Cập nhật 11:20 ngày 06-04-2006
Ðảng Cộng sản Việt Nam ra đời, bước ngoặt vĩ đại của cách mạng
Việt Nam
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam (3-2-1930). Ảnh chụp
tranh của PHAN KẾ AN.
Ðảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam, chấm dứt sự khủng
hoảng về đường lối chính trị. Kể từ đó, dân tộc ta có Ðảng lãnh đạo, gánh vác sứ mệnh lịch sử mà
nhân dân giao phó, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Chào mừng Ðại hội Ðại biểu toàn quốc lần thứ X của Ðảng, từ số ra hôm
nay, báo Nhân Dân xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc "Những chặng
đường vẻ vang của Ðảng". Ðó là những mốc son chói lọi trong lịch sử cách
mạng của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Ðảng.
Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc và cuộc cách mạng kiểu mới đầu tiên ở nước Nga do V.I. Lê-nin lãnh
đạo thắng lợi, ảnh hưởng rất lớn đến phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên toàn thế giới. Trong cuộc
hành trình tìm đường cứu nước, Cách mạng Tháng Mười Nga đã thức tỉnh Nguyễn Ái Quốc đi từ chủ nghĩa yêu
nước đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tìm thấy ở đó con đường đấu tranh giải phóng dân tộc - con đường
cứu nước, cứu dân. Trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra chân lý của cách
mạng là muốn giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường làm cách mạng vô sản với nền
tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Từ đó, Người tìm mọi cách truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào
phong trào yêu nước, phong trào công nhân Việt Nam đang sục sôi đấu tranh chống ách áp bức, bóc lột
của thực dân Pháp và phong kiến. Năm 1925, tại Quảng Châu (Trung Quốc), Người lập ra Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên và trực tiếp tổ chức các lớp huấn luyện cán bộ rồi đưa về nước hoạt động, làm hạt nhân lãnh
đạo các tổ chức cách mạng. Ðến giữa năm 1929, ở Việt Nam ra đời ba tổ chức cộng sản hoạt động ở ba miền
bắc, trung, nam, đó là Ðông Dương Cộng sản Ðảng, An Nam Cộng sản Ðảng và Ðông Dương Cộng sản Liên
đoàn.
Thời gian này, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam ngày càng lan rộng và phát triển
mạnh mẽ, đòi hỏi phải có một chính đảng lãnh đạo thống nhất.
Từ ngày 3 đến 7-2-1930, tại Hương Cảng (Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức
cộng sản Việt Nam. Tại hội nghị, với tư cách là Ủy viên Bộ Phương Ðông phụ trách Cục Phương Nam của Quốc
tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đề ra những điểm lớn:
1- Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm Cộng sản Ðông Dương;
2- Ðịnh tên Ðảng là Ðảng Cộng sản Việt Nam;
3- Thảo Chính cương và Ðiều lệ sơ lược của Ðảng;
4- Ðịnh kế hoạch thực hiện việc thống nhất trong nước;
5- Cử một Ban Chấp hành Trung ương lâm thời...
Hội nghị thành lập Ðảng có tầm quan trọng đặc biệt, đã thông qua Chánh cương vắn tắt của Ðảng, Sách lược
vắn tắt của Ðảng, Chương trình tóm tắt của Ðảng, Ðiều lệ vắn tắt của Ðảng. Sau hội nghị thành lập Ðảng, Hội
nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành T.Ư Ðảng (tháng 10-1930) đã thông qua Luận cương Chính trị, cử Ban Chấp
hành Trung ương. Ðồng chí Trần Phú được bầu làm Tổng Bí thư của Ðảng.
Nhật
Bản
sẽ
Hướng
Vị
tiếp
về
thế
của
tục
hỗ
Ðại
trợ
Việt
hội
Việt
Nam
bằng
Nam
ngày
trong
công
những
càng
được
cuộc
phát
việc
làm
nâng
cao
triển
đất
thiết
trên
nước (21-4)
thực (21-4)
thế
giới (21-4)
Hội Việt - Mỹ kêu gọi nhân dân Mỹ ủng hộ quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn với Việt Nam (20-4)
Ðiện
Báo
Kim
mừng
chí
các
Bình,
Lòng
Ðiện
mừng
Ðại
nước
hội
tiếp
nơi
diễn
dân
Ðại
lần
thứ
tục
đưa
ra
Ðại
X
tin
nổi
hội
lần
bật
Ðảng
Tây
hội
Ðảng
Nguyên
thứ
X
Ðảng
Cộng
về
sản
Ðại
toàn
hội
quốc
với
Cộng
Việt
X
Nam (20-4)
của
lần
thứ
Ðảng (20-4)
II (20-4)
Đảng (20-4)
sản
Việt
Nam (20-4)
Các nước tiếp tục phản ánh đậm nét về Ðại hội lần thứ X của Ðảng ta (20-4)
< Quay lại
^ Về đầu trang
Sơ lược lịch sử Việt Nam
•
•
•
Các cuộc khảo cổ gần đây đã chứng minh sự tồn tại của con người trên lãnh thổ Việt Nam từ thời Đồ đá cũ
(300.000 -500.000 năm). Vào thời kỳ Đồ đá mới, các nền văn hoá Hoà Bình - Bắc Sơn (gần 10.000 năm trước
CN) đã chứng tỏ sự xuất hiện của nông nghiệp và chăn nuôi, có thể là cả nghệ thuật trồng lúa nước.
Dân tộc Việt Nam đã được hình thành và bước đầu phát triển trên vùng châu thổ sông Hồng và sông Mã phía
Bắc của Việt Nam ngày nay. Con người từ các vùng đồi núi xuống vùng đồng bằng, từ đời này sang đời khác
đã khai hoá đất để trồng trọt. Họ đã tạo ra một hệ thống đê điều để chế ngự dòng sông Hồng gây nhiều lũ lụt
hàng năm. Quá trình lao động không ngừng để chế ngự nước - chống lũ, lụt, bão, hạn hán, xây dựng đê điều,
đào kênh phục vụ cho việc trồng lúa - đã tạo nên nền văn minh lúa nước và văn hoá làng xã.
Vào thời đại Đồ đồng đã ra đời một nền văn minh thống nhất và độc đáo, đạt mức độ kỹ thuật và nghệ thuật
cao, nền văn minh Đông Sơn rực rỡ. Các nghiên cứu nhân chủng, lịch sử và khảo cổ gần đây đã khẳng định sự
tồn tại một thời kỳ các Vua Hùng khoảng 1000 năm trước Công nguyên trên Vương quốc Văn Lang, sau đó đổi
tên là âu Lạc. Đến thế kỷ thứ hai trước Công nguyên, Ấu Lạc đã bị xâm chiếm và sát nhập vào đế chế phong
kiến Hán hùng mạnh ở phương Bắc. Nhưng sự thống trị của phong kiến Trung Hoa kéo dài mười thế kỷ đã
không bẻ gẫy được sức kháng cự của dân tộc và không đồng hoá được nền văn hoá Việt Nam.
Vào thế kỷ thứ mười sau Công nguyên đất nước đã giành được độc lập vững chắc và xây dựng một nhà nước
độc lập mang tên Đại Việt. Đất nước đã trải qua nhiều triều đại vua chúa phong kiến mà quan trọng nhất là triều
Lý (thế kỷ11 và 12), triều Trần (thế kỷ 13 và 14), triều Lê (thế kỷ 15, 16 và 17) với một nền hành chính tập
quyền, một lực lượng quân đội mạnh, một nền kinh tế và văn hoá phát triển cao. Trong suốt thời kỳ này, Việt
Nam phải liên tục đấu tranh chống lại các âm mưu xâm lược của các đế chế phong kiến Trung Hoa và Mông
Cổ. Các cuộc kháng chiến lâu dài và gian khổ chống quân xâm lược Tống (thế kỷ 11), Nguyên (thế kỷ 13), Minh
(thế kỷ 15) đã giành những thắng lợi vang dội. Sau mỗi cuộc kháng chiến, Việt Nam trở nên mạnh hơn, các dân
tộc đoàn kết hơn và đất nước bước vào một thời kỳ cường thịnh mới.
Nền văn hoá Đông Sơn được bổ sung bởi ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa đã phát triển qua nhiều thế kỷ
trong khuôn khổ một nhà nước độc lập. Phật giáo, Nho giáo, Khổng giáo thâm nhập vào Đại Việt mang theo
nhiều yếu tố văn hoá quần chúng và nhiều hình thức đặc biệt. Tuy vậy, Việt Nam vẫn có ngôn ngữ riêng và một
nền văn minh nông nghiệp phát triển khá cao.
Đến thế kỷ 17 và 18, chế độ phong kiến Việt Nam suy yếu nghiêm trọng. Các cuộc khởi nghĩa nông dân liên tục
diễn ra đã dẫn đến phong trào Tây Sơn (1771-1802). Tây Sơn đã tiêu diệt các chế độ vua chúa cát cứ, thống
nhất đất nước, đánh đuổi quân xâm lược Thanh (Trung Quốc) đồng thời ban hành nhiều cải cách xã hội và văn
hoá. Nhưng không lâu sau đó với sự giúp đỡ của ngoại bang, Nguyễn ánh đã giành được quyền thống trị và lập
nên triều đình nhà Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam.
Vào giữa thế kỷ 19 (1858), thực dân Pháp bắt đầu cuộc xâm chiếm Việt Nam. Triều đình nhà Nguyễn bất lực
đã dần dần nhân nhượng quân xâm lược và từ năm 1884 Pháp thiết lập chế độ bảo hộ và thuộc địa trên toàn
bộ lãnh thổ Việt Nam. Ngay từ những ngày đầu, các phong trào kháng chiến quần chúng dưới sự lãnh đạo của
các sĩ phu yêu nước nổ ra ở khắp mọi nơi, nhưng cuối cùng đều thất bại.
Nguyễn ái Quốc, sau đó trở thành Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã hoạt động ở nước ngoài để tìm con đường cứu
nước. Người đã sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3/2/1930. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản,
quần chúng nhân dân đã đứng lên đấu tranh chống thực dân Pháp và quân chiếm đóng Nhật, thực hiện cuộc
Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945 và thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngày 2/9/1945.
Nước Việt Nam non trẻ vừa mới ra đời lại phải đương đầu với các âm mưu xâm lược và can thiệp của Pháp và
Mỹ, phải tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc kéo dài suốt 30 năm sau đó. Trước hết, sự trở lại xâm
lược của Pháp đã gây ra cuộc kháng chiến 9 năm (1945-1954) của Việt Nam, kết thúc bằng chiến thắng Điện
Biên Phủ và Hiệp định Genève về Việt Nam năm 1954. Theo Hiệp định này, đất nước tạm thời bị chia làm hai
vùng lãnh thổ miền Bắc và miền Nam lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến và sẽ được thống nhất hai năm sau đó
(1956) thông qua một cuộc tổng tuyển cử. Miền Bắc Việt Nam vào thời kỳ nay mang tên Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà, dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động với Thủ đô là Hà Nội. Miền Nam mang tên Việt Nam Cộng hoà
nằm dưới sự quản lý của chính quyền thân Pháp, rồi thân Mỹ đặt tại Sài Gòn. Chính quyền Sài Gòn sử dụng
mọi sức mạnh để ngăn chặn cuộc tổng tuyển cử, đàn áp và loại bỏ những người kháng chiến cũ, do vậy xuất
hiện phong trào đấu tranh vì hoà bình, thống nhất đất nước. Chính quyền Sài Gòn đã không thể ngăn cản được
nguyện vọng thống nhất đất nước của quần chúng, đặc biệt từ ngày Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt
Nam được thành lập, ngày 20/12/1960.
Để duy trì Chế độ Sài Gòn, Mỹ đã tăng cường viện trợ quân sự. Đặc biệt kể từ giữa thập kỷ 60 Mỹ đã gửi nửa
triệu quân Mỹ và đồng minh đến miền Nam Việt Nam trực tiếp tham chiến, và từ 5/8/1964 bắt đầu ném bom
miền Bắc Việt Nam. Nhưng nhân dân Việt Nam, theo lời dạy của Chủ Tịch Hồ Chí Minh "Không có gì quý hơn
độc lập tự do", đã đứng vững và giành nhiều thắng lợi ở cả hai miền Nam và Bắc. Năm 1973, Washington buộc
phải ký hiệp định Paris về lập lại hoà bình ở Việt Nam và rút toàn bộ quân đội Mỹ ra khỏi Việt Nam. Mùa xuân
năm 1975, trên tinh thần đại đoàn kết dân tộc và được sự đồng tình của nhân dân yêu chuộng hòa bình, công lý
và tiến bộ trên thế giới, các lực lượng vũ trang yêu nước Việt Nam đã thực hiện cuộc tổng tiến công đè bẹp
Chính quyền Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Ngày 25/4/1976, nước Việt nam Dân chủ Cộng hoà được đổi tên thành nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt
nam với lãnh thổ bao gồm cả hai miền Nam và Bắc.
Năm 1977, Việt Nam trở thành thành viên của Liên Hợp Quốc.
Sau nhiều năm chiến tranh kéo dài, đất nước bị tàn phá nặng nề. Từ năm 1975 đến 1986, Việt Nam phải đối
phó với vô vàn khó khăn. Những hậu quả và tệ nạn xã hội do chiến tranh để lại, dòng người tị nạn, chiến tranh
ở biên giới Tây Nam chống diệt chủng Khme đỏ, chiến tranh ở biên giới phía Bắc, bao vây, cấm vận của Mỹ và
các nước phương Tây, thêm vào đó thiên tai liên tiếp xảy ra... đã đặt Việt Nam trước những thử thách khắc
nghiệt. Hơn nữa, những khó khăn càng trầm trọng do xuất phát từ các nguyên nhân chủ quan, nóng vội và duy
ý chí muốn xây dựng lại đất nước nhanh chóng mà không tính đến những điều kiện cụ thể. Vào đầu những năm
80, khủng hoảng kinh tế - xã hội ở Việt Nam trở nên gay gắt, tỉ lệ lạm phát lên đến 774,7% vào năm 1986.
Từ năm 1986, Việt Nam bắt đầu tiến hành công cuộc Đổi mới toàn diện nhằm vượt qua khó khăn, đi vào vào
con đường phát triển và từng bước hội nhập khu vực và quốc tế. Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam tháng
12/1986 đã nghiêm khắc kiểm điểm sự lãnh đạo của mình, khẳng định những mặt làm được, phân tích những
sai lầm khuyết điểm, đề ra đường lối Đổi mới toàn diện trong đó đổi mới kinh tế được đặt lên hàng đầu với chủ
trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước, theo định hướng XHCN, đi đôi với việc tăng cường cơ sở pháp lý, đổi mới tổ chức Đảng và Nhà nước.
Nền kinh tế Việt Nam thực sự mở cửa, chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp dựa trên việc nhập khẩu
và nhận viện trợ của nước ngoài sang cơ chế thị trường, tự chủ về tài chính nhằm cân bằng ngân sách nhà
nước và hướng tới xuất khẩu. Trước năm 1989 hàng năm Việt Nam đều phải nhập khẩu lương thực, có năm
trên 1 triệu tấn. Từ năm 1989, Việt Nam đã bắt đầu xuất khẩu 1-1,5 triệu tấn gạo mỗi năm; lạm phát giảm dần
(đến năm 1990 còn 67,4%). Đời sống của nhân dân được cải thiện, dân chủ trong xã hội được phát huy. Quốc
phòng, an ninh được giữ vững. Quan hệ đối ngoại được mở rộng, đẩy lùi tình trạng bao vây, cô lập.
Tháng 6 năm 1991, Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định lại quyết tâm tiếp tục chính sách Đổi
mới của Việt Nam với mục tiêu vượt qua khó khăn, thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường
ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa đất nước cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng. Đại
hội cũng đề ra chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ với mục
tiêu Việt Nam "muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và
phát triển."
Mặc dù bị tác động sâu sắc do việc Liên Xô, Đông Ấu tan rã, các thị trường truyền thống bị đảo lộn; tiếp tục bị
bao vây cấm vận và phải đối phó với các âm mưu hoạt động gây mất ổn định chính trị và bạo loạn lật đổ của
các thế lực thù địch, Việt Nam đã từng bước khắc phục khó khăn, trở ngại, tiếp tục giành nhiều thắng lợi to lớn.
Từ năm 1991-1995 nhịp độ tăng bình quân hàng năm về tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt 8,2%. Đến tháng
6/1996, đầu tư trực tiếp của nước ngoài đạt trên 30,5 tỷ USD. Lạm phát giảm từ mức 67,1% (1991) xuống còn
12,7% (1995) và 4,5% (1996). Đời sống vật chất của phần lớn nhân dân được cải thiện. Trình độ dân trí, mức
hưởng thụ văn hoá của nhân dân được nâng lên. Sự nghiệp giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khoẻ, các hoạt
động văn hoá nghệ thuật thể dục thể thao, thông tin đại chúng, công tác kế hoạch hoá gia đình và nhiều hoạt
động xã hội khác có những mặt phát triển và tiến bộ. Chính trị ổn định, độc lập chủ quyền và môi trường hoà
bình của Việt Nam được giữ vững, quốc phòng an ninh được củng cố tạo điều kiện thuận lợi cơ bản cho công
cuộc Đổi mới. Hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở được củng cố, bộ máy nhà nước pháp quyền được
tiếp tục xây dựng và hoàn thiện. Chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ
của Việt Nam đã đạt được những kết quả tốt đẹp. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với
167nước, có quan hệ buôn bán với trên 100 nước. Các công ty của hơn 70 nước và vùng lãnh thổ đã đầu tư
trực tiếp vào Việt Nam.
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VIII, tháng 6/1996 đã đánh giá những thành tựu to lớn có ý nghĩa rất
quan trọng trong 10 năm Đổi mới (1986-1996) và đề ra mục tiêu phát triển đến năm 2000 và 2020 là : đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng Việt Nam thành một
nước công nghiệp có cơ sở vật chất-kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp
với trình độ sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh,
xã hội công bằng, văn minh.
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX, tháng 4/2001, đã thông qua Nghị quyết về những mục tiêu chiến
lược phát triển kinh tế-xã hội trong thời gian tới, cho tới 2010 là: Đưa GDP tăng ít nhất gấp hai lần năm 2000;
tích luỹ nội bộ từ nền kinh tế đạt trên 30% GDP; nhịp độ tăng trưởng bình quân năm ít nhất đạt 7%; tỷ trọng
nông nghiệp trong GDP là 16-17%; công nghiệp 40-41%; dịch vụ 42-43%; tỷ lệ lao động trong nông nghiệp còn
khoảng 50%; tỷ lệ người được đào tạo nghề là 40%; phổ cập bắt buộc trung học cơ sở trong cả nước; hạ tỷ lệ
trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng còn 20%; tuổi thọ trung bình đạt 71 tuổi; tạo nền tảng để đến năm 2020 Việt
Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT VIỆT NAM
Kế thừa, phát huy truyền thống yêu nước và đoàn kết của dân tộc ta. Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã chủ trương
đoàn kết mọi lực lượng dân tộc và dân chủ trong Mặt trận Dân tộc Thống nhất để cùng nhau chống kẻ thù
chung vì độc lập tự do của Tổ quốc.
Giữa lúc cao trào cách mạng đầu tiên do Đảng lãnh đạo mà đỉnh cao là phong trào Xô viết Nghệ tĩnh đang diễn
ra sôi nổi và rầm rộ trong cả nước, ngày 18.11.1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông
dương ra chỉ thị về vấn đề thành lập Hội phản đế Đồng minh, hình thức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc Thống
nhất Việt nam.
Từ đó tới nay, ở mỗi thời kỳ khác nhau có những hình thức và tên gọi tổ chức cụ thể khác nhau phù hợp với
nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng nhưng Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt nam nơi tập hợp các giai tầng
trong xã hội vì những mục tiêu lớn của dân tộc luôn tồn tại và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam - người chủ
xướng việc hình thành Mặt trận Dân tộc thống nhất trong thời hiện đại - vừa là thành viên tích cực của Mặt trận
vừa bằng sự sáng tạo, đúng dắn trong đường lối, chính sách, sự gương mẫu phấn đấu vì lợi ích chung của
dân tộc đã được các thành viên của Mặt trận thừa nhận vai trò lãnh đạo.
Hiện nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là hình thức tổ chức của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt nam với mục
tiêu tập hợp và phát huy sức mạnh của khối Đại đoàn kết toàn dân phấn đấu cho một nước Việt Nam độc lập,
tự do, hạnh phúc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
MẶT TRẬN THỐNG NHẤT PHẢN ĐỂ ĐÔNG DƯƠNG
HỘI PHẢN ĐẾ ĐỒNG MINH
(18-11-1930)
Ngay từ Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì đã vạch ra sự cần thiết phải xây dựng một Mặt trận Dân tộc thống nhất
nhằm đoàn kết các giai tầng trong xã hội, các tổ chức chính trị, các cá nhân phát huy truyền thống yêu nước,
sức mạnh mọi nhân tố của dân tộc phấn đấu cho sự nghiệp chung giải phóng dân tộc.
Qua phong trào cách mạng phản đế, phản phong sôi nổi trong cả nước mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh, các tổ chức
chính trị với các hệ tư tưởng khác nhau nhưng gặp nhau ở mục tiêu giải phóng dân tộc lần lượt xuất hiện với sự tham gia
của nhiều tầng lớp, nhiều dân tộc. Quá trình này cũng khẳng định năng lực cách mạng của các giai tầng trong xã hội,
khẳng định vị trí đặc biệt và hệ tư tưởng của giai cấp công nhân với việc định hướng cho cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc. Quá trình này cũng khẳng định khối liên minh công nông là cơ sở của Mặt trận Dân tộc thống nhất do Đảng chủ
xướng. Trong Án nghị quyết về vấn đề phản đế tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương
tháng 10 năm 1930 đã nêu rõ sự cấp thiết phải thành lập Mặt trận Thống nhất phản đế. Ngày 18/11/1930 Ban Thường vụ
Trung ương Đảng Cộng sản Đông dương đã ra Chỉ thị thành lập Hội Phản đế đồng minh hình thức đầu tiên của Mặt trận
Dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.
PHẢN ĐẾ LIÊN MINH
(3-1935)
Tháng 3 năm 1935, Đại hội Đảng lần thứ nhất đã thông qua nghị quyết về công tác Phản đế liên minh, quyết
định thành lập và thông qua điều lệ của tổ chức nhằm tập hợp tất cả các lực lượng phản đế toàn Đông dương.
Điều lệ của Phản đế liên minh rộng và linh hoạt hơn Điều lệ Hội phản đế đồng minh. Bất kỳ người hoặc đoàn
thể nào thừa nhận nghị quyết, Điều lệ và thường xuyên nộp hội phí thì được thừa nhận là hội viên.
MẶT TRẬN THỐNG NHẤT NHÂN DÂN PHẢN ĐẾ
(10-1936)
Chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân Phản đế được phổ biến qua tài liệu chung quanh vấn đề
chính sách mới ngày 30/10/1936 khắc phục những sai lầm trong nhận thức và hành động trong quá trình thực
hiện liên minh thời kỳ trước. Việc tập hợp lực lượng trong Mặt trận được công khai qua bức thư ngỏ của Đảng
Cộng sản Đông Dương gửi cho Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp bày tỏ sự đồng minh với nhân dân Pháp,
kêu gọi ban hành một số quyền tự do dân chủ cơ bản cho nhân dân Đông Dương và hô hào "tất cả các đảng
phái chính trị, tất cả các tầng lớp nhân dân Đông Dương tham gia Mặt trận nhân dân Đông Dương".
MẶT TRẬN DÂN CHỦ ĐÔNG DƯƠNG
(6-1938)
Sau khi Mặt trận nhân dân Pháp lên cầm quyền với bản chương trình hành động trong đó có nêu việc thành
lập một Uỷ ban của nghị viện điều tra tình hình chính trị và kinh tế ở các thuộc địa, cùng với nhiều nước thuộc
địa khác các nhà yêu nước Việt Nam kêu gọi "tiến tới một cuộc Đông dương Đại hội" sáng kiến đó được đảng
Cộng sản Đông Dương ủng hộ bằng bức thư ngỏ tháng 8-1936 nêu 12 nguyện vọng cụ thể làm cơ sở cho
Đông Dương Đại hội, lời kêu gọi đã dấy lên một phong trào sôi nổi trong nhân dân cả nước.
Tháng 9-1937 một loạt các tổ chức như Thanh niên Dân chủ Đông Dương, Hội Cứu tế bình dân, Công hội,
Nông hội ra đời cùng với việc hoạt động công khai và nửa công khai của các tổ chức quần chúng nhuư hội ái
hữu, tương tế, các hội hoạt động âm nhạc... từng bước hình thành một Mặt trận Dân chủ Đông Dương.
Tháng 6/1938 Đảng Cộng sản Đông Dương gửi thư công khai cho các đảng phái đề nghị gác các ý kiến bất
đồng để "bước tới thành lập Mặt trận Dân chủ Đông Dương" chính trong thời kỳ này từ những phong trào Mặt
trận đã dần hình thành Mặt trận với tính chất của một tổ chức.
MẶT TRẬN THỐNG NHẤT DÂN TỘC PHẢN ĐẾ ĐÔNG DƯƠNG (11-1939)
Tháng 9 năm 1939,chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, Mặt trận Dân chủ Đông dương bị thực dân Pháp
thẳng tay đàn áp. Cùng với sự đầu hàng thoả hiệp của thực dân Pháp với phát xít Nhật, vấn đề sống còn của
các dân tộc Đông Dương đã đặt ra. Tháng 11/1939 Đảng Cộng sản Đông Dương đã kịp thời chuyển hướng chỉ
đạo, chuyển cuộc vận động Mặt trận Dân chủ thành Mặt trận Dân tộc thống nhất chống chiến tranh đế quốc với
tên gọi chính thức: Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế Đông dương nhằm liên hiệp tất cả các dân tộc Đông
Dương, các giai tầng, đảng phái, cá nhân có tinh thần phản đế muốn giải phóng dân tộc chống đế quốc, bè lũ
tay sai của chúng và vua chúa bản xứ phản bội quyền lợi dân tộc. Các tổ chức phản đế phát triển nhanh chóng
dưới hình thức bí mật và công khai.
VIỆT NAM ĐỘC LẬP ĐỒNG MINH HỘI
GỌI TẮT LÀ VIỆT MINH
(19-5-1941)
Năm 1940, quân Nhật kéo vào Đông dương, thực dân Pháp đầu hàng và làm tay sai cho phát xít Nhật. Tại Hội
nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 8, theo đề nghị của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc, Mặt trận
dân tộc thống nhất chống phát xít Pháp Nhật với tên gọi Việt nam Độc lập đồng minh gọi tắt là Việt minh đã ra
đời ngày 19.5.1941 lấy cờ đỏ sao vàng năm cánh làm cờ của Việt minh và làm cờ tổ quốc "khi thành lập nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà".
Mặt trận Việt minh thu hút được mọi giới đồng bào yêu nước, từ công nhân, nông dân, trí thức, tiểu tư sản đến
tư sản dân tộc, phú nông và một số địa chủ nhỏ có tinh thần yêu nước, đưa tới cao trào đánh Pháp, đuổi Nhật
của toàn dân ta trong những năm 1941-1945, Mặt trận Việt minh là một trong những nhân tố cơ bản bảo đảm
cho cách mạng thành công.
Từ sáng kiến triệu tập toàn quốc đại biểu đại hội, Đại hội Quốc dân do Tổng bộ Việt minh triệu tập họp ở Tân
trào trong 2 ngày 16-17/8/1945 đã thông qua lệnh tổng khởi nghĩa, quyết định quốc kỳ, quốc ca cử ra Uỷ ban
giải phóng dân tộc tức là Chính phủ lâm thời do Hồ Chí minh làm Chủ tịch và ngày 2/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí
Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc tuyên ngôn độc lập, đại biểu tổng bộ Việt minh Nguyễn Lương Bằng đọc
lời hiệu triệu đồng bào cả nước.
HỘI LIÊN HIỆP QUỐC DÂN VIỆT NAM
GỌI TẮT LÀ HỘI LIÊN VIỆT
(29-5-1946)
Năm 1946, giữa lúc nước Việt nam dân chủ cộng hoà vừa ra đời phải đương đầu với nhiều khó khăn lớn, một
Ban vận động thành lập Hội liên hiệp quốc dân Việt nam gồm 27 người với đại biểu Việt minh là Hồ Chí Minh,
được thành lập nhằm mở rộng hơn nữa khối đoàn kết dân tộc.
Việt minh và Liên Việt đã cùng nhau làm chỗ dựa vững chắc cho chính quyền Cách mạng non trẻ đối phó có
hiệu lực với thù trong giặc ngoài.
MẶT TRẬN LIÊN VIỆT
(3-3-1951)
Năm 1951, trong lúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã đi vào giai đoạn quyết liệt, thực hiện khẩu hiệu
" Tất cả cho tiền tuyến ", yêu cầu tập hợp các hình thức tổ chức Mặt trận để đoàn kết động viên toàn dân ta tập
trung sức người sức của đẩy mạnh kháng chiến trở nên cấp bách. Với các chủ trương đường lối đúng đắn
Đảng Lao động Việt Nam và sự ủng hộ tích cực của các Đảng Xã hội, Đảng Dân chủ, các tổ chức chính trị, các
nhân sĩ trí thức trong Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt, hai tổ chức Mặt trận được hợp nhất thành Mặt trận
Liên Việt.
Mặt trận Liên Việt đã góp phần động viên công sức của toàn quân, toàn dân lập nên chiến thắng lịch sử Điện
Biên phủ, đưa đến việc ký kết hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 công nhận chủ quyền, độc lập, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt nam.
MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
(10-9-1955)
Đế quốc Mỹ nhảy vào miền Nam Việt nam, hất cẳng thực dân Pháp và phá hoại hiệp định Giơ-ne-vơ âm mưu
chiếm đóng miền Nam chia cắt lâu dài nước ta. Cách mạng Việt nam lúc này có hai nhiệm vụ chiến lược là tiến
hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã được hoàn toàn giải phóng và hoàn thành cách mạng dân tộc
dân chủ ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà.
Trong bối cảnh đó, ngày 10.9.1955, Mặt trận Tổ quốc Việt nam ra đời với mục đích đoàn kết mọi lực lượng dân
tộc và dân chủ, đấu tranh đánh bại đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai, xây dựng một nước Việt nam hoà bình
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Mặt trận Tổ quốc Việt nam đã phát huy tác dụng to lớn của mình trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
cũng như trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Mặt trận Tổ quốc Việt nam đã động viên
đồng bào và chiến sĩ nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng đánh thắngchiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ
và hết lòng hết sức đáp ứng các yêu cầu của cuộc đấu tranh yêu nước của đồng bào miền Nam. Mặt trận Tổ
quốc Việt nam đã tích cực tham gia cải tạo Xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương
nghiệp nhỏ và giúp đỡ các nhà tư sản dân tộc thông suốt chính sách làm cho cuộc cải tạo công thương nghiệp
tư bản tư doanh tiến hành thuận lợi, đạt kết quả. Mặt trận đã tích cực góp phần phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, ra sức động viên nhân dân tham gia bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, xây dựng
chính quyền cách mạng, phát triển sản xuất, xây dựng kinh tế, thực hiện nếp sống mới, xây dựng con người
mới.
MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM (20-12-1960)
Trong cao trào đồng khởi của đồng bào miền Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam ra đời (20-12-1960)
nhằm đoàn kết toàn dân đánh bại chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, đánh đổ nguỵ quyền tay sai của
chúng, giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc. Với đường lối đúng đắn ấy, Mặt trận Dân tộc Giải
phóng đã tập hợp dưới ngọn cờ đại nghĩa của mình các tầng lớp nhân dân, các tổ chức và mọi người Việt nam
yêu nước, để cùng nhau chống Mỹ cứu nước.
Mặt trận dân tộc giải phóng không ngừng củng cố và mở rộng khối đoàn kết dân tộc, tổ chức và động viên
đồng bào và chiến sĩ miền Nam đẩy mạnh đấu tranh trên cả ba mặt trận: quân sự, chính trị và ngoại giao. ảnh
hưởng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng không ngừng được mở rộng trong các tầng lớp nhân dân miền Nam
và uy tín của mặt trận đã được nâng cao trên trường quốc tế.
LIÊN MINH CÁC LỰC LƯỢNG DÂN TỘC DÂN CHỦ VÀ HÒA BÌNH VIỆT
NAM
(20-4-1968)
Trong cao trào tiến công và nổi dậy đầu xuân Mậu Thân (1968) Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và
Hoà bình Việt nam ra đời (20-4-1968). Kết tụ từ các phong trào đấu tranh yêu nước của các giới sinh viên, học
sinh, trí thức, đồng bào tôn giáo, công thương gia, nhân sĩ dân chủ tại các thành thị miền Nam, Liên minh các
lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hoà bình Việt nam bằng những công tác trong nước và ngoài nước đã góp sức
động viên xúc tiến các phong trào ấy, tăng thêm sức mạnh cho khối đoàn kết toàn dân, chống Mỹ cứu nước.
Phấn đấu cho một mục tiêu chung là giải phóng miền Nam, bảo vệ và xây dựng miền Bắc thực hiện thống nhất nước nhà,
Mặt trận Tổ quốc Việt nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam và Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hoà
bình Việt nam đã luôn luôn hợp tác chặt chẽ, hỗ trợ nhau tạo nên một sức mạnh không gì lay chuyển nổi của khối đại đoàn
kết dân tộc, và đã đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của toàn dân đến thắng lợi hoàn toàn, hoàn thành cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất nước nhà.
MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
(4-2-1977)
Sau khi cả nước đã được độc lập, sự thống nhất và toàn vẹn của một quốc gia đòi hỏi hợp nhất 3 tổ chức mặt
trận. Nhằm đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới, Đại hội Mặt trận Dân tộc thống nhất họp từ 31-1
đến 4-2-1977 tại thành phố Hồ Chí Minh đã thống nhất ba tổ chức Mặt trận ở hai miền Nam Bắc nước ta thành
một tổ chức Mặt trận Dân tộc thống nhất duy nhất lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống nhất ý chí của tất cả các
tổ chức của các giai tầng trong xã hội, các cá nhân tiêu biểu của các dân tộc, tôn giáo, tầng lớp, các vị lãnh
đạo tiêu biểu cho ý chí đoàn kết của dân tộc, luôn phấn đấu xây dựng khối Đại đoàn kết dân tộc vững mạnh
thực hiện lời dạy của Hồ Chí Minh vị lãnh tụ của toàn dân tộc: "Mục đích phấn đấu của Mặt trận Dân tộc thống
nhất là xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh".
80 năm Báo chí Cách mạng Việt Nam
[20/06/2005 - minhlq - Vietnam Journalism]
Báo chí Cách mạng Việt Nam là tiếng nói của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp, là
diễn đàn tin cậy của nhân dân. Báo chí tuyên truyền, phổ biến đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước,
phản ánh nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân.
Báo chí cũng là một vũ khí sắc bén chống lại kẻ thù của nhân dân. 80 năm qua, kể từ số báo Thanh niên đầu
tiên (21/6/1925), qua từng giai đoạn cách mạng, báo chí Việt Nam không ngừng phát triển phong phú và đa
dạng.
Báo chí thời kỳ trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
Tờ báo cách mạng đầu tiên do người Việt Nam xuất bản là tờ Le Paria (Người cùng khổ) in bằng tiếng Pháp do
Nguyễn Ái Quốc, đảng viên Đảng Cộng sản Pháp sáng lập, làm chủ báo và chủ bút; số 1 ra ngày 1/4/1922 tại
Pari.
Vào những năm 20 đầu thế kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập ra tổ chức Thanh niên Cộng sản Đoàn làm
nòng cốt cho tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội - Một tổ chức yêu nước Việt Nam đầu tiên
đi theo con đường cách mạng vô sản, đồng thời xuất bản báo Thanh niên làm cơ quan ngôn luận của tổ chức
này. Ngày 21/6/1925, Thanh niên, tờ báo đầu tiên của Cách mạng Việt Nam, ra số 1. Tháng 6/1985, Đảng Cộng
sản Việt Nam quyết định lấy ngày 21/6 làm ngày truyền thống của báo chí - Ngày Báo chí Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập báo Thanh niên và là người đào tạo lớp làm báo vô sản đầu tiên của
Việt Nam như Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Lê Duy Điềm, Trương Văn Lĩnh. Tờ báo Thanh niên đã nhanh
chóng thôi thúc lòng người, làm sống động phong trào cộng sản. Tiếp theo báo Thanh niên, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cho xuất bản các báo Công nông và Lính cách mệnh để vận động công nhân, nông dân và binh lính đoàn
kết, đứng lên làm cách mạng, đánh đuổi đế quốc Pháp, giành độc lập dân tộc.
Kỳ bộ Nam Kỳ của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội ra báo Bônsêvích, chi bộ Việt kiều của hội ở
Thái Lan xuất bản báo Đồng thanh, sau đổi thành Thân ái. Tháng 6/1929, Đông Dương Cộng sản Đảng ra đời,
cho xuất bản báo Búa liềm làm cơ quan Trung ương của Đảng, Ban công vận Trung ương của Đảng ra báo
Công hội đỏ, Tổng Công hội Bắc kỳ ra báo Lao động...
Tháng 9/1929, An Nam Cộng sản Đảng cho ra báo Đỏ. Những tờ báo của các tổ chức Cộng sản sơ khai này có
tác dụng rất quan trọng trong việc giáo dục ý thức giai cấp, đấu tranh giai cấp và lý tưởng cộng sản chủ nghĩa
cho quần chúng lao động.
Tháng 2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản được triệu tập dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, quyết định thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua một số văn kiện quan trọng, quyết định ngừng
xuất bản các tờ báo của các tổ chức cộng sản trước, Trung ương và địa phương sẽ ra báo của Đảng Cộng sản
Việt Nam thống nhất. Ngày 5/8/1930, Trung ương cho ra báo Tạp chí đỏ; ngày 15/8/1930, báo Tranh đấu ra
mắt.
Báo chí từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đến năm 1936
Tháng 10/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Trung ương Đảng cho ra
báo Cờ vô sản và tạp chí Cộng sản. Các xứ ủy, tỉnh ủy, nhiều huyện ủy và chi bộ cũng ra báo. Báo chí trong
thời kỳ này đóng vai trò quan trọng trong việc phát động cao trào cách mạng của công nông chống đế quốcphong kiến, đỉnh cao là cao trào Xô viết-Nghệ Tĩnh. Đế quốc Pháp hoảng sợ, điên cuồng khủng bố. Tổ chức của
Đảng và các đoàn thể quần chúng bị thiệt hại nghiêm trọng. Báo chí cách mạng phải lần lượt ngừng xuất bản.
Nhưng sau khi các cấp ủy được khôi phục thì chỉ một thời gian ngắn các báo lại tiếp tục xuất bản. Đặc biệt xứ
ủy Nam Kỳ, từ năm 1931 đến 1934, ba lần xứ ủy bị phá khôi phục lại là ba lần có báo Cờ đỏ, Cờ lãnh đạo, rồi
đổi tên là Giải phóng.
Ban lãnh đạo ở nước ngoài của Đảng được thành lập làm nhiệm vụ tạm thời của Trung ương, xuất bản tạp chí
Bônsêvích làm cơ quan lý luận để thống nhất Đảng, đẩy mạnh việc khôi phục, phát triển cơ sở và hệ thống tổ
chức của Đảng, cùng các đoàn thể quần chúng, chuẩn bị cho Đại hội Đảng toàn quốc. Tháng 3/1935, Đại hội
Đảng lần thứ nhất họp, quyết định chuyển tạp chí Bônsêvích thành tạp chí lý luận Trung ương của Đảng.
Đảng cho xuất bản hai tờ báo vận động binh lính trong quân đội Pháp, một tờ bằng tiếng Pháp L’Armée rouge
(Hồng quân) và một tờ tiếng Việt là Giác ngộ.
Các chi bộ cộng sản trong một số nhà tù lớn đã xuất bản báo và tạp chí như Con đường chính, Lao tù tạp chí,
Đuốc đưa đường, Đường cách mạng, Hỏa lò Hà Nội, Bônsêvích, Nhà tù Buôn Ma Thuột, Người tù đỏ, Qua tiếng
sóng hận, Hòn Cau, Ý kiến chung ở Côn Lôn, Nẻo nhà pha ở nhà tù Quảng Nam...
Báo chí trong những năm 1930-1936 đã phục vụ tích cực cho xây dựng Đảng, tuyên truyền chủ nghĩa MácLênin và đường lối cách mạng dân quyền của Đảng, kiên quyết chống đế quốc, phong kiến, chống chủ nghĩa
cải lương của giai cấp tư sản và chủ nghĩa dân tộc tư sản của Việt Nam quốc dân Đảng, chuẩn bị điều kiện để
đón thời cơ đưa cách mạng tiến lên một cao trào mới.
Báo chí thời kỳ vận động dân chủ 1936-1939
Ở Pháp, Mặt trận Nhân dân giành được thắng lợi trong tổng tuyển cử tháng 5/1936, lập ra một Chính phủ tiến
bộ bắt tay vào thực hiện cải cách theo chương trình của Mặt trận. Mặt trận nhân dân chống phát xít được thành
lập ở nhiều nước và hình thành Mặt trận nhân dân thế giới chống phát xít.
Trung ương Đảng chủ trương thành lập Mặt trận dân chủ bao gồm các giai cấp và tầng lớp xã hội người Việt
Nam và người nước ngoài sinh sống ở Việt Nam tán thành tự do, dân chủ, cải thiện đời sống và hoà bình,
chống phản động thuộc địa và chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh. Lợi dụng khả năng hoạt động nửa hợp
pháp, nửa bất hợp pháp, Đảng chủ trương đưa báo chí ra xuất bản công khai. Lợi dụng chính sách báo chí của
địch ra báo chữ Pháp không phải xin phép, ta cho ra một số tờ chữ Pháp xuất bản ở Hà Nội như Le Travail (Lao
động), Rasemblement (Tập Hợp), En Avant (Tiến lên), Notre Voix (Tiếng nói của chúng ta); ở Sài Gòn có L’
Avant garde (Tiên phong), Le Peuple (Nhân dân). Chúng ta đã dùng nhiều cách để thuê, mua lại tên báo cũ,
đưa quần chúng tốt đứng ra xuất bản báo tiếng Việt. Một loạt các tờ báo đã ra đời như: Hồn trẻ tập mới, Tân xã
hội, Nhành lúa, Kinh tế tân văn, Hà thành thời báo, Thời thế, Tin tức, Thế giới, Dân, Dân tiến, Dân muốn, Đời
nay...
Tờ Dân chúng, cơ quan Trung ương của Đảng, buộc nhà cầm quyền phải thừa nhận quyền tự do xuất bản báo
chí tiếng Việt không cần xin phép ở Nam Kỳ, mở đường cho một loạt tờ báo ra tự do.
Những tờ báo cách mạng chỉ chiếm một phần tư tổng số báo trong thời kỳ này nhưng giữ một vị trí rất quan
trọng, chiếm lĩnh được cảm tình của đông đảo bạn đọc nhất. Do chính sách của Mặt trận dân chủ của Đảng và
cao trào cách mạng của quần chúng, báo chí cách mạng có ảnh hưởng tốt đến các tờ báo khác, hình thành mặt
trận báo chí dân chủ, phối hợp đấu tranh và giành được một số thắng lợi vang dội như triệu tập được Hội nghị
báo giới ở Trung kỳ và Bắc kỳ, thảo luận nhiều vấn đề bổ ích về chính trị và nghề nghiệp.
Báo chí thời kỳ vận động dân chủ in ty-pô số lượng lớn. Có tờ chiếm kỷ lục như Dân chúng số Xuân 1939 in đến
15.000 bản. Trình bày bài vở trên mặt báo đã mang dáng dấp hiện đại, biên tập và in nhanh, phát hành nhanh,
rộng trong cả nước và ra nước ngoài.
Báo chí thời kỳ cao trào cứu nước 1939-1945
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương thực hiện chính sách cai trị phát xít.
Báo chí xuất bản bị cấm xuất bản, cấm lưu hành, tàng trữ. Địch tiến hành những cuộc khủng bố lớn, trước hết
nhằm vào Đảng cộng sản Việt Nam. Đảng ta và các tổ chức quần chúng phải chuyển vào hoạt động bí mật, báo
chí cách mạng bị gián đoạn một thời gian ngắn.
Tháng 5/1941, Mặt trận Việt Minh thành lập. Tháng 8/1941, báo Việt Nam độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng
lập, lấy danh nghĩa Việt Minh tỉnh Cao Bằng, sau mở rộng thành Việt Minh Cao Bằng-Bắc Cạn, rồi Cao BằngBắc Cạn-Lạng Sơn.
Ngày 25/1/1942, báo Cứu quốc, cơ quan của tổng bộ Việt Minh ra đời. Ngày 10/10/1942, báo Cờ giải phóng, cơ
quan Trung ương của Đảng xuất bản số 1. Trung ương còn xuất bản tạp chí Cộng sản làm cơ quan lý luận. Các
kỳ bộ Việt Minh và tỉnh bộ Việt Minh lần lượt cho xuất bản báo của địa phương cùng với báo của các đoàn thể
cứu quốc ở Trung ương: Công nhân, Thanh niên, Học sinh, Văn hóa, Tự vệ...
Báo chí phục vụ tích cực cho xây dựng lực lượng vũ trang, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang.
Từ sau khi có chỉ thị sửa soạn khởi nghĩa của tổng bộ Việt Minh (5/1944) và nhất là sau cuộc đảo chính NhậtPháp (3/1945), Đảng phát động cao trào kháng Nhật cứu nước tiến tới Tổng khởi nghĩa, một số báo của các lực
lượng vũ trang từ các căn cứ kháng Nhật và khu giải phóng được xuất bản, như Tiếng súng khởi nghĩa, Quân
giải phóng...
Báo chí cách mạng lại xuất hiện trong nhiều nhà tù và trại tập trung để rèn luyện cán bộ, chuẩn bị cung cấp cán
bộ cho phong trào tiến tới tổng khởi nghĩa.
Hai tờ báo Cờ giải phóng và Cứu quốc có cống hiến lớn nhất trong việc đẩy mạnh cao trào cách mạng và giành
thắng lợi lịch sử tháng Tám 1945.
Kể từ khi báo Thanh niên ra đời đến tháng 8/1945, tổng cộng có hơn 270 tờ báo và tạp chí.
Báo chí thời kỳ sau Cách mạng Tháng Tám 1945 đến 1975
Từ tháng 8/1945 trở đi, dưới chế độ dân chủ nhân dân, báo chí cách mạng xuất bản công khai, in ty-pô với số
lượng lớn. Báo Cứu quốc xuất bản hàng ngày là tờ báo lớn nhất cả nước. Báo chí của nhiều tỉnh ngừng xuất
bản tập trung cho báo chí Trung ương và những thành phố lớn. Trong làng báo xuất hiện hai cơ quan mới: Đài
phát thanh Tiếng nói Việt Nam và Việt Nam Thông tấn xã (nay là Thông tấn xã Việt Nam). Cuối năm 1945, Đảng
chuyển vào bí mật, báo Cờ giải phóng ngừng xuất bản; báo Sự Thật ra đời với danh nghĩa cơ quan của Hội
nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương.
Trong năm đầu của chính quyền cách mạng, báo chí phục vụ tích cực cho nhiệm vụ bảo vệ chính quyền non
trẻ.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lần thứ hai bùng nổ và lan rộng. Báo chí cách mạng có một bộ phận
xuất bản công khai ở các vùng tự do và các căn cứ kháng chiến, một bộ phận xuất bản trong vùng địch chiếm.
Trong những năm kháng chiến, báo chí cách mạng lưu hành qua lại cả vùng tự do và vùng bị địch chiếm, nhất
là báo chí của các cơ quan Trung ương và địa phương, đi sâu vào các cơ sở kháng chiến trong vùng địch.
Những văn kiện của Đảng, bài nói và viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo của Đảng được in
trên các báo Trung ương và các báo địa phương.
Năm 1951, sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ hai, báo Sự Thật đình bản, báo Nhân Dân, cơ quan Trung ương
của Đảng bắt đầu xuất bản, tạp chí Cộng sản, tạp chí Sinh hoạt nội bộ, báo Quân đội Nhân dân ra đời.
Báo chí đã đến với một số Đảng anh em và bạn bè trên thế giới, nhờ đó mà nhân dân thế giới ngày càng hiểu rõ
cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta, đồng tình và ủng hộ sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta. Chính
báo chí đã góp phần tích cực tạo ra nhân tố quốc tế của thắng lợi trong kháng chiến chống Pháp.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, nước ta tạm thời chia làm 2 miền với 2 nhiệm vụ
chiến lược khác nhau nhưng có một nhiệm vụ chung: Đánh đổ đế quốc Mỹ và tay sai, hoàn thành cách mạng
giải phóng dân tộc.
Báo chí của ta hình thành báo chí tự do ở miền Bắc và báo chí xuất bản bí mật bất hợp pháp ở vùng địch tạm
chiếm ở miền Nam. Trong điều kiện mới, báo chí miền Bắc có những bước tiến vượt bậc. Báo Nhân Dân ra
hàng ngày, in với số lượng lớn nhất bằng kỹ thuật tiên tiến. Trung ương cho ra tạp chí lý luận, lúc đầu là Học
tập, sau đổi là tạp chí Cộng sản.
Những tờ báo từ kháng chiến chống Pháp được phát triển để phục vụ nhiệm vụ mới. Nhiều cơ quan nghiên cứu
khoa học, tuyên truyền, lý luận, tổ chức, kỹ thuật và các tỉnh đều xuất bản báo.
Đã xuất bản một số tờ báo tiếng nước ngoài để giới thiệu các vấn đề của Việt Nam với bạn bè quốc tế.
Ngày 2/6/1950, Hội Nhà báo Việt Nam được thành lập đã đoàn kết rộng rãi các nhà báo trong nước và tháng
7/1950 gia nhập Tổ chức Quốc tế các nhà báo (OIJ).
Báo chí Việt Nam giai đoạn từ sau 1975 đến nay
Sau ngày thống nhất đất nước, báo chí ở nước ta đã phát triển khá nhanh về số lượng và chất lượng, hình
thành hệ thống thông tấn, báo chí, phát thanh, truyền hình rộng khắp cả nước.
Từ sau Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Đảng đã nhìn thẳng vào sự thật, tự phê bình nghiêm khắc và tiến
hành công cuộc đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy. Đặc biệt là sau khi Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh viết một
loạt bài đăng báo Nhân Dân với chuyên mục "Những việc cần làm ngay" (năm 1987), báo chí như được thổi
luồng không khí mới. Hàng trăm bài phóng sự, điều tra phản ánh những hiện tượng tiêu cực trong sản xuất,
hoạt động kinh tế và trong đời sống xã hội. Trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, chống tiêu cực và các tệ
nạn xã hội, báo chí cả nước đã phát huy vai trò xung kích, thể hiện rõ chức năng giám sát của nhân dân. Hầu
hết các vụ tiêu cực lớn được đưa ra xét xử trong những năm qua như vụ TAMEXCO, Dệt Nam Định, đường dây
buôn bán ma túy Xiêng Phênh-Vũ Xuân Trường, Năm Cam... đều được báo chí lên tiếng cảnh báo trước công
luận với những tin bài điều tra sắc sảo, công phu.
Nội dung thông tin của báo chí ngày càng phong phú, hiệu quả, hình thức đẹp, sinh động và hấp dẫn. Báo chí
đã đi sâu vào thực tiễn đời sống, phát hiện, giới thiệu, cổ vũ các mô hình kinh tế mới, cách làm ăn mới, nhân tố
mới, người tốt, việc tốt. Báo chí đã thể hiện rõ quan điểm bảo vệ và phát huy bản sắc, truyền thống văn hóa dân
tộc, tuyên truyền cổ vũ toàn dân phát huy có chọn lọc nền văn hóa tiên tiến của các nước trên thế giới, góp
phần nâng cao dân trí, ngăn chặn văn hóa xấu len lỏi vào Việt Nam. Báo chí đã tổ chức, khơi dậy và biến nhiều
hoạt động xã hội từ thiện trở thành phong trào của toàn xã hội như: đền ơn đáp nghĩa, xây dựng nhà tình nghĩa;
xóa đói giảm nghèo; ủng hộ đồng bào khắc phục hậu quả thiên tai; khuyến khích tài năng; khuyến thiện...
Nhờ có công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, báo chí đã có bước tiến nhảy vọt về chất và
lượng. Từ vài chục cơ quan báo chí trong ngày đầu giành chính quyền, đến nay đã có trên 500 cơ quan báo chí
với gần 700 ấn phẩm báo chí, 2 đài phát thanh và truyền hình quốc gia, hơn chục đài phát thanh và truyền hình
khu vực, 64 đài phát thanh, truyền hình ở các tỉnh, thành phố. Đội ngũ báo chí điện tử, báo chí trực tuyến phát
triển mạnh mẽ cùng với các nhà cung cấp dịch vụ Internet tạo nên một mạng thông tin báo chí điện tử sôi động
có sức thu hút hàng triệu lượt người truy cập hàng ngày. Đội ngũ những người làm báo phát triển nhanh chóng,
từ 300 người trong kháng chiến chống Pháp lên hơn 13.000 hội viên nhà báo hiện nay, chưa kể hàng nghìn
người mới tham gia đội ngũ báo chí nhưng chưa đủ điều kiện gia nhập Hội Nhà báo Việt Nam...
Hoạt động của báo chí trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, trong quá trình hội nhập quốc
tế và cơ chế thị trường, trong thời đại bùng nổ thông tin đang phát triển không ngừng. Đứng trước những yêu
cầu mới, báo chí cách mạng Việt Nam mãi mãi kiên định mục tiêu lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực
hiện tốt chức năng báo chí là cơ quan ngôn luận của Đảng, Nhà nước, tổ chức xã hội và là diễn đàn của nhân
dân./.
Sáng mãi ánh sáng Cách mạng Tháng Mười Nga (07/11/2005 13:40)
Hôm nay, những người Cộng sản và nhân loại tiến bộ trên thế giới lại một lần nữa tiếp tục khẳng
định tính khoa học, tính cách mạng và ý nghĩa bất diệt của Cách mạng Tháng Mười Nga, nhân dịp kỷ
niệm 88 năm (7/11/1917 - 7-11-2005). Ra đời cách đây đã gần một thế kỷ nhưng Cách mạng Tháng
Mười Nga vẫn còn nguyên giá trị, vẫn tiếp tục soi đường chỉ lối cho các cuộc cách mạng tiến bộ, cho
phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đã 88 năm trôi qua nhưng tiếng đại bác trên chiến hạm Rạng Đông ngày 7/11/1917, mở đầu cho
cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại vẫn còn âm vang trong lịch sử nhân loại. Cách mạng Tháng
Mười Nga đã chứng minh trên thực tế một chân lý, đó là giai cấp công nhân và nhân dân lao động
dưới sự lãnh đạo của chính đảng của giai cấp công nhân có thể giành thắng lợi trong một cuộc cách
mạng kiểu mới, cuộc cách mạng lật đổ giai cấp bóc lột, xây dựng một xã hội do người lao động làm
chủ, không còn người bóc lột người. Cách mạng Tháng Mười Nga đã cổ vũ toàn nhân loại bị áp bức
trong đó có hàng chục triệu người dân các nước thuộc địa đứng lên giải phóng dân tộc kết hợp với
giải phóng giai cấp, lật đổ ách thực dân kiểu cũ và kiểu mới, làm chủ tương lai và vận mệnh của
mình. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí minh đã từng nói: "Giống như một mặt trời chói lọi, Cách mạng
Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất.
Trong lịch sử loài người chưa có một cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế"
Cách mạng Tháng Mười Nga đã thay đổi bản đồ chính trị toàn thế giới trong đó có Việt Nam. Có thể
khẳng định rằng cách mạng Việt Nam sẽ không có được những thắng lợi to lớn như ngày nay nếu
không có ngọn cờ Cách mạng Tháng Mười Nga soi đường. Từ giữa thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20,
nhân dân ta đã liên tiếp đứng lên khởi nghĩa, tiến hành các cuộc vận động đánh đuổi thực dân Pháp
nhưng trước sau các cuộc khởi nghĩa và vận động đó đều bị dìm trong bể máu do thiếu một đường
lối cứu nước phù hợp với thời đại và lòng dân. Giữa lúc các phong trào yêu nước đều lần lượt bị thất
bại, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi ở nước Nga như một luồng gió mới, có sức hấp dẫn kỳ
diệu đối với những người cách mạng Việt Nam. Tư tưởng của V.Lênin, của những người cộng sản
đã làm nên Cách mạng Tháng Mười đã ảnh hưởng sâu sắc đến nhà yêu nước Nguyễn Ái Quốc.
Tháng 7-1920, sau khi đọc dự thảo Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.Lênin, giữa thủ
đô Pari của nước Pháp đế quốc, Người như muốn reo lên: “Hỡi đồng bào bị đầy đọa đau khổ, đây là
cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta” - (Hồ Chí Minh – Tuyển tập,tập 1,
trang 175). Từ đó, nhà yêu nước Nguyễn Ái Quốc – sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại - đã đứng
hẳn trên lập trường của chủ nghĩa cộng sản, ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam,
sáng lập và lãnh đạo, rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác. Cũng từ đó, những người cộng sản và nhân dân Việt Nam được sự cổ vũ
của Cách mạng Tháng Mười Nga đã vượt qua biết bao hi sinh, gian khổ trong cuộc đấu tranh giành
chính quyền về tay nhân dân, tiến hành hai cuộc kháng chiến thần thánh bảo vệ độc lập, tự do của tổ
quốc và ngày nay trong cuộc chiến đấu thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu, bảo vệ sự trong sạch của Đảng
và Nhà nước, xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
trên con đường Cách mạng Tháng Mười Nga đã mở ra.
Với Cách mạng Tháng Mười Nga, từ chỗ còn là “bóng ma ám ảnh châu Âu”, chủ nghĩa xã hội đã tồn
tại trên thực tế và trở thành xu thế không thể đảo ngược của lịch sử nhân loại. Với sự xuất hiện và
tồn tại gần 80 năm của nước Nga Xô viết và sau đó là Liên bang Xô viết, nhân loại đã được chứng
kiến những biến đổi kỳ diệu của đời sống con người trên diện tích một phần ba trái đất, chiến thắng
oanh liệt của Hồng quân Liên xô cứu loài người khỏi thảm họa phát xít và rất nhiều thành tựu to lớn
mà chủ nghĩa xã hội đã mang lại.
Do những sai lầm xuất phát từ việc xa rời những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, Liên
bang Xô viết đã sụp đổ, đưa phong trào cộng sản và công nhân thế giới vào thời kỳ thoái trào hiện
nay. Sự sụp đổ của Liên bang Xô viết là một tổn thất to lớn, vô cùng đau xót không chỉ của những
người cộng sản mà còn của cả loài người tiến bộ nhưng không vì thế có thể làm lu mờ được ngọn cờ
tư tưởng bất diệt của Cách mạng Tháng Mười Nga, của chủ nghĩa cộng sản. Trên thế giới ngày nay
vẫn tồn tại những nhà nước xã hội chủ nghĩa chiếm 1/5 diện tích toàn cầu với gần 1,5 tỷ người .
Không chỉ thế, hàng chục đảng cộng sản, đảng công nhân với hàng chục triệu đảng viên vẫn đang có
ảnh hưởng chính trị to lớn ngay ở những nước tư bản phát triển. Lý tưởng về một xã hội công bằng,
nhân văn mà Cách mạng Tháng Mười Nga đã chỉ ra cho đến nay vẫn có sức hấp dẫn ở hàng chục
quốc gia đã giành được độc lập trong thời kỳ còn hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, đang trên
đường thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu. Lịch sử có những đoạn quanh co, có bước thăng trầm nhưng
chủ nghĩa xã hội, một mô hình nhà nước kiểu mới, một bước tiến của văn minh nhân loại xuất hiện
từ Cách mạng Tháng Mười Nga vẫn là xu thế của thời đại, là hình mẫu lý tưởng mà nhân loại tiến bộ
hướng tới
Đi theo con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, cách mạng Việt Nam đã giành được những
thắng lợi chưa từng có, mở ra kỷ nguyên độc lập, thống nhất, hòa bình, phát triển cho dân tộc. Vào
thập kỷ tám mươi của thế kỷ trước, trước thực tiễn Việt Nam và tình hình thế giới, tình hình trong các
nước xã hội chủ nghĩa lúc bấy giờ, Đảng ta đã khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước.
Hai mươi năm qua, quá trình đổi mới đã thu được những thành tựu to lớn. Từ một nước thiếu ăn,
kiệt quệ sau chiến tranh, trong vòng vây cấm vận, bị phụ thuộc vào nước ngoài, cơ chế quan liêu,
bao cấp nặng nề, Việt Nam đã vượt ra khỏi khủng hoảng, trở thành một quốc gia có tốc độ tăng
trưởng cao của thế giới, có kim ngạch xuất khẩu lớn kể cả xuất khẩu lương thực và hàng nông sản,
có thị trường và môi trường đầu tư hấp dẫn. Không chỉ đạt nhiều thành tựu trong kinh tế, Việt Nam
còn có nền chính trị, an ninh-quốc phòng ổn định, đạt nhiều thành tích trong xóa đói giảm nghèo, giáo
dục, nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần của người dân. Có được những thành tựu đó là nhờ sự
lãnh đạo sáng suốt, sáng tạo, giàu bản lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam, một đảng mác xít kiểu
mới, luôn trung thành với lý tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, của Cách
mạng Tháng Mười Nga. Bài học thắng lợi của hai mươi năm đổi mới chứng tỏ kiên trì mục tiêu tiến
lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là con đường duy nhất đúng và tất thắng . Trên con
đường đó, những người cộng sản và toàn thể nhân dân ta luôn được cổ vũ, được soi sáng từ nguồn
sáng vĩ đại Cách mạng Tháng Mười Nga./.
24/03/2006 10:08:59
Đảng của Dân tộc
Tương Lai
Khi bà má miền Nam thời chống Mỹ đào hầm nuôi cán bộ cộng sản, bà mẹ miền Bắc gửi con trai mình ra mặt
trận theo lời kêu gọi "không có gì quý hơn độc lập tự do", chắc các mẹ không phải săm soi tìm hiểu xem Đảng là
của giai cấp công nhân hay của ai. Mà quả thật có định tìm hiểu, chắc bà cũng không sao hiểu nổi “tính triệt để
cách mạng của giai cấp công nhân là do vị trí khách quan của giai cấp ấy trong phương thức sản xuất xã hội
quy định!" Sâu thẳm trong đạo lý và tình cảm của dân tộc ta, cứu nước là nghĩa vụ thiêng liêng. Chạm đến vấn
đề này là chạm đến khu vực nhạy cảm nhất trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam không phân biệt
tầng lớp, giai cấp, tín ngưỡng, tôn giáo. Đảng đứng ra nhận lãnh sứ mệnh cứu nước, đảng viên của Đảng đi đầu
trong gian khổ, hy sinh vì nhiệm vụ cao cả đó. Bằng chính hành động đó, dân tin Đảng, xem Đảng là Đảng của
mình.
Đương nhiên, nói như vậy không phải để khước từ một kiến giải về lý luận. Để phù hợp với khuôn khổ một bài
báo ngắn, xin vắn tắt kiến giải ấy như sau: Là một tổ chức chính trị, vấn đề chính đảng không là vấn đề của
riêng nước ta mà là mối bận tâm của cả loài người. Trong “Đường cách mệnh” xuất bản năm 1927, Nguyễn Ái
Quốc viết: "Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ
chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững mạnh thì cách
mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy". Gần đây nhất, “Đại Bách khoa toàn
thư Pháp” định nghĩa về các đảng chính trị như sau: “Nhìn chung, một đảng chính trị có thể được định nghĩa
như thể là một tập thể xã hội tìm kiếm sự ủng hộ của nhân dân nhằm trực tiếp thực thi quyền lực, và tập thể
này được tổ chức theo thời gian và không gian sao cho nó có thể vượt qua được ảnh hưởng cá nhân của người
lãnh đạo. Định nghĩa này vận dụng ba yếu tố - nền tảng của đảng, cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ của nó - mà
người ta sẽ xem xét trước khi xem xét những đảng được định nghĩa như vậy được hình thành trong lịch sử như
thế
nào".
Với C.Mác, tư duy về đảng có quá trình vận động từ “đảng-ý thức” đến”đảng-tổ chức”. Khi giai cấp có ý thức tự
giác về bản thân mình, về vị trí, thân phận và sứ mệnh lịch sử của mình, thì giai cấp trở thành Đảng. Vì thế
“đảng-ý thức” là nơi các nhà cách mạng sáng suốt truyền bá lý luận cách mạng và giáo dục công nhân, gắn lý
luận với hành động. Từ kinh nghiệm thất bại của Công xã Paris năm 1871, quan niệm về đảng chuyển rõ sang
“đảng-tổ chức” lúc đầu còn có phần lỏng lẻo, về sau ngày càng chặt, thể hiện rõ quan điểm Đảng Cộng sản là
kết quả của sự kết hợp giữa lý luận cộng sản với phong trào công nhân (về sau Ph.Ăngghen gọi lý luận ấy là
“học
thuyết
Mác”).
Để đi sâu vào vấn đề này, lại phải làm sáng rõ khái niệm giai cấp. Với C.Mác, khái niệm “giai cấp” cũng có nhiều
biến đổi. Từ sự nhìn nhận giai cấp vô sản như tác nhân chính trên sân khấu của lịch sử, C.Mác thay thuật ngữ
giai cấp vô sản bằng thuật ngữ “giai cấp công nhân” để rồi dần dần thay thế thuật ngữ “giai cấp vô sản” hay
“giai cấp công nhân” bằng thuật ngữ “những người làm công ăn lương”. Rồi về cuối đời, C.Mác sử dụng khái
niệm “giai cấp những người sản xuất” trong “Lời nói đầu viết cho Bản Cương lĩnh của Đảng công nhân Pháp”:
“Xét thấy rằng giải phóng giai cấp những người sản xuất là giải phóng toàn thể loài người”(1). Về sau này,
những nhà nghiên cứu Mácxít xem đó như là "Di chúc chính trị của C.Mác". "Quốc tế 3" đã không theo "Di chúc"
đó, nhưng tư tưởng chính trị đó của C.Mác sau này trở thành nền tảng của tất cả các cương lĩnh của các đảng
Xã
hội
dân
chủ
của
"Quốc
tế
2"!
Như vậy là, khái niệm về “người đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản” thoạt đầu đóng khung trong thuật ngữ “giai
cấp vô sản” đã không “nhất thành bất biến” mà đã biến đổi theo hướng mở rộng ra. Số đông, có thể nói là hầu
hết các Đảng cộng sản Âu, Mỹ, đã tiếp thu sự mở rộng nhận thức ấy. Điều ấy là do sự vận động của thực tiễn.
Trong những nước tư bản phát triển, “những người làm công ăn lương” cho nhà nước và cho tư nhân chiếm
tỷ lệ áp đảo, đến 80% và hơn 80% trong tổng lực lượng lao động xã hội.
Thế kỷ XX, có 3 thay đổi lớn của thực tiễn và nhận thức về lực lượng cách mạng:
- Các dân tộc thuộc địa, nửa thuộc địa bị áp bức, mà có nhà nghiên cứu cộng sản coi là giai cấp vô sản
của
thế
kỷ
XX,
nổi
lên
đấu
tranh
đòi
giải
phóng.
- Kết cấu của xã hội hiện đại cho thấy sự phát triển mạnh của nhiều tầng lớp xã hội rất gần với khái niệm
“giai cấp những người sản xuất” và “những người làm công ăn lương” mà không phải là giai cấp vô sản
nghĩa
hẹp.
Ở
nước
ta
cũng
vậy.
- Do các dân tộc thức tỉnh và tự khẳng định mạnh mẽ, ngay trong trào lưu toàn cầu hóa kinh tế, dân tộc
trở thành động lực và sức mạnh hùng hậu của thời đại. Dân tộc nói đây không chỉ là độc lập dân tộc, mà rộng
hơn, còn là ý thức dân tộc, quyền lợi dân tộc, truyền thống dân tộc, đặc điểm dân tộc... Ở nước ta, đây là điểm
nổi
bật.
Liệu có phải vì thế mà tại Đại hội II của Đảng năm 1951, Hồ Chí Minh đề nghị đổi tên Đảng thành Đảng Lao
động Việt Nam để “nó gần gũi tận trong lòng của mỗi đồng bào ta”. Câu hỏi C.Mác đặt ra cách đây 162 năm
đã có lời giải: "Vấn đề là ở chỗ giai cấp vô sản thực ra là gì, và phù hợp với sự tồn tại ấy của bản thân nó, giai
cấp vô sản buộc phải làm gì về mặt lịch sử”(2): Giai cấp vô sản “phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải
tự mình trở thành dân tộc”(3). Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Cách mạng Tháng 8 thành công, giai cấp công
nhân Việt Nam đã cùng với các tầng lớp xã hội khác trở thành công dân của một nước độc lập, nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa mà Độc lập, Tự do và Hạnh phúc là nội dung của tên gọi ấy. Đó cũng là khát vọng cháy
bỏng của cả dân tộc Việt Nam, mà để hướng tới mục tiêu đó, bao thế hệ Việt Nam đã “đem hết tinh thần và
lực lượng, tính mạng và của cải” để thực hiện, đúng như lời thề trong Tuyên ngôn Độc lập 2.9.1945. Với
những cuộc kháng chiến chống xâm lược ròng rã mấy mươi năm trong thế kỷ XX, dân tộc Việt Nam đã giữ trọn
lời thề ấy. Để lãnh đạo được, Đảng phải thu hút vào mình những lực lượng tinh hoa nhất của dân tộc. Nói theo
ngôn ngữ của người xưa là quy tụ được “hiền tài-nguyên khí quốc gia”, hoặc như cách gọi của Hồ Chí Minh
là “những bực tài đức”. Không làm được điều đó, Đảng không thể “có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên
phong”
như
điều
mà
V.I
Lênin
đã
từng
yêu
cầu!
Thật ra thì từ những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã xác định “chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn
nhất của đất nước”. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh không hề câu nệ trong
quá trình tìm kiếm phương tiện để nhằm thực hiện mục tiêu giành độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho
nhân dân. Chính Người đã nói: “ Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân,
tôn giáo Giê-su có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp
làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó là chính sách của nó thích hợp với điều kiện
nước ta... Khổng Tử, Giê-su, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng đã có những điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu cầu
hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội, nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, nếu họ họp lại một
chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng
làm
người
học
trò
nhỏ
của
các
vị
ấy ”.(4)
Suốt đời, Hồ Chí Minh nhất quán với nhận thức ấy trong mọi chủ trương, đường lối. Đặt tên nước là Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa mà Độc lập, Tự do, Hạnh phúc là nội dung, thể hiện rất rõ sự nhất quán đó. Tuyên ngôn
Độc lập gắn liền với tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thấm sâu vào tâm hồn Việt Nam, đã thành
biểu
tượng
của
dân
tộc.
Thực tế đã chứng minh rằng, lúc nào giữ vững quan điểm dân tộc, lấy lợi ích dân tộc là tối thượng với tinh
thần Tổ quốc trên hết, thì cách mạng thu được thắng lợi. Lúc nào đi chệch khỏi tư tưởng của Hồ Chí Minh,
thổi phồng vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp xem đó là động lực của cách mạng, của phát triển xã hội, thì
cách mạng thất bại. Cải cách ruộng đất, cải tạo tư sản, “công tư hợp doanh”... là những ví dụ mà ai cũng nhớ.
Chúng ta đã để mất một lực lượng sản xuất với một cơ sở hạ tầng còn gần như nguyên vẹn ở Miền Nam sau
1975, để rồi phải làm lại từ đầu với công cuộc Đổi mới! Bài học của 10 năm ấy vẫn còn nóng bỏng. Đất nước
đang bứt lên thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, hội nhập quốc tế để tiến cùng thời đại, một thời đại đang đi vào văn
minh trí tuệ và kinh tế tri thức. Nếu “giai cấp vô sản phải tự mình trở thành dân tộc” như C.Mác yêu cầu,
thì Đảng của giai cấp ấy phải trở thành Đảng của dân tộc là một thực tế hiển nhiên, nằm trong lôgích nội
tại
của
sự
vận
động
lịch
sử
.
Đó là biện chứng của lịch sử. Nếu đổi mới Đảng là “đòi hỏi có ý nghĩa sống còn đối với Đảng”, thì sự đổi
mới căn bản nhất là tuân theo lôgich nội tại ấy, tuân theo biện chứng của lịch sử chứ không câu nệ vào
những giáo điều đã bị cuộc sống vứt bỏ. Đảng phải là Đảng của dân tộc.(5)
Trong bối cảnh mới của đất nước và của thế giới, để cho Đảng “gần gũi tận trong lòng của mỗi đồng bào ta”,
mong Đảng trở lại với tên gọi là Đảng Lao động Việt Nam cùng với tên nước là Nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, trở lại với tư duy của Hồ Chí Minh trong “Điều mong muốn cuối cùng” của Người: “Toàn Đảng
toàn dân đoàn kết phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ
và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
Làm như vậy, Đảng sẽ quy tụ được ý chí của dân tộc, khởi động được tinh thần Việt Nam, kết thành một sức
mạnh to lớn đủ sức vượt qua mọi thách thức, chớp lấy thời cơ, đưa đất nước đi tới.
Chú
thích
:
(1).
C.Mác
&
Ph.Ăngghen
Toàn
tập.
Tập
19.
NXBCTQG
Hà
Nội
1995;
tr.353
(2).
C.Mác
&
Ph.Ăngghen
Toàn
tập.
Tập
2.
NXBCTQG
Hà
Nội
1995;
tr.
56
(3).
C.Mác
&
Ph.Ăngghen
Toàn
tập.
Tập
4.
NXBCTQG
Hà
Nội
1995;
tr.624
(4). Chương trình Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh: "Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh” NXBKHXH 1993, tr.84
5. Xem “PHẢI LÀ ĐẢNG CỦA DÂN TỘC”, báo “NGƯỜI ĐẠI BIỂU NHÂN DÂN” ngày 27.2.2006, có chú thích
đầy đủ xuất xứ các trích dẫn.
Kỳ 2 : Tên gọi của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh qua các thời kỳ
Topic:
Phóng sự
1. Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông Dương
Tháng 5/1935, Mặt trận Nhân dân Pháp được thành lập và sau đó giành được đa số phiếu trong cuộc bầu cử
Quốc hội tháng 6/1936. Chính phủ phái tả lên cầm quyền ở Pháp. Căn cứ diễn biến tình hình thế giới và trong
nước, tháng 7/1936, Hội nghị Trung ương Đảng đã định ra đường lối, phương pháp tổ chức và đấu tranh cách
mạng trong thời kỳ mới.
Nhiệm vụ của Đảng và nhân dân ta lúc này là tập trung mũi nhọn đấu tranh chống bọn phản động thuộc địa và
tay sai, đòi các quyền tự do, dân chủ, cải thiện đời sống. Vì vậy, Đảng chủ trương lập Mặt trận Nhân dân Phản
đế sau đổi thành Mặt trận Thống nhất Dân chủ.
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng họp tháng 7/1936 đã ra những quyết định quan trọng nhằm tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động thanh niên.
Theo đó, trong thời kỳ cách mạng từ giữa năm 1936 đến mùa thu năm 1939, Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông
Dương mang tên Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông Dương phù hợp với nhiệm vụ chính trị qua các nghị quyết của
Đảng như trên đã nêu.
Đoàn Thanh niên Dân chủ hoạt động công khai, có cơ quan báo chí riêng, đó là các tờ “Bạn dân”, “Thế giới”,
“Mới” phát hành ở cả ba miền đất nước. Đoàn đã xây dựng đội ngũ của mình gồm hàng vạn đoàn viên, đấu tranh
kiên cường dưới ngọn cờ của Đảng, tiếp nối truyền thống vẻ vang của Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương
(1931 – 1935).
Ngoài việc phát hành báo, tổ chức Đoàn còn lập các Hội đọc sách, Hội văn nghệ, Hội thể thao, đặc biệt là hình
thành các nhóm nghiên cứu chủ nghĩa Mác.
Nhiều tác phẩm chính trị, văn học của K.Marx. F.Engels, V.I.Lenin, Gorki… như: “Tuyên ngôn Đảng cộng sản”,
“Tư bản”, “Nhà nước là gì?”, “Người mẹ”… cũng như các cuốn sách do các chiến sĩ cộng sản Việt Nam viết như:
“Vấn đề dân cầy” của Qua Ninh và Vân Đình, “Mác xít phổ thông” của Hải Triều và Thơ Tố Hữu được đông đảo
đoàn viên, thanh niên hân hoan đón đọc.
Được sự quan tâm của các Xứ ủy Đảng, phong trào thanh niên và tổ chức Đoàn được củng cố, phát triển sâu
rộng, có hệ thống từ cơ sở lên đến tỉnh, thành và xứ.
Tuy nhiên, đến tháng 9/1939, đại chiến thế giới lần thứ 2 bùng nổ. Thực dân Pháp thẳng tay thi hành chính sách
đàn áp, khủng bố phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân và thanh niên ta. Tổ chức Đoàn phải trở lại
hoạt động bí mật.
2. Đoàn Thanh niên Phản đế Đông Dương
Tháng 11/1939, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 6 tại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định). Nghị quyết Hội nghị
nhấn mạnh giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng giải phóng dân tộc, là nhiệm vụ hàng đầu
của cách mạng Đông Dương.
Hội nghị chủ trương lập Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp
nhân dân, các giai cấp và dân tộc ở Đông Dương để đánh đổ đế quốc Pháp và tay sai của chúng.
Theo chủ trương của Đảng, Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông Dương mang tên mới là Đoàn Thanh niên Phản đế
Đông Dương tiếp nối sự nghiệp vẻ vang của các tổ chức thanh niên cộng sản và thanh niên dân chủ trước đây.
Đoàn đã xây dựng được cơ sở ở nông thôn, trong nhà máy và các trường học.
Trong tình hình mới, tổ chức Đoàn hoạt động bí mật và được tổ chức chặt chẽ. Những Đoàn viên thanh niên Dân
chủ được thử thách, lựa chọn và chuyển thành Đoàn viên thanh niên Phản đế, các hội viên thanh niên trong các
tổ chức thanh niên phổ thông được giao những công tác thích hợp để thử thách bồi dưỡng.
Tháng 9/1940, Phát xít Nhật xâm lược Đông Dương. Từ đây nhân dân Việt Nam một cổ hai tròng, bị hai kẻ thù là
phát xít Nhật và thực dân Pháp cùng thống trị.
Nhưng nhân dân Việt Nam và thế hệ thanh niên nước ta thời kỳ này không chịu khuất phục: Tháng 9/1940, khởi
nghĩa Bắc Sơn nổ ra; tháng 11/1940, khởi nghĩa Nam Kỳ bùng nổ với sự xuất hiện lần đầu tiên lá Cờ đỏ Sao
Vàng; tháng 1/1941, nổ ra cuộc binh biến ở đồn Chợ Rạng và đồn Đô Lương.
Các tổ chức Đoàn Thanh niên Dân chủ sau đó là Đoàn Thanh niên Phản đế đã vận động thanh niên đi đầu trong
các cuộc đấu tranh và khởi nghĩa vũ trang từng phần, báo hiệu một thời kỳ mới: chuẩn bị tiến tới tổng khởi nghĩa
giành chính quyền về tay nhân dân.
3. Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam
Tháng 11/1940, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 7 họp tại Đình Bảng (Bắc Ninh) trong đó có phần nói về: “Vấn
đề tổ chức các đoàn thể quần chúng”.
Nghị quyết hội nghị ghi: “Vì chính sách của Đảng ta hiện tại là chính sách cứu quốc cho nên mục đích các hội
quần chúng cũng xoay về việc cứu quốc là cốt yếu…
… Việt Nam thanh niên Cứu quốc từ nay là đoàn thể của tất thảy thanh niên từ 18 đến 22 tuổi muốn tranh đấu
đánh Pháp, đuổi Nhật”.
Ngày 28/1/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc bí mật về nước để cùng Ban chấp hành Trung ương Đảng trực tiếp
lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Đây là sự kiện hết sức quan trọng trong tiến trình phát triển của cách
mạng nước ta…
Tháng 5/1941, Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương Đảng họp tại Pắc Bó (Cao Bằng) do Nguyễn Ái Quốc, đại diện
của Quốc tế cộng sản triệu tập và chủ trì. Hội nghị đã nêu một quyết tâm sắt đá:
“Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn
thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp trâu ngựa, mà quyền lợi của bộ phận
giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Để tập hợp động viên các tầng lớp nhân dân đứng lên đánh đuổi phát xít Pháp - Nhật, Hội nghị quyết định thành
lập Việt Nam Độc lập đồng minh (Gọi tắt là Việt Minh) và các Hội cứu quốc, trong đó có: Đoàn Thanh niên Cứu
quốc - Việt Nam - một tổ chức của những thanh niên yêu nước tiếp nối sự nghiệp của các tổ chức thanh niên do
Đảng ta và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập và lãnh đạo trước đó.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 có ý nghĩa lịch sử to lớn. Hội nghị đã hoàn thành việc chuyển hướng chỉ đạo
chiến lược trong thời kỳ mới. Hội nghị đã nêu rõ vai trò, trách nhiệm của Đoàn Thanh niên Cứu quốc trong cao
trào đấu tranh của giải phóng dân tộc.
Trong suốt chặng đường dài từ 1941 – 1956, Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam đã đóng góp to lớn, kể cả hy
sinh xương máu, cùng dân tộc vùng dậy trong Cách mạng Tháng Tám, lập nên Nhà nước Dân chủ, cộng hòa Nhà nước Dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Tháng 2/1950, Đại hội Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt
Nam được triệu tập tại căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc.
Đây là Đại hội đại biểu toàn quốc đầu tiên của Đoàn, gồm trên 400 đại biểu của ba miền đất nước. Sau đó, Đoàn
đã vận động đoàn viên, thanh niên đi tiếp chặng đường hơn 9 năm kháng chiến đầy gian khổ, hy sinh góp phần
xứng đáng làm nên một Điện Biên chấn động địa cầu, giải phóng hoàn toàn miền Bắc (7/1954), bắt tay xây dựng
hậu phương lớn xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, chi viện cho cách mạng giải phóng miền Nam.
4 - Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam
Tháng 7/1954, hòa bình được lập lại trên miền Bắc, căn cứ vào tình hình và nhiệm vụ mới, Bộ Chính trị Trung
ương Đảng trong phiên họp tháng 9/1954 đã chủ trương đổi tên Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam thành
Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam và xây dựng Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam thành một tổ chức thực
sự có tác dụng là lực lượng dự trữ và cánh tay của Đảng.
Quyết nghị có đoạn viết: “Đảng ta là Đảng Lao động Việt Nam. Việc Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam đổi
tên thành Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam sẽ làm cho thanh niên thêm phấn khởi, thêm gắn bó với Đảng và
do đó càng quyết tâm phấn đấu đến cùng dưới ngọn cờ của Đảng”.
Trong “Quyết nghị về đổi tên Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam thành Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam
và kế hoạch xây dựng Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam” (Ban Bí thư Trung ương - ngày 19/10/1955) đã nêu
rõ tính chất, nhiệm vụ, vấn đề tổ chức và kế hoạch xây dựng Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam.
Về tính chất của Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam, Quyết nghị nêu: “Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam là
một tổ chức quần chúng tiên tiến của thanh niên Việt Nam, chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng.
Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam là trường học của chủ nghĩa Mác-Lênin của thanh niên, là nơi bồi dưỡng
lực lượng dự trữ của Đảng, là cánh tay thực hiện mọi chính sách của Đảng”. Quyết nghị của Đảng đã vạch rõ
nhiệm vụ của Đoàn trong thời kỳ mới và đề ra kế hoạch xây dựng Đoàn là:
“1. Đảm bảo tính chất tiên tiến của Đoàn… Không kết nạp ồ ạt và tập thể. Nơi nào chưa có đủ điều kiện đổi tên
Đoàn thì chưa đổi.
2. Làm cho đoàn viên thanh niên có một nhận thức đúng đắn về Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam. Việc kết
nạp đoàn viên hoặc đổi tên Đoàn phải trên cơ sở tự nguyện, tự giác của thanh niên.
3. Kết hợp chặt chẽ với việc thực hiện những nhiệm vụ công tác chính trước mắt do Đảng đề ra… Việc xây dựng
Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam cần làm một cách có lãnh đạo và có kế hoạch cụ thể cho từng vùng…”.
Quyết nghị nêu kết luận: “Việc đổi tên Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam thành Đoàn Thanh niên Lao động
Việt Nam là một việc rất quan trọng có ảnh hưởng đến việc xây dựng một phong trào thanh niên lớn mạnh trong
toàn quốc, đến việc phát triển cơ sở Đảng trong quần chúng lao động và việc hoàn thành những nhiệm vụ cách
mạng hiện nay. Các cấp ủy Đảng cần nắm vững đường lối vận động thanh niên của Đảng, trực tiếp lãnh đạo
thực hiện nghị quyết này”.
5 - Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh
Ngày 02-09-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của Đảng và nhân dân Việt Nam, Anh hùng giải phóng
dân tộc, Nhà văn hóa lớn, người sáng lập rèn luyện Đoàn ta qua đời.
Toàn thể cán bộ, đoàn viên thanh niên và đội viên thiếu niên, nhi đồng nước ta vĩnh biệt Người với nỗi xót
thương vô hạn. Bác Hồ và Đảng đã coi sự trưởng thành của lớp thanh niên nước ta là một trong những thành
quả vĩ đại của cách mạng, có quan hệ trực tiếp đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay và mai sau.
Thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác, đáp ứng nguyện vọng của thế hệ trẻ và theo đề nghị của Đoàn Thanh
niên Lao động Việt Nam, nhân dịp kỉ niệm lần thứ 40 ngày thành lập Đảng (3/2/1930 – 3/2/1970), Ban chấp hành
Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết cho Đoàn Thanh niên và đội Thiếu niên, Đội Nhi đồng được mang tên Bác.
Nghị quyết nêu rõ: “… Thể theo nguyện vọng của thế hệ trẻ nước ta và đề nghị của Đoàn Thanh niên Lao động
Việt Nam”. Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam Quyết định:
- Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam nay là Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh
- Đội Thiếu niên Tiền phong Việt Nam nay là Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh
- Đội Nhi đồng Việt Nam nay là Đội Nhi đồng Hồ Chí Minh
Tổ chức Đoàn và tổ chức đội được mang tên Bác là vinh dự lớn lao, đồng thời là trách nhiệm nặng nề trước Tổ
quốc và nhân dân. Đoàn ta được mang tên Bác Hồ càng làm rõ mục đích và tính chất của Đoàn là đội tiên phong
chiến đấu của thanh niên, đi đầu phấn đấu cho lý tưởng cách mạng cao cả của Đảng và Bác Hồ là độc lập, dân
tộc và chủ nghĩa xã hội.
6. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
Tháng 04-1975, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã kết thúc thắng lợi, giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Ngày 26/03/1976, Lễ kỷ niệm lần thứ 45 ngày thành lập Đoàn đã được tổ chức trọng thể tại Hà Nội.
Tại Lễ kỷ niệm này, tổ chức Đoàn trong cả nước đã thống nhất mang tên chung là Đoàn Thanh niên Lao động
Hồ Chí Minh.
Đại hội lần thứ IV của Đảng họp từ ngày 14 đến 20/12/1976 tại Thủ đô Hà Nội đã quyết định đổi tên Đảng Lao
động Việt Nam (2-1951) thành Đảng Cộng sản Việt Nam và thể theo nguyện vọng của cán bộ, đoàn viên thanh
niên cả nước, Đại hội Đảng lần thứ IV đã quyết định đổi tên Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh (1970)
thành: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Đại hội Đảng chỉ rõ nhiệm vụ của Đoàn và phong trào thanh niên trong giai đoạn mới là: “Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh phải được xây dựng và củng cố vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, xứng đáng là
trường học cộng sản chủ nghĩa của lớp người trẻ tuổi, là cánh tay đắc lực và đội hậu bị tin cậy của Đảng”.
Được mang tên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là vinh dự và tự hào lớn của toàn thể cán bộ đoàn viên
nước ta.
Gần 30 năm trôi qua, kể từ ngày được mang tên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Tổ chức Đoàn và tuổi
trẻ cả nước luôn cống hiến hết mình vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đổi mới đất nước, đặc biệt là
trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dưới sự lãnh đạo của Đảng vì mục tiêu: Dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tin bởi: T.Khương (tổng hợp)
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Ngày 14/6/2003. Cập nhật lúc 11h 35'
LƯỢC SỬ
Tháng 6 năm 1925, Nguyễn Ái Quốc tổ chức ra Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội.
Tháng 3 năm 1929, chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam được thành lập tại Hà Nội.
Ngày
17-6-1929,
thành
lập
Đông
Dương
Cộng
sản
Đảng.
Tháng
7
năm
1929,
thành
lập
An
Nam
Cộng
sản
Đảng.
Tháng
9
năm
1929,
Đông
Dương
Cộng
sản
liên
đoàn
ra
đời.
Từ ngày 3 đến 7 - 2-1930, Nguyễn Ái Quốc chủ trì cuộc họp hội nghị thống nhất Đông Dương Cộng sản Đảng
và
An
Nam
Cộng
sản
Đảng
thành
Đảng
Cộng
sản
Việt
Nam.
Ngày 24-2-1930 Đông Dương Cộng sản liên đoàn cũng gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Như vậy, Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam (3-7 tháng 2 năm 1930) mang tầm vóc lịch sử của
một
Đại
hội
thành
lập
Đảng
Cộng
sản
Việt
Nam.
Nguyễn Ái Quốc là người có công đầu trong quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ ngày 14 đến 31-10-1930, Hội nghị lần thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã quyết định đổi tên
Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Đồng chí Trần Phú được bầu làm Tổng Bí thư.
Sau Hội nghị thành lập Đảng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp 2 lần. Từ tháng 4 năm 1931 các Uỷ viên
Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần lượt bị địch bắt. Tổng Bí thư Trần Phú bị địch bắt và đã hy sinh ngày 6-91931.
Giữa thế kỷ XIX, Việt Nam bị đế quốc Pháp xâm lược và thống trị. Nhân dân Việt Nam, đặc biệt là các giai cấp
cần lao, rơi vào số phận nô lệ. Quyền độc lập, quyền sống và quyền con người bị chà đạp.
Khát vọng giải phóng ấp ủ từ lâu trong lòng dân tộc Việt Nam càng thêm nung nấu. Muốn sống, muốn độc lập,
tự do thì phải đấu tranh, phải làm cách mạng. Song, tất cả các cuộc vận động cứu nước của các sĩ phu theo
cách thức phong kiến và các cuộc vận động cách mạng theo xu hướng tư sản đương thời đều lần lượt thất bại.
Giai cấp công nhân và phong trào công nhân Việt Nam chưa trở thành một lực lượng chính trị độc lập trong
phong trào dân tộc. Những đám mây đen vẫn bao phủ bầu trời Việt Nam.
Giữa lúc đó, Nguyễn Tất Thành người thanh niên yêu nước và cấp tiến đã xuất dương (6-1911) để tìm hiểu
cuộc sống của các dân tộc, nghiên cứu, tìm tòi con đường giải phóng cho dân tộc mình.
Sau nhiều năm bôn ba qua các lục địa, hoạt động và khảo sát cách mạng, Người đã vượt qua nhiều thử thách
về lập trường yêu nước, tích tụ được vốn tri thức sâu rộng nhiều mặt về cuộc đấu tranh của các dân tộc bị nô
dịch
và
của
giai
cấp
công
nhân
Âu,
Mỹ.
Sau Cách mạng Tháng Mười Nga, Nguyễn Tất Thành lấy tên mới là Nguyễn Ái Quốc, tích cực hoạt động trong
phong trào công nhân Pháp và đã nhanh chóng trở thành một chiến sĩ cách mạng nhiệt tình, trở thành đảng
viên Đảng xã hội Pháp, chính đảng của giai cấp công nhân Pháp. Tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản
Sơ thảo lần thứ nhất những đề cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin với xiết bao sung sướng
như người đi đường đang khát gặp nước uống, đang đói mệt có cơm ăn, đang đi trong bóng tối gặp nguồn ánh
sáng, bởi Người coi đây là một cẩm nang thần kỳ cho con đường giải phóng dân tộc. Tại Đại hội Tua tháng 121920 Người đã dứt khoát đứng về phía Quốc tế Cộng sản, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.
Bằng trí tuệ sáng suốt, hoạt động và khảo sát cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã tìm được chân lý cách mạng giải
phóng dân tộc: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng
vô sản". Người kêu gọi phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong tất cả các nước thuộc địa và khẳng định chế độ
cộng sản có thể áp dụng ở châu Á nói chung và Đông Dương nói riêng. "Sự đầu độc có hệ thống của bọn tư
bản thực dân không thể làm tê liệt sức sống, càng không thể làm tê liệt tư tưởng cách mạng của người Đông
Dương...
Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt
giống
của
công
cuộc
giải
phóng
nữa
thôi".
Giữa những năm 20 của thế kỷ này, Nguyễn Ái Quốc quyết định tìm đường trở về Tổ quốc để phát động và tổ
chức phong trào cách mạng của nhân dân, của dân tộc Việt Nam, trước hết là chuẩn bị tổ chức ra một đảng
cách mạng tiên phong của giai cấp công nhân và của dân tộc ta. Vì muốn làm cách mạng thắng lợi trước hết
phải có đảng cách mạng, đảng có vững thì cách mạng mới thành công. Đảng muốn vững thì phải có lý luận
cách
mạng,
nhất
là
chủ
nghĩa
Lênin.
Tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức ra Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (Việt Nam Thanh niên cách
mạng đồng chí Hội), một tổ chức "quá độ" đặt cơ sở cho một Đảng Cộng sản về sau. Người ra báo Thanh niên,
huấn luyện, đào tạo cán bộ, tổ chức tuyên truyền lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của chủ nghĩa Lênin, tư
tưởng cách mạng của Người vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam; cách mạng hoá
quần chúng và dân tộc, nâng nhân dân và dân tộc ta vươn lên ngang tầm cách mạng của thời đại. Phong trào
cách mạng của nhân dân ta ngày càng phát triển mạnh và có ý thức chính trị vô sản rõ rệt
Sự kết hợp ngày càng chặt chẽ chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước sục
sôi của nhân dân ta đã thúc đẩy sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam.
Tháng 3-1929, chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam được thành lập tại nhà số 5D phố Hàm Long, Hà Nội, gồm
có bảy đảng viên: Trịnh Đình Cửu, Ngô Gia Tự, Trần Văn Cung, Đỗ Ngọc Du, Nguyễn Đức Cảnh, Dương Hạc
Đính, Nguyễn Tuân. Chi bộ chủ trương phải tích cực vận động thành lập một Đảng Cộng sản thay tổ chức Việt
Nam
cách
mạng
thanh
niên
để
lãnh
đạo
cách
mạng
Việt
Nam
.
Ngày 17-6-1929, tại nhà số 312 phố Khâm Thiên, Hà Nội, đại biểu các tổ chức cơ sở đảng ở miền Bắc đã họp
quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng, thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ của Đảng, quyết định xuất
bản báo Búa Liềm - cơ quan ngôn luận của Đảng - và cử ra Ban Chấp hành Trung ương của Đảng.
Căn cứ vào tình hình kinh tế, xã hội và chính trị ở Đông Dương lúc này, Tuyên ngôn của Đông Dương Cộng sản
Đảng đã xác định tính chất của cuộc cách mạng ở Đông Dương trong thời kỳ đầu tiên là tư sản dân chủ cách
mệnh. Nhiệm vụ của giai cấp vô sản phải thực hiện khối công nông liên hiệp để:
-
Đánh
đuổi
đế
quốc
Pháp.
- Đánh đổ địa chủ, chế độ phong kiến và các cách bóc lột tiền tư bản, thực hiện cách mạng ruộng đất.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (5-1929) đã nhận định việc "tổ chức
một đảng cộng sản để lãnh đạo toàn cuộc cách mệnh ở Việt Nam là một sự nhu yếu đặc biệt". Vì vậy sau khi
Đông Dương Cộng sản Đảng ra đời, các đồng chí tiên tiến hoạt động trong bộ phận Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên tại Trung Quốc nhận định việc thành lập một Đảng Cộng sản là phù hợp với yêu cầu của phong trào
cách mạng trong nước và quyết định hành động nhanh chóng để thành lập một đảng cộng sản tập trung, đúng
với
điều
lệ
của
Đệ
tam
Quốc
tế.
Ngày 25-7-1929, trong một bức thư của các đồng chí tiên tiến trong bộ phận Việt Nam Cách mạng thanh niên
đồng chí hội hoạt động ở Trung Quốc gửi cho Đông Dương Cộng sản Đảng báo tin rằng các đồng chí đó định tổ
chức một Đảng Cộng sản bí mật còn "Thanh niên" thì cứ giữ nguyên để chỉnh đốn lại. Các chi bộ cộng sản lần
lượt được thành lập ở Nam kỳ, ở Trung kỳ và ở Xiêm. Các đảng viên hoạt động ở Trung Quốc được tập hợp
trong một chi bộ mang tên chi bộ An Nam Cộng sản Đảng, chi bộ này đã liên lạc và được sự giúp đỡ của Đảng
Cộng sản Trung Quốc và đã liên lạc với Quốc tế Cộng sản. Theo Hồng Thế Công, An Nam Cộng sản Đảng ra
đời vào tháng 8-1929. Đảng có cơ sở quần chúng ở các xí nghiệp và trong giới thợ thủ công ở Sài Gòn và một
số tỉnh ở phía Nam. An Nam Cộng sản Đảng đã nhiều lần gửi thư cho Đông Dương Cộng sản Đảng bàn việc
hợp
nhất
đảng,
song
không
đạt
được
sự
nhất
trí.
Sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng (6-1929) và An Nam Cộng sản Đảng (8-1929) đã có tác động mạnh
mẽ đến sự phân hoá của đảng Tân Việt. Những phần tử tiên tiến của Tân Việt đã tách ra lập các chi bộ cộng
sản, xúc tiến việc chuẩn bị thành lập đảng cộng sản. Tháng 9-1929, bản Tuyên đạt của Đông Dương Cộng sản
liên đoàn đã tuyên bố: "Những người giác ngộ Cộng sản chân chính trong Tân Việt cách mệnh đảng trịnh trọng
tuyên ngôn cùng toàn thể đảng viên Tân Việt cách mệnh đảng, toàn thể thợ thuyền, dân cày và lao khổ biết rằng
chúng tôi đã chánh thức lập ra Đông Dương Cộng sản liên đoàn. Đông Dương Cộng sản liên đoàn lấy chủ
nghĩa Cộng sản làm nền móng, lấy công, nông, binh liên hiệp làm đối tượng vận động cách mệnh để thực hành
cách mệnh cộng sản trong xứ Đông Dương, làm cho xứ sở của chúng ta hoàn toàn độc lập, xoá bỏ nạn người
bóc lột áp bức người, xây dựng chế độ công nông chuyên chính, tiến lên cộng sản chủ nghĩa trong toàn xứ
Đông
Dương".
Như vậy, trong vòng không đầy bốn tháng (từ giữa tháng 6 đến tháng 9-1929) đã có ba tổ chức đảng ở Việt
Nam lần lượt tuyên bố thành lập. Cơ sở tổ chức đảng và cơ sở quần chúng của đảng đã phát triển khắp cả ba
miền. Sự ra đời nhanh chóng các tổ chức cộng sản lúc bấy giờ là một xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam.
Song, sự tồn tại ba đảng biệt lập có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam là
phải có một Đảng Cộng sản thống nhất trong cả nước. Quốc tế Cộng sản đã gửi thư cho những người cộng sản
Đông Dương nhấn mạnh rằng: "Xu hướng chia rẽ của các nhóm và sự tranh đấu lẫn nhau sẽ có ảnh hưởng rất
hại cho cuộc vận động cách mạng ở Đông Dương. Nhiệm vụ... tuyệt đối cần kíp của tất cả những người cộng
sản Đông Dương là sáng lập một đảng cách mạng của giai cấp vô sản... Đảng ấy phải là một đảng độc nhất và
ở Đông Dương chỉ có một đảng ấy là tổ chức cộng sản mà thôi. Phải hợp nhất lại các phần tử chân chính cộng
sản đương ở trong các nhóm cộng sản bây giờ để lập ra Đảng Cộng sản Đông Dương"2 . Với tư cách là phái
viên của Quốc tế Cộng sản có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông
Dương, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập hội nghị đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản
Đảng để bàn việc thống nhất thành một đảng. Hội nghị họp tại Cửu Long gần Hương Cảng (Trung Quốc) dưới
sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc . Tham dự hội nghị có Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh là đại biểu của
Đông Dương Cộng sản Đảng, Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu là đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng. Người
đã nói rõ với các đại biểu về những sai lầm của các Đảng và họ đã nhất trí hợp nhất Đông Dương Cộng sản
Đảng và An Nam Cộng sản Đảng để lập ra một đảng duy nhất lấy tên Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vǎn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và các Điều lệ vắn tắt
của Công hội, Nông hội, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội phản đế đồng minh và Hội cứu tế do Nguyễn Ái
Quốc soạn thảo. Chánh cương vắn tắt của Đảng nêu rõ: "Tư bản bản xứ đã thuộc tư bản Pháp, vì tư bản Pháp
hết sức ngăn trở sức sinh sản làm cho công nghệ bản xứ không thể mở mang được. Còn về nông nghệ một
ngày một tập trung đã phát sinh ra lắm khủng hoảng, nông dân thất nghiệp nhiều . Vậy tư bản bản xứ không có
thế lực gì ta không nên nói cho họ đi về phe đế quốc được, chỉ bọn đại địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về
phe đế quốc chủ nghĩa nên chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng
sản".
Chánh cương vắn tắt đã nêu ra nhiệm vụ của cuộc cách mạng đó về các phương diện chính trị, kinh tế, xã hội:
Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập, dựng ra
Chính phủ công nông binh, tổ chức ra quân đội công nông, thủ tiêu hết các thứ quốc trái, thu hết sản nghiệp lớn
(như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v.) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công
nông binh, thu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công và chia cho dân cày nghèo, miễn thuế cho
dân nghèo mở mang công nghiệp và nông nghiệp, thi hành luật ngày làm tám giờ, dân chúng được tự do tổ
chức,
nam
nữ
bình
quyền,
phổ
thông
giáo
dục
theo
công
nông
hoá.
Sách
lược
vắn
tắt
xác
định:
"1. Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho
giai
cấp
mình
lãnh
đạo
được
dân
chúng.
2. Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách
mạng
đánh
trúc
bọn
đại
địa
chủ
và
phong
kiến.
3. Đảng phải làm cho các đoàn thể thợ thuyền và dân cày (công hội, hợp tác xã) khỏi ở dưới quyền lực và ảnh
hưởng
của
bọn
tư
bản
quốc
gia.
4. Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào
phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách
mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng
Lập
hiến,
v.v.)
thì
phải
đánh
đổ.
5. Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng bộ một chút lợi ích gì của công
nông mà đi vào đường lối thoả hiệp, trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên
truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp".
Chương
trình
tóm
tắt
nêu
rõ:
"1. Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp công nhân và làm cho họ có đủ
nǎng
lực
lãnh
đạo
quần
chúng.
2. Đảng tập hợp đa số quần chúng nông dân, chuẩn bị cách mạng thổ địa và lật đổ bọn địa chủ và phong kiến.
3.
Đảng
giải
phóng
công
nhân
và
nông
dân
thoát
khỏi
ách
tư
bản.
4. Đảng lôi kéo tiểu tư sản, trí thức và trung nông về phía giai cấp vô sản; Đảng tập hợp hoặc lôi kéo phú nông,
tư sản và tư bản bậc trung, đánh đổ các đảng phản cách mạng như Đảng Lập hiến, v.v..
5. Không bao giờ Đảng lại hy sinh quyền lợi của giai cấp công nhân và nông dân cho một giai cấp nào khác.
Đảng phổ biến khẩu hiệu "Việt Nam tự do" và đồng thời Đảng liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần
chúng
vô
sản
trên
thế
giới
nhất
là
với
quần
chúng
vô
sản
Pháp".
Điều lệ vắn tắt của Đảng nêu rõ tôn chỉ: "Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức ra để lãnh đạo quần chúng lao khổ
làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản".
Nhân dịp Đảng ra đời, Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam đã viết Lời kêu
gọi công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh, anh chị em bị áp bức, bóc lột. Lời kêu gọi có đoạn:
"Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thành lập. Đó là Đảng của giai cấp vô sản. Đảng sẽ dìu dắt giai cấp vô sản
lãnh đạo cách mạng An Nam đấu tranh nhằm giải phóng cho toàn thể anh chị em bị áp bức, bóc lột chúng ta.
Từ nay anh chị em chúng ta cần phải gia nhập Đảng, ủng hộ Đảng và đi theo Đảng để:
1.
2.
3.
Đánh
đổ
đế
Làm
Thành
quốc
Pháp,
cho
phong
kiến
nước
lập
Chính
An
Nam
An
và
giai
Nam
phủ
cấp
được
công
tư
sản
phản
độc
nông
cách
mạng.
lập.
binh.
4. Tịch thu tất cả các nhà bǎng và cơ sở sản xuất của đế quốc trao cho Chính phủ công nông binh.
5. Quốc hữu hoá toàn bộ đồn điền và đất đai của bọn đế quốc và địa chủ phản cách mạng An Nam chia cho
nông
dân
nghèo.
6.
7.
8.
Thực
Huỷ
bỏ
mọi
Đem
9.
hiện
thứ
lại
Thực
10.
Thực
quốc
trái
mọi
ngày
và
thuế
quyền
làm
thân,
miễn
tự
hành
giáo
hiện
nam
các
8
thứ
do
thuế
cho
dục
giờ.
cho
nông
nhân
toàn
nữ
dân
nghèo.
dân.
dân.
bình
quyền".
Hội nghị đã quyết định thành lập cơ quan ngôn luận, tuyên truyền của Đảng là tạp chí Đỏ và báo Tranh Đấu.
Hội
nghị
kết
thúc,
các
đại
biểu
trở
về
nước
ngày
8
tháng
2
năm
1930.
Sau khi về nước các đại biểu đã tích cực thực hiện kế hoạch hợp nhất các cơ sở đảng ở trong nước, lập ra Ban
Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng gồm có bảy uỷ viên: Trịnh Đình Cửu, Trần Văn Lan, Nguyễn Văn
Hới, Nguyễn Phong Sắc, Hoàng Quốc Việt, Phạm Hữu Lầu, Lưu Lập Đạo, do Trịnh Đình Cửu đứng đầu. Tiếp
đến các xứ uỷ cũng được thành lập. Đỗ Ngọc Du là Bí thư Xứ uỷ Bắc kỳ, Nguyễn Phong Sắc, Bí thư Xứ uỷ
Trung
kỳ,
và
Ngô
Gia
Tự,
Bí
thư
Xứ
uỷ
Nam
kỳ.
Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng đã hợp nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Song
Đông Dương Cộng sản Liên đoàn vẫn còn là một đảng riêng lẻ. Việc hợp nhất Đông Dương Cộng sản liên đoàn
vào Đảng Cộng sản Việt Nam cũng là một yêu cầu khách quan. Trong bản báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản,
Nguyễn ái Quốc nhận định: "ở Trung kỳ, một tổ chức cộng sản mới ra đời gồm những phần tử ưu tú nhất của
Đảng Tân Việt.... Tổ chức cộng sản mới này vẫn còn là một tổ chức riêng lẻ, nhưng chúng tôi tin chắc rằng sắp
đến, tổ chức này sẽ hợp nhất với chúng tôi". Trong bản Tuyên đạt thành lập đảng của mình, Đông Dương Cộng
sản liên đoàn cũng chủ trương phải hợp nhất với Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng
"thành một tổ chức cộng sản ở xứ Đông Dương để cho sức mạnh cộng sản vững chắc và duy nhất mới có thể
thực hiện cách mạng cộng sản". Vì thế, sau Hội nghị hợp nhất, Đông Dương Cộng sản liên đoàn đã yêu cầu gia
nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 24-2-1930, Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu cùng với hai uỷ viên của
Ban Chấp hành Trung ương lâm thời là Hoàng Quốc Việt và Phạm Hữu Lầu cùng Ngô Gia Tự, Bí thư Xứ uỷ
Nam kỳ của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã họp quyết định chấp nhận Đông Dương Cộng sản liên đoàn gia nhập
Đảng Cộng sản Việt Nam. Cả ba tổ chức cộng sản Việt Nam đã thống nhất trọn vẹn vào một đảng cộng sản duy
nhất:
Đảng
Cộng
sản
Việt
Nam.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam mang tầm vóc lịch sử của một Đại hội thành lập Đảng Cộng
sản
Việt
Nam.
Đảng ra đời là một mốc son chói lọi đánh dấu bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam, là kết quả tất
yếu của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở nước ta trong
những
năm
20
của
thế
kỷ
XX.
Nguyễn Ái Quốc là người có công đầu trong việc tiếp thu và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam,
người sáng lập ra Đảng và vạch ra Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam- một cương lĩnh
cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm tính dân
tộc và tính nhân văn. Độc lập tự do là tư tưởng chủ yếu, là viên ngọc quý nhất được khảm trong Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng. Vừa mới ra đời "Đảng ta liền gương cao ngọn cờ cách mạng, đoàn kết và lãnh đạo
toàn dân ta tiến lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Màu cờ đỏ của Đảng chói lọi như mặt trời
mới mọc, xé tan cái màn đen tối, soi đường dẫn lối cho nhân dân ta vững bước tiến lên con đường thắng lợi
trong
cuộc
cách
mạng
phản
đế,
phản
phong".
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời giữa lúc chủ nghĩa tư bản diễn ra cuộc khủng hoảng sâu sắc về kinh tế và ở
Đông Dương thì "sự áp bức và bóc lột vô nhân đạo của đế quốc Pháp đã làm cho đồng bào ta hiểu rằng có
cách mạng thì sống, không có cách mạng thì chết". Chính vì vậy một làn sóng đấu tranh dân tộc và dân chủ sôi
nổi đã diễn ra trong toàn quốc, dẫn đến đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh. Cuộc đấu tranh giữa nhân dân ta với đế
quốc Pháp và tay sai trở nên quyết liệt và đẫm máu. Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Ban Chấp hành
Trung ương lâm thời, vừa mới ra đời đã bước ngay vào cuộc thử thách trên cương vị tiên phong lãnh đạo cuộc
đấu
tranh
đó
của
dân
tộc.
Tháng 4-1930, Trần Phú sau một thời gian học tập ở Liên Xô, đã về nước hoạt động. Ban thường vụ Trung
ương bố trí Trần Phú đi khảo sát phong trào công nhân và nông dân một số vùng ở Bắc kỳ. Tháng 7-1930, Trần
Phú được bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời và được phân công cùng với Ban thường vụ chuẩn
bị
cho
kỳ
họp
thứ
nhất
của
Ban
Chấp
hành
Trung
ương
Đảng.
Từ ngày 14 đến ngày 31-10-1930, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hương Cảng
(Trung Quốc) do Trần Phú chủ trì. Hội nghị đã quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng
sản Đông Dương, thông qua Luận cương chính trị, nghị quyết "về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ
cần kíp của Đảng", các nghị quyết về công nhân vận động, về nông dân vận động, về cộng sản thanh niên vận
động, về phụ nữ vận động, về quân đội vận động, về vấn đề cứu tế, về điều lệ của Đảng Cộng sản Đông Dương
và
điều
lệ
của
các
tổ
chức
quần
chúng.
Luận cương nêu rõ mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt trong xã hội Việt Nam, Lào và Campuchia là
"một bên thì thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ, một bên thì địa chủ phong kiến, tư bổn và đế quốc chủ
nghĩa". Vì thế, lúc đầu cách mạng Đông Dương là cuộc "Cách mạng tư sản dân quyền", có "tánh chất thổ địa và
phản đế". "Tư sản dân quyền cách mạng là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng. Tư sản dân quyền cách
mạng được thắng lợi, chánh phủ công nông đã dựng lên rồi thì công nghiệp trong nước phát triển ,... quyền lãnh
đạo của vô sản sẽ thêm kiên cố..., xứ Đông Dương sẽ nhờ vô sản giai cấp chuyên chánh các nước giúp sức
cho mà phát triển bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa". "Trong cuộc cách
mạng tư sản dân quyền, vô sản giai cấp và nông dân là hai động lực chánh, nhưng vô sản có cầm quyền lãnh
đạo
thì
cách
mạng
mới
thắng
lợi
được".
Nhiệm vụ "cốt yếu của tư sản dân quyền cách mạng thì một mặt là phải tranh đấu để đánh đổ các di tích phong
kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư bổn và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để, một mặt nữa
là tranh đấu để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai mặt tranh đấu
có liên lạc mật thiết với nhau, vì có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được cái giai cấp địa chủ và làm cách
mạng thổ địa được thắng lợi, mà có phá tan chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa".
Và "điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản có một
đường lối chánh trị đúng, có kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng, và từng trải đấu tranh mà
trưởng thành. Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, lấy chủ nghĩa Các Mác - Lênin làm gốc mà đại biểu
quyền lợi chánh và lâu dài, chung cho cả vô sản giai cấp ở Đông Dương và lãnh đạo vô sản giai cấp Đông
Dương ra tranh đấu để đạt được mục đích cuối cùng của vô sản là chủ nghĩa cộng sản".
Để thực hiện được nhiệm vụ của Đảng trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, Đảng phải coi trọng vận động
tập hợp lực lượng đại đa số quần chúng, lãnh đạo đấu tranh đòi các quyền lợi trước mắt, đưa dần quần chúng
lên trận tuyến cách mạng và đến khi tình thế cách mạng trực tiếp xuất hiện thì phát động quần chúng võ trang
bạo động, đánh đổ chính quyền của giai cấp thống trị và giành lấy chính quyền cho công nông...
Cách mạng Đông Dương phải liên lạc với vô sản và nhân dân các nước thuộc địa và bán thuộc địa thế giới...
Bản Nghị quyết Về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng của Trung ương đã nhận
định phong trào cách mạng của quần chúng công nông, chống đế quốc, tư bản và địa chủ đã diễn ra sâu sắc,
càng ngày càng có tánh chất kịch liệt, tánh chất chính trị , tánh chất tổ chức, càng ngày càng chịu ảnh hưởng và
chỉ
huy
của
Đảng
Cộng
sản...
và
thoát
ly
ảnh
hưởng
quốc
gia.
Hội nghị xác định nhiệm vụ trước mắt của Đảng là phải mở rộng phong trào đấu tranh của quần chúng, bầu Ban
Chấp hành Trung ương chính thức của Đảng, trong đó có Trần Phú, Ngô Đức Trì, Nguyễn Trọng Nhã, Trần Văn
Lan, Nguyễn Phong Sắc... Ban Thường vụ gồm có Trần Phú, Ngô Đức Trì và Nguyễn Trọng Nhã. Tổng Bí thư
là
Trần
Phú.
Tiếp theo Hội nghị thành lập Đảng, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 10-1930, đã giải quyết
nhiều vấn đề quan trọng về đường lối chính trị, về tổ chức, v.v. của Đảng - những vấn đề có ý nghĩa quyết định
chiều hướng phát triển của cách mạng nước ta, đặc biệt là đã thông qua bản Luận cương chính trị của Đảng.
Bản Luận cương chính trị đã xác định nhiều vấn đề thuộc chiến lược cách mạng. Song, bản Luận cương đó