Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

phân tích chính sách quản lý thuế thu nhập cá nhân ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.42 KB, 20 trang )

Trường: Đại Học Kinh Tế Huế
Tên: Lê Thị Tú Uyên
Lớp: K44 KTNN
Mã SV: 10K4011320
Phân tích chính sách quản lý thuế thu nhập
cá nhân ở Việt Nam
Mục Lục
I. Đặt vấn đề
II. Nội dung nghiên cứu
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của chính sách thuế
a. Cơ sở ra đời của chính sách thuế
b. Mục tiêu của chính sách thuế
2. Nội dung cơ bản của chính sách thuế
a. Đối tượng nộp thuế :
b. Thu nhập chịu thuế :
c. Thu nhập được miễn thuế :
d. Biểu thuế:
e. Giảm thuế:
3. Tình hình thực thi
4. Kết quả và hiệu quả của việc thực thi chính sách thuế
5. Hạn chế của chính sách
6. Đề xuất khắc phục
III. Kết luận
Tài liệu tham khảo:
• Giáo trình luật thuế Việt Nam của trường Đại Học Luật Hà Nội.
• Báo cáo thu thuế của thuế thu nhập cá nhân của Hà Nội.
• Các trang Web điện tử :www.gdt.gov.vn. , www.chinhphu.vn ,
tailieu.vn ,www.ift.edu.vn.

I. Đặt vấn đề
1


Thuế thu nhập cá nhân là một loại thuế trực thu tính trên phần thu nhập
thực tế mà các cá nhân nhận được trong từng năm, từng tháng, từng lần phát
sinh thu nhập.
Trong báo cáo chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2001- 2010 của Ban
chấp hành Trung ương khóa VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
của Đảng Cộng sản Việt Nam viết “tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp
với tình hình đất nước và cam kết quốc tế. Bổ sung hoàn thiện, đơn giản hóa
các sắc thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất, không phân biệt
doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác nhau, doanh nghiệp Việt Nam
và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Áp dụng thuế thu nhập cá nhân
thống nhất và thuận lợi cho mọi đối tượng chịu thuế, bảo đảm công bằng xã
hội và tạo động lực phát triển. Hiện đại hóa công tác thu thuế và tăng cường
quản lý của nhà nước”.
Tiến tới Việt Nam gia nhập vào WTO, do vậy tất cả các chính sách thuế hiện
hành đều đã được thay đổi theo hướng giảm nghĩa vụ thuế. Chẳng hạn từ
năm 2000 đến nay, thuế chuyển quyền sử dụng đất được giảm tới 25 lần,
thuế trước bạ giảm 50%. Hiện nay ngành thuế cũng đã xóa bỏ trên 300 loại
phí không cần thiết, một số loại như phí đường bộ, hàng hải. giảm tới 30%-
40%. Theo tính toán ban đầu, khi cắt giảm các loại thuế và chi phí này, Nhà
nước bị thất thu trên 1.000 tỷ đồng. Hiện ngân sách Nhà nước phụ thuộc vào
3 khoản thu chủ yếu gồm xuất nhập khẩu chiếm 25% ngân sách, tương
đương khoảng 60.000 tỷ đồng mỗi năm. Số thu từ xuất khẩu dầu thô cũng
vào khoảng 25%. Như vậy còn khoảng 50% ngân sách Nhà nước là các
khoản thu nội địa, nhưng khoản thu nội địa này cũng đang một ngày giảm do
chính sách thuế liên tục được thay đổi để thực hiện theo cam kết. Tính đến
thời điểm này đã có tớ trên 1.000 dòng thuế được cắt giảm. Chính vì thế để
bù đắp cho sự giảm sút này Chính phủ cần quan tâm hơn đến thuế trực thu.
Tuy nhiên, thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp cũng nên giảm dần tới mức
tương ứng với các nước trong khu vực nhằm khuyến khích hoạt động sản
xuất kinh doanh. Vì vậy, chính phủ cần phải sớm có những biện pháp đối với

thuế thu nhập cá nhân nhằm tận thu cho ngân sách từ loại thuế này.
Ở nước ta hiện nay, quản lý thuế nói chung và quản lý thuế thu nhập cá nhân
nói riêng còn nhiều hạn chế kể từ việc ban hành pháp lệnh thuế đến tổ chức
thực hiện cũng như thanh tra thuế. Nếu như chúng ta không sớm khắc phục
những hạn chế này thì khi Việt Nam gia nhập vào WTO sẽ gặp phải rât
nhiều bất lợi. Chính vì thế, công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt
Nam cần phải được hoàn thiện để đáp ứng những yêu cầu trong xu thế hội
nhập và phát triển nhanh chóng hiện nay.
2
Mục tiêu nghiên cứu: Xuất phát từ thực tế của Việt Nam, trên giác độ
quản lý để góp phần đẩy mạnh công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân và để
chống lại nạn thất thu thuế thu nhập cá nhân và tăng ngân sách nhà nước,
nên em đã chọn nghiên cứu đề tài: “ Phân tích chính sách quản lý thuế
thu nhập cá nhân ở Việt Nam”
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Trong phạm vi của đề tài này em tập
trung nghiên cứu về công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân ở nước ta từ
năm 1990 đến nay- chủ yếu từ năm 2007 đến năm 2010.
II. Nội dung nghiên cứu:
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của chính sách thuế:
a. Cơ sở ra đời của chính sách thuế:
Sau khi thống nhât đất nước,cùng với quá trình sự chuyển đổi về cơ cấu
kinh tế theo định hướng thị trường có sự quản lý nhà nước và chủ trương mở
cửa nền kinh tế,khuyến khích đầu tư nước ngoài,nền kinh tế đã từng bước
phát triển vững chắc,đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao. Trước bối
cảnh đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế và những sự biến đổi lớn về điều
kiện kinh tế- xã hội của nước ta hiện nay,việc ban hành luật Thuế thu nhập
cá nhân ở nước ta là hết sức cần thiết và quan trọng về nhiều mặt,cụ thể như
sau:
Ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân là thể chế hoá chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực tài chính .

Ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân nhằm tăng cường công tác
kiểm soát, phân phối thu nhập và điều tiết vĩ mô nền kinh tế- xã hội .
Ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân nhằm hoàn thiện hệ thống chính
sách thuế, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội và hội nhập kinh tế
quốc tế trong thời gian tới.
Ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân nhằm đảm bảo ổn định nguồn lực
cho ngân sách nhà nước.
b. Mục tiêu của chính sách thuế
Việc xây dựng Luật thuế thu nhập cá nhân phải đảm bảo các quan điểm
và hướng vào mục tiêu sau:
- Thứ nhất, đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân
cư, góp phần hạn chế khoảng cách về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư
trong xã hội.
- Thứ hai, đảm bảo động viên một cách hợp lý thu nhập dân cư, khuyến
khích mọi cá nhân ra sức lao động, sản xuất kinh doanh, gia tăng thu nhập
làm giàu chính đáng và tránh gây ra tiêu cực trong nỗ lực làm giàu của nhân
3
dân
- Thứ ba, việc ban hành và áp dụng thuế thu nhập cá nhân có tính đến những
bước đi phù hợp với tình hình nước ta và thông lệ quốc tế; kế thừa có chọn
lọc những quy định trong chính sách thuế hiện hành.
- Thứ tư, đảm bảo huy động nguồn lực để Nhà nước giải quyết tốt hơn các
vấn đề xã hội. Tạo điều kiện thuận lợi cho mọi đối tượng nộp thuế thông qua
các quy định đơn giản,dễ hiểu dễ áp dụng về kê khai nộp thuế,quyết toán
thuế với những biện pháp khuyến khích hợp lý nhằm tiết kiệm thời gian và
giảm chi phí cho đối tượng nộp
Cùng với việc đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả
ngân sách, nâng cao vai trò, hiệu lực quản lý của Nhà nước, tăng cường
chống thất thu thuế, việc áp dụng thuế thu nhập cá nhân góp phần huy động
thêm nguồn lực, đảm bảo ổn định, tăng trưởng nguồn thu ngân sách để giải

quyết tốt hơn các mục tiêu kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng
của đất nước.
2. Nội dung cơ bản của chính sách thuế
Đây là Luật thuế đầu tiên thể hiện sự cải cách ngay từ công tác lập pháp.
Theo đó, Luật chỉ qui định các nội dung về chính sách, việc quản lý thuế
được thống nhất thực hiện theo Luật quản lý thuế đã được Quốc hội thông
qua và có hiệu lực từ ngày 01/01/2007. Luật thuế thu nhập cá nhân gồm 4
chương, 35 điều. Nội dung cơ bản của các chương như sau:
a. . Đối tượng nộp thuế :
Đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân là cá nhân cư trú có thu nhập chịu thuế
quy định tại Điều 3 của Luật này phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam
và cá nhân không cư trú có thu nhập chịu thuế quy định tại Điều 3 của Luật
này phát sinh trong lãnh thổ Việt Nam.
Cá nhân cư trú là người đáp ứng một trong các điều kiện sau đây:
 Có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên tính trong một năm dương
lịch hoặc tính theo 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt
Nam;
 Có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam, bao gồm có nơi ở đăng ký
thường trú hoặc có nhà thuê để ở tại Việt Nam theo hợp đồng thuê có
thời hạn.
b. Thu nhập chịu thuế
Thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân gồm các loại sau đây:
4
 Thu nhập từ kinh doanh
 Thu nhập từ tiền lương, tiền công
 Thu nhập từ đầu tư vốn
 Thu nhập từ chuyển nhượng vốn
 Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản
 Thu nhập từ trúng thưởng
 Thu nhập từ nhượng quyển thương mại

 Thu nhập từ nhận quà tặng là chứng khoán, phần vốn trong các tổ
chức kinh tế, cơ sở kinh doanh, bất động sản và tài sản khác phải đăng
ký sở hữu hoặc đăng ký sử dụng
c. Thu nhập được miễn thuế :
 Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản giữa vợ với chồng; cha đẻ,
mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng
với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông
ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị, em ruột với nhau.
 Thu nhập từ chuyển nhượng nhà ở, quyền sử dụng đất ở và tài sản gắn
liền với đất ở của cá nhân trong trường hợp cá nhân chỉ có một nhà ở,
đất ở duy nhất.
 Thu nhập từ giá trị quyền sử dụng đất của cá nhân được Nhà nước
giao đất
 Thu nhập từ nhận thừa kế, quà tặng là bất động sản giữa vợ với
chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha
chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội
với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị, em ruột với
nhau.
 Thu nhập của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm
nghiệp, làm muối, nuôi trồng, đánh bắt thuỷ sản chưa qua chế biến thành
các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường.
 Thu nhập từ chuyển đổi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân
được Nhà nước giao để sản xuất.
 Thu nhập từ lãi tiền gửi tại tổ chức tín dụng, lãi từ hợp đồng bảo hiểm
nhân thọ.
 Thu nhập từ kiều hối.
 Phần tiền lương làm việc ban đêm, làm thêm giờ được trả cao hơn so
với tiền lương làm việc ban ngày, làm trong giờ theo quy định của pháp
luật.
 Tiền lương hưu do Bảo hiểm xã hội chi trả.

 Thu nhập từ học bổng
5
 Thu nhập từ bồi thường hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, phi nhân thọ,
tiền bồi thường tai nạn lao động, khoản bồi thường nhà nước và các
khoản bồi thường khác theo quy định của pháp luật.
 Thu nhập nhận được từ quỹ từ thiện được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cho phép thành lập hoặc công nhận, hoạt động vì mục đích từ
thiện, nhân đạo, không nhằm mục đích lợi nhuận.
 Thu nhập nhận được từ nguồn viện trợ nước ngoài vì mục đích từ
thiện, nhân đạo dưới hình thức chính phủ và phi chính phủ được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
d. Biểu thuế:
- Luật quy định biểu thuế luỹ tiến từng phần áp dụng đối với thu nhập từ
kinh doanh và thu nhập từ tiền lương, tiền công. Theo đó, tỷ lệ điều tiết thuế
được tăng dần từ bậc 1 đến bậc thu nhập thứ 7, với mức thuế suất áp dụng
cho thu nhập bậc 1 (bậc thấp nhất) là 5% và bậc 7 (bậc cao nhất) là 35%.
Biểu thuế lũy tiến từng phần áp dụng đối với thu nhập từ kinh doanh và tiền
lương, tiền công của cá nhân không cư trú:

Bậc
thuế
Phần thu nhập tính
thuế/năm
(triệu đồng)
Phần thu nhập tính
thuế/tháng
(triệu đồng)
Thuế suất
(%)
1 Đến 60 Đến 5 5

2 Trên 60 đến 120 Trên 5 đến 10 10
3 Trên 120 đến 216 Trên 10 đến 18 15
4 Trên 216 đến 384 Trên 18 đến 32 20
5 Trên 384 đến 624 Trên 32 đến 52 25
6 Trên 624 đến 960 Trên 52 đến 80 30
7 Trên 960 Trên 80 35

6
- Biểu thuế toàn phần áp dụng đối với các loại thu nhập chịu thuế còn lại của
cá nhân cư trú:
Thu nhập tính thuế Thuế suất (%)
a) Thu nhập từ vốn đầu tư 5
b) Thu nhập từ bản quyền, nhượng quyền
thương mại
5
c) Thu nhập từ trúng thưởng 10
d) Thu nhập từ thừa kế, quà tặng 10
đ) Thu nhập từ chuyển nhượng vốn quy định
tại khoản 1 Điều 13 của Luật này
20
Thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán quy
định khoản 2 Điều 13 của Luật này
0,1
e) Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản
quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật này
25
Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản quy
định tại khoản 2 Điều 14 của Luật này
2
e. Giảm thuế

Đối tượng nộp thuế gặp khó khăn do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn, bệnh hiểm
nghèo ảnh hưởng đến khả năng nộp thuế thì được xét giảm thuế tương ứng
với mức độ thiệt hại nhưng không vượt qua số thuế phải nộp
3. Tình hình thực thi
Có thể nói, công tác triển khai Luật thuế TNCN được tiến hành ngay từ đầu
năm 2008 và có nhiều sự thuận lợi.
7
Thứ nhất là sự quan tâm chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng, Chính phủ, các
bộ, ngành, đảng bộ và chính quyền địa phương các cấp; Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành Chỉ thị số 22/2008/CT-TTg ngày 15/7/2008 về việc triển
khai Luật thuế TNCN và Quyết định số 1132/QĐ-TTg ngày 19/8/2008 thành
lập Ban chỉ đạo Trung ương triển khai thực hiện Luật thuế TNCN; các bộ,
địa phương cũng đã có quyết định thành lập Ban Chỉ đạo của bộ và địa
phương.
Thứ hai, Luật quản lý thuế đã tạo cơ sở pháp lý để cơ quan thuế tổ
chức lại bộ máy quản lý thuế TNCN, bảo đảm thực hiện có hiệu quả cơ chế
quản lý thuế đối tượng nộp thuế nhằm khuyến khích sự tuân thủ, tự nguyện
thực hiện nghĩa vụ thuế của đối tượng nộp thuế. Bên cạnh đó, còn có sự phối
hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, các cấp chính quyền địa phương và được
sự đồng thuận của người nộp thuế.
Thứ ba, ban hành đầy đủ các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn
thi hành Luật thuế thu nhập cá nhân trước thời điểm Luật có hiệu lực thi
hành, như: Chính phủ đã ban hành Nghị định số 100/2008/NĐ-CP ngày
08/9/2008 quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế TNCN; Bộ Tài chính
ban hành Thông tư số 84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008 hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật Thuế TNCN và hướng dẫn Nghị định số
100/2008/NĐ-CP ngày 08/9/2008 của Chính phủ và phối hợp với các bộ,
ngành ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể một số lĩnh vực đặc thù, như:
Thông tư số 122/2008/TTLT-BTC-BQP ngày 16/12/2008, Thông tư số
123/2008/TTLT-BTC-BCA ngày 16/12/2008 hướng dẫn chế độ thu nộp thuế

thu nhập cá nhân đối với các đối tượng hưởng lương thuộc Bộ Quốc phòng,
Bộ Công an
Thứ tư, công tác tuyên truyền hướng dẫn Luật Thuế TNCN được quan
tâm và triển khai thực hiện hiệu quả. Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng Đề án
tuyên truyền hướng dẫn Luật Thuế TNCN; các cấp chính quyền, các bộ,
ngành cũng đã xây dựng đề án và triển khai nhiều biện pháp, đa dạng hoá
hình thức tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân để nâng cao nhận thức và ý
thức chấp hành nghĩa vụ nộp thuế; tổ chức tập huấn, phổ biến hướng dẫn nội
dung và các văn bản hướng dẫn thi hành thuế TNCN cho toàn cán bộ, công
chức thuế và các tổ chức, cá nhân trên địa bàn. Bộ Tài chính xây dựng tài
liệu tuyên truyền về thuế TNCN dùng cho các báo cáo viên; phối hợp với
Đài Truyền hình ở trung ương và địa phương giới thiệu pháp luật thuế
TNCN; biên soạn và in ấn các loại sách… phát hành rộng rãi để người dân
tìm hiểu. Đồng thời, Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế lập một trang Website
riêng cung cấp và tiếp nhận thông tin về thuế TNCN; tổ chức đường dây
8
nóng từ Tổng cục Thuế đến các cục thuế, chi cục thuế để tiếp nhận và giải
đáp, tư vấn kịp thời những vướng mắc của người nộp thuế; tổ chức tập huấn
theo phân loại, nhóm đối tượng để phối hợp tốt trong việc thu thuế thu nhập
cá nhân.
Thứ năm, đưa ra nhiều giải pháp quản lý thuế thu nhập cá nhân: Bộ
Tài chính đã thành lập các nhóm công tác thường xuyên nằm tại các địa
phương trọng điểm để chỉ đạo công tác triển khai; phối hợp các cơ quan chi
trả thu nhập để xác định số người nộp thuế để cấp mã số thuế; ứng dụng
công nghệ thông tin được đẩy mạnh trong tạo điều kiện thuận lợi cho người
nộp thuế, cơ quan thuế giảm lao động, chi phí và đạt hiệu quả cao trong quản
lý.
Tuy nhiên, năm 2009 là năm đầu tiên triển khai Luật thuế TNCN đúng
vào bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu, kinh tế suy giảm, thu nhập
giảm sút, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn đã tác động không nhỏ

trong quá trình triển khai thực hiện Luật thuế TNCN. Đối tượng Luật thuế
TNCN quản lý rộng, các thủ tục hành chính liên quan đến nhiều ngành nhiều
cấp và phần lớn dân cư lại triển khai thực hiện đồng thời với việc thực hiện
những biện pháp của Chính phủ nhằm chống suy giảm kinh tế trong đó có
việc giãn nộp một số khoản thu thuế TNCN. Trong khi đó, nhận thức của cá
nhân và những đơn vị có trách nhiệm kê khai các hồ sơ cấp mã số thuế chưa
cao; việc chưa quy định việc cấp mã số thuế cá nhân cho các cá nhân phụ
thuộc đã dẫn đến việc khó kiểm soát chính xác vấn đề giảm trừ gia cảnh cho
người phụ thuộc; sự kiểm tra kiểm soát của các cơ quan quản lý nhà nước
còn có những hạn chế, việc phát hiện người nộp thuế kê khai sai là vấn đề
rất khó khăn. Phương thức thanh toán trong dân cư chủ yếu vẫn bằng tiền
mặt, khó có thể tạo ra cơ chế kiểm soát thu nhập cá nhân một cách chính xác
và hiệu quả. Đây luật thuế mới, đối tượng quản lý rộng nên cán bộ thuế dù
đã được tập huấn, bồi dưỡng song vẫn còn lúng túng trong việc triển khai
thực hiện; việc áp dụng công nghệ thông tin (CNTT) đã đạt được rất nhiều
thành tựu; nhưng nhìn tổng thể vẫn chưa theo kịp được chính sách thuế
TNCN.
4. Kết quả và hiệu quả của việc thực thi chính sách thuế
Đánh giá kết quả sau ba năm thực hiện pháp luật thuế TNCN, về cơ
bản đã đạt được các mục tiêu, yêu cầu khi ban hành Luật:
(i) Luật Thuế TNCN đã góp phần đảm bảo công bằng trong điều tiết
thu nhập của các tầng lớp dân cư: đã đưa cá nhân kinh doanh (trước thuộc
diện chịu thuế TNDN) vào diện nộp thuế TNCN, đảm bảo tính công bằng
9
trong điều tiết thu nhập, cá nhân có thu nhập chịu thuế thì dù thu nhập từ bất
kì nguồn nào cũng đều được đối xử như nhau, tức là đều chịu thuế TNCN;
việc điều tiết thu nhập của cá nhân kinh doanh theo Luật thuế TNCN thực
hiện theo phương pháp luỹ tiến sẽ đảm bảo điều tiết hợp lý thu nhập dân cư.
Quy định này rất có ý nghĩa đối với các hộ kinh doanh nhỏ ở Việt Nam.
(ii) Luật thuế TNCN đảm bảo động viên, khuyến khích mọi cá nhân

ra sức lao động, sản xuất kinh doanh, gia tăng thu nhập làm giàu chính đáng:
quy định một số khoản thu nhập trước đây tạm thời chưa thu thuế như thu
nhập từ đầu tư vốn, thu nhập từ chuyển nhượng vốn bao gồm cả chuyển
nhượng chứng khoán; phần thu nhập từ lãi tiền gửi tại các tổ chức tín dụng
(ngân hàng, các quỹ tín dụng và các tổ chức tín dụng khác) và lãi từ hợp
đồng bảo hiểm nhân thọ được miễn thuế TNCN nhằm mục đích thu hút
khoản tiền nhàn rỗi nhỏ lẻ trong dân cư vào các kênh tín dụng, để từ đó sử
dụng vốn của nền kinh tế vào hoạt động sản xuất kinh doanh, khuyến khích
sử dụng có hiệu quả mọi đồng vốn của xã hội.
Theo số liệu thống kê, số người nộp thuế từ thu nhập từ lương, tiền
công ở bậc 1 chiếm tỷ trọng lớn trong số người phải nộp thuế (năm 2009
khoảng 77,3%, năm 2010 khoảng 73,3%, năm 2011 khoảng 77%), nhưng số
thuế nộp không lớn so với tổng thuế thu từ lương, tiền công (năm 2009
khoảng 6,9%, năm 2010 khoảng 7%, năm 2011 gần 10%). Số người nộp
thuế từ thu nhập từ lương, tiền công ở bậc 2 trở lên không lớn (năm 2009 là
22,7%, năm 2010 là 26,7%, năm 2010 là 23%), nhưng số thuế nộp chiếm tỷ
trọng lớn (năm 2009 là 93,1%, năm 2010 là 93%, năm 2011 khoảng 90%).
10
Hình 1: Thống kê số người nộp thuế từ thu nhập từ lương, tiền công bậc
1 và bậc 2 trở lên
(iii) Luật thuế TNCN đã kế thừa có chọn lọc những quy định trong chính
sách thuế trước đây, nhưng mở rộng điều tiết một số khoản thu nhập từ đầu
tư vốn; thu nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng chứng khoán; thu
nhập từ thừa kế, quà tặng là chứng khoán, phần vốn góp trong các tổ chức
kinh tế, bất động sản và các tài sản khác phải đăng ký quyền sở hữu hoặc
quyền sử dụng góp phần đảm bảo công bằng xã hội; giảm khoảng cách thu
nhập giữa các tầng lớp dân cư, tăng nguồn thu ngân sách nhà nước. Năm
2009 có gần 850.000 lượt chuyển nhượng, thừa kế; năm 2011 có trên 1 triệu
lượt; tổng số tiền thuế thu được do bổ sung điều tiết đối với các khoản thu
nhập trên là 2.424,9 tỷ đồng.

Số tiền thu được do bổ sung điều tiết đối với các khoản thu nhập từ
đầu tư vốn; chuyển nhượng vốn, chứng khoán; thừa kế, quà tặng (trừ bất
động sản) là:
Tiền thuế thu từ đầu tư vốn trong 3 năm là 1.946,8 tỷ đồng (năm
2009: 4,8 tỷ đồng, năm 2010: 642 tỷ đồng; năm 2011: 1.300 tỷ đồng).
Tiền thuế thu từ chuyển nhượng vốn, chứng khoán trong 3 năm là
402,4 tỷ đồng (năm 2009: 3,7 tỷ đồng; năm 2010: 188,7 tỷ đồng; năm 2011:
210 tỷ đồng).
Tiền thuế thu từ thừa kế, quà tặng (trừ bất động sản) trong 3 năm là
75,5 tỷ đồng (năm 2009: 15 tỷ đồng; năm 2010: 30,5 tỷ đồng; năm 2011: 30
tỷ đồng).

11
Hình 2: Đồ thị số thuế TNCN thu được bổ sung điều tiết đối với các
khoản thu nhập
(iv) Luật thuế TNCN đã góp phần đảm bảo huy động nguồn lực cho ngân
sách Nhà nước: tổng số thuế TNCN trong 3 năm từ các khoản thu: tiền
lương, tiền công; hộ, cá nhân kinh doanh; đầu tư vốn; chuyển nhương vốn;
chuyển nhượng, thừa kế bất động sản; trúng thưởng; bản quyền, nhượng
quyền thương mại; quà biếu, quà tặng (trừ bất động sản) và thu khác là
77.728,2 tỷ đồng

Số thu năm 2009 là 14.316 tỷ đồng, bằng 110% so với năm 2008, đạt 3,4%
tổng số thu NSNN (năm 2009 Quốc hội cho miễn thuế TNCN 6 tháng đầu
năm đối với cá nhân cư trú có thu nhập từ kinh doanh và từ tiền lương, tiền
công, miễn thuế cả năm đối với thu nhập từ đầu tư vốn, từ chuyển nhượng
vốn). Số thu 2010 là 26.282 tỷ đồng, bằng 183,6% so với thực hiện 2009, đạt
6,1% tổng thu nội địa (khoảng 4,7% tổng thu NSNN). Số thu năm 2011 ước
37.160 tỷ đồng, bằng 141,38% so với số thu 2010, đạt khoảng 7,1% số thu
nội địa (khoảng 5,5% tổng thu NSNN). So với GDP: năm 2009 tỷ lệ huy

động 0,87%/GDP; năm 2010: 1,37%/GDP; năm 2011: 2,03%/GDP.
Kết quả trên cho thấy, số thu từ thuế TNCN tăng nhanh cả về số tuyệt
đối, tỷ trọng trên tổng thu, góp phần huy động nguồn lực, đáp ứng nhu cầu
chi tiêu của NSNN. Để đạt được kết quả trên có nhiều nguyên nhân, nhưng
nguyên nhân chính là: số đối tượng nộp thuế tăng qua các năm; thu nhập từ
tiền lương, tiền công tăng do Nhà nước điều chỉnh lương (năm 2007, khi xây
dựng Luật lương tối thiểu là 450.000 đồng/tháng; năm 2009, khi bắt đầu
thực hiện Luật, lương tối thiểu là 650.000 đồng/tháng; năm 2010 lương tối
12
thiểu là 730.000 đồng/tháng năm; 2011 lương tối thiểu là 830.000
đồng/tháng). Thu nhập của các hộ gia đình, cá nhân kinh doanh tăng do chỉ
số CPI tăng (năm 2008: 19,9%; năm 2009: 6,52%; năm 2010: 11,75%; năm
2011: 18,13%), nhưng mức giảm gia cảnh (đối với người nộp thuế, người
phụ thuộc) từ năm 2007 đến nay không thay đổi.
5. Hạn chế của chính sách
Bên cạnh những kết quả đạt được, một số quy định trong Luật Thuế
TNCN đã bộc lộ tồn tại, hạn chế, chưa phù hợp với thực tiễn, một số quy
định còn phức tạp, phát sinh thủ tục hành chính, chưa tạo thuận lợi cho
người nộp thuế và khó khăn cho công tác quản lý thuế.
Văn bản quy phạm pháp luật về thuế TNCN đến nay có quá nhiều
thông tư và văn bản hướng dẫn trên cơ sở thông tư, văn bản này sửa đổi, bổ
sung thông tư, văn bản kia; đồng thời, quy định trên 40 thủ tục thực hiện làm
cho cả cán bộ thuế cũng như người nộp thuế khó khăn trong việc cập nhập,
hệ thống chính sách thuế TNCN, chưa đảm bảo tính đơn giản, dễ thực hiện,
dễ kiểm tra, minh bạch và công khai, như: quy định 10 khoản thu nhập chịu
thuế, mỗi khoản thu nhập là một loại thuế có căn cứ tính thuế, thuế suất khác
nhau; có loại thu nhập có hai phương pháp tính thuế (thu nhập hộ gia đình,
cá nhân kinh doanh; thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản; thu nhập từ
chuyển nhượng chứng khoán); phức tạp nhất là việc tính thuế đối với tiền
lương, tiền công; thu nhập từ kinh doanh của hộ gia đình và cá nhân kinh

doanh
Chưa bao quát được hết các khoản thu nhập chịu thuế TNCN để động
viên nguồn lực vào nhân sách nhà nước như thu thuế đối với thu nhập từ
chuyển nhượng quyền mua cổ phiếu; đổi nhà, đổi đất ở; uỷ quyền bán nhà,
đất mà người uỷ quyền có quyền quyết định đoạt tài sản; đối với chuyển
nhượng thẻ hội viên sân golf
Trong quá trình thực hiện Luật, có nhiều khoản trợ cấp phát sinh
không thuộc phạm vi tiền lương, tiền công như: tiền trợ cấp tinh giản biên
chế; tiền bồi thường tại nạn lao động; trợ cấp của tổ chức kinh tế cho người
lao động và thân nhân người lao động khám, chữa bệnh hiểm nghèo nếu
không cho trừ khi xác định thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công là
không hợp lý. Mức giảm trừ gia cảnh không còn phù hợp do giá cả hàng
hoá, dịch vụ tăng; việc quy định mức giảm trừ cho bản thân người nộp thuế
là 4 triệu đồng/tháng (bằng 3,2 lần mức lương trung bình theo lộ trình cải
13
cách tiền lương; gấp 2,5 lần mức GDP bình quân đầu người và thu nhập của
dân cư dự kiến năm 2009); mức giảm trừ cho mỗi người phụ thuộc là 1,6
triệu đồng/tháng (bằng 40% mức giảm trừ đối với bản thân người nộp thuế).
Thực tế từ năm 2009 đến nay, do tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng,
suy thoái toàn cầu dẫn đến giá cả hàng hoá, dịch vụ tăng cao (chỉ số CPI
năm 2009: 6,52%; năm 2010: 11,75%; 2011: 18.13%) làm ảnh hưởng đến
đời sống của người nộp thuế.
Biểu thuế luỹ tiến từng phần gồm 7 bậc, chưa phù hợp và khoảng cách
từng phần thu nhập tính thuế dày không đảm bảo mục tiêu đơn giản về
phương pháp tính thuế và giảm nghĩa vụ cho người nộp thuế trong tình hình
thu nhập thực tế giảm sút do chỉ số giá cả tăng cao, chưa phù hợp với xu
hướng cải cách thuế của các nước trong khu vực Đồng thời, mức thuế suất
cao nhất là 35% cao hơn mức thuế của Luật TNDN (25%), mức thu nhập
chịu thuế này thường là các cá nhân kinh doanh.
Quy định hai phương pháp tính thuế đối với thu nhập của hộ gia đình,

cá nhân kinh doanh (Điều 10); thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán
(Điều 13); thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản (Điều 14) chưa rõ ràng
về chính sách, làm cho công tác quản lý thuế phức tạp, tăng thủ tục hành
chính về thuế.
Đối với các hộ gia đình, cá nhân kinh doanh do chưa thực hiện đầy đủ
chế độ kế toán, thuế TNCN được xác định trên cơ sở ấn định; việc ấn định
doanh thu tuy thực hiện đúng theo quy trình nhưng vẫn không sát với thực
tế kinh doanh; dẫn đến số hộ nộp thuế theo phương pháp ấn định so với thuế
thu nhập doanh nghiệp trước đây cũng giảm nhiều.
Đối với thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán, có hai phương pháp
tính thuế; thị trường chứng khoán từ năm 2009 đến nay luôn giảm điểm so
giá chuyển nhượng chứng khoán giảm; các nhà đầu tư chuyển nhượng
chứng khoán bị lỗ, nhưng vẫn phải nộp thuế theo thuế suất 0,1% trên giá
chuyển nhượng (khấu trừ tại nguồn). Rất ít nhà đầu tư chứng khoán là cá
nhân thực hiện việc quyết toán và áp dụng mức thuế suất 20% chênh lệch
giữa giá bán và giá mua; do phải thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn chứng
từ, đăng ký nộp thuế trước ngày 31/12 của năm trước và rất khó xác định giá
bán bình quân mỗi mã chứng khoán bán ra khi quyết toán thuế.
Đối với thu nhập từ hoạt động nhượng bất động sản (nhà, đất), có hai
phương pháp tính thuế. Thực tế, hầu hết các trường hợp chuyển nhượng nhà
14
đất đều áp dụng phương pháp nộp 2% trên giá trị chuyển nhượng; trường
hợp nộp thuế theo thuế suất 25% trên chênh lệch không nhiều. Do người
chuyển nhượng không đủ hoá đơn, chứng từ chứng minh giá mua và các chi
phí liên quan; việc xác định giá chuyển nhượng gặp nhiều khó khăn do
người bán, người mua thanh toán với nhau bằng tiền mặt, vàng, ngoại tệ, khi
kê khai thuế thường khai giá chuyển nhượng thấp xa so với giá chuyển
nhượng thực tế. Ngoài ra, có trường hợp để lách Luật thuế TNCN đối với
thu nhập từ hoạt động chuyển nhượng bất động sản, người có bất động sản
đã làm hợp đồng uỷ quyền (thực chất là bán) cho các sàn giao dịch bất động

sản tư nhân chuyển nhượng bất động sản, hợp đồng đổi nhà, đổi đất
Quy định đánh thuế đối với lợi tức cổ phần chưa bình đẳng với lãi tiền
gửi tại tổ chức tín dụng được miễn thuế: Việc đầu tư vốn dưới hình thức cổ
phần rủi ro hơn lãi tiền gửi tại tổ chức tín dụng do phụ thuộc vào kết quả
kinh doanh của tổ chức kinh tế mà cá nhân góp vốn; thực tế năm 2009, 2010,
2011 lợi tức cổ phiếu được chia đối với doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh
hầu hết đều dưới 10%/năm; trong khi lãi tiền gửi tại ngân hàng, tổ chức tín
dụng đều trả cao hơn hoặc bằng 14%/năm. Hiện nay, do suy giảm kinh tế,
thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán đóng băng, lãi tiền gửi
cao, các nhà đầu tư cá nhân dồn tiền vào gửi tại các tổ chức tín dụng.
Tại khoản 2 Điều 4 của Luật thuế TNCN quy định: miễn thuế đối với
thu nhập từ chuyển nhượng nhà ở, quyền sử dụng đất ở gắn với tài sản trên
đất của cá nhân chỉ có một nhà ở, đất duy nhất. Nhưng các cơ quan quản lý
nhà nước cũng không xác định được nhà ở, đất ở mà cá nhân chuyển nhượng
là duy nhất mà chủ yếu là dựa vào tờ khai thuế và cam kết của cá nhân
chuyển nhượng nhà ở, đất ở nên không tránh khỏi việc lợi dụng trốn thuế.
Tại khoản 1, khoản 4 Điều 4 Luật thuế TNCN quy định miễn thuế đối
với thu nhập từ chuyển nhượng, thừa kế, quà tặng là bất động sản giữa vợ
với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha
chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với
chấu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh chị em ruột với nhau.
Nhưng không quy định miễn thuế đối với việc chuyển nhượng, thừa kế, quà
tặng là bất động sản giữa bố dượng với con riêng của vợ; mẹ kế với con
riêng của chồng; anh rể với em ruột của vợ; chị dâu với em ruột của chồng.
Đây là điểm bất hợp lý vì nhà ở, quyền sử dụng đất đai ở là tài sản chung
của cả hai vợ chồng, cùng đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà. Để lách thuế vợ chồng chuyển nhượng phần bất động
15
sản của mình cho nhau sau đó mới chuyển nhượng cho con và em. Vì vậy,
làm tăng thủ tục hành chính và rất lòng vòng

Tổ chức quản lý thu cũng còn khá nhiều tồn tại, công tác tuyên truyền,
phổ biến giáo dục về Luật Thuế TNCN mới chú trọng về chiều rộng, chưa
tập trung nhiều về chiều sâu và tuyên truyền tập trung nhiều vào giai đoạn
triển khai thực hiện Luật.
Cơ quan thuế còn chưa nắm đầy đủ thông tin về thu nhập của dân cư,
kiểm soát thu nhập, chưa kiểm soát được mọi nguồn thu nhập của từng cá
nhân do nguồn hình thành TNCN quá đa dạng và phức tạp. Việc thực hiện
khấu trừ, kê khai, nộp thuế và quyết toán thuế của các tổ chức trả thu
nhập, cơ quan thuế cơ bản đã nắm được tương đối đầy đủ thông tin về thu
nhập từ tiền lương, tiền công của cơ quan hành chính sự nghiệp, các tổ chức
kinh tế là doanh nghiệp trả cho người lao động trong biên chế hoặc hợp đồng
lao động dài hạn. Đối với các khoản thu nhập của các hộ kinh doanh cá thể,
các cá nhân hành nghề độc lập, đặc biệt là đối với đối tượng ca sỹ, nghệ sỹ,
giáo viên dạy thêm, nguồn thu nhập không chính thức khác,… thì cơ quan
thuế khó có thể kiểm soát được một cách chính xác.
Đối với thu nhập từ đầu tư vốn, từ chuyển nhượng vốn, thu nhập từ
bản quyền, nhượng quyền thương mại, chuyển nhượng bất động sản phần
lớn cơ quan thuế chỉ nắm được thông tin và kiểm soát được trong trường
hợp cá nhân chuyển nhượng cho tổ chức mà tổ chức này cần hoá đơn, chứng
từ kế toán. Đối với thu nhập ở nước ngoài của cá nhân cư trú, các khoản thu
nhập do chuyển nhượng bất động sản giữa các cá nhân với nhau; thu nhập từ
chuyển vốn giữa các cá nhân với nhau; thu nhập từ bản quyền, nhượng
quyền thương mại giữa các cá nhân với nhau; thu nhập từ thừa kế, quà tặng
là bất động sản giữa các cá nhân chưa kiểm soát được thu nhập do họ tự kê
khai về doanh thu, giá bán không phù hợp với giá thực tế chuyển nhượng.
Sự phối hợp giữa ngành thuế với các cấp chính quyền địa phương, với
các tổ chức, cơ quan liên quan trong việc hợp tác triển khai Luật Thuế
TNCN ở một số địa phương chưa được quan tâm đúng mức. Hiện tượng tiêu
cực trong việc nộp thuế TNCN vẫn chưa được xử lý triệt để, làm ảnh hưởng
đến tính hiệu quả thực tế và công bằng của Luật, gây một số bức xúc trong

quần chúng nhân dân.
Sau khi Luật Quản lý thuế có hiệu lực thi hành, công tác thanh tra,
kiểm tra thuế có nhiều đổi mới. Thanh tra, kiểm tra chủ yếu dựa trên cơ sở
thu thập, phân tích thông tin dữ liệu liên quan đến người nộp thuế để đánh
16
giá mức độ tuân thủ, phân loại rủi ro và lập danh sách người nộp thuế phải
kiểm tra hồ sơ khai thuế. Mặc dù cơ quan thuế đã tăng cường công tác thanh
tra, kiểm tra chống thất thu thuế, kiểm tra hồ sơ khai thuế tại trụ sở của cơ
quan thuế và nhiều trường hợp kiểm tra tại trụ sở của người nộp thuế. Tuy
nhiên, đây là những năm đầu tiên thực hiện Luật Thuế TNCN, có nhiều nội
dung mới trong phương pháp quản lý thuế, do tính phức tạp của thuế TNCN,
số lượng người nộp thuế quá lớn, nên việc tổ chức thực hiện thanh tra, kiểm
tra về thuế TNCN chưa được thực hiện đầy đủ, thường xuyên.
Sau 3 năm đi vào cuộc sống, Luật Thuế TNCN đã bộc lộ một số bất
cập và chưa theo kịp diễn biến phức tạp của thị trường, tạo tâm lý không
thoải mái đối với một bộ phận người nộp thuế. Nghị quyết số 07/2011/QH13
của Quốc hội thông đã qua Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm
2012; Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1681/QĐ-TTg ngày
27/9/2011 về việc phân công cơ quan chủ trì soạn thảo dự án luật, pháp lệnh
thuộc Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2012 và các dự án luật,
pháp lệnh được điều chỉnh trong Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm
2011 của Quốc hội; theo đó, Bộ Tài chính được phân công chủ trì xây dựng
dự án Luật Thuế TNCN. Quan điểm, mục tiêu, yêu cầu sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật Thuế TNCN lần này:
Đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập, động viên một cách hợp
lý thu nhập dân cư công bằng, góp phần ổn định, nâng cao đời sống của
người nộp thuế, khuyến khích mọi cá nhân ra sức lao động, sản xuất kinh
doanh, gia tăng thu nhập làm giàu chính đáng.
Chỉ sửa đổi, bổ sung những nội dung bất cập so với thực tế, bảo đảm
tính thống nhất của hệ thống pháp luật và có tính ổn định; việc sửa đổi đảo

bảo không làm ảnh hưởng lớn đến số thu ngân sách nhà nước.
Bảo đảm đơn giản, minh bạch, dễ hiểu, dễ thực hiện, tạo thuận lợi cho
người nộp thuế và góp phần thúc đẩy cải cách hành chính, hiện đại hoá công
tác quản lý thuế.
Việc sửa đổi, bổ sung Luật Thuế TNCN sẽ góp phần tăng tính cạnh
tranh so với các nước trong khu vực, các nước có điều kiện tương đồng với
Việt Nam, phù hợp với xu thế cải cách thuế và thông lệ quốc tế.
Nội dung sửa đổi, bổ sung lần này là: sửa đổi mức giảm trừ gia cảnh
(Điều 19 Luật Thuế TNCN), bảo đảm phù hợp với tốc độ tăng trưởng GDP
bình quân 5 năm đã đề ra (2009: 5,32%; năm 2010: 6,78%; 2011: khoảng
17
gần 6,0%; dự kiến các năm sau bình quân tăng khoảng 6,5% - 7%), không
gây khó khăn cho đời sống người nộp thuế; phù hợp với biến động về chỉ số
giá (CPI) trong giai đoạn từ năm 2009 – 2014 (dự kiến các năm sau CPI ở
mức dưới 2 con số) và chính sách, lộ trình cải cách tiền lương.
Sửa đổi biểu thuế lũy tiến từng phần (Điều 22 Luật thuế TNCN) để
khuyến khích người có trình độ kỹ thuật cao, năng lực điều hành giỏi ra sức
lao động; tăng tính cạnh tranh nội bộ quốc gia và quốc tế trong thu hút các
nhà quản lý, nhà khoa học, nhân lực, lao động có tay nghề cao vào Việt Nam
làm việc.
Sửa đổi, bổ sung phạm vi, đối tượng chịu thuế: bổ sung một số khoản
phụ cấp, trợ cấp không tính vào thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công
(điểm b khoản 2 Điều 3 Luật Thuế TNCN), nhằm bao quát được các khoản
phụ cấp, trợ cấp mới phát sinh theo quy định của các văn bản pháp luật về
lao động, về bảo hiểm xã hội ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung sau này; một
số khoản thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản (khoản 5 Điều 3 Luật
thuế TNCN); sửa quy định về miễn thuế đối thu nhập từ chuyển nhượng nhà
ở, đất ở duy nhất (khoản 2 Điều 4 Luật thuế TNCN), để khắc phục những
bất cập, hạn chế việc lợi dụng chính sách để trục lợi trong mua bán nhà đất,
bảo đảm chính sách đến đúng đối tượng cần thụ hưởng; điều chỉnh mức thuế

suất đối với thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoántrong trường hợp thị
trường chứng khoán có biến động lớn (quy định tại Điều 13, khoản 2 Điều
23 Luật thuế TNCN).
Sửa đổi quy định về quyết toán thuế và các nội dung quy định về quản
lý thuế (Điều 24 Luật thuế TNCN) để thuận lợi cho người nộp thuế và giảm
khối lượng phải quyết toán thuế không cần thiết, theo hướng cá nhân có thu
nhập chịu thuế có trách nhiệm kê khai, khấu trừ, nộp thuế vào NSNN và
quyết toán thuế theo quy định của Chính phủ.
6. Đề xuất khắc phục
Trong khi chờ Luật Thuế TNCN sửa đổi, bổ sung, để nâng cao hiệu
quả quản lý thu thuế TNCN cần tiếp tục thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến Luật Thuế TNCN
nhằm nâng cao trình độ hiểu biết, ý thức tuân thủ của người nộp thuế (đa
dạng hóa hình thức và phương pháp tuyên truyền); định kỳ tổ chức điều tra
trắc nghiệm, hội thảo, hội thi đối với người nộp thuế, cán bộ thu thuế đánh
giá mức độ hiểu biết về pháp luật thuế TNCN, nắm bắt được ý kiến nguyện
vọng của dân; xây dựng cơ chế tiếp thu ý kiến, thông tin phản hồi từ người
18
nộp thuế một cách phù hợp; tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng về chuyên
môn, nghiệp vụ thuế TNCN và kỹ thuật tuyên truyền cho các tuyên truyền
viên để họ làm tròn nhiệm vụ của một tuyên truyền viên tốt.
Hai là, kiện toàn tổ chức bộ máy thuế, chú trọng việc bồi dưỡng nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực của ngành thuế song song với việc tăng
cường cơ sở vật chất cho ngành thuế theo hướng hiện đại hóa công tác quản
lý thuế.
Ba là, đẩy mạnh hơn nữa việc đăng ký và cấp mã số thuế cá nhân, tiến
tới mỗi công dân đều có một mã số để theo dõi quản lý, không phân biệt có
thu nhập chịu thuế hay không có thu nhập chịu thuế. Chú trọng công tác
hướng dẫn, kiểm tra, tổ chức hệ thống thông tin dịch vụ kế toán, kê khai và
tính thuế. Đồng thời, có lộ trình triển khai thực hiện phù hợp, từng bước từ

đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, chia theo từng nhóm để quản lý.
Bốn là, phát huy hiệu quả cơ chế tự khai, tự nộp thuế TNCN. Thực
hiện triệt để cơ chế khấu trừ thuế TNCN tại nguồn trước khi chi trả thu nhập
cho cá nhân; hướng dẫn cụ thể đơn vị thực hiện khấu trừ thuế, có thể áp
dụng nguyên tắc tạm nộp trong năm thì tính theo thuế suất toàn phần, cuối
năm quyết toán theo biểu thuế suất lũy tiến từng phần; đối với thu nhập từ
tiền lương tiền công mang tính chất ổn định thì tính theo thuế suất lũy tiến
từng phần của biểu thuế; xác định rõ ràng trách nhiệm phải khấu trừ tiền
thuế cho đơn vị chi trả thu nhập, có tỷ lệ thù lao thích hợp hơn, có sự biểu
dương, khen thưởng… đối với những đơn vị thực hiện tốt trách nhiệm của
mình và xử lý kịp thời, nghiêm minh các đơn vị không thực hiện đúng trách
nhiệm.
Năm là, công tác thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm pháp luật thuế
TNCN cần được đẩy mạnh, đòi hỏi cơ quan thuế phải tập trung lực lượng
lớn vào việc tuyên truyền và thanh tra, kiểm tra việc chấp hành luật thuế. Cơ
quan thuế phải phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng như cơ quan
công an, cơ quan ngoại vụ, cơ quan quản lý lao động,… để nắm bắt kịp thời
thông tin về đối tượng nộp thuế, nguồn phát sinh thu nhập, có biện pháp
phân loại đối tượng nộp thuế thành các nhóm khác nhau để thanh tra, kiểm
tra một cách có hiệu quả.
Sáu là, cơ quan thuế cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng
của các ngành, các lĩnh vực có liên quan; trong đó, đề cao vai trò và thẩm
quyền của cơ quan thuế trong việc giám sát thu nhập, thanh tra, kiểm tra
thuế, xử lý vi phạm và cưỡng chế thuế. Với đặc trưng của thuế TNCN, trước
hết phải nói đến sự phối hợp giữa cơ quan thuế với Bảo hiểm xã hội, với
Ngân hàng và Kho bạc Nhà nước.
Bảy là, phát triển hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong toàn
bộ nền kinh tế quốc dân, hướng tới việc quản lý thu nhập của cá nhân qua hệ
19
thống ngân hàng, có như vậy mới có thể kiểm soát được thu nhập cá nhân,

đạt được mục tiêu thu đúng, thu đủ thuế TNCN cho ngân sách Nhà nước./.
20

×