THAM VẤN VÀ TƯ VẤN
TRIẾT LÍ NGHỀ THAM VẤN
Các chuyên gia tham vấn Hoa Kỳ đã xây dựng những cơ sở
được coi là triết lý cho hoạt động tham vấn. Đó là Mơ hình lành
mạnh, Khía cạnh phát triển, Phịng ngừa và can thiệp sớm và cuối
cùng là Làm mạnh thân chủ.
1. Mơ hình lành mạnh:
Niềm tin đầu tiên mà các nhà tham vấn cho là tốt nhất trong việc
trợ giúp con người giải quyết các vấn đề cảm xúc và cá nhân là mơ
hình Lành mạnh – wellness model (Hermon & Hazler, 1999; Mc
Auliffe & Ericksen, 1999). Năm 2000, Myers, Sweeney và Witmer đã
phát triển mơ hình này đặc dành cho tham vấn. Trước kia, mơ hình
cơ bản được sử dụng bởi các chuyên gia sức khỏe tâm thần
(mental health professionals) ở Mỹ để tập trung vào vấn đề cảm xúc
là mơ hình bệnh và y học (illness and medical)
Trong mơ hình y học, người trợ giúp xác định bệnh tật bằng
cách hỏi bệnh nhân. Sự chẩn đoán bệnh tật luôn là bước đầu tiên
trong việc trợ giúp. Mục tiêu trợ giúp là giúp bệnh nhân đạt được
chức năng như khi chưa bị bệnh.
Theo cách tiếp cận wellness model, mục tiêu cho mỗi người là
đạt được sức khỏe tâm thần một cách tích cực có thể, với quan
điểm, sức khỏe tâm thần là một quá trình diễn tiến.
Khuynh hướng lành mạnh về thể chất và cảm xúc xem xét dựa
trên một số thang đo, những tiêu chí này đại diện cho sự lành mạnh
về cảm xúc và tâm thần trong các lĩnh vực quan trọng khác nhau
của cuộc sống. Nhà tham vấn đánh giá chức năng của thân chủ dựa
trên những khía cạnh này để khẳng định cần tập trung vào khía
cạnh nào là tốt nhất trong q trình tham vấn. Thang này bao gồm:
Mối quan hệ gia đình, Bạn bè, những mối quan hệ khác, Nghề
nghiệp/ công việc, Tâm linh, Hoạt động giải trí, Sức khoẻ thể chất,
Mơi trường sống, Tài chính, Tình dục.
Sự khác biệt cơ bản giữa hai mơ hình này là thái độ của chun
gia đối với thân chủ và sự tập trung vào yếu tố lâm sàng của chuyên
gia. Các nhà tham vấn xem xét thân chủ có cả hai tiềm năng và khát
khao muốn tự chủ và thành công trong cuộc sống hơn là xem như
có bệnh và cần được điều trị.
2. Khía cạnh phát triển
Trong cuộc đời chắc chắn con người phải trải qua và ít nhất đã
thành cơng một thách thức nào đó. Các nhà tham vấn tin rằng hầu
hết các vấn đề mà con người phải đối mặt đều là một sự nảy sinh tự
nhiên và phổ biến. Một số vấn đề mà các chuyên gia sức khỏe tâm
thần có thể xem là bệnh lý thì nhà tham vấn xem nó như là sự diễn
tiến. Chẳng hạn như:
- Ở tuổi thứ 5 bé trai cảm thấy hoảng sợ khi bị mẹ để lại lớp mẫu
giáo lần đầu tiên
- 11 em gái ám ảnh vì một cậu bạn
- Tuổi teen, cậu con trai chống đối cha mẹ mãnh liệt
- Sau khi sinh đứa con đầu lòng, người mẹ trẻ cảm thấy trầm cảm
- Ở tuổi 35, người đàn ông gặp rắc rối và uống rượu
- 40 tuổi, người phụ nữ cảm thấy vô giá trị khi đứa con nhỏ nhất đã
tốt nghiệp đại học
- 46 tuổi, người đàn ơng bỗng ngoại tình với một cơ gái trẻ sau 23
năm chung sống với vợ
- 65 tuổi, người đàn bà cảm thấy trầm cảm khi về hưu
- 80 tuổi, ông già quên rất nhiều đến nỗi bị phàn nàn là mất trí.
Bằng cách nghiên cứu các giai đoạn phát triển trong cuộc đời và
hiểu các vấn đề mà tất cả các cá nhân phải đối mặt nhà tham vấn có
thể giúp thân chủ trải nghiệm vấn đề như là một sự tự nhiên và phổ
biến ở con người. Thậm chí vấn đề được xem như là tâm bệnh lý
bởi các chuyên gia khác như trầm cảm nặng, nghiện chất, ... có thể
được xem như là vấn đề tạm thời gây phiền nhiễu cho con người và
được giải quyết hiệu quả nếu cá nhân tiếp tục cách sống tích cực.
3. Phịng ngừa và can thiệp sớm
Tổng kết mang tính triết lý thứ ba của các nhà tham vấn là ngăn
ngừa các vấn đề cảm xúc và tâm thần hơn là điều trị (Conyne&
Horne, 2001; Kulic, Dagley, & Horne, 2001; Mc Carthy & Mejia,
2001, Owens & Kulic, 2001; Sapia, 2001; Wilson & Owens, 2001).
Khi không thể ngăn ngừa các nhà tham vấn mới cố gắng can thiệp.
Công cụ cơ bản của nhà tham vấn trong việc ngăn ngừa vấn đề
cảm xúc và tâm trí (mental ) là giáo dục đào tạo. Nhà tham vấn
thường thực hành nghề nghiệp của mình với tư cách là một giáo
viên sử dụng tâm lý giáo dục như là một công cụ bằng cách cảnh
báo trước những khía cạnh stress tiềm năng và chuẩn bị cho họ
những hành trang để thách thức tới thành công. Một số hoạt động
mang tính ngăn ngừa như : Chương trình giáo dục làm cha mẹ, toạ
đàm về việc ra quyết định, nhóm khám phá nghề nghiệp, tham vấn
tiền hơn nhân.
4. Làm mạnh thân chủ
Niềm tin thứ 4 mà các nhà tham vấn đưa ra trong là giúp thân
chủ có khả năng giải quyết vấn đề của mình một cách độc lập.
Thông qua việc dạy cho thân chủ những chiến lược giải quyết vấn
đề một cách hợp lý và tăng cường khả năng hiểu bản thân mình,
các nhà tham vấn hy vọng rằng thân chủ sẽ không cần đến sự trợ
giúp trong tương lai nữa.
Khi gặp gỡ người trợ giúp, thân chủ trở nên rất dễ bị phụ thuộc
vào người trợ giúp. Một số hệ thống chăm sóc sức khỏe tâm thần
khuyến khích sự phụ thuộc này trong cuộc đời. Các nhà tham vấn
thì khuyến khích thân chủ tự chịu trách nhiệm về cuộc đời của mình
và sống theo cách giúp cho họ trở nên tự chủ và độc lập. Mặc dù
một số người có thể cần tới sự trợ giúp thể chất hay tâm thần nhưng
tất cả họ đều được trợ giúp để trở nên độc lập như họ có thể. Các
nhà tham vấn khơng xem mình như là chuyên gia phải tư vấn khi có
vấn đề xảy ra. Hơn nữa, nhà tham vấn truyền tải niềm tin rằng thân
chủ có khả năng phát triển các kỹ năng họ cần có cho sự lành mạnh
và cuộc sống độc lập.
Tô Thị Hạnh (biên dịch)
(Theo Ethical, Legal, and Professional Issues in Counseling)
KHI NÀO TÍNH BÍ MẬT CẦN ĐƯỢC DỠ BỎ ?
Bí mật là một trong những nguyên tắc cơ bản và cũng là yếu tố
quan trọng quy định đạo đức của người làm công tác Tư vấn tâm lý.
Trong hầu hết trường hợp, những thông tin trao đổi giữa Nhà tư
vấn và khách hàng sẽ được giữ bí mật. Điều này là cần thiết giúp
bảo đảm quyền lợi chính đáng của khách hàng. Tuy nhiên, trong một
số trường hợp ngoại lệ, tính bí mật cần phải được dỡ bỏ.
§ Khách hàng đe doạ Nhà tư vấn
§ Khách hàng có ý muốn tự hủy hoại bản thân hoặc hành hung
người khác
§ Khi khách hàng là nạn nhân của lạm dụng tình dục trẻ em hoặc bị
bỏ rơi.
Trong những tình huống trên, Nhà tư vấn nên đặt sự an toàn
của khách hàng, của bản thân và những người khác lên trên tính bí
mật và thơng báo những thơng tin này đến các cơ quan chức năng
để tìm hướng giải quyết. Để làm tốt cơng việc này, Nhà tư vấn cần
phải có sự hiểu biết về luật pháp: chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
cụ thể của từng cơ quan thi hành pháp luật, đánh giá được mức độ
an toàn cũng như khả năng giải quyết vấn đề của những đơn vị này
trong những tình huống cụ thể.
§ Cơng dân của mỗi quốc gia đều phải tn thủ theo luật pháp.
Vì vậy, thơng tin tư vấn có thể sẽ được cung cấp một phần hay tồn
bộ theo u cầu của tịa án hay những người thi hành pháp luật.
§ Tính bí mật cũng có để được phá vỡ nếu khách hàng muốn
Nhà tư vấn cung cấp những thông tin của họ với một người khác. Ví
dụ: bác sĩ, giáo viên, tịa án hay một người cụ thể.
Trong trường hợp này, Nhà tư vấn cần phải lập một bản cam kết
bao gồm danh sách những thông tin mà khách hàng muốn cung
cấp, đối tượng mà khách hàng muốn cung cấp và yêu cầu khách
hàng ký vào.
Vấn đề về tính bí mật sẽ rắc rối hơn khi Nhà tư vấn làm việc với
đối tượng khách hàng là trẻ em. Trẻ em chưa được coi là những
người có đủ khả năng làm chủ mọi vấn đề liên quan đến bản thân
mình. Vì vậy, tất cả quyền của các em sẽ được quyết định thông qua
những người thi hành pháp luật.
Quốc Khánh (Interviewing and Diagnostic Exercises for Clinical
and couselling skill building)
TRỊ LIỆU TÂM LÍ VÀ THAM VẤN
Có thể nói, cuộc tranh luận về thuật ngữ tham vấn, tư vấn hay trị
liệu tâm lý vẫn luôn là vấn đề nóng hổi hiện nay trong các diễn dàn
bàn về tham vấn tại Việt nam. Trong khơng ít hội thảo có người phê
phán việc sử dụng tư vấn khi tham vấn. Đồng thời cũng có ngưới lại
đồng nhất hai khái niệm này. Bên cạnh đó cũng khơng ít người lại
băn khoăn liệu có gì khác nhau giữa tham vấn và trị liệu tâm lý. Bài
viết này xin cung cấp một số thông tin nhằm giúp bạn đọc cũng như
các nhà nghiên cứu có quan tâm hiểu rõ hơn về sự giao thoa cũng
như và khác biệt giữa các thuật ngữ trên làm cơ sở cho việc sử
dụng chúng một cách đúng đắn trong những bối cảnh có liên quan.
Trị liệu- tiếng anh là Therapy - được lấy từ gốc Hy lạp là
Therapia có nghĩa là chữa trị, làm lành. Trị liệu tâm lý có nghĩa là sự
xóa bỏ rắc rối, những bệnh lý mang tính tâm lý.
Tham vấn và trị liệu tâm lý có mối quan hệ khá mật thiết với
nhau. Do có nhiều cách hiểu khác nhau về hai thuật ngữ này nên
cuộc tranh luận về sự khác biệt giữa chúng đã diễn ra từ lâu cho
đến nay vẫn chưa kết thúc.
Có quan niệm cho rằng trị liệu tâm lý bao hàm tham vấn. Người
ta cho rằng trị liệu tâm lý như một quá trình can thiệp của nhà tâm lý
học, nhà công tác xã hội hay nhà tham vấn đối với tình trạng sức
khỏe tâm thần của đối tượng (thân chủ /người bệnh) bằng việc sử
dụng các liệu pháp tâm lý như tham vấn để điều trị những rối nhiễu
về cảm xúc hay tâm thần.
Một quan điểm khác lại xem trị liệu tâm lý như là tập hợp kỹ
thuật, đặc biệt là hình thức đối thoại và giao tiếp trực tiếp để cải
thiện sức khỏe tâm thần của khách hàng hay người bệnh hoặc cải
thiện mối quan hệ của nhóm người (ví dụ như gia đình). Trong q
trình này nhà trị liệu và khách hàng (hay người bệnh) thảo luận
những vấn đề tiềm ẩn và tìm ra giải pháp tích cực. Hình thức can
thiệp này được sử dụng trong trợ giúp những khách hàng có vấn đề
tâm thần. Nó cịn được sử dụng để giúp đỡ những người có khó
khăn trong mối quan hệ hàng ngày dưới hình thức tham vấn. Do vậy
hai khái niệm tham vấn và trị liệu tâm lý thường được sử dụng thay
thế cho nhau.
Carl Rogers xuất thân từ nhà tâm lý lâm sàng, mặc dù khi giới
thiệu tác phẩm với hai khái niệm Counseling and Psychotherapy
(1952), ông vẫn xem Tham vấn và trị liệu tâm lý là hoàn toàn giống
nhau (S. Narayana, 1981). Hay C.H Patterson (1974, 1986) cũng
không đề cập tới sự khác biệt rõ rệt nào trong tài liệu mà ông đã
xuất bản. G. Corey (1991), C.B.Truax và R. Carkhuff (1967) sử dụng
hai khái niệm Tham vấn và trị liệu tâm lý hoán đổi cho nhau. Hội
Tham vấn và trị liệu tâm lý Australia xem tham vấn và trị liệu là một,
bởi vì theo họ cả hai hoạt động này đều là quá trình tâm lý nhấn
mạnh nhu cầu của đối tượng, cùng sử dụng những kỹ năng giống
nhau như lắng nghe tích cực, thấu hiểu những điều họ nói và thúc
đẩy khả năng tự giúp, tính trách nhiệm của cá nhân.
Tuy nhiên một số tác giả khác lại bảo vệ quan điểm về sự khác
biệt giữa tâm lý trị liệu và tham vấn. Điển hình như F. Robinson
(1950), C.Thorne (1950), P. Blos (1946) L. Tyler (1958). Các tác giả
này cho rằng trị liệu tâm lý chú trọng tới thay đổi nhân cách còn
tham vấn hướng tới việc giúp đối tượng sử dụng nguồn lực sẵn có
để đối phó với vấn đề trong cuộc sống tốt hơn. Sự phân biệt đó cịn
được biện hộ bởi lý luận rằng trong Tham vấn yếu tố được xem như
trọng tâm đó là bản thân đối tượng, mối quan hệ đầy tính nhân văn
giữa nhà tham vấn và đối tượng, nhưng trong tâm lý trị liệu yếu tố
nổi trội là nhà trị liệu cùng với những kỹ thuật trị liệu cụ thể và xu
hướng sử dụng hệ thống lý thuyết trị liệu để phân tích tâm lý hay
hành vi của đối tượng. Hơn thế nữa, tham vấn thường được diễn ra
trong những cơ sở như trường học, cộng đồng nhiều hơn, trong khi
đó tâm lý trị liệu lại thường thấy cả ở các cơ sở y tế mang tính chữa
trị.
Để có thêm thơng tin về sự khác biệt của hai hoạt động này
trong thực tiễn, chúng tơi tiến hành phỏng vấn và thảo luận nhóm
với 9 chuyên gia làm tham vấn tại Canada, Úc, Singapore. Kết quả
cho thấy 4 chuyên gia tâm lý cho rằng họ xem trị liệu tâm lý và tham
vấn là như nhau, số cịn lại cho rằng có sự khác biệt nhất định giữa
hai thuật ngữ này. Một số chuyên gia Công tác xã hội khi được hỏi
cho rằng, khi thực hiện tham vấn họ và các đồng nghiệp không làm
trị liệu và sử dụng các kỹ thuật test tâm lý như một cơng cụ chính
của q trình can thiệp.
Từ nghiên cứu tài liệu cũng như thực tiễn, chúng tơi cho rằng
mặc dù khó có thể tách bạch tham vấn và trị liệu tâm lý song có sự
khác nhau nhất định giữa chúng ở một số khía cạnh sau:
- Thứ nhất, đối tượng trợ giúp trong tham vấn thường là những
người có vấn đề liên quan tới cuộc sống hàng ngày, còn trong tâm lý
trị liệu, đối tượng gịm cả những người có vấn đề rối nhiễu tâm lý,
hành vi ở mức độ tương đối rõ rệt và mang tính bệnh lý nhiều hơn.
- Thứ hai, cơng cụ can thiệp của tham vấn chủ yếu là mối quan hệ
tương tác nghề nghiệp với sự tích cực, chủ động của chính đối
tượng dưới sự xúc tác gợi mở của nhà tham vấn, cịn cơng cụ ưu
thế của tâm lý trị liệu là hệ thống các liệu pháp (phân tâm, hành vi,
cảm xúc thuần lý...) và các trắc nghiệm tâm lý v.v.
- Thứ ba, hình thức tham vấn được sử dụng ở phạm vi rộng hơn bởi
các chuyên gia tâm lý, các nhà Cán bộ xã hội chuyên nghiệp, thậm
chí các nhà sư phạm, cán bộ ngành y và một số nhà trợ giúp không
chuyên giúp trên cơ sở nắm vững các kỹ năng cơ bản, nguyên tắc
đạo đức của tham vấn, trong khi đó tâm lý trị liệu thường được sử
dụng bởi các nhà tâm lý học, các cán bộ xã hội, các nhà tham vấn
chuyên nghiệp được phép hành nghề.
Trong bối cảnh nền văn hóa ở Việt Nam khi nhiều người còn
chưa sẵn sàng chia sẻ những vấn đề riêng tư thì việc sử dụng thuật
ngữ trị liệu tâm lý dễ được hiểu như sự chữa trị tâm lý như vậy có
thể làm tăng thêm tâm lý e ngại và hạn chế việc sử dụng dịch vụ
tham vấn - một công cụ bảo vệ sức khỏe tâm thần, tăng cường khả
năng thích nghi của cá nhân khá hữu hiệu. Do vậy, chúng tơi cho
rằng nên có sự tách biệt hai thuật ngữ trên ở nước ta hiện nay.
Nói tóm lại, tồn tại sự khác biệt nhất định trong Tham vấn, Tư
vấn và Trị liệu tâm lý. Song quá trình trợ giúp con người giải quyết
vấn đề tâm lý xã hội luôn luôn phức tạp địi hỏi sự tham gia của
nhiều hình thức can thiệp. Điều này khiến cho sự đồng nhất hay
hoán đổi giữa chúng ở nhiều tác giả cũng là dễ hiểu. Tuy nhiên, từ
đặc điểm của nền văn hóa cũng như xuất phát điểm của các lọai
hình dịch vụ này hiện nay ở Việt Nam chúng tơi đề xuất nên có sự
tách biệt giữa chúng tạo cơ sở cho sự phổ biến hóa việc sử dụng
cũng như từng bước chun mơn hóa các loại hình trợ giúp tâm lý
xã hội trên ở nước ta hiện nay.
CÓ NÊN ĐỒNG NHẤT THAM VẤN VỚI TƯ VẤN ?
Cuộc tranh luận về thuật ngữ tham vấn, tư vấn hay trị liệu tâm lý
vẫn luôn là vấn đề nóng hổi hiện nay trong các diễn dàn bàn về
tham vấn tại Việt nam.
Phần 1 : Tư vấn và Tham vấn
Có thể nói, Trong khơng ít hội thảo có người phê phán việc sử
dụng tư vấn khi tham vấn. Đồng thời cũng có ngưới lại đồng nhất
hai khái niệm này. Bên cạnh đó cũng khơng ít người lại băn khoăn
liệu có gì khác nhau giữa tham vấn và trị liệu tâm lý. Bài viết này xin
cung cấp một số thông tin nhằm giúp bạn đọc cũng như các nhà
nghiên cứu có quan tâm hiểu rõ hơn về sự giao thoa cũng như và
khác biệt giữa các thuật ngữ trên làm cơ sở cho việc sử dụng chúng
một cách đúng đắn trong những bối cảnh có liên quan.
Tư vấn và tham vấn
Tư vấn- trong tiếng anh là Consultation - được xem như quá
trình tham khảo về lời khuyên hay sự trao đổi quan điểm về vấn đề
nào đó để đi đến một quyết định Tư vấn trong từ điển tiếng Việt
được định nghĩa như là sự phát biểu ý kiến về những vấn đề được
hỏi đến, nhưng khơng có quyền quyết định. Hoạt động này phần
nhiều diễn ra dưới dạng Hỏi –và Đáp.
Tác giả Trần Tuấn Lộ đã mô phỏng hoạt động tư vấn như sự
tham khảo và cung cấp ý kiến giữa một bên A- có thể là một cá
nhân, một tổ chức cần tìm câu trả lời cho một thắc mắc hoặc tìm giải
pháp với bên B- một cá nhân, một tổ chức khác có chun mơn,
kinh nghiệm và giúp họ giải đáp những thắc mắc hay vấn đề của họ.
Tư vấn được các tác giả nước ngoài hiểu theo nhiều cách với
vai trị khác nhau của người tư vấn.
Tư vấn có thể được xem là mối quan hệ mà ở đó người chuyên
gia đưa ra sự trợ giúp cho cá nhân hay tổ chức có nhu cầu giải
quyết vấn đề khó khăn (A.M. Douherty, 1990). Tư vấn được M. Fall,
(1995) định nghĩa một cách rất đơn giản rằng “Tư vấn là việc tơi và
anh cùng nói về người đó, điều đó nhằm mục đích để thay đổi”.
Người tư vấn có thể đóng vai trị như người chịu trách nhiệm tìm ra
những giải pháp (R. Schein, 1969), hay thu thập thơng tin, chẩn
đốn vấn đề và đề xuất giải pháp (D.J. Kurpius & J.C. Brukbaker
1976) hoặc là chỉ là người định hướng, điều phối tiến trình giải quyết
vấn đề (R. Blake & J.S.Mouton 1976). Một nghiên cứu chỉ ra rằng,
các nhân viên tham vấn tại cộng đồng trung bình sử dụng 10 %
cơng việc cho làm công tác tư vấn (L.Stone & J. Archer, 1990). Như
vậy cũng khơng nên tuyệt đối hóa việc không làm tư vấn trong tham
vấn. Grace M. (1998) cho rằng Tham vấn là một kỹ thuật trợ giúp
trong Công tác xã hội cá nhân và việc cho lời khuyên là một kỹ thuật
của tham vấn. Tuy nhiên bà nhấn mạnh lời khun đó khơng nên
mang tính áp đặt mà cần khách quan, phù hợp với nhu cầu của đối
tượng được xác định trên cơ sở thảo luận và dựa vào kiến thức
chun mơn ví dụ như kiến thức về kế hoạch hóa gia đình. Tuy
nhiên ở nước ta hiện nay, khi làm tham vấn người ta thường thiên
về đưa ra lời khuyên mang tính áp đặt ý chí chủ quan khá nhiều,
khiến cho hoạt động tham vấn bị lu mờ và ý nghĩa của tư vấn bị hiểu
sai lệch.
Những quan điểm trên cho thấy, việc trao đổi ý tưởng, cung cấp
thơng tin, và có thể là những lời khun trong tư vấn đã tham gia
một phần vào quá trình giải quyết vấn đề. Thực tế cho thấy tồn tại
nhiều loại hình tư vấn như tư vấn hướng nghiệp, tư vấn giáo dục, tư
vấn sức khỏe, tư vấn pháp luật, tư vấn kinh tế, kinh doanh. Các hoạt
động tư vấn về các vấn đề tâm lý xã hội qua báo chí, qua đài hay
điện thoại, thậm chí ngay tại các trung tâm tư vấn tâm lý hiện nay
cũng phần lớn hoạt động theo phương thức này. Hình thức hỏi và
đáp, cung cấp thông tin trong các hoạt động tư vấn trên đã phần nào
giải đáp được những thắc mắc cũng như quan tâm của nhiều người.
Song cần nhấn mạnh rằng chức năng của tham vấn khơng phải đưa
ra lời khun. Do vậy có sự khác biệt giữa tham vấn và tư vấn ở
những điểm sau đây:
- Thứ nhất, về mục tiêu: Tư vấn chủ yếu hướng tới giải quyết vấn đề
hiện tại, còn hoạt động tham vấn cịn hướng tới mục tiêu lâu dài hơn
đó là giúp cá nhân nâng cao khả năng giải quyết vấn đề sau khi
được tham vấn.
- Thứ hai, về tiến trình: tư vấn thường là cung cấp thơng tin hay đưa
ra lời khuyên. do vậy nó diễn ra trong một thời gian ngắn, giải quyết
vấn đề tức thời, còn tham vấn có thể diễn ra trong thời gian có thể
kéo dài hàng tuần, hàng tháng thậm chí hàng năm.
- Thứ ba, về mối quan hệ: Trong tư vấn: có thể là mối quan hệ trêndưới giữa một người là được xem là “un bác” với những thơng tin
chun mơn, cịn bên kia là người “thiếu hiểu biết” về vấn đề nào đó,
bên cạnh mối quan hệ ở đây khơng địi hỏi sự tương tác rất tích cực
từ phía đối tượng. Trong khi đó ở tình huống tham vấn, mối quan hệ
mang tính ngang bằng, bình đẳng và địi hỏi có sự tương tác rất
chặt chẽ và hợp tác tích cực giữa hai bên, có thể nói nó đóng vai trị
như một công cụ quan trọng cho sự thành công của ca tham vấn
- Thứ tư về cách thức tương tác: Trong tư vấn cách thức can thiệp
chính là cung cấp thơng tin và lời khun bổ ích từ người tư vấn với
đầy kiến thức chuyên sâu về vấn đề cần tư vấn. Trong tham vấn sự
thành công phụ thuộc vào kỹ năng tương tác của nhà tham vấn để
đối tượng tự nhận thức, hiểu chính mình và hồn cảnh của mình để
chủ động tìm kiếm giải pháp phù hợp và thực hiện nó.
Như vậy rõ ràng tư vấn và tham vấn là hai hình thức trợ giúp có
sự khác biệt nhất định ở một số khía cạnh. Mặc dù khi tư vấn có
tham gia vào q trình tham vấn song để giúp đối tượng nâng cao
được năng lực giải quyết vấn đề trong cuộc sống thì việc sử dụng
hình thức tham vấn tỏ ra hữu hiệu hơn.
GIẢI QUYẾT NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN
ĐẠO ĐỨC VÀ NGUYÊN TẮC HÀNH NGHỀ
Một số qui định chung trong việc giải quyết những vấn đề liên
quan tới đạo đức và nguyên tắc hành nghề tư vấn là nội dung cuối
cùng trong Bản nguyên tắc đạo đức mà Hiệp hội tư vấn Hoa Kỳ đưa
ra.
H.1. Hiểu biết về các nguyên tắc nghề nghiệp
Tất cả những nhà tư vấn phải làm quen và hiểu về các quy tắc đạo
đức, nguyên tắc hành nghề và những ứng dụng của các nguyên tắc
trong các tổ chức cơ sở nghề nghiệp cụ thể mà mình đang làm việc
hoặc trong các tổ chức cấp chứng chỉ mà mình là thành viên. Sự
thiếu hụt những hiểu biết về đạo đức và nguyên tắc nghề nghiệp
không phải là lý do chính để tránh khỏi những trừng phạt khi có
những hành vi khơng tn thủ ngun tắc đạo đức. (Xem thêm
F.3.e.)
H.2. Những vi phạm
a. Những hành vi vi phạm nguyên tắc: Nhà tư vấn hoạt động để
củng cố những nguyên tắc liên quan đến đạo đức và hoạt động
nghề nghiệp. Khi nhà tư vấn có những lý do hoặc nghi ngờ có cơ sở
về đồng nghiệp của mình khi hành động không theo nguyên tắc đạo
đức, nhà tư vấn phải có những hành động phù hợp để duy trì
ngun tắc đạo đức. (Xem thêm H.2.d và H.2.e.)
b. Tư vấn: Khi nhà tư vấn không chắc chắn rằng một hành động nào
đó, hay một tình huống nào đó có thể vi phạm nguyên tắc đạo đức,
nhà tư vấn phải tìm kiếm sự tư vấn, trợ giúp với những nhà tư vấn
khác, đồng nghiệp của mình hoặc những người có chức năng có
hiểu biết về vấn đề đạo đức và nguyên tắc nghề nghiệp.
c. Khi có những xung đột: Khi nhà tư vấn hoạt động trong một tổ
chức cụ thể nào đó mà những hoạt động của tổ chức đó có khả
năng vi phạm những nguyên tắc đạo đức nghề ngihệp, nhà tư vấn
phải hiểu rõ những xung đột và phải đề cập đến vấn đề này với
những người giám sát, những người có chức năng. Trong điều kiện
có thể, nhà tư vấn phải tăng cường hoạt động để tìm kiếm những
thay đổi trong nội bộ tổ chức để củng cố hoạt động dựa trên nguyên
tắc đạo đức và nghề nghiệp.
d. Những giải pháp khơng chính thức: Khi nhà tư vấn có những lý do
để tin rằng một nhà tư vấn khác hoạt động vi phạm tiêu chuẩn đạo
đức nghề nghiệp, trước hết nhà tư vấn phải nỗi lực để giải quyết vấn
đề với bản thân nhà tư vấn khác nếu có khả năng trừ khi những
hành động này trái với nguyên tắc bảo mật và vấn đề có thể khơng
được giải quyết.
e. Báo cáo về những trường hợp vi phạm: Khi những giải pháp
khơng chính thức đã được áp dụng nhưng không mang lại hiệu quả,
nhà tư vấn phải thông báo những hành vi vi phạm đối với hội đồng
phụ trách về đạo đức và nguyên tắc nghề nghiệp trừ khi những hành
động này trái với nguyên tắc bảo mật và vấn đề có thể không được
giải quyết.
f. Những lời khiếu nại không đủ cơ sở: Những nhà tư vấn khơng
khuyến khích tham gia vào những hoạt động khiếu nại thiếu cơ sở
hoặc có chủ đích làm tổn hại đến đồng nghiệp của mình hơn là bảo
vệ khách hàng hay công chúng.
H.3. Hợp tác với hội đồng tư vấn về đạo đức và nguyên tắc hành
nghề:
Tất cả mọi nhà tư vấn nên trợ giúp hội đồng tư vấn để củng cố
những nguyên tắc hoạt động nghề nghiệp. Nhà tư vấn phải hợp tác
trong quá trình điều tra, xem xét và những đòi hòi của hội đồng dựa
trên những đòi hỏi của ACA (hiệp hội những nhà tư vấn Hoa Kỳ) và
tất cả các tổ chức liên quan khác trong việc trừng phạt những cá
nhân có liên quan đến nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp. Nhà tư vấn
phải biết và hiểu những chính sách của ACA và quá trình xem xét
liên quan đến đạo đức và nguyên tắc nghề nghiệp để trợ giúp và
củng cố nguyên tắc nghề nghiệp.
SỰ KHÁC BIỆT GIỮA CTXH VÀ THAM VẤN LÀ
NHƯ THẾ NÀO ?
Hiện nay, nhiều người nhầm lẫn giữa nghề tham vấn với nghề
công tác xã hội. Sự nhầm lẫn này gây khơng ít phiền phức cho cả
nhân viên cơng tác xã hội cũng như tham vấn viên...
Phân biệt giữa Công tác xã hội và tham vấn tâm lý?
Đây là hai lĩnh vực khoa học biệt lập nhưng rất gần gũi nhau, có
những nguyên tắc và giá trị giống nhau, hoạt động bổ sung cho
nhau. Công việc của họ gặp nhau ở điểm tiếp xúc trực tiếp với đối
tượng được giúp đỡ, nhưng công việc của người tham vấn tâm lý
(NTV) thu hẹp vào mối quan hệ mặt đối mặt với thân chủ và đi vào
chiều sâu tâm lý, còn nhân viên cơng tác xã hội (NVXH) thì ngồi
việc tiếp xúc với thân chủ qua đối thoại, còn tác động vào môi
trường xung quanh họ để giúp họ giải quyết vấn đề.
Hai bên bổ sung cho nhau như thế nào?
Ví dụ khi tiếp xúc với một đối tượng ngoài các khó khăn tâm lý,
cịn có tình trạng thất nghiệp, khơng có thu nhập, NTV giới thiệu họ
cho phịng xã hội để giúp tìm việc làm. Trước khi bắt tay vào việc
NVXH phải tìm hiệu hồn cảnh cụ thể của người đó bằng cách
“vãng gia”, nói chuyện với thân nhân để hiểu rõ gia cảnh. Ngồi gia
đình, NVXH cịn đi đến một cơ quan, cơ sở sản xuất để giới thiệu
thân chủ. Trong q trình vãng gia NVXH cịn phát hiện thân chủ có
con nhỏ khơng đi học vì khơng trả học phí được và tìm đến một lớp
tình thương để gởi gắm các cháu. Nhưng trong quá trình làm việc
NVXH có thể gặp một “ca” có vấn đề tâm lý phức tạp. Anh/chị ta lại
phải giới thiệu lại cho NTV để giúp đỡ. Giới thiệu chuyển tuyến
(referral) là như vậy. Cả hai loại nhân viên đều phải nắm vững các
“tài nguyên” trong cộng đồng để giới thiệu thân chủ của mình vì
khơng có nghề nào có thể bao sân mọi giải quyết mọi nhu cầu của
xã hội.
Cả hai nhân viên có một số ngun tắc hành động chung như
tơn trọng thân chủ vô điều kiện, chấp nhận thân chủ, lắng nghe, bảo
vệ sự riêng tư (bí mật) của thân chủ… Cả hai đều không làm thay
thân chủ mà giúp họ tự quyết địn bằng sức mạnh nội lực.
Hai bên phải có một số nền tảng kiến thức chung nên NVXH có
thể làm NTV cho những trường hợp không quá phức tạp.
Ở nước ta hiện nay người được đào tạo thật bài bản về tư vấn
tâm lý rất hiếm hoi. Một số được tập huấn ngắn hạn và phát huy nhờ
kinh nghiệm, Còn nhân viên xã hội mặc dù được đào tạo bài bản
trong và ngồi nước đã có nhưng chưa đơng. Dù sao cũng đã có
một số đang tham gia tích cực vào công tác tư vấn tâm lý. Việc đào
tạo bài bản cho cả hai ngành hiện nay là rất cần thiết.
CÁC NHÀ TÂM LÝ HỌC CÓ THỂ GIÚP ĐỠ MỌI
NGƯỜI TÌM THẤY ĐIỀU LÀM CHO HỌ HẠNH
PHÚC
Tiền tài, xe hơi, nhà lầu – Con người làm việc vất vả để có được
những thứ đó: Nhưng một khi có rồi, lập tức một số người cảm thấy
nếu có nhiều tiền hơn, nếu có thêm chiếc xe hơi thứ hai hay nếu có
thêm một ngơi nhà nghỉ mùa hè thì họ sẽ hạnh phúc hơn.
Tuy nhiên, theo GS.TS. M.Csikszentmihalyi - một nhà tâm lý học
lớn của Mỹ - thì sự giàu có về vật chất khơng làm cho cuộc sống của
con người hạnh phúc. Và, các nhà tâm lý học cần phải làm rõ xem
điều gì làm cho con người hạnh phúc.
Trong bài phát biểu, tại cuộc họp thường niên của Hội Tâm lý
học Mỹ được tổ chức tại San Francisco năm 1998, "Nếu như chúng
ta giàu có như vậy, tại sao chúng ta không hạnh phúc?", M.
Csikszentmihalyi đã đưa ra các lý do khiến con người bị lái vào
những việc tích lũy vật chất khi chính điều đó khơng thực sự đem lại
hạnh phúc cho họ. Ông cũng đưa ra các cách thức, mà qua đó, các
nhà tâm lý học có thể giúp mọi người tìm thấy điều làm cho họ hạnh
phúc. Ơng nói: "Sự phịng ngừa bắt đầu bằng việc làm rõ câu hỏi:
Phần nào của một cuộc đời là đáng sống?"
Là một giáo sư tâm lý học giáo dục của trường Đại học Tổng
hợp Chicagô, M.Csikszentmihalyi đã dành hơn 30 năm để nghiên
cứu vấn đề điều gì làm cho cuộc sống của con người có ý nghĩa và
được thoả mãn. Kết quả cho ông thấy rằng một cuộc sống vật chất
đầy đủ, không liên quan tới một cuộc sống tinh thần tốt đẹp. Trong
một nghiên cứu gần đây của ông, tiến hành trên 1000 đối tượng là
thiếu niên cũng đã cho thấy: Những thiếu niên thuộc các tầng lớp xã
hội thấp kể về hạnh phúc nhiều nhất, cịn những trẻ thuộc các gia
đình có địa vị cao trong xã hội kể về hạnh Phúc ít nhất. ông cũng
trích dẫn một nghiên cứu của David Myers (Gs.Ts. Tâm lý học tại
Đại học Hy Vọng) và Edward Diener (Gs.Ts. Tâm lý học tại Đại học
Tổng hợp lllinois: Urbana - Champaign), trong đó vạch rõ: Trong khi
thu nhập bình quân đầu người ở Mỹ tăng hơn gấp hai lần (tính từ
giữa năm 1960 đến năm 1990) thì tỷ lệ những người cho rằng mình
hạnh phúc lại sụt đi một cách đáng kể. Ơng nói, mặc dù nghiên cứu
cho thấy khơng có một mối quan hệ rõ ràng giữa sự giàu sang vật
chất và sự hạnh phúc, song theo nhiều người, nhiều tiền vẫn ngang
bằng với nhiều hạnh phúc. Trong một cuộc điều tra do trường Đại
học Tổng hợp Michigan tiến hành, khi được hỏi: “Cái gì sẽ nâng cao
chất lượng cuộc sống con người?", phần lớn các đối tượng đều trả
lời: Đó là tiền. Vì sao vậy? M.Csikszentmihalyi đưa ra bốn lý do:
- Thứ nhất, khi các nguồn lợi được phân phối khơng đồng đều thì
con người thường so sánh bản thân mình với những người giàu có
hơn dựa vào việc đánh giá số tiền mà họ có.
- Thứ hai, văn hố ngày nay do sự thành đạt thơng qua tiền bạc,
chứ không phải thông qua các yếu tố như "lịng u nước”, hay "tinh
thần cơng dân" là những yếu tố đã từng được đánh giá cao hơn.
- Thứ ba, con người không bao giờ hoả mãn với số tiền mà họ có,
dù là bao nhiêu đi nữa. Khi đã đạt được một mục đích vật chất nào
đó, họ tiếp tục tin rằng nếu đạt được một mức cao hơn, họ sẽ hạnh
phúc hơn.
- Thứ tư, có nhiều người hầu như dành tồn bộ thời gian của mình
nhằm theo đuổi những mục đích vật chất. Họ dành thời gian cho
những mục đích khác cũng rất cần thiết cho sự thoả mãn cuộc sống
như tình bạn, tình yêu, âm nhạc, thể thao và văn học nghệ thuật.
Theo .M. Csikszentmihalyi, các chiến lược quảng cáo cũng đóng
một vai trị rất quan trọng trong sự theo đuổi mục đích vật chất của
chúng ta. ơng nói- "Có q nhiều tổ chức được hưởng lợi từ chỗ làm
cho chúng ta tin rằng, nếu chúng ta có một chiếc đồng hồ "xịn" hay
nếu chúng ta được hưởng một nền giáo dục "xịn" là hoàn toàn
chứng tỏ những cơ hội sống hạnh phúc của chúng ta".
Một trong những đòi hỏi quan trọng nhất mà các nhà tâm lý học
phải đối mặt là làm sao giúp cho mọi người tìm được những sự lựa
chọn trước sự giàu có về vật chất để đưa họ đến với những cuộc
đời đáng sống hơn. Ơng nói, nếu lý lẽ chủ yếu của nghề nghiệp
chúng ta là giúp làm giảm bớt nỗi đau đớn về tinh thần... thì chúng
ta nên cố gắng ngăn ngừa sự vỡ mộng mà con người gặp phải một
khi họ cảm thấy rằng, họ đã phung phí cuộc đời của mình trong cuộc
vật lộn để đạt được những mục đích, mà trên thực tế, chúng không
làm cho cuộc sống của họ được thoả mãn. Trong khi khái niệm về
hạnh phúc còn tiến triển chậm như vậy, tâm lý học cần phải cung
cấp các cách lựa chọn khác nhau trước những mục đích vật chất để
chúng có thể làm cho đời sống của con người được thoả mãn hơn.
M. Csikszentmihalyi viện dẫn ra một loạt lý thuyết như: Lý thuyết "Tự
hiện thực hoá" của Abraham Maslow, lý thuyết "Học lạc quan" của
Martin E.P.Seligman và lý thuyết "Flow" của riêng ông như là những
ví dụ đầu tiên. Ơng giải thích "Flow" là một trạng thái tập trung sâu,
xuất hiện khi con người phải đương đầu với những mục tiêu, mà
những mục tiêu đó địi hỏi một sự ràng buộc và sự tập trung cao độ.
Bằng việc nghiên cứu cuộc đời của hàng ngàn con người cụ thể,
M. Csikszentmihalyi đã thấy rằng: Hạnh phúc của một người phụ
thuộc rất nhiều vào chỗ anh ta (hay chị ta) có khả năng biến "Flow"
thành một phần khơng thể tách rời trong cuộc sống của mình hay
khơng. ơng nói, việc u cầu các nhà tâm lý học xác định xem điều
gì làm nảy sinh hạnh phúc chỉ là một sự lặp lại cái điều mà một nhà
triết học vĩ đại đã có lần khẳng định: "25 thế kỷ trước, Platon đã viết
rằng, mục tiêu cấp bách nhất đối với các nhà giáo dục là dạy cho
lớp trẻ tìm thấy niềm vui trong những sự việc đúng đắn. Ngày nay,
mục tiêu này là một phần trách nhiệm của chúng ta".
PGS.TS. Đào Thị Oanh
TRỊ CHUYỆN LÂM SÀNG VỚI TRẺ CĨ KHĨ
KHĂN TÂM LÝ
Trị chuyện lâm sàng với trẻ có khó khăn tâm lý là một cơng việc
địi hỏi tính kỹ thuật, tính nghệ thuật và một tấm lịng tơn trọng vơ
điều kiện. Làm thế nào để cuộc trò chuyện hiệu quả, hãy thử tìm
hiểu qua một ca trị liệu lâm sàng thực tế.
Nguyễn Văn G, 15 tuổi, học sinh lớp 10 trường trung học phổ
thông dân lập ĐTH Hà Nội, đã gặp chúng tơi vào tháng 01 năm
2002, tại phịng Tư vấn Tâm lý - Giáo dục của Nhà trường, theo sự
giới thiệu và yêu cầu của cô giáo chủ nhiệm để được giúp đỡ về mặt
tâm lý. G đã bị lớp, nhà trường kỷ luật và chuyển đến lớp mới bởi G
luôn ln mất trật tự trong lớp và dính vào ma tuý.
Những khó khăn trong buổi gặp gỡ đầu tiên.
G ln ln giữ thế phịng vệ, trong ánh mắt của cậu biểu hiện
một thái độ thù địch. Cậu tránh không nhìn thẳng tơi, tỏ ra rất căng
thẳng, ln ln xoay cây bút trong tay. G có khn mặt trịn, da mặt
xạm, tóc đen. Chiều cao trung bình, khơng béo, khơng gầy. Sau khi
nghe chúng tơi nói lý do của cuộc nói chuyện. G im lặng, khơng nói
gì, vẫn giữ một khoảng cách để phịng vệ, khơng tỏ thái độ sẵn sàng
trao đổi. Khi chúng tôi hỏi mong muốn của cậu trong buổi nói chuyện
hơm nay, G trả lời "Em chẳng mong muốn điều gì". Cậu nói mà
khơng nhìn chúng tơi. Im lặng một phút, chúng tơi nói với cậu ấy
rằng "Các thầy cô giáo và bố mẹ của em rất lo cho tình trạng của
em". Sau một lúc im lặng G nói "Chẳng ai hiểu em cả, mọi người chỉ
than vãn, chì chiết em, hãy kệ em, để em tự giải quyết vấn đề của
mình, em khơng dùng ma t". Nói đến đây G dừng lại và quay mặt
đi chỗ khác, để giấu đi sự bối rối của mình. Im lặng một lúc cậu xin
dừng buổi nói chuyện tại đây. Chúng tơi nói với G rằng "Chúng ta
tạm khơng nói đến ma tuý và việc kỷ luật của em nữa, chúng tơi chỉ
muốn giúp em hiểu vấn đề gì đang xảy ra với em và em có muốn tìm
ra một giải pháp tháo gỡ vẫn đề rắc rối của mình khơng?". "Hơm
nay, nếu em khơng muốn nói chuyện thì chúng ta sẽ dừng lại, chúng
ta sẽ nói chuyện về vấn đề này vào hôm khác". G đã đồng ý và hẹn
hôm sau sẽ quay trở lại.
Chẳng phải lúc nào người lớn cũng dễ dàng trò chuyện với trẻ,
nhất là với những trẻ đang phải chịu đựng những nỗi khổ tâm, dằn
vặt trong lòng, chịu đựng những mâu thuẫn, những xung đột, những
nỗi đau trong tâm trí. Đối với những trẻ này, việc trao đổi, trị chuyện
với các em là cực kỳ khó khăn. Các em thường im lặng, né tránh
câu trả lời, không muốn chia sẻ, giãi bày những khó khăn, những
đau đớn trong lịng mà mình đang phải chịu đựng. Có những em lại
trả lời một cách vòng vo, che giấu cảm xúc của mình... làm cho việc
trị chuyện, trao đổi với trẻ trở nên bế tắc, đứt đoạn, hai bên không
đi đến sự thông hiểu lẫn nhau. Vậy nguyên nhân nào dẫn đến sự bế
tắc trong việc trò chuyện với trẻ. Phải chăng do trẻ có vấn đề thính
giác ? Phải chăng do cách trò chuyện của người lớn ? Hay là trong
trò chuyện với người lớn trẻ ln ln có một cơ chế phịng vệ tự
nhiên.
Trước một em bé ln ln im lặng, khơng có phản ứng gì trước
những câu hỏi, thì giả thuyết em bé có khuyết tật về thính giác cần
được đặt ra và yêu cầu gia đình đưa trẻ đi khám y khoa. Việc này,
tránh được những chẩn đoán sai lầm, sớm có những biện pháp trợ
giúp trẻ.
Việc trẻ có cảm thấy thoải mái và sẵn sàng cởi mở trong cuộc
trị chuyện hay khơng là tuỳ thuộc vào cách trị chuyện của người
lớn. Thường thì, trong trị chuyện với trẻ, người lớn thường nói quá
nhiều, nói hết phần của trẻ, hay phê phán, đánh giá những suy nghĩ,
những hành vi, quan điểm của trẻ, không tỏ thái độ tin tưởng vào
niềm tin và lối sống của trẻ. Trẻ không có điều kiện bộc lộ những suy
nghĩ, những cảm xúc của mình, làm chúng ức chế. Từ đó, trẻ cho
rằng người mình đang nói chuyện khơng hiểu gì về vấn đề của
mình. Trẻ khơng cảm nhận được sự thơng cảm từ phía người nói
chuyện cùng, trong trường hợp này trẻ thường có phản ứng chống
đối lại người nói chuyện cùng.
Trong trò chuyện với trẻ, làm chủ cảm xúc là một yếu tố quan
trọng. Sự bối rối, khó chịu hoặc xúc động, không biết đáp ứng như
thế nào trước nỗi đau khổ của trẻ, né tránh nỗi đau khổ của trẻ. Sợ
rằng mình sẽ làm cho tình trạng của trẻ tệ hơn, vơ tình đã ngăn cản
trẻ dừng nói, dừng biểu lộ những suy nghĩ, những khó khăn của
mình. Chúng ta thường gặp những câu "Đừng khóc nữa", "Thơi
đừng nghĩ đến chuyện ấy nữa"..vv. Trong tình huống này hãy an ủi
và từ từ khuyến khích trẻ tiếp tục trị chuyện. Hãy cho trẻ thấy rằng
việc trẻ thổ lộ những khó khăn, đau khổ với mình là hợp tình, hợp lý,
cần phải chấp nhận, không được né tránh khi trẻ tâm sự. Tránh
khơng để cho trẻ rơi vào tình trạng bị bỏ rơi với nỗi đau của mình.
Trẻ im lặng hay trả lời câu hỏi như thế nào còn phụ thuộc rất
nhiều vào việc người lớn đặt câu hỏi. Câu hỏi được đặt đúng cách,
phản ánh đúng nỗi băn khoăn, trăn trở của trẻ sẽ khuyến khích trẻ
nói chuyện, giãi bày tâm sự, trẻ cảm thấy thoải mái, và bộc lộ một
cách tự do, cởi mở. Có thể xếp câu hỏi thành ba loại:
+ Câu hỏi khép: câu hỏi này thường thì chỉ nhận được câu trả lời
"Có" hay "Khơng" hoặc một lời đáp đơn giản. Câu hỏi khép thường
là những câu hỏi như "Cháu mấy tuổi rồi ?", "Nhà cháu ở đâu ?",
"Em đang học lớp mấy ?", "Cháu có mấy anh chị em ?". Đơi khi,
chúng ta phải dùng những câu hỏi kiểu này, bởi nó khuyến khích
được trẻ nói năng cởi mở, vì chỉ có duy nhất một câu trả lời, nhưng
sau khi trẻ đáp "Cháu 6 tuổi ạ", cuộc trò chuyện dừng lại, cần phải
đặt câu hỏi tiếp theo.
+ Câu hỏi dẫn dắt: loại câu hỏi này gợi sẵn lời đáp như "Mọi chuyện
đều tốt đẹp rồi phải không ?", "Em đồng ý chứ ?", "Em thích sống ở
đây lắm phải khơng?". Những câu hỏi kiểu này hầu hết đã gợi sẵn
câu trả lời "Có" hay là "Không". Thực tế cho thấy, hầu hết trẻ đều
khó có thể trả lời là "Khơng" cho những câu trả lời kiểu này. Các em
đáp là "Có" trong khi trong lòng chẳng đồng ý chút nào. Trẻ cảm
thấy người đặt câu hỏi không muốn nghe các em bày tỏ tâm trạng u
ám, hay lo lắng của mình. Loại câu hỏi này được gọi là câu hỏi dẫn
dắt vì chúng dẫn dắt trẻ đưa ra câu trả lời ấn định.
+ Câu hỏi mở và góp ý: câu hỏi loại này khuyến khích trẻ bộc lộ ý
nghĩ và tâm trạng của mình. Ví dụ những câu hỏi mở như "Rồi sau
đó chuyện gì xảy ra ?", "Em kể về gia đình em chứ ", "Em cảm thấy
việc đó như thế nào ?'', "Lúc đó em làm thế nào ?"... Nhờ những câu
hỏi mở như thế này, chúng ta sẽ tìm hiểu thêm được về đời sống
của trẻ, tâm trạng của trẻ và điều gì là quan trọng nhất đối với trẻ lúc
này. Thực tiễn cho thấy, phải kết hợp câu hỏi khép với câu hỏi mở:
câu hỏi khép để tìm hiểu các dữ kiện và câu hỏi mở để khuyến khích
trẻ nói năng tự do, cởi mở.
Có rất nhiều trẻ khó khăn khi diễn tả cảm xúc bằng lời. Các em
chưa bao giờ được khuyến khích tự nói về mình và khơng có đủ lời
để diễn tả tâm trạng của mình. Vốn từ của các em rất ít. Do các em
phải nghỉ học sớm. Đặc biệt có những em khơng biết chữ thì khả
năng giao tiếp của các em là rất hạn chế. Các em thường im lặng,
không biết bộc lộ những suy nghĩ, cảm xúc của mình bằng lời nào
cho đúng.
Có những trẻ, sau những biến cố bi thương, thường khó diễn tả
tâm trạng bằng lời. Trẻ sợ bị chống ngợp bởi chính những tâm
trạng của mình và muốn đè nén những tâm trạng ấy. Có những tâm
trạng đau thương đến nỗi trẻ không muốn nghĩ đến nữa, chúng đã
biến thành vơ tri, vơ giác trong lịng trẻ. Trẻ khơng tìm thấy ngơn từ
thích hợp để diễn tả tâm trạng đau khổ của mình. Khơng ít trẻ có
mặc cảm tội lỗi, tự trách mình. Các em thường hổ thẹn vì những gì
đã xảy ra đối với mình. Chẳng hạn như những trường hợp các em bị
cưỡng dâm, bị làm nhục. Có em lại tự trách mình bởi đã khơng bảo
vệ được cho gia đình, vì mình mà gia đình phải buồn phiền đau khổ.
Đối với trẻ rơi vào hoặc sống trong hồn cảnh khó khăn (học
sinh cá biệt, vô kỷ luật, trẻ em đường phố, trẻ em phạm pháp), các
em có đủ lý do để hồi nghi, ngờ vực về mục đích của cuộc trị
chuyện. Sự thiếu tin tưởng trong trị chuyện của trẻ sống trong hồn
cảnh khó khăn, xuất phát từ một trong những quan niệm của trẻ cho
rằng người lớn không hiểu và không chấp nhận những khó khăn của
chúng và có nói chuyện cũng chẳng thay đổi được gì. Nhưng có
những trẻ sợ bị trừng phạt hoặc bị cưỡng bức (trẻ đường phố) đã
không giám đả động gì đến tình trạng khó khăn của mình. Các em
thay vì từ chối trị chuyện, có thể sẽ bịa đặt ra những câu trả lời để
mau chóng kết thúc câu chuyện. Có em lại chuyển hướng chính của
cuộc trị chuyện bằng cách nói khốc về những tội ác kinh khủng,
những hành vi bạo lực dữ dội mà chúng đã thực hiện. Có những trẻ
lại cố gắng nói ra những điều "hay", những điều mà trẻ cho rằng
người lớn muốn nghe, muốn biết. Biết đâu, trẻ lại được hưởng lợi
lộc gì đó. Từ đó, trẻ cố gắng trả lời, nói để lấy lịng người lớn. Xu
hướng này, cũng sẽ dẫn cuộc trò chuyện đến sự bế tắc.