Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc giá trị lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.84 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..........................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG......................................................................................2
CHƯƠNG I: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN
TỘC..........................................................................................................2
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc
...............................................................................................................2
1.2. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân4
1.3. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức
mạnh thời đại trong bối cảnh hiện nay...........................................11
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC................................................................14
2.1. Thực trạng đại đoàn kết dân tộc tại nước ta hiện nay............14
2.1.1. Điểm đạt được.......................................................................14
2.1.2. Những tồn tại.........................................................................15
2.2. Một số giải pháp nhằm phát huy đại đoàn kết dân tộc...........16
2.2.1. Đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao khối đại đoàn kết toàn dân tộc
.........................................................................................................16
2.2.2. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước...17
2.2.3. Giải quyết tốt quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội;
.........................................................................................................18
2.2.4. Tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước,
tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.......................19
PHẦN KẾT LUẬN....................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................21



1

MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại đồn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu, là cội nguồn sức mạnh
của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó được hun đúc, hình thành và phát triển
bởi tinh thần yêu nước, ý chí độc lập, tự chủ của dân tộc ta trải qua hàng nghìn
năm dựng nước và giữ nước, chiến thắng mọi thiên tai, địch họa, để xây dựng
nên Tổ quốc Việt Nam ngày càng cường thịnh. Thực hiện đại đoàn kết dân tộc
là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng nước ta. Đảng ta khẳng định,
mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phải phản ánh
được nguyện vọng, quyền lợi của đại đa số dân chúng để có thể tập hợp, đoàn
kết mọi lực lượng cho cách mạng.
Ngay từ khi Đảng ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tập trung xây dựng
Mặt trận Dân tộc thống nhất để quy tụ mọi tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước. Tùy từng giai đoạn cách mạng, Đảng ta đã xây dựng các tổ chức: Hội
Phản đế đồng minh (năm 1930); Mặt trận Dân chủ (năm 1936); Mặt trận Nhân
dân phản đế (năm 1939); Mặt trận Việt Minh (năm 1941);… Đảng Cộng sản là
thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhưng là thành viên lãnh đạo Mặt
trận. Vì vậy, Đảng là linh hồn của khối đại đoàn kết dân tộc. Cho nên, Đảng
phải có chính sách đúng đắn và có năng lực lãnh đạo thì mới giành được địa vị
lãnh đạo Mặt trận. Đảng lãnh đạo Mặt trận bằng việc xác định chính sách Mặt
trận đúng đắn. Đảng cần tuyên truyền, giáo dục, nêu gương, lấy lòng chân thành
để đối xử, cảm hóa, khêu gợi tinh thần tự giác, tự nguyện, tơn trọng các tổ chức,
lắng nghe ý kiến người ngồi Đảng… Đảng phải thực sự đồn kết nhất trí, bởi
sức mạnh của Đảng là ở sự đồn kết nhất trí. Đó là lý do tác giả chọn đề tài :
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc- Giá trị lý luận và thực tiễn"


2

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đưa ra cơ sở lý luận về vấn đề đại đoàn kết dân tộc và thực tiễn vận dụng

quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và thực hiện chính sách đại
đồn kết tơn giáo. Từ đó đưa ra một số giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu
quả vận dụng chính sách về đại đồn kết dân tộc.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Bài luận tập trung nghiên cứu về cơ sở lý luận, những vấn đè trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc, thực trạng vận dụng những tư
tưởng đó của Đảng và nhà nước Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Bài tiểu luận được nghiên cứu và hồn thiện trong vịng 1 tuần, đi sâu vào
phân tích tư tưởng và những chính sách của Đảng và Nhà nước.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp luận, tiểu luận sử dụng những phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong đề
tài này bao gồm phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp
phân tích tổng hợp và đối chiếu.
Tiểu luận sử dụng tài liệu tham khảo ở các nguồn uy tín và chính thống.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Bài luận giúp sinh viên hiểu hơn về tư tưởng Đại đoàn kết dân tộc bằng
cách đưa ra cơ sở hình thành, quan điểm cơ bản của chủ tịch Hồ Chí Minh trong
q trình xây dựng đại đoàn kết dân tộc.
Đồng thời nêu thực trạng vận dụng, những vướng mắc, khó khăn trong
việc áp dụng chính sách. Để từ đó đưa ra một số khuyên nghị đối với Đảng và
Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả chính sách Đồn kết dân tộc.


3

NỘI DUNG
CHƯƠNG I: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT
DÂN TỘC
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc

1.1.1. Cơ sở lý luận
Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng
của dân tộc Việt Nam
Trải qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, tinh thần yêu
nước gắn liền với ý thức cộng đồng, ý thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc của
dân tộc Việt Nam đã được hình thành và củng cố, tạo thành một truyền thống
bền vững. Đối với mỗi người Việt Nam, yêu nước- nhân nghĩa- đoàn kết đã trở
thành một tình cảm tự nhiên, in đậm dấu ấn trong cấu trúc xã hội truyền thống,
tạo thành quan hệ ba tầng chặt chẽ: gia đình - làng xã - quốc gia. Từ đời này
sang đời khác, tổ tiên ta đã có rất nhiều chuyện cổ tích, ca dao, ngạn ngữ ca ngợi
truyền thống đồn kết dân tộc.
Hồ Chí Minh đã sớm hấp thụ và nhận thức được vai trò của truyền thống
yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc. Người khẳng định: "Dân ta có một
lịng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến
nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một
làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó
nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước"
Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết, cộng đồng của dân tộc Việt
Nam là cơ sở đầu tiên, sâu xa cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại
đồn kết dân tộc.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin coi cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng


4

Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng,
nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử; giai cấp vô sản muốn thực hiện được vai
trò lãnh đạo cách mạng phải trở thành dân tộc; liên minh công nông là cơ sở để
xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng.

Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin là vì chủ nghĩa Mác- Lênin
đã chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng. V.I. Lênin cho
rằng, sự liên minh giai cấp, trước hết là liên minh công nông là hết sức cần thiết
bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng vơ sản, rằng nếu khơng có sự đồng tình và
ủng hộ của đa số nhân dân lao động với đội ngũ tiên phong của nó, tức giai cấp
vơ sản, thì cách mạng vơ sản khơng thể thực hiện được.
Như vậy, chủ nghĩa Mác-Lênin không những đã chỉ ra vai trò của quần chúng
nhân dân trong lịch sử mà cịn chỉ ra vị trí của khối liên minh cơng nơng trong
cách mạng vơ sản. Đó là những quan điểm lý luận hết sức cần thiết để Hồ Chí
Minh có cơ sở khoa học trong sự đánh giá chính xác yếu tố tích cực cũng như
những hạn chế trong các di sản truyền thống, trong tư tưởng tập hợp lực lượng
của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và các nhà cách mạng lớn trên thế giới,
từ đó hình thành tư tưởng của Người về đại đồn kết dân tộc.
Tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại của các
phong trào cách mạng Việt Nam và thế giới
Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước cũng như sau này, Hồ Chí
Minh đã lnchú ý nghiên cứu, tổng kết những kinh nghiệm của phong trào yêu
nước Việt Nam và phong trào cách mạng ở nhiều nước trên thế giới, nhất là
phong trào giải phóng dân tộcở các nước thuộc địa. Đặc biệt, Hồ Chí Minh đã
nghiên cứu những bài học của cuộcCách mạng Tháng Mười. Những là bài học
về huy động, tập hợp lực lượng quần chúngcông nơng đơng đảo để giành và giữ
chính quyền cách mạng, để xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa đã giúp Hồ Chí
Minh thấy rõ tầm quan trọng của việc đồn kết, tập hợp lựclượng cách mạng,
trước hết là cơng nông.


5

Đối với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, Hồ Chí
Minh đặc biệt chú ý đến Trung Quốc và ấn Độ là hai nước có thể đem lại cho

Việt Nam nhiều bài học rất bổ ích về tập hợp các lực lượng yêu nước tiến bộ để
tiến hành cách mạng.
Những kinh nghiệm rút ra từ thành công hay thất bại của các phong trào
dân tộc dân chủ, nhất là kinh nghiệm thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga
là cơ sở thực tiễn cần thiết cho việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại
đồn kết dân tộc.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn
Khơng chỉ được hình thành từ những cơ sở lý luận sng, tư tưởng này
còn xuất phát từ thực tiễn lịch sử của dân tộc và nhiều năm bôn ba khảo nghiệm
ở nước ngịai của Hồ Chí Minh.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam
Là một người am hiểu sâu sắc lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước
của dân tộc mình, Hồ Chí Minh nhận thức được trong thời phong kiến chỉ có
những cuộc đấu tranh thay đổi triều đại nhưng chúng đã ghi lại những tấm
gương tâm huyết của ông cha ta với tư tưởng “Vua tơi đồng lịng, anh em hịa
thuận, cả nước góp sức” và “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc là
thượng sách giữ nước”. Chính chủ nghĩa u nước, truyền thống đồn kết của
dân tộc trong chiều sâu và bề dày của lịch sử này đã tác động mạnh mẽ đến Hồ
Chí Minh và được người ghi nhận như những bài học lớn cho sự hình thành tư
tưởng của mình.
Năm 1858, thực dân Pháp tấn công bán đảo Sơn Trà, từ đó, các phong trào yêu
nước , chống pháp liên tục nổ ra, rất anh dũng, nhưng ći cùng đều thất bại. Hồ
Chí Minh đã nhận ra được những hạn chế trong chủ trương tập hợp lực lượng
của các nhà yêu nước tiền bối và trong việc nắm bắt những đòi hỏi khách quan
của lịch sử trong giai đọan này. Đây cũng chính là lý do, là điểm xuất phát để
Người quyết tâm từ Bến cảng Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước.


6


Thực tiễn cách mạng thế giới
Từ 1911 đến 1941 Hồ Chí Minh đã đi đầu khắp hết các châu lục. Cuộc
khảo nghiệm thực tiễn rộng lớn và công phu đã giúp Người nhận thức một sự
thực:
“Các dân tộc thuộc địa tiềm ẩn một sức mạnh vĩ đại, song cuộc đấu tranh
của họ chưa đi đến thắng lợi bởi vì các dân tộc bị áp bức chưa biết tập hợp lại,
chưa có sự liên kết chặt chẽ với giai cấp cơng nhân ở các nước tư bản, đế quốc,
chưa có tổ chức và chưa biết tổ chức…”
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành cơng đã đưa Hồ Chí Minh
đến bước ngoặt quyết định trong việc chọn con đường cứu nước, giải phóng dân
tộc, giành dân chủ cho nhân dân. Từ chỗ chỉ biết đến Cách mạng Tháng Mười
theo cảm tính, Người đã nghiên cứu để hiểu một cách thấu đáo con đường Cách
mạng Tháng Mười và những bài học kinh nghiệm quý báu mà cuộc cách mạng
này đã mang lại cho phong trào cách mạng thế giới. Đặc biệt là bài học về sự
huy động, tập hợp, đoàn kết lực lượng quần chúng công nông binh đông đảo để
giành và giữ chính quyền cách mạng.
1.2. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân
tộc
1.2.1. Vai trị của đại đồn kết dân tộc
Đại đồn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của cách
mạng Hồ Chí Minh cho rằng, cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân ta cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX bị thất bại có một nguyên nhân sâu xa là cả nước đã
khơng đồn kết được thành một khối thống nhất. Người thấy rằng, muốn đưa
cách mạng đến thành cơng phải có lực lượng cách mạng đủ mạnh để chiến thắng
kẻ thù và xây dựng thành công xã hội mới; muốn có lực lượng cách mạng mạnh
phải thực hiện đại đoàn kết, quy tụ mọi lực lượng cách mạng thành một khối


7


vững chắc. Do đó, đồn kết trở thành vấn đề chiến lược lâu dài của cách mạng,
là nhân tố bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng.
Hồ Chí Minh đi đến kết luận: muốn được giải phóng, các dân tộc bị áp bức và
nhân dân lao động phải tự mình cứu lấy mình bằng đấu tranh cách mạng, bằng
cách mạng vô sản. Người đã vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về cách mạng vô sản vào thực tiễn Việt Nam, xây dựng lý luận cách mạng
thuộc địa, trong đó
Người quan tâm nhiều đến vấn đề lực lượng cách mạng và phương pháp
cách mạng. Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết
phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với
những đối tượng khác nhau, nhưng đại đồn kết dân tộc ln ln được Người
nhận thức là vấn đề sống cịn của cách mạng.
Hồ Chí Minh đã đưa ra nhiều luận điểm về vấn đề đoàn kết dân tộc, đoàn kết
quốc tế: Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành cơng; Đồn kết là điểm
mẹ; điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt; Đoàn kết, đoàn kết, đại
đoàn kết; Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng.
Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần quan
điểm coi sức mạnh của cách mạng là sức mạnh của nhân dân: "Dễ trăm lần
không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong". Đồng thời, Người lưu ý
rằng, nhân dân bao gồm nhiều lứa tuổi, nghề nghiệp, nhiều tầng lớp, giai cấp,
nhiều dân tộc, tôn giáo, do đó phải đồn kết nhân dân vào trong Mặt trận dân tộc
thống nhất. Để làm được việc đó, Người u cầu Đảng, Nhà nước phải có chủ
trương, chính sách đúng đắn, phù hợp với các giai cấp, tầng lớp, trên cơ sở lấy
lợi ích chung của Tổ quốc và những quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động,
làm "mẫu số chung" cho sự đoàn kết.
1.2.2. Lực lượng của đại đồn kết dân tộc
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm Dân, có nội hàm rất rộng. Người
dùng các khái niệm này để chỉ "mọi con dân nước Việt", "con Rồng cháu Tiên",


8


không phân biệt dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người
khơng tín ngưỡng, khơng phân biệt già, trẻ, gái trai, giàu, nghèo. Nói đến đại
đồn kết dân tộc cũng có nghĩa phải tập hợp được mọi người dân vào một khối
trong cuộc đấu tranh chung. Người đã nhiều lần nêu rõ: "Ta đoàn kết để đấu
tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta cịn phải đồn kết để xây dựng
nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lịng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân
dân thì ta đồn kết với họ". Với tinh thần đoàn kết rộng rãi, Người đã dùng khái
niệm đại đoàn kết dân tộc để định hướng cho việc xây dựng khối đoàn kết toàn
dân trong suốt tiến trình cách mạng, bao gồm mọi giai cấp, dân tộc, tơn giáo.
Muốn thực hiện được đại đồn kết tồn dân thì phải kế thừa truyền thống
u nước- nhân nghĩa- đồn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, độ
lượng với con người. Người đã nhiều lần nhắc nhở: "Bất kỳ ai mà thật thà tán
thành hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây
chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ". Để thực hiện
được đồn kết, Người cịn căn dặn: Cần xóa bỏ hết mọi thành kiến, cần phải thật
thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ để phục vụ nhân dân.
Tư tưởng đại đồn kết của Hồ Chí Minh có lập trường giai cấp rõ ràng, đó
là đại đồn kết tồn dân với nịng cốt là khối liên minh cơng - nơng - trí thức do
Đảng của giai cấp cơng nhân lãnh đạo. Muốn xây dựng khối đại đồn kết dân
tộc rộng lớn như vậy, thì phải xác định rõ đâu là nền tảng của khối đại đoàn kết
dân tộc và những lực lượng nào tạo nên cái nền tảng đó. Người đã chỉ rõ: Đại
đồn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân
dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Người
coi công nông cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững,
gốc tốt, cịn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác. "Lực lượng chủ yếu trong
khối đồn kết dân tộc là cơng nơng, cho nên liên minh công nông là nền tảng
của Mặt trận dân tộc thống nhất. Về sau, Người nêu thêm: lấy liên minh cơng nơng - lao động trí óc làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân. Nền tảng



9

càng được củng cố vững chắc thì khối đại đồn kết dân tộc càng được mở rộng,
không e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.
1.2.3. Điều kiện xây dựng khối đại đồn kết dân tộc
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng để xây dựng được khối đại đoàn kết dân
tộc cần phải dựa trên các nguyên tắc, đó là:
Thứ nhất, phải được xây dựng trên cơ sở thống nhất giữa lợi ích của quốc
gia, dân tộc với quyền lợi cơ bản của các giai tầng trong xã hội.
Trong mỗi quốc gia dân tộc bao giờ cũng tồn tại những tầng lớp, giai cấp
khác nhau. Mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp lại có lợi ích khác nhau nhưng tất cả các
lợi ích khác nhau đó đều có một điểm chung là lợi ích dân tộc. Quyền lợi của
các tầng lớp, giai cấp có thực hiện được hay khơng cịn phụ thuộc vào dân tộc
đó có được độc lập tự do, có đồn kết hay khơng và việc nhận thức, giải quyết
đúng đắn các quan hệ lợi ích đó như thế nào.
Ngun tắc đại đồn kết dân tộc theo Hồ Chí Minh là tìm kiếm, trân trọng
và phát huy những yếu tố tương đồng, thu hẹp đến mức thấp nhất những yếu tố
khác biệt, mâu thuẫn và Người bao giờ cũng tìm ra những yếu tố của đoàn kết
dân tộc thay cho sự đào sâu tách biệt, thực hiện sự quy tụ thay cho việc loại trừ
những yếu tố khác nhau về lợi ích.
Theo Hồ Chí Minh, lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ, là bình đẳng, dân chủ, tự do. Lợi ích tối cao này là ngọn cờ
đoàn kết, là sức mạnh dân tộc và là nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng
Việt Nam. Đó cũng là nguyên tắc bất biến trong tư tưởng Hồ Chí Minh để
Người tìm ra những phương pháp để thực hiện nguyên tắc đó trong chiến lược
đại đồn kết dân tộc của mình.
Thứ hai, tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của nhân dân
Đây là nguyên tắc xuất phát từ tư tưởng lấy dân làm gốc của ông cha ta
được Người kế thừa và nâng lên một bước trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa



10

Mác-Lênin, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo
ra lịch sử.
Tin vào dân, dựa vào dân và lấy dân làm gốc có nghĩa là phải tin tưởng
vững chắc vào sức mạnh to lớn và năng lực sáng tạo của nhân dân, phải đánh giá
đúng vai trị của lực lượng nhân dân. Người viết “Có lực lượng dân chúng việc
to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Khơng có thì việc gì làm cũng không
xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng,
đầy đủ mà những người tài giỏi, những đồn thể to lớn nghĩ mãi khơng ra”.
Thứ ba, đại đồn kết một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo; đồn kết
lâu dài, chặt chẽ
Theo Hồ Chí Minh, có đồn kết mới tạo nên sức mạnh của cách mạng.
Muốn đồn kết thì trước hết phải có Đảng cách mạng để trong thì vận động, tổ
chức dân chúng, ngồi thì liên minh với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản
ở mọi nơi. Như vậy, để đoàn kết và lãnh đạo cách mạng, điều kiện tiên quyết là
phải có một Đảng cách mạng với tính cách là Bộ tham mưu, là hạt nhân để tập
hợp quần chúng trong nước và tổ chức, giữ mối liên hệ với bè bạn ở ngoài nước.
Đảng cách mạng muốn thống nhất về chính trị và tư tưởng, đảm bảo được vai
trị đó, thì phải giữ vững bản chất của giai cấp công nhân, phải được vũ trang
bằng chủ nghĩa chân chính, khoa học và cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác –
Lênin.
1.2.4. Hình thức tổ chức khối đại đồn kết dân tộc
Hình thức tổ chức đại đồn kết toàn dân tộc là Mặt trận dân tộc thống nhất
được xây dựng trên nền tảng khối liên minh công – nơng – trí thức, dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Để thực hiện đại đoàn kết dân tộc, trước hết
phải tin vào dân, dựa vào dân, vì lợi ích của nhân dân để phát động các phong
trào thi đua yêu nước theo yêu cầu cách mạng trong từng thời kỳ khác nhau, thời
kỳ kháng chiến, hịa bình, trong sản xuất, chiến đấu, xây dựng đất nước. Sức

mạnh của đại đồn kết là ở nhân dân. Vì vậy, cần thực hiện đoàn kết lâu dài,


11

rộng rãi, chặt chẽ, tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo. Cần phải vận động nhân dân,
giác ngộ để dân tự nguyện tham gia Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Hồ Chí Minh cho rằng: “đồn kết là một chính sách dân tộc,
khơng phải là một thủ đoạn chính trị. Ta đồn kết để đấu tranh cho thống nhất và
độc lập của Tổ quốc, ta cịn phải đồn kết để xây dựng nước nhà”.Người đã tổng
kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng.
Đồn kết cần trên cơ sở hiệp thương dân chủ, chân thành, thẳng thắn,
nhân ái, gắn với đấu tranh, tự phê bình và phê bình, có sự nhất trí về mục đích
và lập trường rõ ràng. Đoàn kết phải trên cơ sở kế thừa truyền thống yêu nước nhân nghĩa của dân tộc. Muốn đoàn kết phải có lịng khoan dung, độ lượng với
con người, quy tụ mọi lực lượng. Bác Hồ cũng nhiều lần khẳng định trong mấy
triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng đều là đồng bào ta, ít nhiều
họ đều có lịng u nước. Vì thế nên quy tụ mọi người bằng lòng chân thành,
thương dân. Ngay cả “với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình
thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đại đoàn kết…”
1.2.5. Phương thức thực hiện đại đoàn kết dân tộc
Hồ Chí Minh cũng chỉ ra phương thức thực hiện đại đồn kết dân tộc, đó
là phải biết áp dụng phương pháp tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục,
nghĩa là đoàn kết phải trên cơ sở tự nguyện, khơng thể áp đặt, ép buộc. Vì vậy
phải tun truyền, vận động làm cho mọi người nhận thức được sự cần thiết phải
đoàn kết để họ tự nguyện, tự giác tham gia vào một tổ chức đoàn thể trong khối
đại đoàn kết. Trong tuyên truyền, vận động, giáo dục phải phản ánh đúng
nguyện vọng sâu xa và những quyền lợi cơ bản, chung nhất của toàn thể dân tộc;
phản ánh nguyện vọng, quyền lợi riêng phù hợp với từng giai cấp, tầng lớp, từng
cộng đồng xã hội cụ thể. Phải nói và viết ngắn gọn, dễ hiểu, giản dị nhưng vẫn
rất sâu sắc, sử dụng biện pháp nêu gương, kết hợp giữa lời nói và việc làm.

Phương pháp xử lý các mối quan hệ trong xã hội cũng khác nhau, đối với
lực lượng cách mạng (chí cốt là cơng nhân, nông dân, lao động chân tay, lao


12

động trí óc) thì phải biết khai thác, phát huy sự thống nhất, tương đồng, hạn chế,
khắc phục, tiến tới xoá bỏ dần những khác biệt trong mục tiêu, lợi ích; đối với
những bất đồng trong nội bộ thì phương pháp xử lý là thẳng thắn, có lý và có
tình; đối với lực lượng trung gian (các tầng lớp trên, các trí thức thượng lưu,
nhân sĩ, hồng tộc, quan lại…) thì phải biết xố bỏ mọi thành kiến, mặc cảm,
khơi gợi, cổ vũ ý thức dân tộc, tinh thần yêu nước, chân thành hợp tác và trọng
dụng; đối với các thế lực thù địch thì cần phải chủ động, kiên quyết tiến cơng
tiêu diệt trên cơ sở phân hố, cơ lập chúng đến mức cao độ.
Khối đại đoàn kết bao gồm nhiều tầng lớp, giai cấp khác nhau; nhiều cá
nhân khác nhau có lợi ích chung nhưng lại cũng có những lợi ích riêng khác
nhau. Những lợi ích riêng đó có thể xung đột nhau, thậm chí lợi ích riêng của
một bộ phận nào đó có thể đi ngược lại lợi ích chung. Do đó phải có tổ chức
chặt chẽ để ln đặt được lợi ích chung lên trên hết, trước hết; không để cho một
bộ phận hoặc cá nhân nào có thể vì lợi ích riêng mà làm hại đến lợi ích chung.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG
CAO ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
2.1.1. Đưa ra quan niệm về đại đoàn kết, đại đoàn kết dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc là một bộ phận quan trọng
hợp thành trong hệ thống tư tưởng của Người về những vấn đề cơ bản của cách
mạng Việt Nam. Nghiên cứu toàn bộ di cảo của Người có thể nhận thấy cụm từ
“đồn kết” được Người nhắc tới hơn hai ngàn lần và cụm từ “đại đoàn kết” được
Người nhắc tới hơn tám mươi lần, điều đó nói lên sự quan tâm đối với vấn đề
đồn kết ở mọi điều kiện, mọi hoàn cảnh của lịch sử, đồng thời tỏ rõ tầm chiến

lược tư tưởng đoàn kết của Người. Đồn kết có thể hiểu một cách đơn giản là sự
tập hợp, kết thành một khối thống nhất, cùng hoạt động vì một mục đích chung
nào đó. Cịn đại đồn kết là đồn kết rộng rãi tức muốn nhấn mạnh tới thành
phần, quy mô, lực lượng của khối đoàn kết.


13

Tư tưởng về đại đoàn kết tiếp tục được Hồ Chí Minh cụ thể hóa hơn trong
các cụm từ như: “đại đoàn kết toàn dân”, “đoàn kết toàn dân”, “đoàn kết dân
tộc”, “toàn dân tộc ta đoàn kết”. Tuy cách diễn đạt có thể khác nhau, nhưng nội
hàm của các khái niệm trên đều thống nhất khi khẳng định lực lượng của khối
đại đoàn kết là của toàn thể nhân dân Việt Nam.
2.1.2. Chỉ ra vai trị của đại đồn kết dân tộc đối với cách mạng Việt Nam
Khi đề cập đến vị trí, vai trị của đại đồn kết dân tộc, Hờ Chí Minh khẳng
định, đại đồn kết dân tộc là một chiến lược cơ bản, nhất quán, lâu dài, là vấn đề
sống cịn, quyết định thành cơng của cách mạng. Đó là chiến lược tập hợp mọi
lực lượng nhằm hình thành và phát triển sức mạnh to lớn của toàn dân trong
cuộc đấu tranh chống kẻ thù của dân tộc, của nhân dân. Theo Người, đoàn kết
làm nên sức mạnh và là cội nguồn của mọi thành công: “Đồn kết là một lực
lượng vơ địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi”; “Đồn
kết, đồn kết, đại đồn kết; Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng”.
Đại đồn kết dân tộc trong tư tưởng của Hồ Chí Minh khơng chỉ đơn giản
là phương pháp tổ chức, tập hợp lực lượng, mà cao hơn là một bộ phận hữu cơ,
một tư tưởng xuyên suốt trong đường lối chiến lược cách mạng, Người khẳng
định: “Đoàn kết là một chính sách dân tộc, khơng phải là một thủ đoạn chính
trị”. Có thể nói đồn kết dân tộc vừa là điều kiện tiên quyết, sống còn đối với sự
nghiệp cách mạng, đồng thời là tơn chỉ, mục đích, là nhiệm vụ hàng đầu mà sự
nghiệp cách mạng cần hướng và đạt tới.
2.1.3. Chỉ ra lực lượng của khối đại đồn kết dân tộc là tồn dân trong đó lấy

liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm
nền tảng
Kế thừa và nâng tầm tư duy chính trị truyền thống của cha ông: “Nước lấy
dân làm gốc”; đồng thời thấm nhuần nguyên lý mác xít “Cách mạng là ngày hội
của quần chúng”, Hồ Chí Minh đã tìm sức mạnh và cái cẩm nang thần kì của
cơng cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước ở lực lượng vô địch


14

của nhân dân: “Trong bầu trời khơng có gì q bằng nhân dân. Trong thế giới
khơng có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, dân, nhân dân có một nội hàm rất rộng.
Người dùng các khái niệm này để chỉ tất cả mọi công dân của nước Việt
Nam, những người được gọi là “con Lạc cháu Hồng”. Tư tưởng đại đoàn kết dân
tộc của Người là đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân dân, các giai cấp, các chính
đảng, đồn thể, các dân tộc, tôn giáo, kể cả những người trước đây lầm đường
lạc lối nhưng đã biết hối cải, quay về với chính nghĩa của dân tộc. Đồn kết
trong tư tưởng của Người là đoàn kết rộng rãi, mở rộng và tranh thủ tất cả những
lực lượng và bộ phận có thể tranh thủ.
2.1.4. Hồ Chí Minh chỉ ra phương thức thực hiện đại đoàn kết dân tộc
Đại đoàn kết được xây dựng dựa trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao của
dân tộc và những lợi ích chính đáng của nhân dân lao động. Thực tiễn lịch sử đã
xác nhận, suy đến cùng, mối quan hệ giữa các tầng lớp nhân dân trở nên bền
chặt hay không do chính vấn đề lợi ích quy định. Ngược lại nếu khơng thỏa mãn
những vấn đề tối thiểu về lợi ích thì mọi khẩu hiệu về đồn kết chỉ là những
khẩu hiệu trống rỗng. Tuy nhiên, mối quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp
luôn là vấn đề hết sức phức tạp, chồng chéo, luôn chứa đựng những yếu tố thống
nhất, mâu thuẫn và không ngừng vận động biến đổi cùng với đời sống thực tiễn.
Là một đất nước có một cơ cấu xã hội - giai cấp phong phú mang nhiều

nét đặc thù của một xã hội nửa thực dân phong kiến, Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc
về nhận thức, thái độ của mỗi tầng lớp nhân dân là hết sức khác nhau, Người
nhận định: “Cố nhiên, dân chúng khơng nhất luật như nhau. Trong dân chúng,
có nhiều tầng lớp khác nhau, trình độ khác nhau, ý kiến khác nhau. Có lớp tiền
tiến, có lớp chừng chừng, có lớp lạc hậu”. Do chính mơi trường, hồn cảnh sống
khác nhau đó nên nhận thức và hành động khơng thể nhất qn, thậm chí có
những xung đột về vấn đề lợi ích.


15

2.2. Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc tại
nước ta hiện nay
2.2.1. Điểm đạt được
Trong thời điểm đất nước đang đứng trước những thời cơ và thách thức
mới nhưng cũng đầy những thử thách lớn lao, những thành tựu mà toàn Đảng,
toàn dân đạt được qua gần 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới tồn diện đất
nước chính là kết quả của sự đoàn kết thống nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân ta, là minh chứng khẳng định sự trưởng thành và vững mạnh của Đảng.
Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường, bên
cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó
khăn, phức tạp. Các thế lực thù địch ln tìm mọi cách, bằng nhiều âm mưu
thâm độc, xảo quyệt, kích động chia rẽ nội bộ, gây mất đồn kết trong Đảng.
Chính vì vậy, tăng cường đoàn kết và thống nhất trong Đảng từ Trung ương đến
cơ sở là điều tất yếu và cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
Hiện nay, đoàn kết thống nhất trong Đảng càng phải được xem là một
chiến lược lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng. Là Đảng duy nhất cầm quyền,
Đảng ta càng phải xây dựng, củng cố sự đồn kết thống nhất, có như vậy thì hệ
thống chính trị, các tầng lớp nhân dân, các dân tộc mới đồn kết xung quanh
Đảng. Đồn kết của Đảng chính là tấm gương cho cả hệ thống chính trị và là

nhân tố quyết định bảo đảm đoàn kết dân tộc.
Mặc dù vậy, trong bối cảnh và tình hình hiện nay, những nhân tố gây mất
đoàn kết thống nhất trong Đảng vẫn tồn tại và không ngừng tạo ra thách thức.
Thực tế, một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên cịn nói khơng đi đơi với
làm; bề ngồi thì tỏ ra đồn kết, nhưng bên trong thì kết bè kéo cánh, cục bộ địa
phương, lợi ích nhóm...
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về “Tăng cường xây dựng, chỉnh
đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ”, Đảng chỉ


16

rõ: “Tình hình mâu thuẫn, mất đồn kết nội bộ không chỉ ở cấp cơ sở mà ở cả
một số cơ quan trung ương, tập đồn kinh tế, tổng cơng ty”... Đó là chưa kể, các
thế lực thù địch, phản động, phá hoại vẫn tìm đủ mọi cách gây mất đoàn kết, làm
chia rẽ trong Đảng. Đây là thực tế đòi hỏi các cấp ủy, tổ chức Đảng và đảng viên
phải quan tâm tiếp tục có những giải pháp rèn luyện, giữ gìn, bồi đắp đồn kết
thống nhất.
2.2.2. Một số khó khăn tồn tại
Tuy nhiên, bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế, trước những tác động của
kinh tế thị trường, một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ cấp cao có xu
hướng chạy theo chủ nghĩa cá nhân; một số tổ chức đảng có biểu hiện mất đồn
kết nội bộ, chưa tơn trọng và thực hiện chưa đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Việc tự phê bình và phê bình có nơi trở nên hình thức, có nơi bị lợi dụng để đấu
đá, hạ bệ lẫn nhau.
Trong Đảng cũng đã xuất hiện những xu hướng, những biểu hiện mất
đồn kết, đồn kết xi chiều (thực chất cũng là khơng đồn kết) ngấm ngầm
phát sinh, phát triển mà khó phát hiện và ngăn chặn. Đó là sự bất đồng quan
điểm, thiếu dân chủ trong thảo luận và quyết định các vấn đề quan trọng thuộc

thẩm quyền của cấp ủy các cấp; bè cánh, “lợi ích nhóm”, “tư duy nhiệm kỳ”, cục
bộ địa phương ngay trong việc ban hành, tổ chức thực hiện các quyết sách.
Đoàn kết chỉ thực sự có kết quả khi phát huy được vai trị của cơng tác tự
phê bình và phê bình nhưng trong nhiều trường hợp, quy luật tự phê bình và phê
bình khơng mấy tác dụng. Tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm, “dĩ hòa,
vi quý” khá phổ biến ở nhiều tổ chức đảng hiện nay. Tình trạng tham nhũng
chậm được ngăn chặn cũng làm cho phân liệt ngay trong chính đội ngũ đảng
viên của Đảng khi nhiều đảng viên có chức quyền giàu lên nhanh chóng, trong
đó khơng thể khơng có trường hợp do tham nhũng, tiêu cực mà khơng có mấy
biện pháp khắc phục hiệu quả. Những khuyết điểm đó làm cho niềm tin của


17

nhân dân đối với Đảng bị suy giảm, chậm được khắc phục và trở thành một
trong những nguy cơ của Đảng cầm quyền.
III. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG KHÓ KHĂN VÀ GIẢI PHÁP
NÂNG CAO ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
3.1. Một số thách thức và nguyên nhân trong xây dựng khối đại đoàn kết
dân tộc
3.1.1. Những thách thức tồn tại
Khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và
nhân dân chưa thật bền chặt và đang đứng trước những thách thức mới, những
biểu hiện cụ thể đó là:
Công tác tuyên truyền, vận động nhân dân của các ngành, các cấp chưa
được thường xuyên, chưa phù hợp theo từng nhóm đối tượng; cơng tác giáo dục
chính trị tư tưởng cho cán bộ, đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân chưa
được quan tâm đúng mức, từ đó việc nắm dư luận xã hội, tâm tư, nguyện vọng
của nhân dân đôi lúc chưa kịp thời.
Một bộ phận nhân dân chưa tin tưởng tuyệt đối vào Đảng, Nhà nước, vào

chế độ, bất bình trước những bất cơng của xã hội, trước tình trạng tham nhũng,
lãng phí và sự làm giàu nhanh chóng của một số cán bộ, đảng viên, kỷ cương,
phép nước nhiều lúc, nhiều nơi không nghiêm, trật tự an tồn xã hội cịn diễn ra
phức tạp.
Tình hình khiếu kiện, khiếu kiện đơng người, vượt cấp cịn diễn ra phức
tạp và kéo dài, ảnh hưởng đến an ninh chính trị và trật tự an tồn xã hội ở địa
phương.
Việc đa dạng hóa các loại hình tập hợp nhân dân vào Mặt trận và các đoàn
thể, các tổ chức xã hội còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ tập hợp các giới vào các tổ chức
của giới mình cịn thấp, chất lượng hoạt động của các tổ chức quần chúng còn
nhiều yếu kém.


18

Một số nơi cịn chạy theo thành tích trong việc thực hiện các phong trào
thi đua yêu nước, các cuộc vận động; cơng tác vận động nhân dân cịn gặp nhiều
khó khăn.
3.1.2. Nguyên nhân của những thách thức
Nguyên nhân của những hạn chế trên là do một số tổ chức Đảng, chính
quyền cịn coi nhẹ cơng tác dân vận; hệ thống chính trị ở cơ sở cịn yếu kém về
nhiều mặt; ở một số nơi cấp ủy Đảng còn mất đồn kết; . . . từ đó đã làm giảm
sút vai trị hạt nhân lãnh đạo và đồn kết của tổ chức Đảng; hoạt động của
MTTQVN và các đoàn thể ở nhiều nơi cịn mang tính hình thức chưa sát với
thực tế; các thế lực thù địch ra sức phá hoại khối đoàn kết của nhân dân ta với
nhiều âm mưu, thủ đoạn, chúng kích động vấn đề “dân chủ, nhân quyền, dân
tộc, tôn giáo” để gây ly gián, chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
3.2. Trách nhiệm bản thân trong phát huy đại đoàn kết dân tộc
Mỗi cá nhân cần phải luôn phấn đấu, tu dưỡng đạo đức lối sống của bản
thân theo gương của chủ tịch Hồ Chí Minh

Ln cố gắng học tập rèn luyện, hồn thành tốt những cơng việc và nhiệm
vụ được giao; gương mẫu trong các hoạt động, tích cực vận dụng sáng tạo trong
việc giải quyết công việc, gương mẫu về mặt đạo đức và giữ vững lập trường.
Tùy theo sức và vị trí của mình bản thân cá nhân luôn nâng cao tinh thần
cảnh giác, chống những luận điệu xun tạc về Đảng, về chủ tịch Hồ Chí Minh.
Khơng ngừng nâng cao trình độ của bản thân để có thể thích ứng được với điều
kiện xã hội mới.
Đẩy mạnh công tác tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao kiến thức và trình độ
chun mơn của bản thân. Thực hiện tuyên truyền đường lối chính sách của
Đảng, pháp luật của nhà nước đến quần chúng nhân dân.
Cần phải có tư tưởng chính trị vững vàng, xác định phấn đấu vì một mục
tiêu chung là hiệu quả cơng việc, khơng gây mất đoàn kết trong nội bộ.



×