Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Xác định vai trò của hiến pháp đối với các quan hệ cơ bản, quan trọng trong xã hội và đối với công dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.14 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU....................................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.......................................................................................................2
CHƯƠNG I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ HIẾN PHÁP............................2
1.1. Khái niệm và Đặc điểm của Hiến Pháp............................................................2
1.1.1. Khái niệm Hiến pháp....................................................................................2
1.1.2. Đặc điểm của hiến pháp................................................................................3
1.1.3. Những nội dung cơ bản của Hiến pháp........................................................3
1.1.4. Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ............................................................4
1.2. Đối tượng, phương pháp điều chỉnh Luật Hiến Pháp 2013...........................7
1.2.1. Đối tượng điều chỉnh của Luật Hiến Pháp 2013...........................................7
1.2.2. Phương pháp điều chỉnh Luật Hiến Pháp.....................................................8
CHƯƠNG II: CÁC QUAN HỆ XÃ HỘI CƠ BẢN HIẾN PHÁP QUY ĐỊNH........9
2.1. Hiến pháp đối với các mối quan hệ cơ bản chính trị và kinh tế....................9
2.1.1. Đối với kinh tế..............................................................................................9
2.1.2. Đối với chính trị..........................................................................................11
2.2. Hiến pháp là cơng cụ pháp lý đảm bảo quyền con người, quyền công dân12
2.2.1. Hiến pháp đóng vai trị là văn bản ghi nhận quyền con người, quyền cơng
dân.........................................................................................................................12
2.2.2. Hiến pháp đóng vai trị là cơng cụ hạn chế quyền lực nhà nước để bảo đảm
quyền con người, quyền công dân........................................................................13
2.2.3. Hiến pháp là văn bản pháp lý ràng buộc trách nhiệm của nhà nước để
quyền con người, quyền công dân được thực thi..................................................14
2.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hiến pháp..................................14
PHẦN III: KẾT LUẬN...................................................................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................................17

i


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU


Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, người dân Việt Nam lao động cần cù, sáng tạo,
chiến đấu anh dũng để dựng nước và giữ nước; hun đúc nên truyền thống đoàn kết, nhân
nghĩa, kiên cường bất khuất của dân tộc ta. Qua các thời kỳ, nước ta đã ban hành 05 bản
Hiến pháp (năm 1946, năm 1959, năm 1980, năm 1992, năm 2013). Mỗi bản Hiến pháp
đều gắn liền với một giai đoạn phát triển của đất nước.
Với tư cách là đạo luật có hiệu lực pháp lý tối cao của mỗi quốc gia, hiến pháp
ngày càng có vị trí vai trị quan trọng trong việc điều chỉnh đời sống chính trị của mỗi
quốc gia. Theo từng thời kỳ vai trị của hiến pháp ln có sự thay đổi. Nhưng cho dù có
thay đổi như thế nào đi chăng nữa thì Hiến pháp vẫn phải giữ lại chức năng cổ điển vốn
có của mình là giới hạn quyền lực nhà nước. Sự sửa đổi hiến pháp của các quốc gia ln
có xu hướng quay trở lại chức năng cũ của mình.
Hiến pháp đạo luật cơ bản có giá trị pháp lí cao nhất. Hiến pháp là nền tảng cho hệ
thống các văn bản pháp luật khác, đồng thời góp phần nền tảng tạo lập một thể chế chính
trị dân chủ và một Nhà nước minh bạch, quản lý xã hội hiệu quả, bảo vệ tốt các quyền lợi
của người dân. Từ đó, tạo cơ sở phát triển bền vững cho một quốc gia. Điều này quyết
định to lớn đến sự thịnh vượng của quốc gia ấy. Do đó, sau một thời gian tìm hiểu, tơi đã
lựa chọn chủ đề “ Xác định vai trò của Hiến pháp đối với các quan hệ cơ bản, quan
trọng trong xã hội và đối với công dân” làm đề tài nghiên cứu.

1


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ HIẾN PHÁP
1.1. Khái niệm và Đặc điểm của Hiến Pháp
1.1.1. Khái niệm Hiến pháp
Khái niệm chung
Hiến pháp là một hình thức văn bản quy phạm pháp luật do chính Quốc hội ban
hành, mang giá trị pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Quy định những
vấn đề cơ bản nhất của Nhà nước như: chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hóa xã hội;

hình thức và bản chất nhà nước; tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước; quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Hiến pháp được sử dụng rộng rãi ở mọi nước với nghĩa là luật cơ bản của một nhà
nước.
Hiến pháp là cơ sở để xây dựng những ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt
Nam, được chi tiết hóa, cụ thể hóa bằng các văn bản pháp quy.
Mọi văn bản pháp luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam đều phải phù hợp
với Hiến pháp
Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Trước hết, chính trong quy định của Hiến pháp đã khẳng định Hiến pháp là luật cơ
bản của nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Hiến pháp là luật cơ bản của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam, vì những lý do chủ yếu sau đây:
- Hiến pháp là văn bản duy nhất quy định về chủ quyền nhân dân, tổ chức quyền
lực nhà nước; quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; là hình thức
pháp lý thể hiện tập trung nhất hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
cả dân tộc; ở từng giai đoạn phát triển, Hiến pháp còn là văn bản, là phương tiện pháp lý
thực hiện tư tưởng, chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam dưới hình thức
những quy phạm pháp luật.
- Về nội dung, đối tượng điều chỉnh của Hiến pháp rất rộng, bao quát hầu hết các
lĩnh vực của đời sống xã hội, đó là những quan hệ xã hội cơ bản liên quan đến các lợi ích
cơ bản của mọi giai cấp, mọi tầng lớp, mọi công dân trong xã hội, như: chế độ chính trị;
quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân; chế độ kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học
cơng nghệ và môi trường; quyền con người; tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
- Về mặt pháp lý, Hiến pháp có hiệu lực pháp lý cao nhất, phản ánh sâu sắc nhất
quyền của Nhân dân và mối quan hệ giữa Nhà nước với Nhân dân; Hiến pháp là nguồn,
là căn cứ để ban hành luật, pháp lệnh, nghị quyết và các văn bản khác thuộc hệ thống
pháp luật:

2



Tất cả các văn bản khác không được trái với Hiến pháp mà phải phù hợp với tinh
thần và nội dung của Hiến pháp, được ban hành trên cơ sở quy định của Hiến pháp và để
thi hành Hiến pháp. Các điều ước quốc tế mà Nhà nước tham gia không được mâu thuẫn,
đối lập với quy định của Hiến pháp; khi có mâu thuẫn, đối lập với Hiến pháp thì cơ quan
nhà nước có thẩm quyền khơng được tham gia ký kết, không phê chuẩn hoặc bản lưu đối
với từng điều. Ngoài ra, tất cả các cơ quan nhà nước phải thực hiện chức năng, nhiệm vụ
và quyền hạn của mình theo Hiến pháp, sử dụng đầy đủ các quyền hạn, làm tròn các
nghĩa vụ mà Hiến pháp quy định. “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước,
Chính phủ, Tịa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và
toàn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật
định” . Tất cả các cơng dân có nghĩa vụ tn theo Hiến pháp, nghiêm chỉnh chấp hành
các quy định của Hiến pháp; “Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến
pháp vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” . Đặc biêt, việc
xây dựng, thông qua, ban hành, sửa đổi Hiến pháp phải tuân theo trình tự đặc biệt được
quy định trong Hiến pháp.
1.1.2. Đặc điểm của hiến pháp
Nếu nhắc tới Hiến pháp, nó là một khung pháp luật quy định về tổ chức quyền lực
của nhà nước:
+ Hiến pháp quy định nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước.
+ Hiến pháp thiết lập một hệ thống tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước. Đó
là việc thiết lập 1 hệ thống các cơ quan nhà nước, quy định nguyên tắc hoạt động, thẩm
quyền và các mối quan hệ qua lại giữa chúng. Chỉ có Hiến pháp mới có quyền quy định
thành lập hay bãi bỏ các cơ quan này. Mọi văn bản pháp luật sau hiến pháp chỉ được cụ
thể hóa hiến pháp chứ không được quy định mới các cơ quan nhà nước.
+ Hiến pháp quy định một hệ thống chế độ xã hội của nhà nước (chế độ kinh tế,
chính trị, quốc phòng, xã hội, an ninh, đối ngoại) làm cơ sở xã hội trong việc tổ chức
quyền lực nhà nước. Với các quy định về chế độ xã hội khác nhau sẽ quyết định đến bản
chất nhà nước và cách thức tổ chức quyền lực khác nhau của nhà nước nhà nước.
+ Hiến pháp không chỉ quy định các cơ quan ở Trung ương mà còn quy định các

cơ quan ở địa phương, như ở Việt Nam không những quy định về Chính Phủ, Quốc Hội.
Hay các cơ quan nhà nước khác ở Trung ương, Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân với
các cấp chính quyền ở địa phương.
1.1.3. Những nội dung cơ bản của Hiến pháp
Hiến pháp (sửa đổi) gồm 11 chương, 120 điều (giảm 1 chương và 27 điều so với
Hiến pháp năm 1992) với bố cục hợp lý, kỹ thuật trình bày bảo đảm đúng tầm là đạo luật
cơ bản, có tính ổn định lâu dài. Sau đây là một số nội dung cơ bản của Hiến pháp (sửa
đổi):
Về bản chất Nhà nước và nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước
3


Điều 2 của Hiến pháp (sửa đổi) kế thừa các quy định của Hiến pháp năm 1992 thể
hiện rõ bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quvền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân; khẳng định nền tảng vững chắc của chính quyền nhân dân là
liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức
Về vị trí, vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (Điều 4)
Khẳng định tính lịch sử, tính tất yếu khách quan sự lãnh đạo của Đảng đối với quá
trình cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nước ta
Về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (Chương II)
Chương II khẳng định tầm quan trọng của quyền con người, quyền cơ bản của
công dân thể hiện nhất quán đường lối của Đảng và Nhà nước ta trong việc công nhận,
tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và các thành phần kinh tế (Điều 51)
Để bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế nước ta, Hiến pháp (sửa
đổi) đã quy định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, khẳng định vai trò của Nhà nước
và kinh tế nhà nước trong việc định hướng, điều tiết sự phát triển của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc (Điều 64)
Hiến pháp (sửa đổi) đã quy định khái quát "Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ

nghĩa là sự nghiệp của tồn dân” tại Điều 64; cịn những vấn đề về quốc phòng, an ninh
quốc gia và bảo đảm trật tự, an tồn xã hội thì được quy định tại các điều 65, 66, 67, 68
và trong các nội dung khác của Hiến pháp (sửa đổi).
1.1.4. Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ
Hiến pháp 1946
Hiến pháp 1946 là bản hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa
được soạn thảo và được Quốc hội thơng qua vào ngày 9 tháng 11 năm 1946 với 240
phiếu tán thành (trên 242 phiếu).
Ủy ban dự thảo Hiến pháp được thành lập theo Sắc lệnh số 34-SL ngày 20 tháng 9
năm 1945 gồm có 7 thành viên: Hồ Chí Minh, Vĩnh Thụy, Đặng Thai Mai, Vũ Trọng
Khánh, Lê Văn Hiến, Nguyễn Lương Bằng, Đặng Xuân Khu (Trường Chinh).
Bản dự án Hiến pháp đã được soạn thảo và công bố vào tháng 11 năm 1945.
Ban dự thảo Hiến pháp (Tiểu ban Hiến pháp) được Quốc hội bầu ra ngày 2 tháng 3
năm 1946 gồm có 11 thành viên: Trần Duy Hưng, Tơn Quang Phiệt, Đỗ Đức Dục, Cù
Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Huỳnh Bá Nhung, Trần Tấn Thọ, Nguyễn Cao Hách, Đào
Hữu Dương, Phạm Gia Đỗ, Nguyễn Thị Thục Viên. Ban này tiếp tục nghiên cứu dự thảo
hiến pháp.
4


Trong phiên họp ngày 29 tháng 10 năm 1946, Tiểu ban Hiến pháp được mở rộng
thêm 10 đại biểu đại diện cho các nhóm, các vùng và đồng bào thiểu số để tu chỉnh dự
thảo hiến pháp và trình ra Quốc hội ngày 2 tháng 11 năm 1946 để Quốc hội thảo luận,
sửa chữa và thông qua.
Hiến pháp năm 1946 bao gồm lời nói đầu và 7 chương, 70 điều.
Lời nói đầu đã xác định ba nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp.
Đồn kết tồn dân khơng phân biệt giống nịi, gái, trai, giai cấp, tơn giáo.
Đảm bảo các quyền tự do dân chủ.
Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.
Toàn bộ 7 chương của Hiến pháp đều được xây dựng dựa trên ba nguyên tắc cơ

bản đã nói trên. Chính ba ngun tắc này đã thể hiện ba đặc điểm cơ bản của Hiến pháp
1946.
Hiến pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 1959
Hiến pháp 1959 gồm có Lời nói đầu và 112 điều chia làm 10 chương. Nguyên
nhân sửa đổi: "Trong giai đoạn mới của cách mạng, Quốc hội ta cần sửa đổi bản Hiến
pháp năm 1946 cho thích hợp với tình hình và nhiệm vụ mới" (Lời nói đầu, Hiến pháp
1959). Giai đoạn mới của cách mạng được nhắc đến là giai đoạn Chiến tranh Việt Nam,
miền Bắc xây dựng phục hồi kinh tế và tiếp tục đấu tranh chống Việt Nam Cộng hòa và
Mỹ. Đây cũng là bản Hiến pháp xác nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là nhà nước xã
hội chủ nghĩa.
Hiến pháp Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1980
Lần đầu tiên đưa vào khái niệm: "Sở hữu toàn dân" về đất đai.
So sánh những bản hiến pháp thì Hiến pháp 1980 dựa trên mẫu hiến pháp năm
1977 của Liên Xô với cơ chế Quốc hội bầu ra Hội đồng Nhà nước với cơ quan này lãnh
trách nhiệm hành chính làm ban thường vụ của Quốc hội. Hội đồng Nhà nước có chức
năng vừa nắm quyền hành pháp lẫn lập pháp. Hội đồng này có bảy thành viên, đứng đầu
là chủ tịch, có một số phó chủ tịch trợ giúp cùng với một tổng thư ký. Hội đồng Nhà
nước có quyền tun chiến, ra lệnh tổng động viên, thơng qua hiệp ước quốc ngoại và
giám sát Hội đồng Bộ trưởng.
Nguyên nhân sửa đổi: "Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cần có một bản
Hiến pháp thể chế hóa đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam trong giai đoạn mới. Đó là
Hiến pháp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước. Kế thừa và
phát triển Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp này tổng kết và xác
định những thành quả đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam trong nửa thế kỷ qua,
thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân Việt Nam, bảo đảm bước phát triển rực rỡ
của xã hội Việt Nam trong thời gian tới" (Lời nói đầu, Hiến pháp 1980).
5


Hiến pháp Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992

Trưởng ban biên tập là Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc
Hiến pháp 1992 bao gồm lời nói đầu, 147 điều trong 12 chương.
Trong lời nói đầu, lịch sử Việt Nam được ghi chép lại sơ lược và nguyên nhân sửa
đổi được trình bày.
Thiếu sót nghiêm trọng nhất là khơng ghi nhận và không công bố các ý đồ của
những nhà thiết kế biên soạn bản hiến pháp 1992 để làm nền tảng cho việc giải thích hiến
pháp hay giải thích luật dựa trên hiến pháp về sau. Ý đồ của các cá nhân và tập thể biên
soạn hiến pháp sẽ giúp tịa án hay cơ quan chính phủ diễn giải hiến pháp đảm bảo tính
thống nhất của hiến pháp và phù hợp với tinh thần của các nhà soạn thảo. Sự thiếu sót
này khiến hiến pháp có thể bị suy diễn và diễn dịch tùy tiện trong công tác làm luật hay
giải quyết các tranh chấp liên quan đến hiến pháp. Từ đó dẫn đến việc bản hiến pháp chỉ
phục vụ được một thời kỳ lịch sử nào đó rồi hết giá trị và phải làm cái khác. Xã hội pháp
trị dựa trên luật pháp; luật pháp dựa trên hiến pháp; cho nên sự ổn định của xã hội và của
chế độ có thể nói là dựa trên tính ổn định của hiến pháp.
Hiến pháp 1992 tiếp tục khẳng định "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước
thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và
tầng lớp trí thức" (điều 2). Trong chương V, các quyền cơ bản của cơng dân được quy
định, trong đó bao gồm quyền tự do ngôn luận (điều 69), quyền tự do tôn giáo (điều 79),
quyền bất khả xâm phạm về thân thể (điều 71), quyền tự do đi lại và cư trú (điều 68),
quyền tự do kinh doanh (điều 57), quyền tác giả (điều 60), và các quyền khác. Trong
chương V cũng ghi rõ rằng: Công dân phải trung thành với Tổ quốc. Phản bội Tổ quốc là
tội nặng nhất" (điều 76).
Hiến pháp 1992 được bổ sung vào ngày 25 tháng 12 năm 2001.
Về mặt cơ cấu, Hiến pháp 1992 xóa bỏ Hội đồng Nhà nước, quy chức vị vào một
cá nhân là Chủ tịch nước. Ngoài ra Hiến pháp 1992 giảm số đại biểu Quốc hội từ khoảng
500 xuống còn 400.
Nguyên nhân sửa đổi: "Từ năm 1986 đến nay, công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước do Đại hội lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam đề xướng đã đạt được những
thành tựu bước đầu rất quan trọng. Quốc hội quyết định sửa đổi Hiến pháp năm 1980 để

đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới" (Lời nói đầu)
Hiến pháp nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 là bản Hiến pháp
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội Việt Nam khóa XIII, kỳ
họp thứ 6 thơng qua vào sáng ngày 28 tháng 11 năm 2013. Đến sáng ngày 8 tháng 12
năm 2013, Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang đã ký Lệnh công bố Hiến pháp
6


nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Nghị quyết quy định một số điểm thi hành
Hiến pháp,[9] ngày 09 tháng 12 năm 2013, Văn phòng Chủ tịch nước công bố Lệnh của
Chủ tịch nước công bố Hiến pháp và Nghị quyết của Quốc hội quy định một số điểm thi
hành Hiến pháp.[10] Hiến pháp 2013 tổng cộng có 11 Chương với 120 Điều[11] trong đó
nhấn mạnh tới vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.2. Đối tượng, phương pháp điều chỉnh Luật Hiến Pháp 2013
1.2.1. Đối tượng điều chỉnh của Luật Hiến Pháp 2013
Đối tượng điều chỉnh của ngành Luật Hiến Pháp là các quan hệ xã hội nền tảng, cơ
bản nhất và quan trọng nhẩt trong xã hội. Trong quá trình tham gia vào đời sống xã hội,
con người thiết lập nhiều quan hệ xã hội khác nhau, tuy nhiên các quan hệ xã hội đó
khơng ngang hàng với nhau mà giữa chúng có thứ bậc nhất định. Có những quan hệ xã
hội làm nền tảng cho sự hình thành các quan hệ xã hội khác, nghĩa là phải xác định được
các quan hệ xã hội đó trước khi thiết lập các quan hệ xã hội khác. Ví dụ, trong lĩnh vực
dân sự, quan hệ sở hữu là một quan hệ nền tảng, nếu khơng xác định được quan hệ sở
hữu thì tất yếu khơng thiết lập được các giao dịch dân sự có liên quan; trong lĩnh vực
hình sự thì quan hệ liên quan tới việc công nhận và bảo hộ quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, tính mạng của con người là một quan hệ nền tảng, nếu không xác định được mối
quan hệ này thì sẽ khơng thiết lập được các quan hệ cụ thể để bảo vệ thân thể và tính
mạng của người dân. Đối với nhà nước, các quan hệ xã hội nền tảng cũng là các quan hệ
xã hội cơ bản và quan trọng nhất trong quá trình quản lí xã hội bằng pháp luật. Mỗi khi
nội dung điều chỉnh các quan hệ xã hội nền tảng có sự thay đổi thì nội dung điều chỉnh

các quan hệ xã hội khác trong cùng lĩnh Vực cũng có sự thay đổi theo. Các quan hệ xã
hội nền tảng này là đối tượng điều chỉnh của ngành luật Hiến Pháp.
Đối tượng điều chỉnh của ngành luật Hiến Pháp có thể được chia thành ba nhóm
lớn như sau:
Nhóm 1: các quan hệ xã hội nền tảng, cơ bản và quan trọng nhất trong các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hố, giáo dục, khoa học, cơng nghệ, an ninh, quốc phịng,
chỉnh sách đổi ngoại'. Trong lĩnh vực chính trị, ngành luật Hiến Pháp điều chỉnh các mối
quan hệ nền tảng, cơ bản và quan trọng nhất liên quan tới quốc gia, lãnh thổ, quyền lực
nhà nước và tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, ví dụ: vấn đề chủ quyền quốc gia,
quyền dân tộc cơ bản, bản chất của nhà nước, nguồn gốc của quyền lực nhà nước, hệ
thống chính trị V.V.. Khi điều chỉnh các quan hệ xã hội nền tảng của lĩnh vực chính trị,
ngành luật Hiến Pháp đồng thời thiết lập nền tảng của chế độ chính trị. Trong các lĩnh
vực kinh tế, văn hố, giáo dục, khoa học, cơng nghệ, an ninh, quốc phịng và chính sách
đối ngoại, những quan hệ xã hội nền tảng mà ngành luật Hiến Pháp điều chỉnh là những
quan hệ xã hội liên quan tới định hướng phát triển lớn của từng lĩnh vực, ví dụ mơ hình
phát triển kinh tế, định hướng giá trị phát triển nền văn hoá, khoa học, công nghệ V.V..
Qua việc điều chỉnh các quan hệ xã hội đó, ngành luật Hiến Pháp hình thành các chính
sách cơ bản nhất, quan trọng nhất định hướng hoạt động của các cơ quan nhà nước trong
từng lĩnh vực.
7


Nhóm 2: các quan hệ xã hội nền tảng, cơ bản và quan trọng nhẩt trong lĩnh vực
quan hệ giữa nhà nước và người dãn, hay có thể gọi là các quan hệ xã hội xác định quyền
và nghĩa vụ cơ bản của người dân'. Trong đời sống xã hội, các ngành luật của hệ thống
pháp luật Việt Nam quy định cho người dân, trong đó có cơng dân Việt Nam rất nhiều
quyền và nghĩa vụ pháp lí trong các lĩnh vực khác nhau. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của
người dân là những quyền và nghĩa vụ nền tảng, cơ bản và quan trọng nhất của từng lĩnh
vực, ví dụ quyền bầu cử, ứng cử trong lĩnh vực chính trị, quyền sở hữu đối với tư liệu sản
xuất, tự do kinh doanh trong lĩnh vực kinh tế, quyền bất khả xâm phạm nhân phẩm, danh

dự, tính mạng, tài sản trong lĩnh vực tự do cá nhân V.V.. Những quyền cơ bản này là nền
tảng hình thành các quyền cụ thể của người dân trong từng lĩnh vực, ví dụ quyền được
đăng kí kinh doanh, quyền được khởi kiện, quyền được yêu cầu bồi thường dân sự ngoài
hợp đồng V.V.. Tập hợp các quyền và nghĩa vụ cơ bản của người dân tạo thành địa vị
pháp lí cơ bản của người dân đối với nhà nước.
Nhóm 3: các quan hệ xã hội nền tảng, cơ bản và quan trọng nhất trong lĩnh vực tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước: Đây là các quan hệ xã hội liên quan tới việc xác
định các nguyên tắc tổng thể của bộ máy nhà nước Việt Nam, các nguyên tắc tổ chức và
hoạt động, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và hoạt động của các cơ quan
trong bộ máy nhà nước Việt Nam từ trưng ương tới địa phương. Đây là nhóm đối tượng
điều chỉnh lớn nhất của ngành luật Hiến Pháp.
1.2.2. Phương pháp điều chỉnh Luật Hiến Pháp
Khái niệm phương pháp điều chỉnh của Luật Hiến pháp
Từ lý luận chung về pháp luật phương pháp điều chỉnh pháp luật là tổng hợp tất cả
những cách thức tác động lên các quan hệ xã hội. Phương pháp điều chỉnh của ngành
Luật Hiến pháp là toàn bộ những phương thức, cách thức tác động pháp lý lên những
quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của ngành Luật Hiến pháp nhằm thiết lập một
trật tự nhất định phù hợp với ý chí Nhà nước. Muốn thành một của phương pháp điều
chỉnh riêng phụ thuộc vào nội dung và tính chất của những quan hệ xã hội mà mình lúc
đó điều chỉnh.
Phương pháp điều chỉnh của Luật Hiến pháp gồm:
Như đã trình bày ở trên, những quan hệ xã hội mang lại một tiếng pháp điều chỉnh
liên quan đến quyền được nhân dân và việc thực hiện quyền lực Nhà nước của nhân dân.
Bởi vậy những quan hệ xã hội đó mang tính chất quyền lực. Những quan hệ pháp Luật
Hiến pháp thường là những quan hệ giữa Nhà nước và công dân Nhà nước và xã hội giữa
cơ quan Nhà nước với cơ quan Nhà nước. Để điều chỉnh những quan hệ này Luật Hiến
pháp cần có những cách thức tác động đặc biệt. Những cách thức mà Luật Hiến pháp sử
dụng để điều chỉnh những quan hệ xã hội là:
– Phương pháp bắt buộc:
Bắt buộc, cách thức này được Sử dụng để điều chỉnh quan hệ xã hội liên quan đến

việc thực hiện quyền lực Nhà nước và xác định nghĩa vụ của công dân. Theo cách thức
8


này quy phạm Luật Hiến pháp buộc chủ thể quan hệ pháp Luật Hiến pháp phải thực hiện
hành vi nhất định.
Ví dụ: Cơng dân phải thực hiện nghĩa vụ qn sự và tham gia xây dựng nền quốc
phịng tồn dân.
– Phương pháp cho phép:
Cho phép, cách thức này được sử dụng để điều chỉnh các quan hệ xã hội gắn với
việc xác định quyền công dân và quyền hạn của các cơ quan Nhà nước. Theo cách thức
này quy phạm Luật Hiến pháp cho phép chủ thể quan hệ pháp Luật Hiến pháp thực hiện
hành vi nhất định.
Ví dụ: Cơng dân đủ từ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử, đủ từ 21 tuổi trở lên có
quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng Nhân dân.
– Phương pháp cấm đoán:
Cấm đoán, cách thức này được sử dụng để điều chỉnh một số quan hệ xã hội liên
quan đến quyền công dân và hoạt động của các cơ quan Nhà nước. Theo cách này quy
phạm pháp Luật Hiến pháp. Chủ thể quan hệ pháp Luật Hiến pháp thực hiện hành vi nhất
định.
Ví dụ: Nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng nhân công lao
động dưới độ tuổi lao động.
CHƯƠNG II: CÁC QUAN HỆ XÃ HỘI CƠ BẢN HIẾN PHÁP QUY ĐỊNH
2.1. Hiến pháp đối với các mối quan hệ cơ bản chính trị và kinh tế
2.1.1. Đối với kinh tế
Về phát triển kinh tế, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định đường lối, nhiệm
vụ xây dựng nền kinh tế nước ta là nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát huy nội lực, hội
nhập, hợp tác quốc tế, thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vấn đề hội nhập
kinh tế cũng đặt trong bối cảnh mới, đó là chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng
trên các lĩnh vực vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Đồng thời, Hiến pháp năm 2013 đã hiến

định mục tiêu phát triển bền vững, trong đó thể hiện rõ quan điểm là phát triển kinh tế
gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội, bảo vệ mơi
trường (Điều 50).
Về tính chất, mơ hình, các thành phần của nền kinh tế Việt Nam, Hiến pháp năm
2013 xác định nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân.
Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật.
Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức
khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh; phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây
dựng đất nước (Điều 51).
9


Khác với các bản Hiến pháp trước đây, Hiến pháp năm 2013 thể hiện tư duy mới
về các thành phần kinh tế, quy định rất khái quát, không đề cập từng thành phần mà để
luật và các văn bản khác quy định cụ thể. Cách thể hiện này phù hợp với tính chất của
đạo luật cơ bản, bảo đảm tính ổn định lâu dài của Hiến pháp, đồng thời phù hợp với sự
vận động, phát triển của nền kinh tế thị trường.
Tinh thần của Hiến pháp là không đồng nhất kinh tế nhà nước (trong đó có ngân
sách nhà nước và các nguồn lực kinh tế - tài chính khác của Nhà nước) với doanh nghiệp
nhà nước, kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo chứ khơng phải doanh nghiệp nhà nước là
chủ đạo. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế khác được đối xử bình đẳng với doanh
nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài nhà nước cùng hoạt
động trong một hành lang pháp lý chung và theo cơ chế thị trường, hợp tác và cạnh tranh
theo pháp luật.
Cũng lần đầu tiên, vị trí, vai trị của doanh nhân, doanh nghiệp được ghi nhận
trong Hiến pháp. Đây là cơ sở để phát huy vai trò của doanh nhân, doanh nghiệp đối với
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà nhiệm vụ xây dựng kinh tế là trung tâm và
doanh nghiệp, doanh nhân là đội quân xung kích.

Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở
nước ta có vai trị xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, điều tiết nền kinh tế trên cơ sở
tôn trọng các quy luật của thị trường; thực hiện sự phân công, phân cấp, phân quyền
trong quản lý nhà nước, thúc đẩy liên kết kinh tế vùng, bảo đảm tính thống nhất của nền
kinh tế quốc dân (Điều 52). Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh
nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh và phát triển bền vững các
ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước (Điều 51). Nhà nước cịn có chức năng đại
diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý đối với các loại tài nguyên thiên thiên, tài sản
thuộc sở hữu toàn dân để các loại tài nguyên, tài sản này được sử dụng vì lợi ích của nhân
dân (Điều 53).
Liên quan đến vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế, tại các chương về bộ máy
nhà nước, Hiến pháp năm 2013 đã có những quy định nhiệm vụ, quyền hạn tương ứng
của Quốc hội, Chính phủ, chính quyền địa phương, Kiểm toán Nhà nước, như: Điều 70,
Chương V quy định Quốc hội quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; Điều 96, Chương VII quy định Chính phủ thống
nhất quản lý về kinh tế, xã hội,....
Về chế độ sở hữu, Hiến pháp năm 2013 ghi nhận, tôn trọng đa hình thức sở hữu,
bảo hộ quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế về thu nhập hợp pháp, của cải để dành,
nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các
tổ chức kinh tế khác (Điều 32) và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (Điều 62). Tài sản hợp
pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không
bị quốc hữu hóa (Điều 51). Đây là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy đầu tư, sản xuất, kinh
doanh, phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia.
10


Về tài sản thuộc sở hữu toàn dân, kế thừa quy định về sở hữu toàn dân của Hiến
pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, trên cơ sở tiếp cận mới, đúng đắn và chính xác
hơn về phạm vi, đối tượng các loại tài nguyên, tài sản thuộc sở hữu toàn dân, Hiến pháp
năm 2013 quy định đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng

biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là
tài sản cơng thuộc sở hữu tồn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản
lý.
Đất đai là lãnh thổ thiêng liêng, là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực
quan trọng phát triển đất nước thuộc sở hữu toàn dân, nhưng Hiến pháp năm 2013 đã quy
định Nhà nước bảo đảm cho tổ chức, cá nhân được giao đất, cho thuê đất, công nhận
quyền sử dụng đất. Quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ. Theo đó, Nhà nước chỉ thu
hồi đất trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát
triển kinh tế - xã hội, vì lợi ích quốc gia, cơng cộng. Việc thu hồi đất phải công khai,
minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật; Nhà nước trưng dụng đất
trong trường hợp thật cần thiết do luật định để thực hiện nhiệm vụ quốc phịng, an ninh
hoặc trong tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, phịng, chống thiên tai (Điều 54).
Về tài chính - tiền tệ, Hiến pháp năm 2013 bổ sung một điều mới quy định về
ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia, quỹ tài chính nhà nước và các nguồn tài chính cơng
khác do Nhà nước thống nhất quản lý và phải được sử dụng hiệu quả, công bằng, công
khai, minh bạch, đúng pháp luật. Ngân sách nhà nước gồm ngân sách trung ương và ngân
sách địa phương, trong đó ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, bảo đảm nhiệm vụ
chi của quốc gia. Các khoản thu, chi ngân sách nhà nước phải được dự toán và do luật
định. Lần đầu tiên, đơn vị tiền tệ quốc gia được hiến định là Đồng Việt Nam, đồng thời
quy định trách nhiệm của Nhà nước là bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền quốc gia.
Liên quan đến tài chính - tiền tệ, Chương V Hiến pháp năm 2013 quy định Quốc
hội quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc bãi
bỏ các thứ thuế; quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách
trung ương và ngân sách địa phương; quyết định mức giới hạn an tồn nợ quốc gia, nợ
cơng, nợ chính phủ; quyết định dự tốn ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung
ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước (Điều 55)
2.1.2. Đối với chính trị
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam bao gồm tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị-xã
hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc,
tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngồi là cơ sở chính trị của chính quyền nhân

dân; đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của nhân dân, được Hiến pháp
lần này bổ sung vai trò giám sát và phản biện xã hội đối với tổ chức và hoạt động của nhà
nước. Những tư duy chính trị pháp lý mới này, xuất phát từ nhận thức sâu sắc nguyên lý
tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Sức mạnh của nhà nước dựa trên sức mạnh
đại đồn kết tồn dân tộc. Đó là quy luật, là giá trị quý báu để tiếp tục đưa đất nước ta
phát triển cùng với thời đại.
11


Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của cơng dân được đề cao, đưa lên vị
trí trang trọng hàng đầu trong Hiến pháp (chương II). Đó vừa là sự kế thừa Hiến pháp
năm 1946 do Chủ tịch Hồ Chí Minh - Trưởng ban soạn thảo; vừa thể hiện nhận thức mới
đầy đủ, sâu sắc hơn trong việc thể chế hóa quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đề cao
nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự
phát triển. Theo đó, Hiến pháp đã khẳng định nguyên tắc nhà nước “công nhận, tôn trọng,
bảo vệ và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế,
văn hóa, xã hội”; “Quyền con người, quyền cơng dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định
của Luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phịng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn
xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng”. Đây là những nguyên tắc căn bản nhằm đề
cao trách nhiệm của nhà nước trong mối quan hệ với quyền con người, quyền cơng dân;
phịng ngừa sự tùy tiện cắt xén, hạn chế, cho chỗ này, lấy lại ở chỗ khác từ phía các cơ
quan nhà nước, nhân viên nhà nước. Đồng thời, cũng là cơ sở pháp lý cao nhất để mọi
người và công dân bảo vệ và thực hiện quyền con người và quyền công dân của mình.
Trên cơ sở của các nguyên tắc căn bản này, Hiến pháp đã quy định các quyền và nghĩa vụ
cơ bản của cơng dân, trong đó có bổ sung một số quyền mới một cách chặt chẽ, chính
xác, khả thi, phù hợp với các công ước quốc tế về nhân quyền mà Nhà nước ta là thành
viên.
2.2. Hiến pháp là công cụ pháp lý đảm bảo quyền con người, quyền cơng dân
Hiến pháp là văn bản có vị trí cao nhất trong thang bậc hiệu lực pháp lý, đóng vai
trò là đạo luật gốc, làm cơ sở cho các văn bản khác trong hệ thống các văn bản quy phạm

pháp luật của mỗi quốc gia. Những nội dung không thể thiếu trong hầu hết các bản hiến
pháp, đó là những quy định về cách thức tổ chức quyền lực nhà nước và ghi nhận quyền
con người, quyền công dân đã làm cho hiến pháp đóng một vai trị quan trọng trong việc
đảm bảo nhân quyền. Sau đây chúng ta sẽ xem xét cụ thể vai trò của hiến pháp trên các
phương diện cụ thể.
2.2.1. Hiến pháp đóng vai trị là văn bản ghi nhận quyền con người, quyền công dân.
Muốn đảm bảo quyền con người, quyền cơng dân thì trước hết nhà nước phải ghi
nhận những quyền đó, nếu khơng có sự ghi nhận thì sẽ khơng có sự bảo vệ và thúc đẩy
việc hiện thực hóa những quyền này. Việc ghi nhận quyền con người trong hiến pháp
cũng là cách để một quốc gia tuyên bố với thế giới về tình trạng nhân quyền của nước
mình.
Lịch sử nhân loại đã cho thấy, ngay từ khi giành được thắng lợi trong cuộc cách
mạng tư sản làm thay đổi địa vị của người dân từ “thần dân” sang “công dân”, trở thành
những người có quyền trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giai cấp tư sản đã
chú ý đến việc bảo vệ thành quả này. Theo đó, điều cần phải làm là ghi nhận những
quyền này như một sự tuyên bố về nhân quyền và phải bảo vệ những quyền đó trước sự
xâm phạm của mọi chủ thể trong xã hội, kể cả từ phía nhà nước. Muốn đáp ứng được
điều đó thì cần có một văn bản pháp lý có hiệu lực cao để ghi nhận các quyền con người
với tư cách là thành quả của cuộc cách mạng tư sản. Cũng từ đây, hiến pháp với tư cách
12


là văn bản pháp lý ghi nhận các quyền tự do của con người ra đời. Như vậy, ngay từ đầu,
hiến pháp đã là văn bản quan trọng ghi nhận quyền con người, quyền công dân. Nhờ sự
ghi nhận này mà quyền con người, quyền công dân được thừa nhận, được tơn trọng và
được bảo đảm. Có thể nói rằng, hiến pháp sinh ra là để mang sứ mệnh bảo đảm quyền
con người. “Nếu như khơng có vấn đề phải bảo vệ nhân quyền thì có lẽ nhân loại cũng
khơng cần có một bản hiến pháp cho mỗi một quốc gia”.
Ngày nay, các quốc gia đều ghi nhận quyền con người và quyền cơng dân trong
hiến pháp của nước mình. Chương về “quyền con người, quyền công dân” thường được

đặt ở vị trí trang trọng trong hiến pháp của mỗi quốc gia. Có thể nói rằng quyền con
người, quyền cơng dân được ghi nhận trong hiến pháp với tư cách là đạo luật cơ bản của
một quốc gia là một sự đảm bảo pháp lý để các quyền đó được tôn trọng và đảm bảo thực
hiện. Trên một phương diện nào đó, có thể nói rằng hiến pháp chính là văn bản đảm bảo
nhân quyền ở một quốc gia. Đảm bảo bằng cách ghi nhận những quyền đó. Sở dĩ nói như
vậy là vì việc ghi nhận là điều rất quan trọng, là bước khởi đầu cho việc thực hiện các
bước tiếp theo đó là bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền ở một quốc gia. Việc ghi nhận quyền
con người trong hiến pháp của một nước cũng là sự khẳng định và đảm bảo về mặt số
lượng cũng như phạm vi các quyền mà các công dân cũng như cá nhân nước ngồi sống
tại nước đó được hưởng thụ.
2.2.2. Hiến pháp đóng vai trị là cơng cụ hạn chế quyền lực nhà nước để bảo đảm quyền
con người, quyền công dân.
Trước hết cần phải khẳng định rằng việc hạn chế quyền lực nhà nước là một điều
rất quan trọng để bảo đảm quyền con người, quyền công dân ở một quốc gia bởi lẽ,
những quyền này rất dễ bị xâm phạm từ phía nhà nước. Nhà nước bảo đảm quyền con
người nhưng “nhà nước cũng là một trong những nơi tiềm ẩn mối nguy hiểm nhất cho sự
vi phạm nhân quyền vì so với các chủ thể khác trong xã hội, nhà nước có nhiều ưu thế
hơn đó là nắm quyền lực trong tay, có nhân lực, có vũ khí, tiền bạc và được quyền bắt,
giam, giữ con người khi cho họ là những nghi can, theo quy định mà chính bản thân nhà
nước đặt ra. Bảo vệ nhân quyền trước hết và hơn bao giờ hết phải có sự ngăn ngừa từ
phía Nhà nước. Ngăn ngừa bằng cách quy định một cách chặt chẽ các cách thức tổ chức
và hoạt động của Nhà nước”. Muốn hạn chế quyền lực nhà nước cần phải: (i) có phân
quyền để tránh tập trung quyền lực vào một cơ quan, tổ chức hay cá nhân; (ii) phải có cơ
chế để các nhánh quyền lực chỉ được hoạt động trong phạm vi pháp luật cho phép.
Hiến pháp với tư cách là văn bản quy định cách thức tổ chức quyền lực nhà nước
đã đáp ứng được hai yêu cầu nêu trên nên có thể nói rằng hiến pháp là văn bản hạn chế
quyền lực nhà nước. Việc quy định cách thức tổ chức quyền lực nhà nước trong hiến
pháp theo tam quyền phân lập có sự phân chia, kiềm chế và kiểm sốt lẫn nhau giữa các
nhánh quyền lực giúp tránh được kiểu quyền lực tập trung vào trong tay một người hay
một nhóm người, dẫn đến quyền lực khơng có giới hạn giống quyền lực của các vị vua

phong kiến chuyên quyền, độc đoán và hệ quả là quyền con người rất dễ bị xâm phạm vì
ở đâu có sự độc đốn chun quyền là ở đó khơng có dân chủ và nhân quyền hoặc quyền
13


con người bị xâm phạm nhiều nhất. Bên cạnh đó, việc kiềm chế và kiểm soát lẫn nhau
giữa các nhánh quyền lực cịn có tác dụng ngăn chặn sự lạm quyền, vượt quyền dẫn đến
xâm phạm quyền con người của các cơ quan nhà nước.
Như vậy, với nội dung cơ bản và không thể thiếu trong bất cứ bản hiến pháp nào,
đó là quy định về cách thức tổ chức quyền lực nhà nước theo cơ chế phân quyền, hiến
pháp đã trở thành công cụ pháp lý giới hạn quyền lực nhà nước, ngăn chặn sự vượt quá
giới hạn về quyền lực của các cơ quan, cán bộ nhà nước, bắt buộc họ chỉ được phép sử
dụng quyền lực được giao trong phạm vi cho phép. Nhờ đó mà có sự đảm bảo cần thiết
cho quyền con người, quyền công dân không bị xâm phạm.
2.2.3. Hiến pháp là văn bản pháp lý ràng buộc trách nhiệm của nhà nước để quyền con
người, quyền công dân được thực thi.
Việc ghi nhận quyền con người, quyền công dân trong hiến pháp không chỉ là sự
thừa nhận từ phía nhà nước về những quyền ấy mà còn là sự khẳng định trách nhiệm của
nhà nước trong việc hiện thực hóa những quyền này. Điều đó có nghĩa rằng, khi một nhà
nước ghi nhận các quyền cho cơng dân của mình và cho các cá nhân sống trong lãnh thổ
quốc gia thì đồng thời cũng xác lập nghĩa vụ đảm bảo những quyền đó được thực thi.
Như vậy, quyền con người, quyền công dân luôn song hành với nghĩa vụ của nhà nước.
Do vậy, có thể nói rằng, hiến pháp chính là văn bản ghi nhận quyền con người, quyền
công dân của một quốc gia; đồng thời cũng là văn bản quy trách nhiệm của nhà nước đó
trong việc phải tạo ra điều kiện vật chất cũng như cơ chế để hiện thực hóa những gì đã
ghi nhận.
Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nhà nước có tính bắt buộc chung đối với tồn xã
hội, trong đó và trước hết là những cơ quan, cán bộ nhà nước. Điều đó có nghĩa rằng, các
cơ quan nhà nước phải nỗ lực trong việc tạo ra cơ chế (ban hành thể chế và thành lập các
thiết chế) để các quyền con người, quyền công dân được thực thi. Nếu không tạo điều

kiện và cơ chế để hiện thực hóa các quyền con người, quyền cơng dân ghi trong hiến
pháp thì chính nhà nước cũng bị coi là khơng hồn thành trách nhiệm và trong một chừng
mực nhất định có thể bị coi là vi hiến. Do vậy, có thể nói rằng, trong trường hợp này hiến
pháp đóng vai trị quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Bảo
đảm bằng cách “bắt” nhà nước phải thực hiện chính những gì mà mình đã ghi nhận về
quyền con người, quyền công dân trong nội dung của hiến pháp.
2.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hiến pháp
Để bảo đảm vai trò tối thượng của Hiến pháp trong đời sống xã hội Việt Nam, tôi
cho rằng:
Thứ nhất, cần nhận thức đầy đủ bản chất của Hiến pháp là bản khế ước của nhân
dân tạo lập nên cộng đồng chính trị của mình, cùng nhau trao quyền lực cho Nhà nước.
Do vậy, cần nghiên cứu xây dựng một quy trình lập hiến thích hợp mà trong đó có phúc
quyết tồn dân;
14


Thứ hai, cần xây dựng một cơ chế kiểm hiến có hiệu quả để đảm bảo sự tuân thủ
đầy đủ Hiến pháp, bảo đảm hiệu lực tối cao của Hiến pháp;
Thứ tư, cần nghiên cứu sửa đổi Hiến pháp, bổ sung việc ban hành một đạo luật đặc
biệt về tổ chức thi hành Hiến pháp, có tính đến việc thiết lập một tổ chức thường trực có
thời hạn, có quyền hạn và trách nhiệm tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp;
Thứ năm, cần luật hóa trách nhiệm giải trình trong quản trị quốc gia./.

15


PHẦN III: KẾT LUẬN
Như vậy, cho đến nay sau Hiến pháp 1946, Quốc hội nước ta đã ban hành các
Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 và Hiến pháp hiện hành – Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Trong những điều kiện đổi mới

hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hiến pháp 2013 – Hiến pháp
hiện hành của nước ta đã và đang đi vào cuộc sống, ngày càng thể hiện rõ tính ưu việt của
chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chúng ta đang quyết tâm thực hiện di chúc của Chủ
tịch Hồ Chí Minh: “Tơi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta
được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành”, quyết tâm đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, đưa
đất nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 như mục tiêu Đại hội
XII của Đảng đề ra, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam.

16


1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật Hiến Pháp của nước tư bản,
Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tr. 12 có nói tới thuật ngữ Hiến pháp xã hội.
Đặng Minh Tuấn (2012), “Thiết lập tài phán Hiến pháp: Xu thế thế giới và tương
lai cho Việt Nam”, tlđd, tr. 335.
Wikipedia.org
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII
Nguyễn Đăng Dung, Phạm Hồng Thái, Vũ Công Giao (2011), Hiến pháp: Những

vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Đăng Dung (2005), Sự hạn chế quyền lực nhà nước, Nxb Đại học Quốc
gia, Hà Nội.
Nguyễn Đăng Dung, Những quan điểm, học thuyết hiện đại về Hiến pháp trong
cuốn Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.

17



×