Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Luận văn thạc sĩ so sánh pháp luật việt nam và pháp luật nhật bản về công ty hợp danh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1000.77 KB, 90 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LỤC VIỆT DŨNG

So s¸nh pháp luật Việt Nam và pháp luật Nhật Bản
về công ty hỵp danh

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015

z


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LỤC VIỆT DŨNG

So s¸nh pháp luật Việt Nam và pháp luật Nhật Bản
về công ty hỵp danh
Chun ngành: L ̣t kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN ĐỨC MINH

HÀ NỘI - 2015


z


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên
cứu của riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa
được cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực.
NGƯỜI CAM ĐOAN

Lục Việt Dũng

z


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TY HỢP DANH ....... 6
1.1.

Quá trình hình thành và phát triển của công ty hợp danh
trên thế giới ......................................................................................... 6

1.1.1. Sự ra đời của công ty hợp danh ............................................................ 6

1.1.2. Quan niệm về cơng ty hợp danh ........................................................... 8
1.2.

Q trình hình thành và phát triển công ty hợp danh ở Việt
Nam và Nhật Bản.............................................................................. 13

1.2.1. Lịch sử hình thành .............................................................................. 13
1.2.2. Pháp luật về công ty hợp danh............................................................ 17
1.2.3. Cơ sở pháp lý cho sự hoạt động của công ty hợp danh ở Việt
Nam và Nhật Bản ............................................................................... 20
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ CHỦ YẾU CỦA PHÁP LUẬT VIỆT
NAM VÀ PHÁP LUẬT NHẬT BẢN VỀ CÔNG TY HỢP DANH .....23
2.1.

Khái niệm công ty hợp danh ........................................................... 23

2.2.

Quy định về thành lập công ty hợp danh ....................................... 26

2.2.1. Điều kiện thành lập ............................................................................. 26
2.2.2. Thủ tục thành lập ................................................................................ 36
2.3.

Tư cách pháp nhân của công ty hợp danh ..................................... 46

2.4.

Quy định về thành viên cơng ty hợp danh ..................................... 51


2.5.

Vốn góp trong công ty hợp danh ..................................................... 61

z


2.5.1. Góp vốn .............................................................................................. 61
2.5.2. Huy động vốn ..................................................................................... 66
2.5.3. Chuyển nhượng vốn ........................................................................... 68
2.6.

Quản trị công ty hợp danh............................................................... 70

2.7.

Giải thể cơng ty hợp danh ................................................................ 74

2.8.

Hồn thiện pháp luật về công ty hợp danh ở Việt Nam theo
kinh nghiệm của Nhật Bản .............................................................. 78

KẾT LUẬN .................................................................................................... 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 84

z


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơng ty hợp danh là một trong những loại hình ra đời sớm trong lịch sử
hình thành cơng ty trên thế giới, cho đến ngày hôm nay công ty hợp danh vẫn
tiếp tục khẳng định được sự tồn tại và không ngừng phát triển. Cùng với các
công ty khác, công ty hợp danh góp phần giải phóng và phát triển sức sản
xuất; tập trung và phát huy nội lực vào thúc đẩy nền kinh tế xã hội, giúp cho
nền kinh tế phục hồi và tăng trưởng, tăng thu ngân sách và tham gia giải quyết
có hiệu quả các vấn đề xã hội như: tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo… Mặc
dù có vai trị như vậy, nhưng trên thực tế cơng ty hợp danh nhận được rất ý sự
quan tâm, chú ý của các nhà đầu tư và cả pháp luật. Ở Việt Nam, công ty hợp
danh lần đầu tiên được nhắc đến tại Luật Doanh nghiệp 1999. Sau đó pháp
luật về loại hình cơng ty này tiếp tục được kế thừa và phát triển trong Luật
Doanh nghiệp 2005; tuy nhiên, với 11 điều luật được ghi nhận là chưa đảm
bảo được khung pháp lý cho sự hoạt động của công ty hợp danh. Hơn nữa,
sau gần 10 năm đi vào thực tiễn đời sống kinh tế, pháp luật về công ty hợp
danh đã bộc lộ nhiều hạn chế, các quy định của pháp luật cịn thiếu tính thống
nhất gây khó khăn cho việc áp dụng và trở thành rào cản kìm hãm sự phát
triển của loại hình này. Nhật Bản là một quốc gia khơng chỉ có nền kinh tế
phát triển đứng hàng đầu thế giới mà cịn có hệ thống pháp luật tiên tiến, đáp
ứng được nhu cầu điều chỉnh của các quan hệ xã hội. Pháp luật về công ty
hợp danh của Nhật Bản được xây dựng dựa trên nền tảng thực tiễn môi trường
kinh doanh trong nước kết hợp với kinh nghiệm lập pháp có lịch sử hàng trăm
năm; chính vì vậy, cơng ty hợp danh được nhìn nhận với đúng bản chất pháp
lý của nó và có quy chế điều chỉnh hoàn thiện.
Trong xu hướng hội nhập quốc tế, giữa các quốc gia khơng chỉ có sự

1

z



giao lưu, hợp tác về kinh tế mà còn trên tất cả các mặt của đời sống xã hội
như văn hóa, giáo dục, y tế và lập pháp. Đứng giữa bối cảnh đó, Việt Nam
đã, đang và ln sẵn sàng học hỏi, tiếp thu những kinh nghiệm quý báu
trong lĩnh vực pháp luật của các quốc gia có kỹ thuật lập pháp cao trong đó
có Nhật Bản; để bổ sung, hồn thiện nền pháp lý của mình. Trải qua hơn bốn
mươi năm thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, Nhật Bản đã hợp tác
với nước ta trên nhiều lĩnh vực từ kinh tế, văn hóa đến lĩnh vực pháp luật.
Biểu hiện của sự hợp tác trong lĩnh vực pháp luật đó là sự ra đời của Dự án
cải cách hệ thống tư pháp và pháp luật (JICA) ở Việt Nam do Nhật Bản đầu
tư và hỗ trợ chuyên gia.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “ So sánh pháp
luật Việt Nam và pháp luật Nhật Bản về công ty hợp danh”, với mong muốn
được góp phần vào q trình xây dựng và hồn thiện pháp luật cơng ty hợp
danh ở nước ta trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Một số cơng trình nghiên cứu về Cơng ty hợp danh ở Việt Nam, đó là:
- Sách, bài báo, tạp chí: Ngơ Huy Cương (2013), Giáo trình Luật
thương mại phần chung và phần thương nhân; Nguyễn Thị Khế (2007), Pháp
luật về các hình thức tổ chức kinh doanh; Ngơ Huy Cương (2007), “Khái
niệm công ty hợp danh tại Luật doanh nghiệp 2005”; Đỗ Văn Đại (2005),
“Cần quy định hợp lý về công ty hợp danh”; Nguyễn Vĩnh Hưng (2011),
“Công ty hợp danh có hay khơng tư cách pháp nhân”; Vũ Đặng Hải Yến
(2010), “Hồn thiện pháp luật về cơng ty hợp danh ở Việt Nam”; Bùi Xuân
Hải (2008), “Pháp luật doanh nghiệp và đầu tư với vấn đề hội nhập”;... Các
sách, bài báo này cũng đã đề cập đến những nội dung cơ bản của công ty hợp
danh như khái niệm công ty, tư cách pháp lý của công ty hợp danh và đưa ra
một số giải pháp để hoàn thiện pháp luật Việt Nam về công ty hợp danh.

2


z


- Luận văn, luận án:Vũ Đặng Hải Yến (2003), Một số vấn đề pháp lý về
công ty hợp danh, Luận văn thạc sỹ Luật học, Đại học Luật Hà Nội; Nguyễn
Thị Thùy Giang (2012), Pháp luật Việt Nam về công ty hợp danh, Luận văn
thạc sỹ Luật học, Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội; Nguyễn Thị Huế (2012), Pháp
luật về Công ty hợp danh, Luận án tiến sỹ Luật học, Học viện khoa học xã
hội;... Các luận văn, luận án này là những cơng trình nghiên cứu khoa học cho
thấy cái nhìn tổng thể và đầy đủ về cơng ty hợp danh ở các vấn đề như lịch sử
ra đời, khái niệm và đặc điểm của công ty hợp danh, những vấn đề chủ yếu
của công ty hợp danh theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, đồng
thời, cũng đã đưa ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật công ty hợp danh ở
Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
So sánh các quy định của pháp luật về công ty hợp danh ở Việt Nam và
Nhật Bản để tìm ra những ưu điểm, hạn chế của pháp luật về cơng ty hợp
danh của mỗi nước. Cùng với đó, luận văn tìm lời giải cho câu hỏi, liệu những
điểm hợp lý trong quy định của pháp luật Nhật Bản về cơng ty hợp danh có
thể tham khảo trong tìm kiếm giải pháp khắc phục những hạn chế của pháp
luật về công ty hợp danh của Việt Nam?
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về cơng
ty hợp danh;
- Phân tích, đánh giá và so sánh các quy định của pháp luật doanh
nghiệp Việt Nam (Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật Doanh nghiệp được Quốc
hội thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2014) và pháp luật công ty của Nhật Bản
(Luật Công ty 2006);

- Đề xuất giải pháp thiết thực nhằm hoàn thiện pháp luật về công ty hợp
danh của Việt Nam.

3

z


4. Đối tượng nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định về công ty hợp danh là
đối tượng điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp Việt Nam và Luật Công ty
Nhật Bản Các nội dung chủ yếu liên quan đến pháp luật về thành lập, quản
trị và vận hành, giải thể công ty; quy chế pháp lý về vốn và thành viên
trong công ty hợp danh.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ngồi ra luận văn có tham khảo các cơng trình nghiên cứu, bài viết có liên
quan đã được công bố;
- Trong nghiên cứu và biên soạn luận văn, học viên sử dụng phương
pháp phân tích quy phạm và phân tích quan điểm khoa học; phương pháp hệ
thống hóa, tổng hợp; phương pháp so sánh luật học. Các phương pháp nghiên
cứu trên được dùng xuyên suốt trong luận văn. Cụ thể, phương pháp phân tích
được sử dụng để đánh giá, nhận xét và làm rõ những nội dung cơ bản trong
các quy định của pháp luật về công ty hợp danh; phương pháp so sánh nhằm
mục đích tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa pháp luật của Việt
Nam và Nhật Bản; từ đó, kết hợp với phương pháp hệ thống hóa, tổng hợp
đưa ra những nhận định và kết luận khoa học.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn có những đóng góp về khoa học và thực tiễn pháp lý Việt
Nam trên những vấn đề sau:
- Luận văn là cơng trình luật học so sánh pháp luật Việt Nam và pháp
luật Nhật Bản về cơng ty hợp danh;
- Góp phần đưa ra những nội dung cần tiếp thu từ pháp luật Nhật Bản
phục vụ cho công tác xây dựng pháp luật về công ty hợp danh ở Việt Nam

4

z


6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 2 chương.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về công ty hợp danh
Chương 2: Những vấn đề chủ yếu của pháp luật Việt Nam và pháp
luật Nhật Bản về công ty hợp danh.

5

z


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TY HỢP DANH
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty hợp danh trên
thế giới
1.1.1. Sự ra đời của công ty hợp danh
Công ty ra đời là một hiện tượng tất yếu khách quan của nền kinh tế, nó

là sự khởi đầu cho việc liên kết hình thành và phát triển mạnh mẽ trong kinh
doanh thương mại. Cũng giống như những hiện tượng khác, công ty chỉ ra
đời, tồn tại và phát triển trong những điều kiện lịch sử và xã hội nhất định.
Hình thức đầu tiên của việc bn bán, trao đổi xuất hiện trong lịch sử
lồi người đó là việc các chủ thể kinh doanh đứng ra bỏ vốn đầu tư, quản lý
và điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh một cách độc lập; đồng thời
cũng tự mình gánh chịu những rủi ro gặp phải, mà khơng có sự liên kết với
những nhà kinh doanh khác. Kiểu kinh doanh truyền thống này được gọi là
kinh doanh đơn lẻ. Là yếu tố cấu thành nên xã hội, do vậy, nền kinh tế luôn
luôn vận động và phát triển không ngừng; điều này khiến các nhà kinh
doanh phải tính tốn tìm ra những cách thức mới để có thể đẩy mức lợi
nhuận lên cao hơn, một trong những cách thức đó chính là mở rộng quy mơ
sản xuất, kinh doanh. Mở rộng quy mô sản xuất đồng nghĩa với việc chấp
nhận rủi ro gặp phải trong kinh doanh lớn hơn nhưng bù lại những khoản lời
lãi thu về sẽ nhiều thêm, rủi ro gặp phải sẽ được chia sẻ cho nhiều người
trong quá trình kinh doanh. Hơn nữa, nếu vẫn tiếp tục duy trì quy mơ sản
xuất kinh doanh nhỏ lẻ, khơng đáp ứng được sự địi hỏi của nền sản xuất
ngày càng lớn mạnh, thị trường ngày càng sơi động thì các nhà đầu tư sẽ
sớm bị sự phát triển của nền kinh tế phủ nhận. Chính những lý do trên, đã
thôi thúc và buộc các nhà kinh doanh phải từ bỏ kiểu kinh doanh đơn lẻ

6

z


truyền thống và tìm đến với quy mơ sản xuất phù hợp hơn. Công ty ra đời đã
đáp ứng được những địi hỏi khắt khe đó.
Ban đầu, các chủ thể kinh doanh chỉ lập ra những hội buôn, phường
bán với sự liên kết đơn giản, đây chính là khởi nguồn của loại hình cơng ty

đối nhân. Trải qua q trình sản xuất, kinh doanh; cùng với q trình cơng
nghiệp hóa nhanh chóng, các nhà đầu tư đã dần phát triển và hồn thiện cơng
ty thành những tổ chức có cơ cấu chặt chẽ và thực sự phù hợp. Hiện nay, cơng
ty xuất hiện với các loại hình rất đa dạng: công ty hợp danh, công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần.., rồi trong mỗi loại hình cơng ty đó lại bao
gồm những phân loại nhỏ hơn, tạo nên một bức tranh phong phú về công ty.
Công ty hợp danh là dạng đặc trưng của công ty đối nhân. Sự ra đời
của loại hình cơng ty này cũng xuất phát từ địi hỏi phải mở rộng quy mơ
kinh doanh. Tuy nhiên, ở thời điểm ban đầu đó, trong các nhà kinh doanh
đơn lẻ vẫn tồn tại một tâm lý lo sợ rủi ro và khơng muốn để lộ bí quyết kinh
doanh. Để tạo cho mình hàng rào chắc chắn, an toàn khi liên kết với những
người khác, các nhà kinh doanh sẽ tìm đến những người có mối quan hệ thân
thiết, đáng tin cậy cùng nhau hợp tác, kinh doanh dưới một tên chung. Sự
liên kết như vậy của các nhà kinh doanh đã cho ra đời công ty hợp danh. Các
quy định về sự hợp danh theo nghĩa rộng được ghi nhận trong các bộ luật
thời cổ đại như Bộ luật Hammurabi của Babylon và trong bộ luật Justinian
của đế chế La Mã. Trong Bộ luật Hammurabi có quy định về sự hợp danh
theo nghĩa rộng; thuật ngữ shutolin chỉ một dạng hợp danh phi thương mại
xuất hiện từ năm 2000 trước Cơng ngun, sau đó hình thành hợp danh
thương mại từ những đồn hội bn Do Thái. Trong Bộ luật Justinian của đế
chế La Mã thế kỷ VI, các nguyên tắc như nguyên tắc delectus personas - sự
lựa chọn của cá nhân, một nguyên tắc xác định sự lựa chọn tự nguyện của
các thương nhân khi cộng tác với nhau, hay nguyên tắc người thực hiện hành

7

z


vi thông qua hành vi của người khác cho bản thân người đó (qui facit per

alium facit per se) là những nguyên tắc rất giống với luật hiện đại về công ty
hợp danh. Người Phương Đông cũng không xa lạ với các phường, hội bn.
Các quốc gia Phương Đơng có xuất phát điểm của nền kinh tế từ nông
nghiệp. Do vậy, tâm lý của người dân khu vực này chịu ảnh hưởng sâu sắc
từ truyền thống kinh doanh gia đình hoặc kinh doanh dòng họ. Trong lịch sử
đã xuất hiện nhiều hãng bn nổi tiếng mang tên dịng họ và hạn chế sự can
thiệp của người ngồi vào cơng việc kinh doanh. Chính kiểu kinh doanh này
là tiền đề cho sự ra đời của công ty hợp danh ở các nước Phương Đông. Cho
đến ngày hôm nay, công ty hợp danh được ghi nhận trong pháp luật của hầu
hết các quốc gia trên thế giới.
1.1.2. Quan niệm về công ty hợp danh
Trong mỗi ngành khoa học tồn tại những khái niệm đặc thù về cơng ty
nói chung và cơng ty hợp danh nói riêng. Nguyên nhân của sự khác nhau đó là
do đối tượng nghiên cứu của mỗi ngành khoa học là riêng biệt và không trùng
lặp. Nghiên cứu sự đa dạng của các quan niệm về công ty hợp danh cũng là
một trong những cách để hiểu sâu sắc hơn thế nào là công ty hợp danh?
Trong khoa học về quản trị doanh nghiệp, đối tượng nghiên cứu đó là quá
trình quản trị diễn ra trong một tổ chức, doanh nghiệp. Căn cứ vào tính chất sở
hữu tài sản trong doanh nghiệp, ngành khoa học này phân chia doanh nghiệp
thành doanh nghiệp một chủ sở hữu (bao gồm doanh nghiệp nhà nước và doanh
nghiệp tư nhân) và doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu (bao gồm công ty và hợp tác
xã). Trong loại hình cơng ty lại được chia thành công ty đối nhân và công ty đối
vốn. Công ty hợp danh nằm trong nhóm cơng ty đối nhân. Khoa học quản trị
doanh nghiệp đưa ra khái niệm như sau: “công ty hợp danh là công ty đối nhân
trách nhiệm vô hạn. Các thành viên liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ
của công ty. Loại công ty này thích hợp với các thể nhân, nhưng nhiều khi các

8

z



pháp nhân kinh doanh cũng cùng nhau thành lập công ty này” [19, tr.11]. Như
vậy, cơng ty hợp danh có các thành viên thường quen biết nhau và kết hợp với
nhau dựa trên sự tín nhiệm, họ nhân danh chính mình để kinh doanh và liên
đới chịu trách nhiệm. Do đó, khơng thể chuyển nhượng phần góp tài sản của
mình mà khơng được sự đồng ý của tồn thể thành viên. Đối với loại công ty
này các thành viên thường chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ. Khi
một thành viên chết có thể dẫn đến giải thể công ty. Khoa học về quản trị
doanh nghiệp thừa nhận tính chất đối nhân tuyệt đối của cơng ty hợp danh.
Ngồi ra, cơng ty hợp danh là đơn vị kinh tế quy tụ các phương tiện tài chính,
vật chất và con người nhằm thực hiện các hoạt động sản xuất, cung ứng, tiêu
thụ sản phẩm hoặc dịch vụ, trên cơ sở tối đa hóa lợi ích của người tiêu dùng
để kiếm lợi nhuận – đây là mục đích quan trọng hàng đầu của công ty. Lợi
nhuận này sẽ được phân chia cho những người góp vốn trong cơng ty. Như
vậy, xét từ góc độ của quản trị doanh nghiệp thì công ty hợp danh cũng là một
đơn vị kinh tế thực hiện nhiệm vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm đem
lại lợi nhuận cho chủ sở hữu công ty.
Trong khoa học pháp lý, khi nghiên cứu tìm hiểu về công ty hợp danh,
pháp luật của các quốc gia trên thế giới đều đưa ra những khái niệm riêng.
Mỗi quốc gia, tùy thuộc vào các điều kiện về lịch sử thương mại, cách nhìn
nhận chủ quan của các nhà lập pháp..., mà họ đã xây dựng những khái niệm
pháp lý rất đa dạng về công ty hợp danh.
Pháp luật về công ty của Pháp xây dựng định nghĩa về công ty hợp
danh như sau: “Công ty hợp danh là công ty mà trong đó các thành viên đều
có tư cách thương gia chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới về các khoản nợ
của công ty” [13].Công ty hợp danh phải có ít nhất hai thành viên. Pháp luật
u cầu các thành viên phải có tư cách thương gia và có đầy đủ năng lực hành
vi để hành nghề. Quy định về tư cách thương gia của thành viên công ty hợp


9

z


danh ở Pháp có liên quan tới trách nhiệm tài sản của các thành viên.Công ty
hợp danh ở pháp mang bản chất đối nhân tuyệt đối bởi lẽ tất cả các thành viên
đều phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của cơng ty. Khi cơng
ty có khoản nợ, chủ nợ yêu cầu công ty thực hiện việc thanh tốn, tuy nhiên,
nếu tài sản của cơng ty khơng đủ để thực hiện nghĩa vụ này thì chủ nợ được
pháp luật trao quyền yêu cầu bất cứ thành viên nào của cơng ty hợp danh trả
nợ. Tính liên đới trong trách nhiệm vô hạn khiến cho chủ nợ có thể chỉ định
một thành viên của cơng ty thực hiện nghĩa vụ mà thành viên đó khơng được
phép từ chối hoặc yêu cầu phân chia trách nhiệm cho các thành viên khác
trong công ty. Khi thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ, thành viên đó có quyền
u cầu cơng ty hoặc các thành viên khác hoàn trả số tiền mình đã dùng cho
việc trả nợ theo yêu cầu của chủ nợ. Một đặc điểm tạo sức hút cho mô hình
cơng ty này ở Pháp đó là Luật Thương mại khơng chỉ quy định cá nhân mà
cịn cho phép pháp nhân tham gia công ty hợp danh. Xuất phát từ đặc trưng là
sự liên kết giữa những người có mối quan hệ quen biết và tin tưởng lẫn nhau
nên vấn đề chuyển nhượng phần vốn góp của thành viên cơng ty phải nhận
được sự nhất trí của tất cả các thành viên khác, việc chuyển nhượng sẽ tuân
theo Điều lệ của công ty. Yếu tố đối nhân tạo cho các thành viên quyền quản
lý, giám sát mọi hoạt động của công ty, đồng thời gắn kết họ lại với nhau tạo
nên uy tín, thương hiệu của cơng ty hợp danh. Theo quy định của Luật
Thương mại Pháp thì cơng ty hợp danh luôn luôn là công ty thương mại,
trong mọi trường hợp nó phải tuân thủ các nghĩa vụ của thương gia và tranh
chấp của công ty được giải quyết tại Tịa Thương mại.
Theo pháp luật Hoa Kỳ thì cơng ty hợp danh là “sự liên kết gồm hai
hay nhiều chủ sở hữu và với tư cách là những đồng chủ sở hữu họ cùng

nhau kinh doanh để thu lợi nhuận” [20]. Để thành lập công ty hợp danh ở
Mỹ cần đáp ứng điều kiện về số lượng thành viên tối thiểu là hai thành viên

10

z


trở lên; các thành viên này tự nguyện và liên đới chịu trách nhiệm về các
nghĩa vụ của công ty. Pháp luật Mỹ mở rộng đối tượng có thể tham gia cơng
ty hợp danh khơng chỉ có cá nhân, pháp nhân mà cho phép cả vị thành niên
trở thành thành viên công ty. Theo Luật thống nhất về công ty hợp danh
1914 của Hoa Kỳ thừa nhận có hai loại cơng ty hợp danh đó là cơng ty hợp
danh thơng thường và công ty hợp danh hữu hạn. Trong công ty hợp danh
thông thường mang bản chất đối nhân tuyệt đối. Các thành viên trong công
ty phải chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới đối với các nghĩa vụ tài chính
của cơng ty; ngay cả khi đã rút khỏi cơng ty thì vẫn bị ràng buộc trách nhiệm
từ những giao dịch được thiết lập trước thời điểm chấm dứt tư cách thành
viên hợp danh của họ. Bản chất công ty hợp danh thông thường ở Mỹ là một
dạng hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa các thành viên, do vậy, cơng ty hợp
danh thơng thường khơng có tư cách pháp nhân. Xuất phát từ vấn đề này mà
pháp luật Mỹ quy định rất chặt chẽ khi không cho phép các thành viên trong
công ty hợp danh thông thường chuyển nhượng phần vốn góp, việc chuyển
nhượng sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc kinh doanh dưới một tên
chung của công ty. Công ty hợp danh hữu hạn bao gồm ít nhất một thành
viên hợp danh và một thành viên chịu trách nhiệm vơ hạn. Có thể nói mơ
hình cơng ty hợp danh hữu hạn ở Mỹ có bản chất là công ty hợp vốn đơn
giản. Bởi lẽ, thành viên hợp danh có quyền và nghĩa vụ giống như thành
viên trong công ty hợp danh thông thường. Thành viên hữu hạn sẽ chịu trách
nhiệm đối với các nghĩa vụ của cơng ty trong giới hạn số vốn góp vào cơng

ty. Việc xuất hiện thành viên chỉ đơn thuần góp vốn, hưởng lợi nhuận khi
cơng ty kinh doanh có lãi và không phải dùng tài sản riêng để chịu trách
nhiệm về những khoản lỗ từ hoạt động của công ty đã khiến cho cơng ty hợp
danh hữu hạn khơng cịn bản chất đối nhân tuyệt đối nữa. Cũng giống như
công ty hợp danh thông thường, pháp luật Mỹ quy định, công ty hợp danh

11

z


hữu hạn khơng có tư cách pháp nhân. Các hoạt động đều được giao dịch bởi
tư cách thương gia của thành viên hợp danh.
Pháp luật Thái Lan cho rằng “hợp đồng thành lập công ty hợp danh
hoặc công ty là hợp đồng theo đó hai hoặc nhiều cá nhân thỏa thuận cùng
nhau thực hiện công việc chung, trên nguyên tắc chia sẻ lợi nhuận có được từ
cơng việc đó” [1]. Đồng thời, pháp luật Thái Lan ghi nhận sự tồn tại của hai
loại hình cơng ty hợp danh đơn thường và cơng ty hợp danh hữu hạn. Theo đó
“cơng ty hợp danh đơn thường là loại hình cơng ty mà ở đó tất cả các thành
viên cùng chịu trách nhiệm vô hạn đối với tất cả các nghĩa vụ của công ty hợp
danh” [1]. Cũng giống như đa số các quốc gia khác, công ty hợp danh đơn
thường của Thái Lan cũng mang bản chất đối nhân tuyệt đối tức là tất cả các
thành viên phải chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới. Thành viên trong công ty
phải chịu trách nhiệm với cả hành vi liên quan đến hoạt động kinh doanh của
bất kỳ thành viên nào trong công ty. Mọi hoạt động nhân danh công ty phải
được sự đồng ý của tất cả các thành viên. Sự tồn tại và phải triển của công ty
hợp danh phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố như trình độ, bằng cấp, uy tín cá
nhân, kinh nghiệm... do vậy, để tránh xung đột lợi ích giữa thành viên với
cơng ty hợp danh, pháp luật Thái Lan quy định các thành viên hợp danh
không được tiến hành các hoạt động kinh doanh có cùng tính chất với việc

kinh doanh của cơng ty bất kể là vì lợi ích của mình hay bên thứ ba. Tuy
nhiên, pháp luật cũng có sự linh hoạt khi cho phép các thành viên được thực
hiện các giao dịch trên nếu được các thành viên cịn lại thơng qua.Cơng ty
hợp danh hữu hạn ở Thái Lan ngồi thành viên hợp danh có thêm sự tham gia
của thành viên chịu trách nhiệm hữu hạn. Số lượng thành viên tối thiểu
trong công ty hợp danh hữu hạn của Thái Lan tương tự với công ty hợp
danh hữu hạn ở Mỹ. Quy chế về thành viên hợp danh trong công ty hợp
danh hữu hạn giống như trong công ty hợp danh đơn thường. Đối với thành

12

z


viên góp vốn có trách nhiệm tài sản hữu hạn trong phạm vi số vốn góp vào
cơng ty. Thành viên góp vốn phải thơng báo với bên thứ ba về số vốn đóng
góp của họ, nếu lớn hơn số vốn đã đăng ký thì họ phải chịu trách nhiệm
trong số vốn đã đăng ký đó. Đồng thời, thành viên góp vốn có quyền tự do
chuyển nhượng hoặc để lại thừa kế phần vốn góp hay được tiến hành các
hoạt động kinh doanh có cùng ngành nghề cạnh tranh với cơng ty hợp danh
hữu hạn mà họ đang là thành viên.
Như vậy, tùy thuộc vào góc độ tiếp cận khác nhau mà các ngành khoa
học đưa ra các khái niệm riêng về công ty hợp danh; và tự trong mỗi ngành
khoa học đó, các quốc gia cũng nhìn nhận khác nhau về công ty hợp danh.
Tuy vậy, dù quan niệm như thế nào thì bản chất của cơng ty hợp danh cũng
không thay đổi: đều mang bản chất đối nhân, xem trọng yếu tố nhân thân của
các thành viên và không có sự tách bạch tài sản của thành viên hợp danh với
công ty, do vậy, thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các
nghĩa vụ của cơng ty.
1.2. Q trình hình thành và phát triển cơng ty hợp danh ở Việt

Nam và Nhật Bản
1.2.1. Lịch sử hình thành
Cũng giống như các quốc gia ở Đơng Á như Triều Tiên, Việt Nam,..,
thời kỳ đầu, pháp luật Nhật Bản chịu ảnh hưởng sâu sắc từ những tư tưởng
triết học và pháp lý của Trung Quốc. Đến thời kỳ Edo (từ đầu thế kỷ XVII
đến nửa sau thế kỷ XIX) xã hội Nhật Bản nằm dưới sự cai trị của các Shogun
(Tướng quân) và dòng họ Tokugawa. Nhờ sự ổn định về chính trị trong thời
kỳ này mà kinh tế Nhật Bản phát triển nhanh, mặc dù vẫn là nền sản xuất
nơng nghiệp nhưng kinh tế hàng hóa cũng đã phát triển tương đối. Một phần
lớn dân số ở vùng thành thị đã bắt đầu tham gia vào thương mại ở các mức độ
khác nhau. Hoạt động buôn bán và hoạt động tín dụng phát triển; kéo theo đó

13

z


là mầm mống của sự liên kết giữa các thương nhân trong kinh doanh bắt đầu
được nhen nhóm. Thời kỳ này, Nhật Bản đã có sự hình thành những bộ luật
riêng dựa trên tư tưởng triết lý của mình; tuy nhiên vẫn còn rất sơ khai. Từ
cuối thể kỷ XIX, chế độ của các Shogun chấm dứt cùng với sự cải cách của
Nhật Hoàng Minh Trị (Meiji), Nhật Bản phát triển theo con đường tư bản chủ
nghĩa, mở cửa với thế giới Phương Tây. Sau 300 năm ngủ quên, đòi hỏi Nhật
Bản phải hiện đại hóa càng nhanh càng tốt. Chính phủ mới coi cơng nghiệp là
một trong những trụ cột của quốc gia hiện đại. Thơng qua “Chính sách xúc
tiến cơng nghiệp” nền kinh tế Nhật Bản đã có những bước đột phá. Sự phát
triển nhanh chóng của nền sản xuất công nghiệp khiến cho các thương nhân
kinh doanh đơn lẻ buộc phải tăng quy mô kinh doanh. Để có thể vừa mở rộng
được quy mơ sản xuất đem lại lợi nhuận cao, vừa hạn chế được rủi ro gặp
phải, các nhà kinh doanh Nhật Bản đã liên kết chặt chẽ với nhau tạo thành

công ty.Khi công ty ra đời, Chính phủ Nhật Bản đã cơng nhận sự tồn tại và
xây dựng khung pháp lý cho sự hoạt động của các loại hình cơng ty. Bước đi
đầu tiên đó là Nhật Bản ban hành Bộ luật Thương mại vào năm 1890. Bộ luật
này mơ hình hóa đáng kể từ Bộ luật Thương mại Đức nhưng chính thức áp
dụng các cấu trúc của Bộ luật thương mại Pháp. Việc thực thi Bộ luật Thương
mại 1890 đã bị hoãn lại, trừ một số nội dung về tên công ty, chứng từ và phá
sản là có hiệu lực. Năm 1899, Nhật Bản đã ban hành Bộ luật Thương mại mới
(Luật số 48, ngày 9 tháng 3 năm 1899) dưới sự học hỏi từ Bộ luật Thương
mại của Đức cả về cấu trúc lẫn nội dung [29, tr.153]. Trong đó, mơ hình cơng
ty hợp danh được pháp luật Nhật Bản lúc bấy giờ ghi nhận khá giống với mơ
hình của Pháp và Đức. Có 4 loại cơng ty cơ bản là cơng ty cổ phần, công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và công ty hợp vốn. Tuy nhiên, với sự
cải cách luật năm 2005, Luật công ty (Luật số 86 thời Bình Thành năm thứ
17) được ra đời với tư cách là luật thống nhất, tổ chức sắp xếp lại, sửa đổi, bổ

14

z


sung cho các đạo luật trước đó. Theo đó, cơng ty hợp danh, công ty hợp vốn
và công ty trách nhiệm hữu hạn được gộp thành công ty thành viên và được
điều chỉnh với quy chế pháp lý chung. Công ty hợp danh là một loại hình
cơng ty đáp ứng được nhiều đòi hỏi của thị trường và rất gần gũi với tầng lớp
thương nhân tại Nhật Bản.
Ở Việt Nam, khái niệm phường, hội buôn xuất hiện từ rất lâu đời cùng
với sự phát triển của đô thị thời kỳ phong kiến. Phường, hội buôn xuất phát từ
các làng nghề truyền thống và trở thành nhân tố cấu thành nền kinh tế lúc bấy
giờ. Mơ hình cơng ty hợp danh dưới các hình thức khác nhau nhưng mang
cùng bản chất công ty hợp danh hiện đại đã xuất hiện và tồn tại ở Việt Nam từ

khoảng cuối thế kỷ XIX. Thời kỳ Pháp thuộc, Pháp đã từng áp dụng Luật
Thương mại của Pháp vào Việt Nam, theo đó, thừa nhận mọi hình thức cơng
ty, bao gồm cả cơng ty hợp danh. Vì vậy, các thương gia thời kỳ đó có quyền
thành lập công ty hợp danh để hoạt động kinh doanh ở Việt Nam. Năm 1931,
trong “Dân luật thi hành tại các tịa Nam án Bắc kỳ”, Cơng ty hợp danh được
gọi bằng cái tên “hội người”, bao gồm “hội hợp danh” và “hội hợp tư”. Năm
1944, chính quyền Bảo Đại ban hành Bộ luật Thương mai Trung phần áp
dụng tại Trung phần, tuy có những sửa đổi, bổ sung nhưng về cơ bản vẫn quy
định giống với những Luật Thương mại đã được áp dụng trước đó; Cơng ty
hợp danh vẫn tồn tại dưới tên gọi là một hội và chia làm hai loại “hội hợp
danh” và “hội cấp vốn”. Năm 1975, ở miền Nam Việt Nam, Bộ luật Thương
mại Sài Gịn ghi nhận tên chính thức “Cơng ty hợp danh”. Cơng ty hợp danh
theo luật này chính là một loại hội đoàn thương sự (nhằm phân biệt với hội
đoàn dân sự). Hội đoàn thương sự được phân ra bao gồm có cơng ty đối nhân
và cơng ty đối vốn. Trong cơng ty đối nhân gồm có hội hợp danh, hội hợp tư
đơn thường, hội trách nhiệm hữu hạn và hội dự phần. Kể từ khi đất nước

15

z


thống nhất 5/1975 nước ta không thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần, mà
thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể đóng vai trị chủ yếu, do vậy, pháp
luật chưa cơng nhận sự tồn tại của loại hình cơng ty hợp danh. Từ Đại hội
Đảng tồn quốc lần VI năm 1986, Việt Nam đã xóa dần cơ chế quản lý kinh
tế kiểu cũ để xây dựng một hệ thống kinh tế tiến bộ và phù hợp với quy luật
của thị trường. Luật Công ty 1990 và Luật doanh nghiệp tư nhân 1990 ra đời
như báo hiệu quá trình đổi mới về tư duy kinh tế. Tuy nhiên, tại thời điểm đó
các nhà làm luật chỉ quy định về công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu

hạn và doanh nghiệp tư nhân. Mơ hình cơng ty hợp danh khơng có trong Luật
cơng ty 1990 nhưng đã xuất hiện trở lại sau mấy thập kỷ vắng bóng trong
Luật Doanh nghiệp 1999 sau những tranh luận gay gắt cả bên trong và bên
ngoài nghị trường Quốc hội [9]. Như vậy, lần đầu tiên Cơng ty hợp danh được
chính thức ghi nhận trong pháp luật Việt Nam là ở Luật doanh nghiệp 1999
(có hiệu lực thi hành 1/1/2000). Tuy nhiên, sự phát triển của nền kinh tế cho
thấy, chỉ với bốn điều luật được ghi nhận trong luật doanh nghiệp thì chưa thể
tạo nên một hành lang pháp lý bền vững, đồng thời chưa thể là một lựa chọn
hấp dẫn cho các nhà đầu tư. Cùng với những bất hợp lý khác của Luật Doanh
nghiệp 1999, ngày 29 tháng 11 năm 2005, Quốc hội khóa XI kỳ họp thứ 8 đã
thơng qua Luật Doanh nghiệp mới, thay thế cho Luật Doanh nghiệp 1999.
Luật Doanh nghiệp 2005 dành 11 điều quy định về công ty hợp danh, đã cho
thấy sự thay đổi về quan điểm, tư duy của các nhà làm luật về công ty hợp
danh so với trước đây. Sau gần 10 năm đi vào thực tiễn đời sống, ngày 29
tháng 11 năm 2014 Quốc hội khóa XI đã thơng qua Luật Doanh nghiệp 2014
có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 7 năm 2015 thay thế cho Luật Doanh nghiệp
2005 với nhiều sự đổi mới đáng kể; tuy nhiên, nội dung pháp luật về công ty
hợp danh cơ bản được kế thừa khơng có sự thay đổi.

16

z


Như vậy, xét đến khía cạnh chiều dài lịch sử, pháp luật về công ty hợp
danh ở Nhật Bản được hình thành cách đây hàng trăm năm và tồn tại tương
đối ổn định. Công ty hợp danh ở Việt Nam mới chỉ được chính thức ghi nhận
trong pháp luật từ Luật Doanh nghiệp 1999; cho đến nay vẫn đang trong q
trình hồn thiện để đáp ứng được u cầu của thực tiễn phát triển kinh tế xã
hội của đất nước.

1.2.2. Pháp luật về công ty hợp danh
Pháp luật thuộc kiến trúc thượng tầng của xã hội, có vai trị quan trọng
trong việc bảo đảm, bảo vệ sự ổn định của chính trị - xã hội; tạo hành lang
pháp lý cho nền kinh tế phát triển. Dưới góc độ khoa học pháp lý, pháp luật
được hiểu là hệ thống những quy định chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa
nhận, thể hiện ý chí của nhà nước và được bảo đảm thực hiện bằng các biện
pháp khác nhau như giáo dục, thuyết phục hoặc cưỡng chế. Trong Hiến pháp
Nhật Bản hiện đại quan niệm pháp luật là luật thành văn, được hình thành bởi
sự thơng qua của cả hai viện Thượng viện và Hạ viện của Quốc hội – cơ quan
duy nhất có chức năng lập pháp và được cấu thành bởi những đại biểu được
lựa chọn thông qua bầu cử toàn dân, trừ những trường hợp khác do Hiến pháp
quy định. Việt Nam không thừa nhận tập quán, án lệ là nguồn của pháp luật
mà chỉ thừa nhận văn bản pháp luật do các chủ thể có thẩm quyền ban hành.
Các quy định của pháp luật chủ yếu được thể hiện dưới dạng các quy phạm
pháp luật; đó là những quy tắc xử sự chung nhằm điều chỉnh các quan hệ xã
hội theo hướng nhất định và nhằm đạt được mục đích mà nhà nước mong
muốn. Cũng giống như các thực thể khác, khi tham gia vào đời sống xã hội
công ty hợp danh cũng làm phát sinh những mối quan hệ xã hội liên quan đến
sự ra đời, tồn tại, hoạt động hay chấm dứt công ty. Để đảm bảo cho sự tồn tại
về mặt pháp lý của công ty hợp danh, cả Việt Nam và Nhật Bản đều ban hành
pháp luật điều chỉnh loại hình cơng ty này. Từ những nhận định cơ bản trên

17

z


có thể định nghĩa pháp luật về cơng ty hợp danh như sau: Pháp luật về công ty
hợp danh là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát
sinh trong quá trình thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của công ty hợp

danh để đảm bảo quyền tự do kinh doanh hợp pháp của người dân và giúp
cho Nhà nước thực hiện quản lý xã hội.
Đối tượng điều chỉnh của pháp luật về công ty hợp danh đó là những
quan hệ xã hội phát sinh trong q trình tồn tại của loại hình cơng ty này. Các
nhóm quan hệ xã hội nói trên có thể chia thành quan hệ xã hội bên ngoài và
quan hệ xã hội phát sinh bên trong công ty hợp danh. Các quan hệ bên ngồi
đó là mối quan hệ giữa công ty hợp danh và các chủ thể khác nảy sinh trong
quá trình thành lập, tồn tại và chấm dứt của cơng ty hợp danh; ví dụ như quan
hệ giữa công ty hợp danh với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong hoạt
động đăng ký thành lập cơng ty hay quan hệ giữa công ty hợp danh với các
cơng ty khác… Nhóm quan hệ nảy sinh bên trong công ty hợp danh chủ yếu
là quan hệ giữa các thành viên trong công ty hoặc quan hệ giữa công ty với
các thành viên của mình. Các nhóm quan hệ này đều thuộc đối tượng điều
chỉnh của pháp luật về công ty hợp danh.
Pháp luật về công ty hợp danh được ban hành là khung pháp lý cho quá
trình hoạt động và tồn tại của công ty hợp danh. Pháp luật về công ty hợp
danh ở Việt Nam và Nhật Bản có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, tính quyền lực nhà nước. Pháp luật về công ty hợp danh ở
Việt Nam nằm chủ yếu trong Luật Doanh nghiệp được Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành; còn ở Nhật Bản là trong Luật Công
ty do Quốc hội Nhật Bản thông qua. Do được hình thành bằng con đường nhà
nước nên các quy định của pháp luật nói chung và pháp luật về cơng ty hợp
danh nói riêng sẽ được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp mang
tính quyền lực nhà nước, từ tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, thuyết phục hay

18

z



cưỡng chế. Việc công ty hợp danh không thực hiện đúng những quy định của
pháp luật có thể là nguyên nhân khiến nó khơng được Nhà nước thừa nhận và
bảo hộ cho sự tồn tại của mình.
Thứ hai, tính quy phạm phổ biến. Các quy định của pháp luật về công
ty hợp danh là những khuôn mẫu, chuẩn mực mang tính chỉ dẫn cho cơng ty
hợp danh biết được quyền và nghĩa vụ của mình cũng như biết mình phải làm
gì khi rơi vào hồn cảnh cụ thể được pháp luật dự liệu trước. Đồng thời, các
quy định này được xây dựng trên cơ sở áp dụng cho loại hình công ty hợp
danh, tức là tất cả các công ty hợp danh đều phải tuân theo chứ không dành
riêng cho một công ty hợp danh cụ thể.
Thứ ba, pháp luật về công ty hợp danh không phải là một ngành luật độc
lập mà là một bộ phận nằm trong pháp luật cơng ty. Pháp luật về cơng ty có đối
tượng điều chỉnh rộng, bao gồm những quy định về quá trình tồn tại của tất cả
các loại hình cơng ty như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công
ty hợp danh. Pháp luật về công ty hợp danh chỉ là một tập con của pháp luật
công ty, nó là tập hợp của những quy phạm pháp luật điều chỉnh việc thành lập,
tổ chức quản lý và hoạt động của công ty hợp danh. Những quy phạm pháp luật
này không chỉ nằm trong bộ luật chủ đạo quy định về công ty như Luật Doanh
nghiệp của Việt Nam hay Luật Cơng ty của Nhật Bản mà cịn nằm trong các
văn bản luật chuyên ngành khác như pháp luật về thuế, phá sản…
Thứ tư,pháp luật về công ty hợp danh của Việt Nam và Nhật Bản đều
được thể hiện dưới hình thức là luật thành văn. Đây chính là tính xác định về
hình thức. Pháp luật có thể được thể hiện dưới hình thức bên ngồi đó là tập
qn pháp, án lệ và văn bản pháp luật. Tuy nhiên, cả Việt Nam và Nhật Bản
đều xây dựng pháp luật về công ty hợp danh dưới dạng luật thành văn. Đặc
điểm này khiến cho các quy định của pháp luật về cơng ty hợp danh có tính rõ
ràng, cụ thể, đảm bảo có thể hiểu và thực hiện thống nhất trên phạm vi rộng.

19


z


1.2.3. Cơ sở pháp lý cho sự hoạt động của công ty hợp danh ở Việt
Nam và Nhật Bản
1.2.3.1. Cơ sở pháp lý của công ty hợp danh ở Việt Nam
Hiện nay cơ sở chủ yếu cho hoạt động của công ty hợp danh ở Việt
Nam được căn cứ vào các quy định trong các văn bản sau:
- Hiến pháp 2013 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thông qua ngày 28 tháng 11 năm 2013 tại kỳ họp thứ 6, Khóa
XIII. Hiến pháp là đạo luật cơ bản nhất của một Nhà nước, nó thể hiện ý
chí và nguyện vọng của tuyệt đại đa số nhân dân, quy định các vấn đề quan
trọng của đất nước. Hiến pháp 2013 đã khẳng định Nhà nước khuyến
khích, tạo điều kiện để các doanh nhân, doanh nghiệp và các cá nhân, tổ
chức, đầu tư sản xuất kinh doanh, phát triển bền vững các ngành kinh tế,
góp phần xây dựng đất nước.
- Luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11 được Quốc hội nước Cộng hịa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam thơng qua ngày 29 tháng 11 năm 2005 tại kỳ họp
thứ 8, khóa XI, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2006; quy định về việc
thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của các loại hình doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế, trong đó có Công ty hợp danh. Tuy nhiên, Luật
Doanh nghiệp 2005 chỉ có hiệu lực pháp luật đến hết ngày 30 tháng 6 năm
2015. Kể từ ngày 1 tháng 7 năm 2015, Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13
được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 26
tháng 11 năm 2014 sẽ chính thức có hiệu lực pháp luật.
- Luật Phá sản số 21/2004/QH11 được Quốc hội nước Cơng hịa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam thơng qua ngày 15 tháng 6 năm 2004, quy định về phá
sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Các vấn đề liên quan điều kiện và việc nộp đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản cũng như trình tự thực hiện thủ tục phá sản đối
với công ty hợp danh.


20

z


×