hàng, tức lượng tiền cung ứng của ngân hàng cho nền kinh tế và cuối

cùng sẽ làm thay đổi mức lãi suất thị trường.
_ NHTW thực hiện chính sách thị trường mở: có nghĩa là NHTW thực
hiện việc mua bán giấy tờ có giá trên thị trường chứng khoán. Nhiệm vụ của
chính sách thị trường mở là điều hoà cung cầu về các chứng phiếu có giá để
tác động vào các NHTM trong việc cung ứng tiền tệ, cung ứng tín dụng.
Khi nền kinh tế đình đốn, sản xuất phát triển chậm, ngân hàng mua các
chứng khoán, tức bơm tiền vào lưu thông, lượng tiền lưu hành trên trên thị
trường xã hội tăng lên tạo ra các động lực gây giảm lãi suất, vì vậy kích
thích các doanh nghiệp mở rộng sản xuất do tăng khả năng vay vốn. Ngược
lại, khi nền kinh tế đã phát triển đủ mạnh, ngân hàng bán các chứng khoán ra
và thu tiền vào. Do lượng tiền trong lưu thông giảm, lãi suất lại tăng lên, nên
nhiều xí nghiệp hạn chế vay đầu tư, kinh tế phát triển chậm lại.
_ Ngân hàng tăng hoặc giảm mức dự trữ bắt buộc:
Khi tỷ lệ dự trữ tăng lên tức là NHTW quyết định giảm bớt vốn khả dụng
cuẩ ngân hàng kéo theo những khó khăn ngân quỹ cho các ngân hàng, hạn
chế tín dụng của ngân hàng và ngược lại. Do đó cũng ảnh hưởng gián tiếp
đến lãi suất trên thị trường
 Chính sách thu nhập
Đó là chính sách về giá cả và tiền lương
Nếu mức giá cả giảm mà cung tiền tệ không thay đổi, giá trị của đơn vị
tiền tệ theo giá trị thực tế tăng, bởi vì nó có thể dùng để mua nhiều hàng hoá
và dịch vụ hơn. Do vậy cũng giống như ảnh hưởng của một sự tăng lên trong
cung tiền tệ khi mức giá được cố định, làm lãi suất giảm.
Ngược lại một mức giá cả cao hơn làm giảm cung tiền tệ theo giá trị thực
tế, làm tăng lãi suất.
Như vậy một sự thay đổi về chính sách giá cả cũng làm thay đổi lãi suất.
Yếu tố cấu thành quan trọng nhất của chi phí sản xuất là chi phí tiền
lương, khi tiền lương tăng làm chi phí sản suất tăng, làm giảm lợi nhuận theo
đơn vị sản phẩm tại mỗi mức giá cả, giảm nhu cầu đầu tư, cầu tiền tệ giảm,
lãi suất giảm.

14
 Chính sách tỷ giá
Chính sách tỷ giá bao gồm các biện pháp liên quan đến việc hình thành
quan hệ về sức mua giữa tiền của nước này so với ngoại tệ khác, nhất là đối
với các ngoại tệ có khả năng chuyển đổi.
Tỷ giá sẽ tác động đến các quá trình sản xuất kinh doanh ca xuất nhập
khẩu hàng hóa cảu một nước. Khi Nhà nước tăng tỷ giá ngoại tệ sẽ làm tăng
giá hàng nhập khẩu, dẫn đến tăng chi phí đầu vào của các xí nghiệp, giá
hàng hoá trong nước tăng lên, lợi nhuận giảm, nhu cầu đầu tư giảm, cầu tiền
tệ giảm, lãi suất giảm. Mặt khác, khi tỷ giá ngoại tệ tăng, lượng tiền cung
ứng để đảm bảo cân đối ngoại tệ cần chuyển đổi tăng lên, lãi suất giảm.
Vì vậy , khi thấy đồng tiền nước mình sụt giá, NHTW sẽ theo đuổi một
chính sách tiền tệ thắt chặt hơn, giảm bớt cung tiền tệ, nâng lãi suất trong
nước, làm cho đồng tiền của mình vững mạnh.
Khi tỷ giá ngoại tệ giảm, đồng tiền tăng giá, không kích thích xuất khẩu,
nên công nghiệp trong nước có thể bị cạnh tranh của nước ngoài tăng lên,
kích thích nhập khẩu. Lượng cầu tiền tệ tăng do với một tỷ giá thấp, với một
lượng vốn đầu tư nhất định, tài sản đầu tư sẽ nhiều hơn, kích thích đầu tư
vào sản suất, lãi suất tăng lên. Như vậy khi có một sự cạnh tranh giữa nền
công nghiệp trong nước với công nghiệp nước ngoài tăng lên, có thể sẽ gây
áp lực buộc NHTW phải theo đuổi một tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ cao hơn
nhằm hạ thấp tỷ giá.
5.5 Cân đối ngân sách Nhà nước :
Những khoản thu của NHNN bắt nguồn chủ yếu từ nền kinh tế quốc dân
và trở lại phục vụ cho các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Những khoản mục
thu chi ngân sách là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến lãi suất.
Mối quan hệ tác động theo hai hướng sau:
_ Khi thâm hụt (bội chi) ngân sách tăng sẽ dẫn đến tăng lãi suất.
Thâm hụt ngân sách thường dưới hai hình thức: thâm hụt cơ cấu (chủ yếu
do chính sách chủ động tuỳ ý của Nhà nước) và thâm thụt theo chu kỳ (thâm

thụt do đình trệ kinh tế qua khủng hoảng).
Để bù vào số thâm hụt ngân sách, Nhà nước sẽ phát hành trái phiếu làm
cho cầu quỹ cho vay tăng, lãi suất tăng.
Mặt khác, những người tham gia thị trường tài chính có thể tin rằng, do
thâm hụt ngân sách lớn hơn sẽ có nhiều khả năng dẫn đến lạm phát cao và
trực tiếp gây sức ép lớn hơn về cầu quỹ cho vay, đẩy lãi suất tăng lên.
_ Ngược lại khi ngân sách bội thu sẽ làm cho lãi suất giảm.

15
5.6 Các nhân tố khác
_ Tỷ suất lợi nhuận bình quân
Lãi suất tín dụng là một bộ phận của tỷ suất lãi suất bình quân, vì vậy:
0 < Lãi suất tín dụng < Tỷ suất lợi nhuận bình quân
Nếu lãi suất tín dụng > Tỷ suất lợi nhuận binh quân thì sẽ không có ai
muốn để đầu tư sản suất, sản xuất kinh doanh bị đình đốn, kinh tế sẽ bị suy
thoái. Mặt khác, khi lãi suất tín dụng lớn hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân,
người đi vay sẽ tăng cường gửi tiền vào ngân hàng để tìm kiếm lợi nhuận,
ngưng ngay các khoản đầu tư khác, vì thế lợi ích kinh tế của xã hội bị giảm
sút.
Lãi suất trần của lãi suất tín dụng chính là tỷ suất lợi nhuận bình quân. Do
đó, sự tăng giảm tỷ suất lợi nhuận bình quân sẽ tạo điều kiện mở rộng hay
thu hẹp khoảng dao động của lãi suất tín dụng.
Ngoài ra còn các nhân tố khác như: khả năng tiêu thụ vốn ngân hàng trên
thị trường tiền tệ, rủi ro tín dụng, thuế, chi phí hoạt động của ngân hàng cũng
ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng.
II. LÍ LUÂN VỀ TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT
1. CÁC CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT
Lãi suất được xem là một công cụ gián tiếp thực hiện chính sách tiền tệ,
trong việc điều khiển mức cung tiền cho nền kinh tế. Sở dĩ nói rằng lãi suất
là công cụ gián tiếp, bởi lẽ lãi suất không trực tiếp làm tăng hay giảm khối

lượng tiền tệ trong lưu thông nhưng sự tăng giăm lãi suất có thể kích thích
sản xuất hay kìm hãm sản xuất. Vì vậy nó là một công cụ rất lợi hại, có sức
phản công ghê gớm. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những
trủ trương, chính sách và giải pháp cụ thể của NHTW nhằm kiểm soát và
điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong thời kì nhất định.
Việc điều hành lãi suất chủ yếu được thực hiện thông qua hai cơ chế và
các mức lãi suất thường được công bố như sau:
1.1 Cơ chế điều hành gián tiếp:
Thông qua cơ chế tái cấp vốn (chiết khấu, tái chiết khấu, cho vay cầm cố
chứng từ có giá…) của NHTW đối với các TCTD, NHTW thực hiện quản lý
gián tiếp lãi suất cho vay của các NHTM đối với nền kinh tế.
Cơ chế này được thực hiện theo nguyên tắc: Trong điều hành chính sách
lãi suất, NHTW chỉ công bố mức lãi suất áp dụng đối với các khoản vay tái
chiết khấu hoặc cho vay cầm cố chứng từ có giá của mình đối với các
TCTD. Các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể theo từng kỳ hạn, từng
đối tượng của các TCTD đối với nền kinh tế sẽ do TCTD ấn định, dựa trên
cơ sở cung-cầu về vốn và sự cạnh tranh trên thị trường.
16
Khi muốn điều chỉnh lãi suất kinh doanh của tổ chức tín dụng đối với nền
kinh tế, phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ từng giai đoạn, NHTW
sẽ thực hiện qua việc điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu của mình đối với các
TCTD. Từ đó tác động đến lãi suất thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Và cuối
cùng sẽ tác động tới lãi suất kinh doanh của TCTD đối với vác chủ thể trong
nền kinh tế.
Cơ chế điều hành lãi suất này được áp dụng phổ biến đối với các nền kinh
tế có hệ thống tài chính phát triển. Cơ chế này cũng trở nên linh hoạt hơn khi
bên cạnh các loại lãi suất trên, NHTW chấp nhận lãi suất do thị trường hình
thành và tác động vào lãi suất này để duy trì ở mức mong muốn như lãi suất
Repor của ngân hàng Anh, ngân hàng liên bang Đức, ngân hàng trung ương
Châu Âu; lãi suất tiền gửi liên bang Cục dự trữ liên Mỹ….

1.2 Cơ chế điều hành trực tiếp
Thông qua các hình thức quản lý lãi suất của cac TCTD đối với nền kinh
tế, như quy định các mức lãi suất tiền gửi, cho vay, khung lãi suất, trần lãi
suất, biên độ chênh lệch lãi suất bình quân… Thực chất là NHTW quy định
mức lãi suất cho vay tối đa hoặc tiền gửi tối thiểu của các TCTD đối với nền
kinh tế. Trong phạm vi lãi suất cho phép, cac TCTD được quyền ấn định lãi
suất cho vay phù hợp. Khi có các thay đổi vĩ mô, NHTW có thể xem xét để
điều chỉnh giới hạn lãi suất tối đa hợp lý. Nhìn chung, trong các nền kinh tế
phát triển, lãi suất ngày càng được tự do hóa, còn ở các nươc cớ hệ thống tài
chính chưa phát triển, các quy định mang tính quản lý trực tiếp được áp dụng
phổ biến hơn và xu hướng chung là ngày càng giảm dần sự quản lý trực tiếp
này.
1.3 Các mức lãi suất thường được công bố
Một là, đối với các hoạt động liên quan đến vai trò NHTW, các mức lãi
suất phổ biến được công bố và nền kinh tế quan tâm là lãi suất chiết khấu
(như ở Mỹ, Nhật, Đức, ), lãi suất Repor (như Đức, Anh, Pháp), hoặc lãi suất
can thiệp (như Pháp). Các mức lãi suất được hình thành trên thị trường tiền
tệ như lãi suất tiền gửi liên bang (Mỹ), lãi suất cho vay qua đêm cũng được
áp dụng ở tất cả các nước nói trên.
Hai là, các mức lãi suất của NHTW áp dụng đối với nền kinh tế mang tính
quản lý trực tiếp của NHTW như khung lãi suất, trần lãi suất, lãi suất tiền
gửi tối thiểu, chênh lệch lãi suất bình quân, được thể hiện ở các nước Trung
Quốc, Thái lan, Malaysia, Việt Nam …
Ba là, các mức lãi suất thị trường mang tính tham khảo như: lãi suất liên
ngân hàng thị trường LONDON (Libor), lãi suất ngoại tệ liên ngân hàng thị
trường Châu Âu (Euribor)…Ngoài các mức lãi suất này ra, một số nước còn
công bố mức lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến của các NHTM hàng đầu
(lãi suất cơ bản của Việt Nam).
17
Bốn là, lãi suất thường được công bố theo năm, các mức lãi suất đối với

từng kỳ hạn cụ thể theo tháng, ngày… được xác định trên cơ sỏ lãi suất năm.
2. THẾ NÀO LÀ TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT
Khái niệm
Cơ chế tự do hoá lãi suất là cơ chế trong đó nhà nước không ấn định các
mức lãi suất, đồng thời cũng không khống chế lãi suất mà để lãi suất hình
thành theo cơ chế thị trường, các ngân hàng được quyền xác định và công bố
lãi suất kinh doanh của mình để áp dụng trong việc huy động vốn và cho
vay.
Trong cơ chế tự do hóa lãi suất, nếu nhà nước hoàn toàn không can thiệp
đến hệ thống lãi suất thị trường thì đó là cơ chế tự do hoá lãi suất hoàn toàn
(thả nổi lãi suất hoàn toàn). Nếu nhà nước có tham gia can thiệp gián tiếp
theo một định hướng xác định thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ
thì đó là cơ chế tự do hoá lãi suất có quản lý.
Tự do hoá lãi suất là để cho lãi suất hình thành trên thị trường trên cơ sở
cung cầu về vốn, mức tiết kiệm, thu nhập và chi tiêu của cá nhân và những
nhân tố khác. Tự do hoá lãi suất được coi là hạt nhân của tự do hoá tài chính
và làm cho các luồng tài chính lưu thông thông suốt và là một xu thế để góp
phần thúc đẩy kinh tế - tài chính của một quốc gia hội nhập quốc tế.
Việc “tự do hoá” lãi suất cho phép các NHTM chủ động trong việc kinh
doanh tiền tệ, tạo ra môi trường cạnh tranh, có lợi cho các nhà sản xuất kinh
doanh vì lãi suất tín dụng sẽ giảm thấp. Điều đó sẽ kích thích các doanh
nghiệp và cá nhân tích cực triển khai nhiều dự án sản xuất kinh doanh hơn.
Từ đó, sẽ tăng nhu cầu về tín dụng là yếu tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Khi các NHTM được quyền ấn định các lãi suất, họ sẽ có khả năng tìm ra
phương án sử dụng vốn tốt nhất và tránh được rủi ro có thể gặp phải. Họ chủ
động định ra lãi suất là bao nhiêu để có thể thu hút được nguồn vốn đáp ứng
cho nhu cầu cho vay vốn của mình. Sự cạnh tranh trong hoạt động của các
ngân hàng là nhân tố hình thành lãi suất thị trường.
Tuy nhiên, những tác động tích cực của tự do hoá lãi suất chỉ thực hiện
được trong các trường hợp các NHTM cạnh tranh lành mạnh, nghĩa là cạnh

tranh trong giới hạn nhất định, trên cơ sở tính toán chặt chẽ, khoa học để
đảm bảo tính ổn định, phát triển. Nếu tiến hành cạnh tranh không lành mạnh
có thể sẽ dẫn đến lũng đoạn thị trường, lãi suất trên thị trường sẽ bị nhiễu
loạn. Do vậy tự do hoá lãi suất cần phải có những điều kiện tiền đề, những
điều kiện này sẽ được trình bày ở phần kế tiếp.

18
3. CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT
Những cơ sở lý lụân và thực tiễn của các nước đã và đang thực hiện tự do
hoá lãi suất theo cơ chế thị trường chính minh rằng: tuy mức độ, lộ trình,
thời gian, biện pháp tiến hành ở mỗi nước khác nhau; thậm chí có nội dung
tiến hành trái ngược nhau. Song những điều kiện cần thiết, chủ yếu, có tính
nguyên tắc đều được tính toán, tôn trọng khi tiến hành tự do hoá lãi suất là:
• Môi trường kinh tế vĩ mô tương đối ổn định: về nhịp độ tăng trưởng,
phát triển kinh tế, giá cả, lạm phát… Bởi nếu, môi trường vĩ mô
không ổn định do tác động nào đó sẽ ảnh hưởng tới tiến trình tự do
hoá lãi suất. Đồng thời, các luật pháp, chính sách, nhất là các cơ chế
chính sách có liên quan, tác động trực tiếp đến lãi suất, tỷ giá… phải
thích ứng, đảm bảo việc điều hành linh hoạt, nhanh, kịp thời khi có tác
động bất lợi đến lãi suất.
• Hệ thống tài chính đủ mạnh thể hiện ở năng lực tài chính, khẳ năng
thanh toán đảm bảo hoạt động có hiệu quả, an toàn, lành mạnh, có thể
chủ động đối phó với diễn biến xấu có thể xảy ra khi thực hiện tự do
hoá lãi suất, dù với bất luận là nguyên nhân chủ quan, khách quan do
bên trong nước hay bên ngoài nước gây ra.
• Hoạt động sản suất kinh doanh của các doanh nghiệp, cá nhân đảm
bảo có hiệu quả; khả năng tài chính đáp ứng đến mức cần thiết cho
các nhu cầu thanh toán, có thể đối phó, xử lý được khi có tác động bất
lợi do lãi suất gây ra.
• Dự trữ quốc gia về ngoại tệ cũng như nền tài chính công có đủ khả

năng kịp thời tác đông, xử lý khi có diễn biến đột xuất do nền kinh tế
gây ra.
• Các công cụ, yếu tố thị trường hoạt động trong nền kinh tế thị trường
được hình thành tương đối phong phú, đa dạng; vận động một cách
minh bạch và cạnh tranh đã trở thành bình thường, không có gì xa lạ
với các nhà kinh doanh trong thương trường.
• Vai trò và khả năng điều hành, giám sát, tác động vào mục tiêu chính
sách tiền tệ quốc gia ở mức có thể can thiệp kịp thời, nhanh hiệu quả
khi có biến động bất lợi liên quan đến tự do hoá lãi suất.

19
PHẦN II: THỰC TRẠNG
A. QUÁ TRÌNH TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT
I. KHU VỰC TÀI CHÍNH VÀ TIẾN TRÌNH TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT
TRƯỚC NĂM 2000
1. CẢI CÁCH HỆ THỐNG NGÂN HÀNG HAI CẤP VÀ ĐỢT TỰ DO
HOÁ LÃI SUẤT ĐẦU TIÊN
 Cải cách hệ thống ngân hàng
Trong hệ thống kế hoạch hoá tập trung ở Việt Nam, mọi hoạt động giao
dịch tài chính chính thức đều do nhà nước độc quyền thực hiện thông qua
NHNN (SBV). Hệ thống ngân hàng trước năm 1988 là hệ thống ngân hàng
đơn cấp với NHNN thực hiện chức năng của cả NHTM và NHNN. Nhà
nước sở hữu và trực tiếp kiểm soát hai ngân hàng chuyên doanh là ngân
hàng Ngoại thương Việt Nam và ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Năm 1988 đánh dấu đợt cải cách mạnh mẽ đầu tiên trong hệ thống ngân
hàngViệt Nam. Nghị định 53/HĐBT ngày 26/3/1988 do Hội Đồng Bộ
trưởng ban hành mở đầu cho công cuộc cải tổ hệ thống ngân hàng ở Việt
Nam với 3 nội dung quan trọng:
- Thứ nhất, tách bộ phận quản lí quỹ ngân sách ra khỏi ngân hàng nhà
nước để hình thành nên hệ thống kho bạc nhà nước.

- Thứ hai, là tách chức năng kinh doanh ra khỏi hệ thống ngân hàng
nhà nứoc và giao cho các ngân hàng chuyên doanh.-
- Thứ ba, la thành lập hai ngân hàng chuyên doanh mới đó là Ngân
hàng Công Thương và Ngân hàng Phát Triển Nông Nghiệp Việt
Nam (bây giờ là đổi tên là Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển
Nông Thôn) cùng với hai ngân hàng trước đó là Ngân hàng Ngoại
Thương Việt Nam và Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam
đảm nhận chức năng kinh doanh thay cho hệ thống ngân hàng nhà
nước.
 Nỗ lực tự do hoá tài chính đầu tiên (1988)
Quyết định của Hội Đồng Bộ Trưởng 9/3/1988 cho phép tất cả các tổ chức
khinh tế, bao gồm cả các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh, được vay tiền và
huy động vốn từ công chúng. Có ba đặc điểm đáng lưu ý ở đây
- Thứ nhất, giai đoạn 1986 – 1988 là thời gian mất ổn định kinh tế vĩ
mô nhất mà nền kinh tế Việt Nam từng trải qua. Với việc chính phủ
20
sử dụng in tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách, lạm phát ở mức phi
mã 3 chữ số trong cả 3 năm này.
- Thứ hai, nỗ lực tự do hóa tài chính này được tiến hành trong khi hầu
như chưa có cải cách trong khu vực công nghiệp, DNNN và hoạt
động ngoại thương. Thực tế mới chỉ có khu vực nông nghiệp được
tự do hoá, và rất nhiều loại giá vẫn bị biến dạng nghiêm trọng.
- Thứ ba, tự do hoá đã đi quá xa đến mức cho phép tất cả các tổ chức
kinh tế đều có thể kinh doanh tiền tệ, trong khi hệ thống điều tiết tài
chính thì hoàn toàn không tồn tại. Các tổ chức huy động vốn từ công
chúng dưới dạng tiền gửi tiết kiệm để cho vay không phải tuân thủ
các quy định truyền thống của ngân hàn, như dự trữ bắt buộc và tỷ lệ
vốn/dư nợ vay.
Bảng1: Tình hình biến động lãi suất giai đoạn 1989-94 (%tháng)
1989 1990 1991 1992 1993 1994

Tiền gửi không kỳ hạn (cá nhân)
5,0 2,4 2,1 1,0 0,7 0,7
Tiền gửi tiết kiêm 3T (cá nhân và
tổ chức)
7,0 4,0 3,5 2,0 1,4 1,4
Lãi suất cho vay
Nông nghiệp
3,7 2,4 3,3 2,5 ... ...
Công nghiệp và GTVT
3,8 2,7 3,0 2,0 ... ...
Thương mại và dịch vụ
3,9 2,9 3,7 2,7 ... ...
Vốn cố định
... 0,8 0,8 1,8 1,2 1,7
Vốn lưu động
... ... ... 2,7 2,1 2,1
Chênh lệch lãi suất
-3,3 -1,3 -0,5 0,5 0,7 ...
Lạm phát
2,7 7,7 4,8 1,1 1,2 0,9
Lãi suất thực
Tiền gửi TK 3t (cá nhân)
4,3 -3,7 -1,3 0,9 0,2 ...
Cho vay công nghiệp&
GTVT
1,1 -5,0 -1,8 0,9 ... ...
Nguồn NHNN

Trong thời gian này, các quỹ và hợp tác xã tín dụng mọc lên rất nhiều. Đến
cuối thập niên 80, tổng số quỹ và hợp tác xã tín dụng lên tới 7.180. Hàng

loạt các quỹ tín dụng ở thành thị đua nhau tăng lãi suất để huy động vốn. Cả
hệ thống rơi vào vòng xoáy của lựa chọn bất lợi và và tâm lý ỷ lại. Việc theo
đuổi lợi nhuận của các quỹ tín dụng (và sau đó là sự nhập cuộc của các tổ
chức kinh tế) bằng cách huy động vốn với lãi suất trong bối cảnh không có
quy định và giám sát đã nhanh chóng dẫn đến sự sụp đổ của hàng loạt các tổ
chức tín dụng. Cho tới cuối năm 1990, tổng số quỹ tín dụng và hợp tác xã tín
dụng chỉ còn 160. Bên cạnh sự mất mát về tiền cuộc khủng hoảng tín dụng
21
năm 1990 còn tạo ra một tác động tâm lý sâu rộng với sự sụt giảm lòng tin
nghiêm trọng của nguời dân đối với hệ thống ngân hàng.
 Tự do hoá lãi suất bước 1: 6/1992 Chuyển lãi suất thực âm sang lãi
suất thực dương
Bắt đầu từ tháng 6/1992, NHNN thực hiện bước chuyển đổi căn bản từ
cơ chế lãi suất thực âm sang lãi suất thực dương - bước khởi đầu để thực
hiện mục tiêu tự do hoá lãi suất, tạo đòn bẩy cho các NHTM chuyển hoạt
động kinh doanh từ thua lỗ sang có lãi. Những điểm cơ bản của chính sách
lãi suất mới là như sau:
_ Một là, NHNN quy định khung lãi suất của NHTM đối với nền kinh tế
(lãi suất tối thiểu đối với tiền gửi và lãi suất tối đa đối với tiền cho vay)
_ Hai là, lãi suất cho vay bình quân phải lớn hơn lãi suất huy động bình
quân, chấm dứt sự bao cấp về vốn qua kênh tín dụng ngân hàng.
_ Ba là, đối với lãi suất ngoại tệ, NHNN quy địng lãi suất cho vay tối đa
bằng ngoại tệ. Lãi suất huy động bằng ngoại tệ do các NHTM quyết định
trên cơ sở lãi suất thị trường tiền tệ quốc tế và cung-cầu vốn ngoại tệ trong
nước.
Từ tháng 6/1992 đến cuối năm 1993, NHNN đã 5 lần điều chỉnh giảm lãi
suất cho phù hợp với chỉ số lạm phát và hiệu quả sản xuất kinh doanh của
nền kinh tế. Lãi suất cho vay tối đa bằng ngoại tệ được điều chỉnh tăng từ
6,5% năm lên tới 7,5% năm, phù hợp với lãi suất trên thị trường quốc tế.
Trong hai năm 1994-1995, cơ chế lãi suất tiếp tục được điều chỉnh theo

hướng thích ứng với cơ chế thị trường, phù hợp với quan hệ cung cầu vốn,
đồng thời hạn chế sự can thiệp trực tiếp của NHNN vào hoạt động kinh
doanh của các TCTD. NHNN chỉ khống chế mức lãi suất cho vay tối đa của
các TCTD đối với nền kinh tế. Các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể
do TCTD ấn định. Cho phép các TCTD điều chỉnh lãi suất tiền gửi của các
tổ chức kinh tế lên sát gần với mức lãi suất tiền gửi dân cư. Tăng lãi suất cho
vay trung và dài hạn lên 1,7% tháng. Lãi suất ngoại tệ được điều chỉnh 3 lần
từ 7,5% năm lên 9,5% năm phù hợp với sự biến động của lãi suất thị trường
quốc tế.
Cho đến hết năm 1995, NHNN vẫn thực hiện kiểm soát cả sàn lãi suất
tiền gửi (tiết kiệm của dân cư và tiền gửi của doanh nghiệp) và trần lãi suất
cho vay đối với nền kinh tế. Do cơ chế lãi suất trần bộc lộ một số bất cập,
Thống đốc NHNN cho phép các TCTD cho vay theo lãi suất thoả thuận với
nguồn vốn huy động dưới hình thức kỳ phiếu, nhằm khai thác khả năng tiếp
cận thị trường của các TCTD trong thời gian kinh tế chuyển đổi. Trong thời
gian này, tỷ trọng huy động kỳ phiếu đạt khoảng 23% tổng số vốn huy động
bằng đồng Việt Nam, như vậy có thể nói 23% thị trường thị trường đã được
tự do hoá lãi suất. Tuy nhiên, do NHNN chưa có công cụ kiểm soát gián tiếp
22
mức lãi suất thoả thuận cùng với việc thị trường tín dụng chưa được tự do
hoá và các DNNN còn hoạt động trong cơ chế bao cấp đã dẫn đến thực trạng
việc cho vay thoả thuận đã đẩy mặt bằng lãi suất trên thị trường nông thôn
lên quá cao, chênh lệch quá nhiều so với lãi suất quy định. Mặt khác nhiều
DNNN vay lãi suất thoả thuận không tính đến hiệu quả kinh doanh nên khó
có khả năng trả nợ. Do vậy, NHNN đã chấm dứt cho phép các TCTD được
cho vay thoả thuận từ nguồn vốn huy động kỳ phiếu từ 1/1/1996.
Ngân hàng Nhà nước đã gắn lãi suất danh nghĩa với chỉ số giá để đảm
bảo lãi suất thực dương. Bảng 1 cũng cho thấy bắt đầu từ năm 1992, lãi suất
cho vay đã được nâng lên cao hơn lãi suất tiền gửi - một yêu cầu thiết yếu
cho sự hoạt động thông thường của các ngân hàng. Vào năm 1993, việc phân

biệt lãi suất cho vay theo khu vực kinh tế được loại bỏ và chỉ còn được phân
biệt theo cho vay đầu tư cố định và cho vay vốn lưu động. Tuy vậy, lãi suất
cho vay đầu tư vốn cố định lại thấp hơn cho vay vốn lưu động, tạo ra một cơ
cấu lãi suất không phù hợp. Tức là, lãi suất dài hạn thấp hơn lãi suất ngắn
hạn. Chính sách này làm cho các ngân hàng không không hề có động cơ
khuyến khích cho vay dài hạn. Mãi cho tới năm 1996, lãi suất cho vay ngắn
hạn mới giảm xuống thấp hơn lãi suất cho vay trung và dài hạn. NHNN tiếp
tục duy trì trần lãi suất cho vay. Từ năm 1995, NHNN cho phép các ngân
hàng thương mại được tự do định mức lãi suất tiền gửi với mục tiêu tăng
cường cạnh tranh trong huy động vốn. Tuy nhiên, mức chênh lệch lãi suất
cho vay và lãi suất tiền gửi tối đa được phép là 0,35% tháng. Như vậy, về
một khía cạnh nào đó, các ngân hàng vẫn phải chịu cả lãi suất tiền gửi và
cho vay, cho dù mức chênh lệch lãi suất thực tế có thể khác nhau giữa các
ngân hàng tuỳ thuộc vào cơ cấu chi phí cụ thể. Chính sách này giúp các ngân
hàng thương mại có thể duy trì một tỷ lệ lợi nhuận, nhưng không có lợi cho
người gửi tiền. NHTG (1995) lập luận rằng đó chính là nguyên nhân giải
thích cho sự tăng trưởng chậm chạp của tiền gửi ngân hàng và tỷ lệ tiền mặt
cao trong tổng cung tiền (Trong đầu thập niên 90, tăng trưởng tiền mặt có
tốc độ cao hơn tăng trưởng tiền gửi ngân hàng. Vì thế mà tỷ lệ tiền mặt trong
tổng cung tiền M3 của Việt Nam lại gia tăng từ 31,7% năm 1989 lên mức
đỉnh cao là 43,3% vào năm 1994. Chỉ từ năm 1995 trở lại đây , tỷ lệ tiền
mặt/M3 của Việt Nam mới giảm xuống or mức 23% năm 2001. Trong khi
đó, vào năm 2001 tỷ lệ tương ứng của Trung Quốc là 11,2% và của Thái Lan
là 9,5%)
2. CẢI CÁCH TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT BƯỚC HAI
 Diễn biến bước thay đổi cơ chế điều hành linh hoạt theo trần lãi
suất cho vay
23
Từ 1/1/1996 – 8/2000, NHNN thực hiện bước thay đổi căn bản cơ chế
điều hành lãi suất VND theo hướng điều hành linh hoạt trần lãi suất cho vay.

Những thay đổi chủ yếu bao gồm:
_ Áp dụng cơ chế trần lãi suất cho vay thay thế khung lãi suất trước đó.
Có sự phân biệt trần lãi suất cho vay ngắn hạn và trung hạn, dài hạn ; có sự
phân biệt giữa lãi suất cho vay khu vực thành thị, nông thôn (quy định trần
lãi suất cho vay ngắn hạn thấp hơn cho vay trung hạn, trần lãi suất cho vay
trên địa bàn nông thôn cao hơn thành thị).
_ Khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay bình quân và lãi suất tiền
gửi bình quân ở mức 0,35% tháng, theo Nghị quyết Quốc hội khóa 9 kỳ họp
thứ 8, tháng 10/1995.
_ Bỏ quy định về sàn lãi suất đối với tiền gửi của các tổ chức kinh tế và
dân cư tại TCTD. Các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể do TCTD tự
ấn định trên cơ sở trần lãi suất cho vay, chênh lệch giữa lãi suất cho vay và
lãi suất tiền gửi bình quân 0,35% tháng và cung-cầu vốn của từng TCTD.
_ Trần lãi suất cho vay bằng ngoại tệ được điều chỉnh phù hợp với biến
động lãi suất trên thị trường quốc tế và cung-cầu ngoại tệ ở trong nước.
_ Điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu đối với các TCTD
một cách linh hoạt, phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ hàng năm.
Theo cơ chế điều hành lãi suất tín dụng nói trên từ năm 1996-7/2000
NHNN liên tục điều chỉnh trần lãi suất cho vay của TCTD đối với nền kinh
tế phù hợp với chỉ số lạm phát và cung-cầu vốn từng thời điểm cụ thể:
Trong năm 1996, NHNN đã 4 lần điều chỉnh trần lãi suất bằng đồng Việt
Nam, lãi suất huy động vốn cuối năm 1996 giảm 8,4% năm, lãi suất cho vay
giảm 10% năm so với năm 1995. Với lãi suất cho vay khu vục nông thôn
được quy định cao hơn một chút so với lãi suất cho vay khu vực thành thị.
Điều này đã có tác dụng điều chuyển các luồng vốn dư thừa từ thành thị về
nông thôn. Cơ chế lãi suất mới đã rút ngắn chênh lệch giữa lãi suất nội tệ và
lãi suất ngoại tệ
Bảng 2: Trần lãi suất cho vay năm 1996 (VND % tháng, USD % năm)
Tháng 1 7 9 10
I- Cho vay VND:

1- Trần lãi suất cho vay khu vực thành thị
-Cho vay ngắn hạn
1,70 1,60 1,50 1,25
-Cho vay trung và dài hạn
1,75 1,65 1,55 1,35
2- Trần lãi suất cho vay khu vực nông thôn
2,00 1,80 1,70 1,50
3- Cho vay HTXTD và QTDND
2,50 2,20 2,10 1,80
II- Cho vay ngoại tệ
9,50 9,50 9,50 9,50
24
III- Chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất
huy động bình quân
0,35 0,35 0,35 0,35
Nguồn NHNN
Bảng 3: Trần lãi suất cho vay các năm 1997-1999
1997 1998 1999
1 9 1 9
I- Cho vay VND:
1- Trần lãi suất cho vay khu vực thành
thị
-Cho vay ngắn hạn
1% 1,2 1,2 1,1 0,85
-Cho vay trung và dài hạn
1,1% 1,25 1,25 1,15 0,85
2- Trần lãi suất cho vay khu vực nông
thôn
1,2% 1,25 1,25 1,20 1,00
3- Cho vay HTXTD và QTDND

1,5% 1,5 1,5 1,5 1,5
II- Cho vay ngoại tệ
8,5% 8,5 8,5 8,5 8,5
III- Chênh lệch lãi suất cho vay và lãi
suất huy động bình quân
0,35%
Nguồn NHNN

Năm 1997, là năm có nhiều biến động đối với nền kinh tế khu vực và thế
giới, đặc biệt là khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á được khởi đầu bằng
sự thả nổi đồng Bạt của Thái lan. Cơ chế điều hành lãi suất tiếp tục được
điều chỉnh theo hướng huy trì lãi suất cho vay ở mức thấp, tạo điều kiện mở
rộng tín dụng đối với nền kinh tế.
Tiếp đến từ năm 1998, trong mối quan hệ hài hoà với tỷ giá nhằm hạn chế
những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Á 1997/1998
đến Việt Nam, cơ chế điều hành lãi suất của NHNN có một số thay đổi cơ
bản, đó là tự do hoá hoàn toàn lãi suất huy động (không còn quy định biên
độ) và tiếp tục điều chỉnh linh hoạt trần lãi suất cho vay.
Năm 1999 là một năm đánh dấu mốc quan trọng trong hoạt động ngân
hàng, là thời điểm bắt đầu thực hiện Luật NHNN và Luật các TCTD. Đồng
thời, từ tháng 6/1999 – 3/2000, NHNN chỉ quy định một trần lãi suất cho
vay áp dụng cho cả cho vay ngắn hạn và cho vay trung hạn, nhưng vẫn giữ
quy định trần lãi suất cho vay khác nhau giữa thành thị và nông thôn để đảm
bảo chi phí hoạt động của các NHTM trên địa bàn nông thôn.
25

×