Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Nội dung tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc và vấn đề nêu cao tinh thần đọc lập tự chủ, tự lực tự cường trong thời kỳ hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.29 KB, 28 trang )

MỤC LỤ

MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................2
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC VÀ TỰ
LỰC TỰ CƯỜNG...........................................................................................2
1.1. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc
.......................................................................................................................2
1.1.1. Vai trị của đại đồn kết dân tộc......................................................2
1.1.2. Lực lượng của đại đoàn kết dân tộc...............................................3
1.1.3. Điều kiện xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc................................4
1.1.4. Hình thức tổ chức khối đại đồn kết dân tộc...................................6
1.1.5. Phương thức thực hiện đại đoàn kết dân tộc...................................7
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập tự chủ..........................................8
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự lực, tự cường.....................................10
1.3.1. Hồ Chí Minh coi tự lực, tự cường là tiền đề của độc lập tự do và là
điều kiện tiên quyết để phát triển quan hệ, vị thế ngoại giao..................10
1.3.2. Hồ Chí Minh khẳng định phát huy tinh thần tự lực, tự cường là
trách nhiệm của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong mọi chặng đường
lịch sử......................................................................................................11
1.3.3. Hồ Chí Minh cho rằng tinh thần tự lực tự cường của dân tộc phải
được xây đắp bằng ý chí tự lực tự cường, tự lực cánh sinh của mỗi cá
nhân.........................................................................................................12

i


1.3.4. Hồ Chí Minh khẳng định việc phát huy tinh thần tự lực, tự cường
hồn tồn khơng loại trừ việc tranh thủ sự giúp đỡ của thế giới trên
nguyên tắc lấy nội lực làm nhân tố quyết định........................................14
II. THỰC TRẠNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC TẠI VIỆT NAM


HIỆN NAY ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ NÊU CAO TINH THẦN ĐỘC LẬP TỰ
CHỦ, TỰ LỰC TỰ CƯỜNG.......................................................................14
2.1. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về vấn đề nêu cao tinh thần
độc lập tự chủ, tự lực tự cường trong thời kỳ hội nhập.........................14
2.2. Một số điểm mạnh và hạn chế trong công tác vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc nêu cao tinh thần độc lập tự chủ,
tự lực tự cường...........................................................................................16
2.2.1. Điểm đạt được...............................................................................16
2.2.2. Một số khó khăn tồn tại.................................................................18
III. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG KHÓ KHĂN VÀ GIẢI PHÁP
NÂNG CAO ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC NÂNG CAO TINH THẦN
ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ, TỰ LỰC....................................................................19
3.1. Phát huy ý chí tự lực, tự cường và khối đại đồn kết theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh..........................................................19
3.1.1. Chủ động đẩy mạnh hội nhập quốc tế trên tinh thần giữ vững và
phát huy bản sắc dân tộc..........................................................................19
3.1.2. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.........................20
3.1.3. Ý chí tự lực, tự cường trong cơng cuộc đổi mới phải được thể hiện
trong tất cả các lĩnh vực..........................................................................20
3.2. Trách nhiệm bản thân trong phát huy đại đoàn kết dân tộc, nâng
cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực........................................................22
KẾT LUẬN........................................................................................................24
ii


TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................25

iii



MỞ ĐẦU
Đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu, là cội nguồn sức mạnh
của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó được hun đúc, hình thành và phát triển
bởi tinh thần yêu nước, ý chí độc lập, tự chủ của dân tộc ta trải qua hàng nghìn
năm dựng nước và giữ nước, chiến thắng mọi thiên tai, địch họa, để xây dựng
nên Tổ quốc Việt Nam ngày càng cường thịnh. Thực hiện đại đoàn kết dân tộc
là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng nước ta. Đảng ta khẳng định,
mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phải phản ánh
được nguyện vọng, quyền lợi của đại đa số dân chúng để có thể tập hợp, đồn
kết mọi lực lượng cho cách mạng.
Ngay từ khi Đảng ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tập trung xây dựng
Mặt trận Dân tộc thống nhất để quy tụ mọi tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước. Tùy từng giai đoạn cách mạng, Đảng ta đã xây dựng các tổ chức: Hội
Phản đế đồng minh (năm 1930); Mặt trận Dân chủ (năm 1936); Mặt trận Nhân
dân phản đế (năm 1939); Mặt trận Việt Minh (năm 1941);… Đảng Cộng sản là
thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhưng là thành viên lãnh đạo Mặt
trận. Vì vậy, Đảng là linh hồn của khối đại đồn kết dân tộc. Cho nên, Đảng
phải có chính sách đúng đắn và có năng lực lãnh đạo thì mới giành được địa vị
lãnh đạo Mặt trận. Đảng lãnh đạo Mặt trận bằng việc xác định chính sách Mặt
trận đúng đắn. Đảng cần tuyên truyền, giáo dục, nêu gương, lấy lòng chân thành
để đối xử, cảm hóa, khêu gợi tinh thần tự giác, tự nguyện, tôn trọng các tổ chức,
lắng nghe ý kiến người ngoài Đảng… Đảng phải thực sự đoàn kết nhất trí, bởi
sức mạnh của Đảng là ở sự đồn kết nhất trí. Đó là lý do tác giả chọn đề tài :
“Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và vấn đề nêu cao
tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường trong thời kỳ hội nhập"

1


NỘI DUNG

I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN TỘC VÀ
TỰ LỰC TỰ CƯỜNG
1.1. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc
1.1.1. Vai trị của đại đồn kết dân tộc
Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành cơng của cách
mạng Hồ Chí Minh cho rằng, cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân ta cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX bị thất bại có một ngun nhân sâu xa là cả nước đã
khơng đồn kết được thành một khối thống nhất. Người thấy rằng, muốn đưa
cách mạng đến thành cơng phải có lực lượng cách mạng đủ mạnh để chiến thắng
kẻ thù và xây dựng thành cơng xã hội mới; muốn có lực lượng cách mạng mạnh
phải thực hiện đại đoàn kết, quy tụ mọi lực lượng cách mạng thành một khối
vững chắc. Do đó, đồn kết trở thành vấn đề chiến lược lâu dài của cách mạng,
là nhân tố bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng.
Hồ Chí Minh đi đến kết luận: muốn được giải phóng, các dân tộc bị áp bức và
nhân dân lao động phải tự mình cứu lấy mình bằng đấu tranh cách mạng, bằng
cách mạng vô sản. Người đã vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về cách mạng vô sản vào thực tiễn Việt Nam, xây dựng lý luận cách mạng
thuộc địa, trong đó
Người quan tâm nhiều đến vấn đề lực lượng cách mạng và phương pháp
cách mạng. Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết
phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với
những đối tượng khác nhau, nhưng đại đoàn kết dân tộc luôn luôn được Người
nhận thức là vấn đề sống cịn của cách mạng.
Hồ Chí Minh đã đưa ra nhiều luận điểm về vấn đề đoàn kết dân tộc, đoàn kết
quốc tế: Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành cơng; Đồn kết là điểm
2


mẹ; điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt; Đoàn kết, đoàn kết, đại
đoàn kết; Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng.
Hồ Chí Minh ln luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần quan

điểm coi sức mạnh của cách mạng là sức mạnh của nhân dân: "Dễ trăm lần
khơng dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong". Đồng thời, Người lưu ý
rằng, nhân dân bao gồm nhiều lứa tuổi, nghề nghiệp, nhiều tầng lớp, giai cấp,
nhiều dân tộc, tôn giáo, do đó phải đồn kết nhân dân vào trong Mặt trận dân tộc
thống nhất. Để làm được việc đó, Người yêu cầu Đảng, Nhà nước phải có chủ
trương, chính sách đúng đắn, phù hợp với các giai cấp, tầng lớp, trên cơ sở lấy
lợi ích chung của Tổ quốc và những quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động,
làm "mẫu số chung" cho sự đoàn kết.
1.1.2. Lực lượng của đại đồn kết dân tộc
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm Dân, có nội hàm rất rộng. Người
dùng các khái niệm này để chỉ "mọi con dân nước Việt", "con Rồng cháu Tiên",
không phân biệt dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người
khơng tín ngưỡng, không phân biệt già, trẻ, gái trai, giàu, nghèo. Nói đến đại
đồn kết dân tộc cũng có nghĩa phải tập hợp được mọi người dân vào một khối
trong cuộc đấu tranh chung. Người đã nhiều lần nêu rõ: "Ta đoàn kết để đấu
tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta cịn phải đồn kết để xây dựng
nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lịng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân
dân thì ta đoàn kết với họ". Với tinh thần đoàn kết rộng rãi, Người đã dùng khái
niệm đại đoàn kết dân tộc để định hướng cho việc xây dựng khối đoàn kết tồn
dân trong suốt tiến trình cách mạng, bao gồm mọi giai cấp, dân tộc, tôn giáo.
Muốn thực hiện được đại đồn kết tồn dân thì phải kế thừa truyền thống
yêu nước- nhân nghĩa- đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lịng khoan dung, độ
lượng với con người. Người đã nhiều lần nhắc nhở: "Bất kỳ ai mà thật thà tán
thành hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây
3


chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ". Để thực hiện
được đoàn kết, Người cịn căn dặn: Cần xóa bỏ hết mọi thành kiến, cần phải thật
thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ để phục vụ nhân dân.

Tư tưởng đại đồn kết của Hồ Chí Minh có lập trường giai cấp rõ ràng, đó
là đại đồn kết tồn dân với nịng cốt là khối liên minh cơng - nơng - trí thức do
Đảng của giai cấp cơng nhân lãnh đạo. Muốn xây dựng khối đại đoàn kết dân
tộc rộng lớn như vậy, thì phải xác định rõ đâu là nền tảng của khối đại đoàn kết
dân tộc và những lực lượng nào tạo nên cái nền tảng đó. Người đã chỉ rõ: Đại
đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân
dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Người
coi công nông cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững,
gốc tốt, cịn phải đồn kết các tầng lớp nhân dân khác. "Lực lượng chủ yếu trong
khối đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng
của Mặt trận dân tộc thống nhất. Về sau, Người nêu thêm: lấy liên minh công nơng - lao động trí óc làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân. Nền tảng
càng được củng cố vững chắc thì khối đại đồn kết dân tộc càng được mở rộng,
không e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đồn kết dân tộc.
1.1.3. Điều kiện xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng để xây dựng được khối đại đoàn kết dân
tộc cần phải dựa trên các nguyên tắc, đó là:
Thứ nhất, phải được xây dựng trên cơ sở thống nhất giữa lợi ích của quốc
gia, dân tộc với quyền lợi cơ bản của các giai tầng trong xã hội.
Trong mỗi quốc gia dân tộc bao giờ cũng tồn tại những tầng lớp, giai cấp
khác nhau. Mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp lại có lợi ích khác nhau nhưng tất cả các
lợi ích khác nhau đó đều có một điểm chung là lợi ích dân tộc. Quyền lợi của
các tầng lớp, giai cấp có thực hiện được hay khơng cịn phụ thuộc vào dân tộc

4


đó có được độc lập tự do, có đồn kết hay không và việc nhận thức, giải quyết
đúng đắn các quan hệ lợi ích đó như thế nào.
Ngun tắc đại đồn kết dân tộc theo Hồ Chí Minh là tìm kiếm, trân trọng
và phát huy những yếu tố tương đồng, thu hẹp đến mức thấp nhất những yếu tố

khác biệt, mâu thuẫn và Người bao giờ cũng tìm ra những yếu tố của đoàn kết
dân tộc thay cho sự đào sâu tách biệt, thực hiện sự quy tụ thay cho việc loại trừ
những yếu tố khác nhau về lợi ích.
Theo Hồ Chí Minh, lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ, là bình đẳng, dân chủ, tự do. Lợi ích tối cao này là ngọn cờ
đoàn kết, là sức mạnh dân tộc và là nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng
Việt Nam. Đó cũng là nguyên tắc bất biến trong tư tưởng Hồ Chí Minh để
Người tìm ra những phương pháp để thực hiện nguyên tắc đó trong chiến lược
đại đồn kết dân tộc của mình.
Thứ hai, tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của nhân dân
Đây là nguyên tắc xuất phát từ tư tưởng lấy dân làm gốc của ông cha ta
được Người kế thừa và nâng lên một bước trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo
ra lịch sử.
Tin vào dân, dựa vào dân và lấy dân làm gốc có nghĩa là phải tin tưởng
vững chắc vào sức mạnh to lớn và năng lực sáng tạo của nhân dân, phải đánh giá
đúng vai trò của lực lượng nhân dân. Người viết “Có lực lượng dân chúng việc
to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Khơng có thì việc gì làm cũng không
xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng,
đầy đủ mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi khơng ra”.
Thứ ba, đại đồn kết một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo; đồn kết
lâu dài, chặt chẽ
5


Theo Hồ Chí Minh, có đồn kết mới tạo nên sức mạnh của cách mạng.
Muốn đồn kết thì trước hết phải có Đảng cách mạng để trong thì vận động, tổ
chức dân chúng, ngồi thì liên minh với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản
ở mọi nơi. Như vậy, để đoàn kết và lãnh đạo cách mạng, điều kiện tiên quyết là
phải có một Đảng cách mạng với tính cách là Bộ tham mưu, là hạt nhân để tập

hợp quần chúng trong nước và tổ chức, giữ mối liên hệ với bè bạn ở ngoài nước.
Đảng cách mạng muốn thống nhất về chính trị và tư tưởng, đảm bảo được vai
trị đó, thì phải giữ vững bản chất của giai cấp công nhân, phải được vũ trang
bằng chủ nghĩa chân chính, khoa học và cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác –
Lênin.
1.1.4. Hình thức tổ chức khối đại đồn kết dân tộc
Hình thức tổ chức đại đoàn kết toàn dân tộc là Mặt trận dân tộc thống nhất
được xây dựng trên nền tảng khối liên minh cơng – nơng – trí thức, dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Để thực hiện đại đoàn kết dân tộc, trước hết
phải tin vào dân, dựa vào dân, vì lợi ích của nhân dân để phát động các phong
trào thi đua yêu nước theo yêu cầu cách mạng trong từng thời kỳ khác nhau, thời
kỳ kháng chiến, hịa bình, trong sản xuất, chiến đấu, xây dựng đất nước. Sức
mạnh của đại đoàn kết là ở nhân dân. Vì vậy, cần thực hiện đồn kết lâu dài,
rộng rãi, chặt chẽ, tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo. Cần phải vận động nhân dân,
giác ngộ để dân tự nguyện tham gia Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Hồ Chí Minh cho rằng: “đồn kết là một chính sách dân tộc,
khơng phải là một thủ đoạn chính trị. Ta đồn kết để đấu tranh cho thống nhất và
độc lập của Tổ quốc, ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà”.Người đã tổng
kết: Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết. Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng.
Đồn kết cần trên cơ sở hiệp thương dân chủ, chân thành, thẳng thắn,
nhân ái, gắn với đấu tranh, tự phê bình và phê bình, có sự nhất trí về mục đích
và lập trường rõ ràng. Đồn kết phải trên cơ sở kế thừa truyền thống yêu nước 6


nhân nghĩa của dân tộc. Muốn đồn kết phải có lòng khoan dung, độ lượng với
con người, quy tụ mọi lực lượng. Bác Hồ cũng nhiều lần khẳng định trong mấy
triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng đều là đồng bào ta, ít nhiều
họ đều có lịng yêu nước. Vì thế nên quy tụ mọi người bằng lòng chân thành,
thương dân. Ngay cả “với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình
thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đại đồn kết…”

1.1.5. Phương thức thực hiện đại đoàn kết dân tộc
Hồ Chí Minh cũng chỉ ra phương thức thực hiện đại đồn kết dân tộc, đó
là phải biết áp dụng phương pháp tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục,
nghĩa là đồn kết phải trên cơ sở tự nguyện, khơng thể áp đặt, ép buộc. Vì vậy
phải tuyên truyền, vận động làm cho mọi người nhận thức được sự cần thiết phải
đoàn kết để họ tự nguyện, tự giác tham gia vào một tổ chức đoàn thể trong khối
đại đoàn kết. Trong tuyên truyền, vận động, giáo dục phải phản ánh đúng
nguyện vọng sâu xa và những quyền lợi cơ bản, chung nhất của toàn thể dân tộc;
phản ánh nguyện vọng, quyền lợi riêng phù hợp với từng giai cấp, tầng lớp, từng
cộng đồng xã hội cụ thể. Phải nói và viết ngắn gọn, dễ hiểu, giản dị nhưng vẫn
rất sâu sắc, sử dụng biện pháp nêu gương, kết hợp giữa lời nói và việc làm.
Phương pháp xử lý các mối quan hệ trong xã hội cũng khác nhau, đối với
lực lượng cách mạng (chí cốt là cơng nhân, nơng dân, lao động chân tay, lao
động trí óc) thì phải biết khai thác, phát huy sự thống nhất, tương đồng, hạn chế,
khắc phục, tiến tới xoá bỏ dần những khác biệt trong mục tiêu, lợi ích; đối với
những bất đồng trong nội bộ thì phương pháp xử lý là thẳng thắn, có lý và có
tình; đối với lực lượng trung gian (các tầng lớp trên, các trí thức thượng lưu,
nhân sĩ, hồng tộc, quan lại…) thì phải biết xố bỏ mọi thành kiến, mặc cảm,
khơi gợi, cổ vũ ý thức dân tộc, tinh thần yêu nước, chân thành hợp tác và trọng
dụng; đối với các thế lực thù địch thì cần phải chủ động, kiên quyết tiến công
tiêu diệt trên cơ sở phân hố, cơ lập chúng đến mức cao độ.
7


Khối đại đoàn kết bao gồm nhiều tầng lớp, giai cấp khác nhau; nhiều cá
nhân khác nhau có lợi ích chung nhưng lại cũng có những lợi ích riêng khác
nhau. Những lợi ích riêng đó có thể xung đột nhau, thậm chí lợi ích riêng của
một bộ phận nào đó có thể đi ngược lại lợi ích chung. Do đó phải có tổ chức
chặt chẽ để ln đặt được lợi ích chung lên trên hết, trước hết; không để cho một
bộ phận hoặc cá nhân nào có thể vì lợi ích riêng mà làm hại đến lợi ích chung.

1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập tự chủ
Phong cách là “lề lối, cung cách, cách thức, phong thái, phong độ và
phẩm cách đã trở thành nền nếp ổn định của một người hoặc của một lớp người,
được thể hiện trong tất cả các mặt hoạt động, như lao động, học tập, sinh hoạt,
ứng xử, diễn đạt (nói và viết)… tạo nên những giá trị, những nét riêng biệt của
chủ thể đó”(1). Tư duy, theo Từ điển tiếng Việt, là “giai đoạn cao của quá trình
nhận thức, đi sâu vào bản chất và phát hiện tính quy luật của sự vật bằng những
hình thức như biểu tượng, khái niệm, phán đốn, suy lý”.
Có thể hiểu, phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ Chí Minh
là một trong những nét độc đáo trong phong cách tư duy Hồ Chí Minh; là cơ sở
cho việc hình thành những luận điểm, tư tưởng đặc sắc mang dấu ấn Hồ Chí
Minh, tạo nên sự khác biệt giữa Hồ Chí Minh với nhiều nhà tư tưởng, nhà lãnh
đạo tiền bối và đương thời.
Với Hồ Chí Minh, độc lập là khơng phụ thuộc, không bắt chước, không
theo đuôi, giáo điều, tránh lối cũ, đường mịn và tự mình phải ln tìm tịi, suy
nghĩ. Tự chủ là tự mình làm chủ suy nghĩ, làm chủ bản thân và cơng việc của
mình, tự mình thấy trách nhiệm trước đất nước và dân tộc. Sáng tạo là vận dụng
đúng quy luật chung cho phù hợp với cái riêng, cái đặc thù; sẵn sàng từ bỏ
những cái cũ, lạc hậu, tìm tịi, đề xuất những cái mới để có thể trả lời được
những địi hỏi của thực tiễn cuộc sống đặt ra. Nhờ tinh thần độc lập, tự chủ và

8


sáng tạo, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra quy luật của cách mạng Việt Nam, phù
hợp với quy luật phát triển chung của nhân loại.
Chính tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo đó đã tạo ra sự khác biệt trong
cách đi, bước đi, quan điểm, tư tưởng giữa Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh với
các nhà yêu nước cách mạng tiền bối và cùng thời với Người. Để đưa ra quyết
định lựa chọn cứu nước theo con đường cách mạng vô sản, trong suốt 10 năm,

từ năm 1911 đến năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã tự mình khảo sát, nghiên cứu
các cuộc cách mạng ở các nước tư bản Mỹ, Anh, Pháp…, đã sống, lao động, học
tập, tiếp xúc với đủ hạng người, từ tầng lớp thượng lưu, tinh hoa đến những
người lao động nghèo khổ nhất ở châu Á, Âu, Phi, Mỹ La-tinh. Điều đó giúp
Người mở rộng tầm mắt, tăng cường vốn sống, hiểu biết về cuộc sống, tình
cảnh, số phận con người, nhất là người lao động ở các nước tư bản và các nước
thuộc địa.
Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Hồ Chí Minh coi đó là kim chỉ nam cho
hành động, là “mặt trời soi sáng”, “trí khơn”, “cái cẩm nang thần kỳ” có tính
phương pháp luận chỉ dẫn hành động. Người coi việc học tập chủ nghĩa Mác Lê-nin là học tập cái tinh thần xử trí đối với mọi việc, với người và với mình; là
nắm vững lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lê-nin để
giải quyết các vấn đề của cách mạng Việt Nam. Người khơng tự hạn chế, tự trói
buộc mình và cũng khơng trói buộc người khác hoặc để người khác trói buộc
mình vào từng câu chữ. Tư duy của Hồ Chí Minh là sự thấm nhuần lời chỉ dẫn
của Lê-nin: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đó đã
xong xi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt
nền móng cho mơn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát
triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc
sống”.

9


1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự lực, tự cường
1.3.1. Hồ Chí Minh coi tự lực, tự cường là tiền đề của độc lập tự do và là điều
kiện tiên quyết để phát triển quan hệ, vị thế ngoại giao.
Thực tế đấu tranh giành độc lập của các dân tộc thuộc địa đã giúp Hồ Chí
Minh hiểu rằng: Cơng cuộc giải phóng phải là cơng cuộc “tự giải phóng” chứ
khơng thể trơng chờ vào thiện chí hay sự bố thí, rộng lượng của những kẻ cướp
nước. Vì thế, lên án chủ nghĩa thực dân bao nhiêu thì Người cũng quyết liệt bấy

nhiêu trong việc kêu gọi nhân dân các dân tộc bị áp bức tiến hành cuộc đấu tranh
tự giải phóng: “Vận dụng cơng thức của Các Mác, chúng tơi xin nói với anh em
rằng, cơng cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của
bản thân anh em”.'
Trở về lãnh đạo cách mạng Việt Nam sau 30 năm hoạt động quốc tế,
Người ln nhấn mạnh: Việc giải phóng của ta phải do ta tự làm lấy chứ không
thể trông mong vào lực lượng bên ngoài. Tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi
vào tháng 8/năm 1945, Người đã kêu gọi đồng bào “đem sức ta mà giải phóng
cho ta”. Sức mạnh như “triều dâng, thác đổ” của tinh thần dân tự giải phóng đã
mang lại nền độc lập thiêng liêng cho Tổ quốc.
Từ kinh nghiệm và bài học thực tế của Việt Nam và thế giới, Người đã rút
ra kết luận: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác
giúp đỡ thì khơng xứng đáng được độc lập”. Sau khi đã giành được chính quyền,
với vị thế của một nguyên thủ Quốc gia, Hồ Chí Minh tìm mọi cách để duy trì
sự độc lập, tự chủ của nhân dân Việt Nam. Người nói: “Độc lập nghĩa là chúng
tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tơi, khơng có sự can thiệp ở ngồi
vào”, kể cả sự can thiệp của các đồng minh. Khi động viên tồn dân tích cực
tham gia và ủng hộ kháng chiến vì nền độc lập thiêng liêng của Tổ quốc, Người
nói rõ: “Mỗi một người dân phải hiểu: Có tự lập mới độc lập, có tự cường, mới
tự do”.
10


Là một nhà hoạt động quốc tế lỗi lạc, Hồ Chí Minh ln coi đồn kết
quốc tế là chiến lược trọng yếu của Đảng nhưng Người hiểu rằng, muốn tăng
cường đồn kết quốc tế thì trước hết phải tăng cường nội lực dân tộc, phát huy
tinh thần tự lực cánh sinh. Người nhấn mạnh: “Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ
thắng. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to, tiếng mới
lớn”. Ngược lại, nếu khơng có thực lực thì khơng thể nói gì đến ngoại giao, càng
khơng thể mong muốn sự bình đẳng, độc lập, tự chủ mà “chỉ là một khí cụ trong

tay của kẻ khác, dầu là kẻ ấy có thể là bạn đồng minh của ta vậy”. Tóm lại, giữa
tự chủ, tự lực, tự cường và sức mạnh, vị thế dân tộc có mối quan hệ tỉ lệ thuận
với nhau.
1.3.2. Hồ Chí Minh khẳng định phát huy tinh thần tự lực, tự cường là trách
nhiệm của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong mọi chặng đường lịch sử.
Là biểu hiện của ý chí và tinh thần độc lập, tự chủ, ngay từ khi tiếp cận
chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã hiểu rằng: Nếu biến lý luận Mác Lênin thành “kinh thánh” và “cơng thức sáo mịn” thì tức là đã gạt bỏ nó ra khỏi
cuộc sống. Vì thế, Người đã rất sáng tạo trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin vào thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Người đã đặt câu hỏi: “Mác đã
xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử nhưng lịch
sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là tồn thể nhân
loại”. Sự sáng tạo của Hồ Chí Minh khơng chỉ làm cho học thuyết Mác - Lênin
được “Việt hóa”, thích ứng với điều kiện Việt Nam mà còn giúp nhân dân Việt
Nam thoát khỏi tâm lý thụ động để phát huy truyền thống tự lực, tự cường của
dân tộc để đi đến những thắng lợi vĩ đại.
Với sự trải nghiệm của một người đã từng đi “năm châu, bốn biển”, ngay
sau Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh đã cho rằng nền văn hóa mới của Việt
Nam phải góp phần tẩy bỏ tâm lý nô lệ để xây dựng một tinh thần mới - “tinh
thần độc lập tự cường”. Thực hiện nguyên tắc độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường
11


của Hồ Chí Minh, trong mọi chặng đường cách mạng, Đảng Cộng sản và Nhà
nước Việt Nam đều nỗ lực phát huy tinh thần “Tự lực cánh sinh”. Nếu Cách
mạng Tháng Tám diễn ra theo tinh thần “mang sức ta mà giải phóng cho ta” thì
phương châm cuộc kháng chiến chống Pháp là “Toàn dân, toàn diện, trường kỳ
và tự lực cánh sinh”. Theo Hồ Chí Minh, Việt Nam khơng chỉ cần tự lực, tự
cường trong công cuộc kháng chiến, giành độc lập mà còn phải tự lực tự cường
cả trong việc xây dựng chế độ mới, đưa miền Bắc Việt Nam vững bước đi lên
chủ nghĩa xã hội. Người yêu cầu: “Trước đây, nhân dân ta đã nêu cao tinh thần
tự lực cánh sinh, trường kỳ kháng chiến, thì ngày nay chúng ta càng phải nêu

cao tinh thần tự lực cánh sinh, cần kiệm xây dựng nước nhà”. Người căn dặn,
trong mọi hồn cảnh, ln phải “lấy tự lực cánh sinh làm gốc để ứng phó với
mọi phát triển của tình hình; dù tình hình ấy thuận lợi hay gay go thì ta vẫn chủ
động” bởi sự chủ động sẽ mang đến cơ hội thành công và mọi sự phụ thuộc, lệ
thuộc đều dẫn đến việc đánh mất quyền độc lập dân tộc.
1.3.3. Hồ Chí Minh cho rằng tinh thần tự lực tự cường của dân tộc phải được
xây đắp bằng ý chí tự lực tự cường, tự lực cánh sinh của mỗi cá nhân.
Tinh thần dân tộc là sự kết tinh ý chí, sức mạnh của tồn dân nên việc
phát huy tinh lần tự lực, tự cường không chỉ là trách nhiệm của lực lượng lãnh
đạo mà là của mn dân. Tính tự lực, tự cường khơng chỉ giúp mỗi con người
thành cơng mà cịn giúp họ trở thành những người có lịng tự trọng, hiểu biết và
có một cuộc đời hữu ích. Do đó, mỗi người dân phải tự tìm việc làm, tự lên kế
hoạch, tự vượt qua khó khăn để đạt được kết quả tốt nhất trong cơng việc; mỗi
khi gặp khó khăn thì tinh thần tự lực, tự cường trong họ càng phải được trỗi dậy
và phát huy cao độ. Hồ Chí Minh cịn cho rằng tự lực, tự chủ là phẩm chất,
quyền lợi mang “tính người” và nếu con người khơng có quyền tự chủ thì khơng
cịn là con người nữa. Vì thế, Người đã viết: “Thế thượng thiên tân hòa vạn khổ/
Mạc như thất khước tự do quyền!/ Nhất ngôn, nhất động bất tự chủ/ Như ngưu,
như mã, nhậm nhân khiên” (Trên đời ngàn vạn điều cay đắng/ Cay đắng chi
12


bằng mất tự do/ Mỗi việc, mỗi lời không tự chủ/ Để cho người dắt tựa trâu bò).
Được tự chủ, làm chủ cuộc đời là hạnh phúc lớn nhất nên khi chế độ dân chủ ra
đời, Hồ Chí Minh đã căn dặn nhân dân: Dân chủ khơng có nghĩa là muốn ăn bao
nhiêu thì ăn, muốn làm bao nhiêu thì làm mà phải có tinh thần chủ động khắc
phục khó khăn.
Trong hồn cảnh đất nước cịn nghèo, miền Nam chưa được giải phóng
thì tinh thần tự lực, tự cường càng cần phải phát huy. Hồ Chí Minh căn dặn: “Cứ
chờ Đảng và chờ Chính phủ giúp đỡ, thì khơng đúng đâu. Đảng và Chính phủ đề

ra chính sách, phái cán bộ về hướng dẫn, thế là giúp đỡ. Nhưng đó là phụ. Lực
lượng nhân dân tổ chức nhau lại là chính. Khơng nên ỷ lại, mà phải tự lực cánh
sinh”. Hồ Chí Minh yêu cầu tinh thần này phải được lan tỏa và trở thành ý thức
tự giác trong mọi tầng lớp nhân dân. Bộ đội phải coi tăng gia sản xuất cũng là
một bộ phận trong chính sách tự lực cánh sinh; các thương binh, bệnh binh, gia
đình liệt sỹ mặc dù nhận được sự giúp đỡ của nhân dân, sự ưu tiên của chính
phủ, cũng “cần phải cố gắng tăng gia sản xuất, tự lực cánh sinh, tùy theo khả
năng mà tham gia các công tác trong xã, chớ nên yêu cầu quá đáng, ra vẻ “công
thần”. Tự lực, tự cường là phẩm chất cao quý mà người có đạo đức, có lịng tự
trọng phải có nên trong nhà trường, ngồi việc giáo dục cho học trị lịng u
nước thương nịi thì “phải dạy cho họ có chí tự lập tự cường, quyết không chịu
thua kém ai, quyết khơng chịu làm nơ lệ”.
Trong cơng cuộc giải phóng phụ nữ thì “chị em phụ nữ khơng nên ngồi
chờ Chính phủ, chờ Đảng ra chỉ thị giải phóng cho mình mà tự mình phải tự
cường, phải đấu tranh” cho quyền lợi của chính mình… Sức mạnh của dân tộc
được quy tụ bởi sức mạnh của mỗi con người nên phát huy tinh thần tự lực, tự
cường của mỗi cá nhân trong xã hội là quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh

13


1.3.4. Hồ Chí Minh khẳng định việc phát huy tinh thần tự lực, tự cường hồn
tồn khơng loại trừ việc tranh thủ sự giúp đỡ của thế giới trên nguyên tắc lấy
nội lực làm nhân tố quyết định
Với tư duy biện chứng, Hồ Chí Minh thấy rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa
nội lực và ngoại lực và Người luôn khẳng định: Tăng cường sức mạnh nội lực
khơng có nghĩa là đóng kín, khước từ sự giúp đỡ ở bên ngồi mà là phải tìm mọi
cách gia tăng sự ủng hộ của thế giới để nhân lên sức mạnh của nội lực. Ngay
trong cuộc sống của mỗi con người, có nhiều việc nếu được người khác giúp đỡ
thì sẽ trở nên dễ dàng hơn. Dù vậy, nội lực luôn giữ vai trò quyết định, ngoại lực

chỉ gia tăng sức mạnh cho nội lực mà thôi. Hơn nữa, sự giúp đỡ bên ngồi phải
thơng qua lực lượng bên trong mới phát huy được tác dụng. Vì thế, Hồ Chí
Minh khẳng định: “Muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy
mình đã”. Khi Việt Nam đánh Mỹ và nhận được sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô
và Trung Quốc, Hồ Chí Minh vẫn kiên trì nhắc nhở cán bộ và nhân dân: “Các
nước bạn ta, trước hết là Liên Xô và Trung Quốc ra sức giúp đỡ ta một cách vơ
tư, khẳng khái, để chúng ta có thêm điều kiện tự lực cánh sinh” chứ không phải
để ta sinh ra tật ỷ lại, trông chờ vào người khác. Trên thực tế, sức hậu thuận của
thế giới thường tỷ lệ thuận với những thắng lợi của nhân dân ta và điều đó đã
nói lên vai trị quyết định của nội lực.
II. THỰC TRẠNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC TẠI VIỆT
NAM HIỆN NAY ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ NÊU CAO TINH THẦN ĐỘC
LẬP TỰ CHỦ, TỰ LỰC TỰ CƯỜNG
2.1. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về vấn đề nêu cao tinh thần độc lập
tự chủ, tự lực tự cường trong thời kỳ hội nhập
Sau 35 năm Đổi mới, Việt Nam đã có được cơ đồ, vị thế, tiềm lực to lớn
chưa từng có. Những thành tựu đáng tự hào đó là sự hội tụ của nhiều yếu tố,
trong đó phải kể đến sức mạnh của ý chí tự lực, tự cường. Thấu hiểu nguyên
14


nhân đó, Văn kiện Đại hội XIII đã coi phát huy nội lực, ý chí tự lực, tự cường là
một trong những động lực quan trọng để phát triển đất nước hiện nay. Tuy
nhiên, cần phải xác định rõ rằng: Nội lực không chỉ là tiền của đang nằm trong
“túi dân” mà là tồn bộ trí tuệ, tâm huyết, ý chí, quyết tâm của mỗi con người
Việt Nam. Để phát huy nội lực, trước hết, chúng ta phải phát huy sức mạnh của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện phương châm nhà
nước và nhân dân cùng làm để “xóa đói, giảm nghèo”, xóa bỏ hết bần hàn, lạc
hậu.
Đại đoàn kết toàn dân tộc - sức mạnh to lớn của dân tộc Việt Nam, cần

được tiếp tục phát huy. Nếu xưa kia Hồ Chí Minh ln khẳng định “đồn kết là
một chính sách dân tộc, khơng phải là một thủ đoạn chính trị” thì từ Đại hội
Đảng IX đến nay, đại đoàn kết toàn dân tộc luôn là “thành tố” của chủ đề Đại
hội với hàm nghĩa đây là một động lực to lớn để phát triển đất nước.
Văn kiện Đại hội XIII có một điểm mới là ngay trong chủ đề đại hội đã
nhấn mạnh chủ trương “sức mạnh đại đoàn kết dân tộc kết hợp với sức mạnh
thời đại”. Nói đến sức mạnh thời đại là nói đến sức mạnh của hợp tác quốc tế và
khoa học, công nghệ. Ngày nay, dù hướng ra bên ngoài để gia tăng nội lực là xu
hướng phát triển tất yếu của các quốc gia nhưng nội lực vẫn là quyết định và chỉ
khi thực sự có nội lực, ta mới có thể đưa ra quan điểm độc lập của mình về các
vấn đề quốc tế và tiến hành “hịa nhập” mà khơng “hịa tan”.
Trên thực tế, mọi động lực phải thông qua động lực con người mới trở
thành sức mạnh; cho nên, Hồ Chí Minh từng khẳng định: Muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa. Từ quan điểm
của Hồ Chí Minh, rằng “vơ luận việc gì, đều do con người làm ra, và từ nhỏ đến
to, từ gần đến xa, đều thế cả”, Báo cáo Chính trị Đại hội XIII đã khẳng định
“phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao” là một trong
3 đột phá chiến lược của nhiệm kỳ này.
15


Trong thế giới hội nhập và cạnh tranh hiện nay, cạnh tranh bằng tâm trí,
bằng “chất xám” là hình thức cạnh tranh chủ yếu. Hơn nữa, dân trí có phát triển
thì kinh tế mới được mở mang để trở thành kinh tế tri thức; dân trí có lên cao thì
nhân quyền mới được tơn trọng. Tuy nhiên, dân trí khơng phải tự nhiên mà có
mà đó là sản phẩm của giáo dục; cho nên, phát triển giáo dục là một trong những
giải pháp quan trọng để tăng cường sức mạnh của nội lực. Phải giáo dục con
người có phong cách tư duy độc lập, tự chủ, có tinh thần tự học và lấy tự học
“làm cốt”. Do đó, việc đổi mới giáo dục ở nước ta phải hướng tới nền giáo dục
mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. Cũng phải phát huy dân chủ để

mỗi người dám nói lên sự thật, chính kiến thật và hào hứng đưa ra sáng kiến của
mình để xây dựng đất nước.
Trong mỗi cơ quan, đơn vị, vai trò của người đứng đầu là không thể phủ
nhận. Lúc này, mỗi người lãnh đạo phải ý thức rõ về vai trò thủ lĩnh của mình
trong việc phát huy tinh thần tự lực, tự cường và khát vọng phát triển để làm
gương cho cán bộ dưới quyền và nhân dân. Người lãnh đạo có thể “nói hay” để
“lập ngơn” nhưng trước hết phải “làm hay” để “lập nghiệp” bởi giá trị lớn nhất
của con người được thể hiện qua những gì mà họ đã cống hiến cho xã hội, nhân
dân và đất nước.
2.2. Một số điểm mạnh và hạn chế trong công tác vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về đại đồn kết dân tộc nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực
tự cường
2.2.1. Điểm đạt được
Trong thời điểm đất nước đang đứng trước những thời cơ và thách thức
mới nhưng cũng đầy những thử thách lớn lao, những thành tựu mà toàn Đảng,
toàn dân đạt được qua gần 35 năm thực hiện cơng cuộc đổi mới tồn diện đất
nước chính là kết quả của sự đồn kết thống nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân ta, là minh chứng khẳng định sự trưởng thành và vững mạnh của Đảng.
16


Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường, bên
cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó
khăn, phức tạp. Các thế lực thù địch ln tìm mọi cách, bằng nhiều âm mưu
thâm độc, xảo quyệt, kích động chia rẽ nội bộ, gây mất đoàn kết trong Đảng.
Chính vì vậy, tăng cường đồn kết và thống nhất trong Đảng từ Trung ương đến
cơ sở là điều tất yếu và cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
Hiện nay, đoàn kết thống nhất trong Đảng càng phải được xem là một
chiến lược lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng. Là Đảng duy nhất cầm quyền,
Đảng ta càng phải xây dựng, củng cố sự đồn kết thống nhất, có như vậy thì hệ

thống chính trị, các tầng lớp nhân dân, các dân tộc mới đoàn kết xung quanh
Đảng. Đoàn kết của Đảng chính là tấm gương cho cả hệ thống chính trị và là
nhân tố quyết định bảo đảm đoàn kết dân tộc.
Mặc dù vậy, trong bối cảnh và tình hình hiện nay, những nhân tố gây mất
đồn kết thống nhất trong Đảng vẫn tồn tại và không ngừng tạo ra thách thức.
Thực tế, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên cịn nói khơng đi đơi với
làm; bề ngồi thì tỏ ra đồn kết, nhưng bên trong thì kết bè kéo cánh, cục bộ địa
phương, lợi ích nhóm...
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về “Tăng cường xây dựng, chỉnh
đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ”, Đảng chỉ
rõ: “Tình hình mâu thuẫn, mất đồn kết nội bộ không chỉ ở cấp cơ sở mà ở cả
một số cơ quan trung ương, tập đoàn kinh tế, tổng cơng ty”... Đó là chưa kể, các
thế lực thù địch, phản động, phá hoại vẫn tìm đủ mọi cách gây mất đoàn kết, làm
chia rẽ trong Đảng. Đây là thực tế đòi hỏi các cấp ủy, tổ chức Đảng và đảng viên
phải quan tâm tiếp tục có những giải pháp rèn luyện, giữ gìn, bồi đắp đồn kết
thống nhất.

17



×