Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Nội dung đường lối đối ngoại của đảng cộng sản việt nam từ đại hội vi đến đại hội xii

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.56 KB, 25 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................2
I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN ĐỐI NGOẠI...................2
1.1. Khái niệm và đặc điểm đối ngoại....................................................2
1.1.1. Khái niệm đối ngoại....................................................................2
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động đối ngoại..............................................2
1.2. Quyền hạn và trách nhiệm của Chính phủ trong hoạt động đối
ngoại..........................................................................................................2
1.3. Yếu tố tác động đến chính sách đối ngoại......................................3
1.4. Vai trị của đối ngoại trong thời kỳ hiện nay.................................4
II. NỘI DUNG ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI..............................................5
2.1. Đường lối đối ngoại của Đại hội VI................................................5
2.2. Đường lối đối ngoại của Đại hội VII...............................................6
2.3. Đường lối đối ngoại của Đại hội VIII.............................................7
2.4. Đường lối đối ngoại của Đại hội IX................................................8
2.5. Đường lối đối ngoại của Đại hội X..................................................9
2.6. Đường lối đối ngoại của Đại hội XI..............................................10
2.7. Đường lối đối ngoại của Đại hội XII.............................................11
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐỐI
NGOẠI TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP KINH TẾ HIỆN NAY.........14
3.1. Một số bài học kinh nghiệm..........................................................14
3.2. Giải pháp thúc đẩy hoạt động đối ngoại và hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn tới............................................15
i


3.2.1. Đối với hoạt động đối ngoại......................................................15
3.2.2. Đối với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế................................17
PHẦN III: KẾT LUẬN.................................................................................20


TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................21

ii


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Đường lối đối ngoại là một bộ phận của đường lối lãnh đạo chung của
Đảng ta, ở mỗi giai đoạn cách mạng có mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể và
góp phần phục vụ đường lối đối nội. Qua 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt
được nhiều thành tựu quan trọng có ý nghĩa lịch sử trên các lĩnh vực của đời
sống xã hội: Kinh tế tăng trưởng khá, chính trị ổn định, quốc phịng - an ninh
được tăng cường, văn hóa - xã hội có bước phát triển mới; đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân được cải thiện; quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng,
đi vào chiều sâu, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng
cao. Quan hệ đối ngoại của Đảng không ngừng được mở rộng và tăng cường
với các chính đảng ở các nước khác nhau trên thế giới theo hướng đa phương
và đa dạng hóa các quan hệ. Cơng tác đối ngoại của Đảng cùng ngoại giao
Nhà nước và đối ngoại nhân dân kết hợp hài hòa đã tạo nên những thắng lợi
to lớn trên mặt trận ngoại giao, góp phần phát triển đất nước trong những năm
qua.
Trong 35 năm thực hiện cơng cuộc đổi mới, chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế sâu rộng, Việt Nam đã đạt được những thắng lợi trong công tác
đối ngoại. Trước bối cảnh tình hình khu vực, thế giới tiếp tục diễn biến phức
tạp, khó lường, cơng tác đối ngoại cần tiếp tục kiên trì nắm vững nhiệm vụ,
mục tiêu, tơn chỉ nhằm giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định, vì lợi ích quốc
gia - dân tộc. Nắm bắt được tính thời sự về vấn đề trên, tác giả đã chọn đề tài
“Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam từ đại hội
VI đến đại hội XII” nhằm có cái nhìn sâu và rộng hơn về vấn đề đồng thời
đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả Đối ngoại và Hội
nhập quốc tế.


1


PHẦN II: NỘI DUNG
I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN ĐỐI NGOẠI
1.1. Khái niệm và đặc điểm đối ngoại
1.1.1. Khái niệm đối ngoại
Công tác đối ngoại là lĩnh vực hoạt động phong phú và phức tạp. Các
hoạt động đối ngoại có thể diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam, có thể xảy ra trên
lãnh thổ của một quốc gia khác, cũng có thể đồng thời diễn ra ở nhiều nơi trên
thế giới. Các hoạt động có được tiến hành nhằm đạt những mục đích chính trị,
kinh tế, văn hóa, quốc phịng, an ninh… hoặc kết hợp các mục đích khác
nhau.
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động đối ngoại
Để giúp Quý độc giả có thêm thơng tin về đối ngoại là gì? chúng tơi
làm rõ các đặc điểm của hoạt động đối ngoại. Đặc điểm của hoạt động đối
ngoại như sau:
– Các hoạt động đối ngoại có thể do cơ quan Đảng, Nhà nước, có thể
do tổ chức xã hội tiến hành hoặc cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội phối
hợp cùng thực hiện.
– Các hoạt động đối ngoại được tiến hành theo những nguyên tắc nhất
định nhằm đảm bảo tính nhất quán, tính khoa học, đảm bảo lợi ích Nhà nước,
quyền và lợi ích chính đáng khác, tức là Quản lý tất cả các hoạt động và quan
hệ do các cơ quan, tổ chức của Việt Nam thực hiện với các nước, các tổ chức
nước ngoài cũng như các tổ chức quốc tế và khu vực.
1.2. Quyền hạn và trách nhiệm của Chính phủ trong hoạt động đối ngoại
Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương
hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế trên cơ sở tông trọng độc lập, chuyển quyền, hợp tác bình đẳng và

cùng có lợi; quyết định các chủ trương và biện pháp lớn đề tăng cường và mở
2


rộng quan hệ với nước ngoài và các tổ chủ trương và biện pháp lớn để tăng
cường và mở rộng quan hệ với các nước ngoài và các tổ chức quốc tế; bảo vệ
độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia, nâng cao vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế, thống nhất Quản lý Nhà nước về cơng tác đối
ngoại.
Trình Chủ tịch nước quyết định việc kí kết hoặc gia nhập điều ước quốc
tế nhân danh Nhà nước và trình Chủ tịch nước phê chuẩn việc kí kết, gia nhập
Điều ước quốc tế do Chính phủ; chỉ đạo việc thực hiện các điều ước quốc tế
mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia.
Quyết định và chỉ đạo việc thực hiện các chính sách cụ thể vè hợp tác
kinh tế, khoa học và cơng nghệ, văn hóa, giáo dục và các lĩnh vực khác với
các nước và các tổ chức quốc tế, mở rộng công tác thông tin, tuyên truyền đối
ngoại.
Tổ chức và chỉ đạo hoạt động của các cơ quan đại diện của nước ta tại
nước ngoài và tạo và tại các tổ chức quốc tế; bảo vệ lợi ích chính đáng của tổ
chức và cơng dân Việt Nam ở nước ngoài; Quản lý hoạt động của tổ chức, cá
nhân nước ngoài tại Việt Nam.
1.3. Yếu tố tác động đến chính sách đối ngoại
– Lợi ích quốc gia: Lợi ích quốc gia trong đối ngoại bao gồm hai nhóm:
+ Nhóm lợi ích sống cịn: Giữ vững chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ của quốc gia; giữ vững hịa bình với bên ngồi, bảo đảm ổn định và
trật tự bên trong; bảo đảm cuộc sống an toàn cho nhân dân; bảo đảm an ninh
kinh tế của quốc gia; giữ gìn bản sắc dân tộc.
+ Nhóm lợi ích phát triển: Không ngừng nâng cao khả năng giữ vững
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; không ngừng nâng
cao chất lượng cuộc sống của nhân dân; mở rộng không gian phát triển; phát


3


huy bản sắc dân tộc; phát huy vai trò và vị thế của Việt Nam trên trường quốc
tế.
– Thế và lực của quốc gia trên trường quốc tế:
Chính sách đối ngoại được xây dựng trên cơ sở không những phải phù
hợp với lợi ích của quốc gia, mà cịn phải tương thích với vị thế và sức mạnh
tổng hợp của đất nước.
– Tinh hình chính trị và an ninh thế giới:
Cục diện thế giới và khu vực cũng có ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ
đến quá trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại của mọi quốc gia
trên thế giới.
– Mục tiêu quốc gia mong muốn đạt được.
– Ảnh hưởng của bộ máy hoạch định chính sách đối ngoại.
– Các nhân tố chính trị nội bộ (Các nhóm lợi ích, giới truyền thơng,
cơng luận…).
1.4. Vai trị của đối ngoại trong thời kỳ hiện nay
Chủ động tạo ra mối quan hệ quốc tế thuận lợi để đưa nước ta hội nhập
với các nước trên thế giới; góp phần tạo điều kiện thuận lợi để phát triển đất
nước, nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế.
Hoạt động đối ngoại đã chủ động, tích cực triển khai mạnh và hiệu quả
chủ trướng lớn về Hội nhập quốc tế. Hội nhập quốc tế đã được triển khai
mạnh mẽ trên tất cả các kênh, bao gồm đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước,
đối ngoại của Quốc hội, đối ngoại nhân dân, diễn ra hầu khắp các lĩnh vực của
đời sống xã hội.
Hoạt động đối ngoại đã có nhiều đóng góp thiết thực vào việc tranh thủ
tối đa các nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển kinh tế – xã hội. Có nhiều
quốc gia, vùng lãnh thổ, tập đồn đa quốc gia đầu tư vào Việt Nam.

4


Người Việt Nam ở xa đất nước ngày càng hướng về quê hương, gắn bó
và có những đóng góp thiết thực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài đã và đang làm tốt nhiệm vụ
bảo vệ công dân, thực hiện thành chỗ dựa tin cậy của cộng đồng người Việt
Nam sinh sống và làm việc ở nước ngoài.
II. NỘI DUNG ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
2.1. Đường lối đối ngoại của Đại hội VI
Đại hội VI của Đảng (12 /1986) trên cơ sở nhận thức đặc điểm nổi bật
của thế giới là cuộc cách mạng khoa - học kỹ thuật đang diễn ra mạnh mẽ,
đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá lực lượng sản xuất, Đảng ta nhận định: “xu
thế mở rộng phân công, hợp tác giữa các nước, kể cả các nước có chế độ kinh
tế – xã hội khác nhau,cũng là những điều kiện rất quan trọng đối với công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Từ đó Đảng chủ trương phải biết
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới và đề ra
yêu cầu mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các nước ngoài hệ thống xã hội
chủ nghĩa, với các nước công nghiệp phát triển, các tổ chức và tư nhân nước
ngoài trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi.
+ Triển khai chủ trương của Đảng, tháng 12-1987, luật đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam được ban hành. Đây là lần đầu tiên Nhà nước ta tạo cơ sở
pháp lý cho các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam – mở cửa
để thu hút nguồn vốn, thiếtbị và kinh nghiệm tổ chức quản lý sản xuất, kinh
doanh và phục vụ công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.
+ Tháng 5-1988, Bộ chính trị ra nghị quyết số 13 về nhiệm vụ và chính
sách đối ngoại trong tình tình mới, khẳng định mục tiêu chiến lược và lợi ích
cao nhất của Đảng và nhân dân ta là phải củng cố và giư vững hồ bình để tập
trung sức xây dựng và phát triển kinh tế. Bộ chính trị đề ra chủ trương kiên

quyết chủ động chuyển cuộc đấu tranh từ tình trạng đối đầu sang đấu tranh và
5


hợp tác trong cùng tồn tại hồ bình; lợi dụng sự phát triển của cách mạng
khoa học – kỹ thuật và xu thế tồn cầu hố nền kinh tế thế giới để tranh thủ vị
trí có lợi nhất trong phân công lao động quốc tế; kiên quyết mở rộng quan hệ
hợp tác quốc tế, ra sức đa dạng hóa quan hệ đối ngoại.
Nghị quyết số 13 của Bộ chính trị đánh dấu sự đổi mới tư duy quan hệ
quốc tế và chuyển hướng toàn bộ chiến lược đối ngoại của Đảng ta. Sự
chuyển hướng này đã đặt nền móng hình thành đường lối đối ngoại độc lập tự
chủ,mở rộng, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế.Trên lĩnh vực kinh
tế đối ngoại, từ năm 1989, Đảng chủ trương xố bỏ tình trạng độc quyền trong
sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu. So với chủ trương của Đại hội V
“Nhà nước độc quyền ngoại thương và Trung ương thống nhất quản lý cơng
tác ngoại thương”, thì đây là bước đổi mới đầu tiên trên lĩnh vực kinh tế đối
ngoại của Việt Nam.
2.2. Đường lối đối ngoại của Đại hội VII
Đại hội VII của Đảng (6/1991) đề ra chủ trương “hợp tác bình đẳng và
cùng có lợi với tất cả các nước, khơng phân biệt chế độ chính trị – xã hôi khác
nhau, trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hồ bình”, với phương châm
“Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn
đấu vì hồ bình, độc lập và phát triển”.
Đại hội VII đã đổi mới chính sách đối ngoại với các đối tác cụ thể. Với
Lào và Campuchia, thực hiện đổi mới phương thức hợp tác, chú trọng hiệu
quả trên tinh thần bình đẳng. Với Trung Quốc, Đảng chủ trương thúc đẩy bình
thường hố quan hệ, từng bước mở rộng hợp tác Việt – Trung. Trong quan hệ
với khu vực, chủ trương phát triển quan hệ hữu nghị với các nước Đơng Nam
Á và châu Á - Thái Bình Dương, phấn đấu cho một Đơng Nam Á hồ bình,
hữu nghị và hợp tác. Đối với Hoa Kỳ, Đaị hội nhấn mạnh u cầu thúc đẩy

q trình bình thường hố quan hệ Việt Nam –Hoa Kỳ.
6


Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội được Đại hội lần thứ VII của Đảng thông qua, đã xác định quan hệ hữu
nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới là một trong những
đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng.
Các Hội nghị Trung ương (khoá VII) tiếp tục cụ thể hoá quan điểm của
Đại hội VII về lĩnh vực đối ngoại. Trong đó, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp
hành Trung ương khoá VII (tháng 6-1992) nhấn mạnh yêu cầu đa dạng hoá,
đa phương hoá quan hệ quốc tê. Mở rộng cửa để tiếp thu vốn, cơng nghệ, kinh
nghiệm quản lý của nước ngồi, tiếp cận thị trường thế giới, trên cơ sở bảo
đảm an ninh quốc gia, bảo vệ tài nguyên, môi trường, hạn chế đến mức tối
thiểu những mặt tiêu cực phát sinh trong q trình mở cửa.
Hội nghị giữa nhiệm kỳ khố VII (1/1994) chủ trương triển khai mạnh
mẽ và đồng bộ đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa dạng hoá và
đa phương hoá quan hệ đối ngoại, trên cơ sở tư tưởng chỉ đạo là: giữ vững
nguyên tắc độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội đồng thời phải rất sáng
tạo, năng động, linh hoạt phù hợp với vị trí, điều kiện và hồn cảnh cụ thể của
Việt Nam cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với
đặc điểm từng đối tượng.
Như vậy quan điểm chủ trương đối ngoại rộng mở được đề ra từ Đại
hội lần thứ VI, sau đó được các nghị quyết trung ương từ khoá VI đến khố
VII phát triển đã hình thành đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa
dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế.Giai đoạn 1996-2008: Bổ sung và
phát triển đương lối đối ngoại theo phương châm chủ động, tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế.
2.3. Đường lối đối ngoại của Đại hội VIII
Đại hội lần thứ VIII của Đảng (6/1996) khẳng định tiếp tục mở rộng

quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt với các nước, các trung tâm kinh tế, chính
7


trị khu vực và quốc tế. Đồng thời chủ trương “xây dựng nền kinh tế mở và
“đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”.Đại hội VIII xác
định rõ hơn quan điểm đối ngọai với các nhóm đối tác như: ra sức tăng cường
quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong tổ chức ASEAN; không
ngừng củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống; coi trọng quan hệ
với các nước phát triển và các trung tâm kinh tế - chính trị thế giới; đoàn kết
với các nước đang phát ttriển, với phong trào khơng liên kết; tham gia tích
cực và đóng góp cho hoạt động của các tổ chức quốc tế, các diễn đàn quốc
tế.So với Đại hội VII, chủ trương đối ngoại của Đại hội VIII có các điểm mới:
một là, chủ trương mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền và các đảng
khác. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương, khoá VIII (tháng 121997), chỉ rõ: trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhất quán, lâu dài chính
sách thu hút các nguồn lực bên ngòai. Nghị quyết đề ra chủ trương tiến hành
khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định Thương mại với Mỹ, gia
nhập APEC và WTO.
2.4. Đường lối đối ngoại của Đại hội IX
Đại hội IX của Đảng (4/2001), Đảng nhấn mạnh chủ trương chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực.
Lần đầu tiên, Đảng nêu rõ quan điểm về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ”
“Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường
lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh. Xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ phải đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và
nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành
nguồn lực tổng hợp phát triển đất nước”.Cảm nhận đầy đủ “lực” và “thế” của
đất nước sau 15 năm đổi mới, Đại hội IX đã phát triển phương châm của Đại
Hội VII là: “Việt Nam muốn làm bạn với các nước trong cộng đồng thế giới
phấn đấu vì hồ bình, độc lập và phát triển” thành “Việt Nam sẵn sàng là bạn,

là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hồ bình,
8


độc lập và phát triển”. Chủ trương xây dựng quan hệ đối tác được đề ra ở Đại
hội IX đánh dấu bước phát triển về chất tiến trình quan hệ quốc tế của Việt
Nam thời kỳ đổi mới.Tháng 11-2001, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 07 về hội
nhập kinh tế quốc tế. Nghị quyết đề ra 9 nhiệm vụ cụ thể và 6 biện pháp tổ
chức thực hiện quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nghị lần thứ chín Ban
Chấp hành Trung ương khố IX (ngày 5-1-2004) nhấn mạnh yêu cầu chuẩn bị
tốt các điều kiện trong nước để sớm ra nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO); kiên quyết đấu tranh với mọi biểu hiện của các lợi ích cục bộ làm
kìm hãm tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
2.5. Đường lối đối ngoại của Đại hội X
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (tháng 4-2006) nêu quan điểm:
thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hồ bình hợp tác và
phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các
quan hệ quốc tế. Đồng thời đề ra chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế”.Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là hồn tồn chủ động
quyết định đường lối, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế, không thể rơi vào
thế bị động; phân tích lựa chọn phương thức hội nhập đúng, dự báo được
những tình huống thuận lợi và khó khăn khi hội nhập kinh tế quốc tế.Tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế là khẩn trương chuẩn bị, điều chỉnh, đổi mới bên
trong, từ phương thức lãnh đạo, quản lý đến hoạt động thực tiên; từ Trung
ương đến địa phương, doanh nghiệp; khẩn trương xây dựng lộ trình, kế hoạch,
hoàn chỉnh hệ thống pháp luật; nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp và nền kinh tế; tích cực, nhưng phải thận trọng, vững chắc.Chủ động
và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế phải là ý chí, quyết tâm của Đảng, Nhà
nước, toàn dân, của mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và toàn xã
hội.Như vậy, đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa

phương hoá quan hệ quốc tế được xác lập trong mười năm đầu của thời kỳ đổi
mới (1986-1996), đến Đại hội X (năm 2006) được bổ sung, phát triển theo
9


phương châm chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, hình thành đường
lối đối ngoại độc lập tự chủ, hồ bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối
ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dang hoá các quan hệ quốc tế
2.6. Đường lối đối ngoại của Đại hội XI
Thứ nhất, về mục tiêu của đối ngoại, văn kiện Đại hội XI nêu: “vì lợi
ích quốc gia, dân tộc” . Cùng với lợi ích quốc gia dân tộc, Đại hội XI cũng đặt
mục tiêu đối ngoại là “vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”.
Hai mục tiêu này thống nhất với nhau. Bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc là cơ
sở cơ bản để xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xây dựng một
nước Việt nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh là phù hợp với lợi ích quốc gia
dân tộc và là điều kiện cần để thực hiện các lợi ích đó.
Thứ hai, về nhiệm vụ của cơng tác đối ngoại, điểm mới trong phần đối
ngoại của văn kiện Đại hội XI là xác định rõ hơn khía cạnh an ninh khi nêu rõ
nhiệm vụ “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ”. Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ là cơ sở tồn tại của
một quốc gia. Bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
luôn luôn là một trong những nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia. Việc nêu rõ
điều này trong nhiệm vụ đối ngoại là nhằm đáp ứng những phát triển mới của
tình hình, đồng thời khẳng định vai trị của đối ngoại trong sự nghiệp bảo vệ
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Thứ ba, về các nguyên tắc phải tuân thủ khi tiến hành các hoạt động đối
ngoại, tái khẳng định các nguyên tắc của đường lối, chính sách đối ngoại thời
kỳ Đổi mới, Đại hội XI nêu: “bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự
chủ, vì hịa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển”, “tôn trọng các nguyên tắc
cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc”. Bên cạnh những

nguyên tắc nhất quán này, văn kiện Đại hội XI, phần định hướng giải quyết
các vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ, ranh giới trên biển và thềm lục
10


địa với các nước liên quan, nêu thêm nguyên tắc giải quyết các vấn đề tồn tại
trên cơ sở các “nguyên tắc ứng xử của khu vực”.
Thứ tư, về phương châm của đường lối đối ngoại, các văn kiện của Đại
hội khẳng định: thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa
bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế. Điểm mới trong phương châm đối ngoại của Đại hội
XI là “hội nhập quốc tế” và “thành viên có trách nhiệm”.
2.7. Đường lối đối ngoại của Đại hội XII
Lần đầu tiên, nhiệm vụ đối ngoại nằm trong các thành tố của chủ đề
Đại hội. Đó là "Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy
sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh tồn diện, đồng
bộ cơng cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hồ
bình, ổn định; xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại."
So với Đại hội XI, Đại hội XII đã bổ sung vào chủ đề nội dung “bảo vệ
vững chắc Tổ quốc, giữ vững mơi trường hồ bình, ổn định” để nhấn mạnh
tầm quan trọng của công tác đối ngoại trong tổng thể đường lối phát triển đất
nước và đồng thời nêu rõ hai nhiệm vụ quan trọng nhất của đối ngoại là bảo
vệ Tổ quốc và giữ vững môi trường hịa bình, ổn định để triển khai các nhiệm
vụ xây dựng đất nước trong 5 năm tới và các năm tiếp theo.
Văn kiện Đại hội XII cũng đề cập rõ hơn và ở mức cao nhất mục tiêu
đối ngoại. Lần đầu tiên, mục tiêu đối ngoại “vì lợi ích quốc gia, dân tộc” được
nêu trong Văn kiện Đại hội XI. Văn kiện Đại hội XII làm rõ hơn và phát triển
thành “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên

tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi.” Qua đó, Đảng ta
khẳng định: Thứ nhất, lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc là đồng nhất; Thứ
11


hai, lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam được xác định trên cơ sở các
nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, khơng
phải là những lợi ích dân tộc vị kỷ, hẹp hịi; Thứ ba, bảo đảm lợi ích quốc gia
- dân tộc phải là nguyên tắc tối cao của mọi hoạt động đối ngoại, lợi ích quốc
gia - dân tộc phải là tối thượng, là tiêu chí hàng đầu đánh giá hiệu quả của
mọi hoạt động đối ngoại.
Lần đầu tiên, phương châm chỉ đạo các hoạt động đối ngoại được nêu
rõ hơn. Văn kiện Đại hội Đảng khẳng định phương châm đối ngoại “vừa hợp
tác, vừa đấu tranh.” Trước đó, phương châm này đã được nêu trong nghị
quyết Trung ương VIII (2003), nhưng ở tầm văn kiện Đại hội toàn quốc của
Đảng, đây là lần đầu tiên Đảng ta khẳng định phương châm này để nhấn
mạnh tính chất hai mặt, đan xen và theo đó là sự linh hoạt trong quan hệ đối
ngoại.
Quan điểm chỉ đạo việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được nêu
cụ thể hơn. Hai nhiệm vụ đối ngoại “giữ vững mơi trường hịa bình” và “bảo
vệ vững chắc Tổ quốc” có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Nếu giữ vững được
môi trường hịa bình, các hoạt động đối ngoại sẽ thực hiện được phương châm
thêm bạn bớt thù, tức là đã đóng góp trực tiếp vào việc bảo vệ Tổ quốc từ xa
và giữ nước từ khi nước chưa nguy. Điều này giúp khẳng định vị thế và vai
trị chủ cơng, là tuyến đầu của công tác đối ngoại trong sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc.
Ngoài ra, Văn kiện lần đầu tiên nêu rõ: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.” Điều đó
có nghĩa là lần đầu tiên Đảng ta cụ thể hóa nội hàm của nhiệm vụ bảo vệ Tổ

quốc. Đây đồng thời là nội hàm chính của lợi ích quốc gia - dân tộc, là những
lợi ích cốt lõi và sống cịn tồn Đảng toàn dân ta quyết tâm bảo vệ đến cùng.
Phương châm “kiên quyết, kiên trì,” có nghĩa là đấu tranh bảo vệ Tổ quốc,
12


nhất là bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, không được nóng vội, manh động mà phải
tận dụng mọi biện pháp hịa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, tận dụng
mọi kênh, mọi phương thức có thể trong khi khơng loại trừ bất kỳ biện pháp,
phương cách nào để quyết bảo vệ đến cùng các lợi ích kể trên.
Các quan điểm chỉ đạo, định hướng lớn đối với quá trình hội nhập quốc
tế được nêu rõ hơn trong văn kiện Đại hội XII. Định hướng hội nhập quốc tế
được nêu trong Văn kiện Đại hội XI được Văn kiện Đại hội XII cụ thể hóa
bằng những quan điểm chỉ đạo cụ thể gồm: Thứ nhất, phải bảo đảm hội nhập
quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ thống chính trị. Thứ hai, đẩy mạnh
hội nhập trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá
trình nâng cao sức mạnh tổng hợp, năng lực cạnh tranh của đất nước. Thứ ba,
hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận
lợi cho hội nhập kinh tế. Và thứ tư, hội nhập là quá trình vừa hợp tác vừa đấu
tranh, chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, khơng để rơi vào thế
bị động, đối đầu, bất lợi.
Cụ thể, trong 5 năm tới, hội nhập kinh tế quốc tế tập trung vào quá trình
triển khai các cam kết đã ký kết; hội nhập trong lĩnh vực chính trị tập trung
vào việc đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác chiến lược và
các nước lớn có vai trị quan trọng đối với an ninh và phát triển của đất nước,
đưa khuôn khổ đã xác lập đi vào thực chất; hội nhập trong lĩnh vực quốc
phòng, an ninh tham gia các hoạt động hợp tác ở mức cao hơn như hoạt động
gìn giữ hịa bình của Liên hợp quốc, diễn tập chung và các hoạt động khác; và
hội nhập trong lĩnh vực văn hóa - xã hội tập trung vào việc áp dụng và tham
gia xây dựng các bộ tiêu chí phục vụ xây dựng nền kinh tế trí thức, con người

Việt Nam trong thời kỳ cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa, giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc.
Đặc biệt, văn kiện Đại hội XII đã nhấn mạnh yêu cầu phát triển công
tác đối ngoại đa phương, đặt ra yêu cầu mới: công tác đối ngoại đa phương
13


không chỉ phải chuyển mạnh từ “tham dự” sang “chủ động tham gia,” nhất là
vào quá trình xây dựng và định hình các quy tắc và luật lệ mới, mà còn phải
phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương. Định hướng này
cũng chỉ rõ các cơ chế đa phương được ưu tiên trong 5 năm tới là ASEAN và
Liên hợp quốc

14


III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐỐI
NGOẠI TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP KINH TẾ HIỆN NAY
3.1. Một số bài học kinh nghiệm.
Từ thực tiễn triển khai đường lối và chính sách đối ngoại, hội nhập
quốc tế của Đảng thời kỳ đổi mới, có thể đúc rút một số bài học kinh nghiệm
như sau:
Một là, cần nhìn nhận thế giới một cách khách quan, biện chứng. Cần
có nhận thức khoa học và tư duy thay đổi linh hoạt về thế giới để có những
chiến lược, sách lược phù hợp nhất với lợi ích quốc gia, dân tộc. Trong thời
kỳ đổi mới, Đảng đã vận dụng rất thành công bài học này, và trong bối cảnh
môi trường quốc tế diễn biến ngày càng phức tạp hiện nay, đây là bài học cần
hết sức lưu ý, chú trọng.
Hai là, gắn dân tộc với quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại, để lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn là đặc

trưng của đối ngoại nước ta nói chung và đối ngoại thời kỳ đổi mới nói riêng.
Ba là, huy động và củng cố sức mạnh vật chất gắn với huy động và
phát huy sức mạnh tinh thần; kết hợp sức mạnh tự thân với sự đồng tình, ủng
hộ của bạn bè quốc tế; đặc biệt chú trọng đến sự đồng thuận, thống nhất trong
cả quá trình, từ điều hành cho tới triển khai các hoạt động đối ngoại
Bốn là, kiên định về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược. Kiên trì ngun
tắc độc lập, chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ đất nước, và xây dựng đất nước Việt
Nam “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”. Đồng thời, linh
hoạt, mềm dẻo nhưng kiên quyết trong việc bảo đảm những nguyên tắc bất di
bất dịch ấy.
Năm là, nắm vững thời cơ, giành thắng lợi từng bước. Việt Nam đã
từng bước phá thế bao vây, cấm vận, bình thường hóa quan hệ với các nước;
tiến tới đa dạng hóa, đa phương hóa nhằm mở rộng quan hệ đối ngoại; đưa
15


các mối quan hệ đi vào chiều sâu, thiết lập các khuôn khổ hợp tác bền vững.
Trong hội nhập, khởi đầu bằng việc gia nhập ASEAN, Việt Nam đã gia nhập
các tổ chức quốc tế lớn hơn như ASEM (1996), APEC (1998), và WTO
(2006)... Từ hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã từng bước mở rộng hội
nhập trong các lĩnh vực khác, từ chính trị, quốc phịng, an ninh đến các lĩnh
vực văn hóa, xã hội, khoa học, công nghệ, giáo dục, đào tạo.
3.2. Giải pháp thúc đẩy hoạt động đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế
của Việt Nam trong giai đoạn tới
3.2.1. Đối với hoạt động đối ngoại
Phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp đẩy mạnh hoạt động đối ngoại
Cần đẩy mạnh đối ngoại song phương và nâng tầm đối ngoại đa
phương. Chủ động tham gia và phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế
đa phương, đặc biệt là ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, hợp tác tiểu vùng Mê
Kông và các khuôn khổ hợp tác khu vực và quốc tế, trong những vấn đề và

các cơ chế quan trọng có tầm chiến lược, phù hợp với yêu cầu, khả năng và
điều kiện cụ thể.
Coi trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền thống với các
nước láng giềng; chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước ASEAN
xây dựng Cộng đồng đồn kết, vững mạnh, giữ vững vai trị trung tâm của
ASEAN trong cấu trúc an ninh khu vực. Đoòng thời đẩy mạnh và làm sâu sắc
hơn quan hệ hợp tác song phương với các đối tác, đặc biệt là các đối tác chiến
lược, đối tác toàn diện và các đối tác quan trọng khác, tạo thế đan xen lợi ích
và tăng độ tin cậy.
Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an
ninh theo tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh làm
thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp của các thế lực thù địch vào công
việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an
16


ninh quốc gia và ổn định chính trị đất nước. Tiếp tục thúc đẩy giải quyết các
vấn đề trên biển, an ninh, an tồn hàng hải, hàng khơng trên cơ sở luật pháp
quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982.
Củng cố đường biên giới hịa bình, an ninh, hợp tác và phát triển; giải
quyết các vấn đề còn tồn tại liên quan đến đường biên giới trên bộ với các
nước láng giềng. Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến
lược về đối ngoại, không để bị động, bất ngờ. Đổi mới nội dung, phương
pháp, nâng cao hiệu quả công tác tun truyền đối ngoại, bảo hộ cơng dân,
triển khai tồn diện và mạnh mẽ hơn công tác người Việt Nam ở nước ngoài.
Phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp về hội nhập quốc tế
Cần chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ
giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện,
sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo đảm độc lập, tự
chủ, chủ quyền quốc gia. Gắn kết chặt chẽ q trình chủ động, tích cực hội

nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng với việc nâng cao sức mạnh tổng hợp, huy
động tiềm năng của toàn xã hội; đổi mới, hoàn thiện thể chế trong nước, nâng
cao năng lực tự chủ, cạnh tranh và khả năng thích ứng của đất nước.
Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả hội nhập quốc tế trong các
lĩnh vực xã hội, môi trường, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn
hóa, du lịch và các lĩnh vực khác. Tích cực triển khai các cam kết khu vực và
quốc tế, lồng ghép với các chiến lược, chính sách, kế hoạch và chương trình
phát triển kinh tế - xã hội. Chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao
vai trị của Việt Nam trong xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật
tự chính trị - kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế và các hiệp
định thương mại đã ký kết.
Mở rộng quan hệ và đẩy mạnh hợp tác với các lực lượng chính trị, xã
hội và nhân dân các nước, phấn đấu vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp
17


tác phát triển và tiến bộ xã hội. Nâng cao bản lĩnh, phẩm chất, năng lực,
phong cách chuyên nghiệp, đổi mới, sáng tạo của đội ngũ cán bộ làm công tác
đối ngoại và hội nhập quốc tế; chủ động thích ứng trước chuyển biến của tình
hình; tăng cường cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các kênh và các cơ quan đối
ngoại, đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế.
3.2.2. Đối với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
Để phát triển đất nước trong bối cảnh mới của “tồn cầu hóa” và giai
đoạn mới của “hội nhập quốc tế”, cần quan tâm một số vấn đề lớn sau:
Thứ nhất, nhận thức đúng về “tồn cầu hóa” và “hội nhập quốc tế” để
làm cơ sở cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển
đất nước, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đặc biệt, cần thấy
rõ bước phát triển mới của tồn cầu hóa trong những năm tới khi cuộc Cách
mạng công nghiệp 4.0 bùng nổ; từ đó, tính tốn sách lược, chiến lược trong
tiến trình chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.

Thứ hai, Việt Nam hiện tham gia các mặt đời sống chính trị - xã hội
quốc tế, tức là đã hội nhập rộng vào chỉnh thể thế giới, nhưng mới chỉ dừng ở
mức độ hội nhập tương đối sâu với vị trí, vai trị nhất định trong một số lĩnh
vực. Tiến trình chủ động và tích cực hội nhập quốc tế của Việt Nam đã đưa
Việt Nam trở thành bộ phận cấu thành của chỉnh thể thế giới. Tới đây, cần xác
định việc giành lấy vị trí, vai trị ngày càng đáng kể trong nền kinh tế thế giới,
nền chính trị thế giới và nền văn minh nhân loại là nội dung chủ yếu của tiến
trình chủ động và tích cực hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Về kinh tế, cần phấn đấu giành chỗ đứng trong các chuỗi sản xuất và
cung ứng toàn cầu; ưu tiên thúc đẩy phát triển nhanh các ngành kinh tế số và
công nghiệp 4.0. Cơ hội đang mở ra cho Việt Nam ở thời hậu dịch bệnh
COVID-19, không được bỏ lỡ. Muốn thế, cần ưu tiên phát triển các mạng kết
nối Việt Nam với thế giới, cả “kết nối cứng” và “kết nối mềm”.
18



×