QUẢN LÝ, SỬ DỤNG ĐẤT LÂM NGHIỆP VÀ NGUỒN LÂM SẢN NGOÀI GỖ Ở XÃ
HỒNG TRUNG, HUYỆN A LƯỚI,
TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
Ngô Tùng Đức, Hồ Đắc Thái Hoàng, Nguyễn Thị Hồng Mai, Nguyễn Văn Bình
Trường Đại học Nông Lâm Huế
TÓM TẮT
Mối quan hệ giữa sự thay đổi của hệ thống tài nguyên và sinh kế của cộng đồng chịu sự chi phối và tác động
của nhiều nhân tố bao gồm kinh tế xã hội và điều kiện tự nhiên. Các công cụ tiếp cận khung sinh kế bền
vững đã được nghiên cứu này sử dụng để phân tích việc sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên này. Kết quả
nghiên cứu phát hiện được rằng, cùng với sự tác động của hệ thống chính sách và đầu tư, cộng đồng và
người dân đã có sự thay đổi và thích nghi phù hợp tương ứng với từng giai đoạn phát triển. Diện mạo sinh kế
và hệ thống sản xuất dựa trên nền tảng sử dụng tài nguyên rừng và đất có sự chuyển biến rõ nét. Trên góc độ
tài nguyên rừng, lâm sản ngoài gỗ đã đóng vai trò khá quan trọng trong cuộc sống của người dân địa phương
từ trước cho đến nay, người dân đã tích lũy nhiều kinh nghiệm trong việc khai thác và sử dụng nguồn tài
nguyên rừng. Tuy nhiên việc khai thác và sử dụng theo hướng bảo tồn và phát triển bền vững vẫn chưa được
quan tâm từ cả 2 góc độ người dân và chính quyền địa phương. Từ góc độ tài nguyên đất, cùng với sự hỗ trợ
của Đảng, Nhà nước và các tổ chức phi chính phủ việc sử dụng và phát triển tài nguyên đất đã có thay đổi
đáng kể. Cơ cấu cây trồng có năng suất và giá trị kinh tế thấp đã dần được thay thế. Đặc biệt hoạt động sử
dụng đất cho sản xuất lâm nghiệp đã có bước khởi sắc rõ nét sau hoạt động quy hoạch sử dụng đất và giao
đất lâm nghiệp. Những điều này đã nói lên được sự lựa chọn và thích ứng của hộ gia đình và cộng đồng
trong quản lý và sử dụng tài nguyên. Kết quả nghiên cứu chỉ rõ những hạn chế cần phải được giải quyết,
trong đó năng lực và nhận thức của người dân cũng như vai trò của các bên liên quan đáng được quan tâm.
Từ khóa: Giao đất, lâm sản ngoài gỗ, năng lực thích ứng, người Pa Cô, quy hoạch sử dụng đất, nguồn lực
sinh kế
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Người dân miền núi đã có cơ hội tiếp cận đến rừng và đất rừng cho việc thực hiện các hoạt động sản
xuất và sinh kế từ rất lâu. Sự phát triển của xã hội và sinh kế của con người đòi hỏi phải tác động và
sử dụng đến tài nguyên nói chung, đặc biệt là tài nguyên rừng và đất rừng. Những hoạt động này
làm tài nguyên rừng và đất rừng ở Việt nam suy thoái và không thể phát huy tiềm năng sản xuất
trong nhiều năm trước 1990. Các hoạt động chính trong lĩnh vực lâm nghiệp ở giai đoạn này là khai
thác rừng tự nhiên. Đất trống và đồi núi trọc chưa được người dân địa phương nhận thức là nguồn
tài nguyên quan trọng cho việc tái sinh phục hồi rừng để nâng cao độ che phủ, tạo thu nhập cho
cộng đồng và hộ gia đình.
Song song với sự phát triển của hệ thống xã hội, các chính sách phát triển cộng đồng cư dân miền
núi nói chung và lâm nghiệp nói riêng cũng được phát triển và hoàn thiện từng bước. Tuy nhiên
trong lĩnh vực lâm nghiệp, đến đầu những năm 1990 những hệ thống chính sách hỗ trợ và cách tiếp
cận mới mới được phát triển. Những nguyên lý cơ bản được cân nhắc trong giai đoạn này là việc
chuyển từ nền lâm nghiệp truyền thống sang nền lâm nghiệp xã hội thông qua việc đẩy mạnh hoạt
động giao đất rừng, quan tâm đến quyền và lợi ích của hộ gia đình và cộng đồng. Đồng thời chuyển
từ sự quản lý tập trung và lập kế hoạch của nhà nước sang hình thức phân quyền quản lý và lập kế
hoạch có sự tham gia của cộng đồng và hộ gia đình cư dân địa phương. Đặc biệt là việc chuyển từ
việc khai thác và sử dụng rừng tự nhiên sang việc tạo rừng, bảo vệ rừng và bảo tồn đa dạng sinh
học; cũng như nâng cao năng lực và hiệu quả của các cơ quan lâm nghiệp từ trung ương đến địa
phương đã được triển khai thực hiện.
Tuy nhiên trong bối cảnh sự phát triển của hệ thống chính sách, sự thay đổi về hệ thống tài nguyên
thì việc sử dụng các sản phẩm từ rừng tự nhiên và sản xuất trên đất lâm nghiệp của cộng đồng và
người dân vùng đồi núi chịu sự chi phối của nhiều nhân tố trên tất cả các phương diện về điều kiện
tự nhiên, nguồn lực xã hội, nguồn lực về tài chính và vật chất, cũng như nguồn nhân lực của gia
đình. Việc nghiên cứu mối quan hệ này để xác định bản chất của sự thay đổi và thích ứng của cộng
đồng và người dân đòi hỏi phải có cách nhìn toàn diện và sâu rộng, mà điều này vẫn chưa được xem
xét một cách tỷ mỷ trong các nghiên cứu cho các cộng đồng miền núi Thừa Thiên Huế nói chung và
xã Hồng Trung nói riêng, nơi mà điều kiện tự nhiên cũng như kinh tế xã hội có những đặc thù rất
riêng và phần nào đang phải đối phó với những khó khăn; các nguồn lực về sinh kế thấp và ràng
buộc bởi những đặc điểm văn hoá vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu. Đó cũng là cơ sở quan
trọng mà nghiên cứu này sử dụng để xây dựng ý tưởng và sử dụng phương thức tiếp cận khung
phân tích sinh kế bền vững để nghiên cứu và đánh giá về việc thích ứng của người dân Hồng Trung
trong việc quản lý là sử dụng tài nguyên rừng và đất rừng.
Nghiên cứu này tập trung giải quyết 3 mục tiêu cơ bản sau:
- Đánh giá khái quát nguồn lực liên quan đến sinh kế của người dân và cộng đồng đứng trên
phương diện phát triển nông lâm nghiệp.
- Đánh giá mối quan hệ giữa nguồn tài nguyên lâm sản ngoài gỗ (LSNG) với sinh kế của hộ gia
đình và các vấn đề liên quan đến phát triển và bảo tồn nguồn tài nguyên này.
- Phân tích diễn biến cũng như các lựa chọn trong sử dụng đất lâm nghiệp của cộng đồng và hộ
gia đình trong bối cảnh sự thay đổi của hệ thống tài nguyên, chính sách và tác động của cơ chế
thị trường.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Tiến trình, nội dung và phương pháp nghiên cứu
Dựa trên mục tiêu nghiên cứu đã được xác định, tiến trình, nội dung và phương pháp để thực hiện
nghiên cứu này được mô hình hoá ở sơ đồ 1.
2.2. Phân tích số liệu
Nghiên cứu này sử dụng kết hợp phương pháp định tính và định lượng để phân tích số liệu. Phân
tích thống kê mô tả sẻ được áp dụng để đánh giá các giá trị và sự thích hợp của các nhân tố trong
nội dung nghiên cứu. Các kết quả sẽ được thể hiện dưới dạng các bảng, biểu đồ và các dạng thông
tin định tính khác. Đặc biệt việc sử dụng cách tiếp cận đa nhân tố sẽ được cận nhắc áp dụng trong
quá trình phân tích và thảo luận các kết quả thu được.
Tiến trình Nội dung Phương pháp
Đi hiện trường
Thôn 1
Thôn 2
Thôn n
-
T
ổ
ng quan các nghiên c
ứ
u đ
ã
được tiến hành trước đây liên
quan đến chủ để nghiên cứu
-
Th
ả
o lu
ậ
n v
ớ
i lãnh
đ
ạ
o xã và thôn
- Sử dụng ma trận tiêu chí để lựa
ch
ọ
n
-
Nghiên c
ứu về các nguồn lực tự
nhiên và xã hội
Tư liệu hoá
-
Làm vi
ệ
c v
ớ
i lãnh
đ
ạ
o xã và
thôn
-
Xác đ
ị
nh tiêu chí và ch
ọ
n m
ẫ
u
-
Thu th
ậ
p s
ố
li
ệ
u th
ứ
c
ấ
p
- Tổng hợp và thảo luận
-
T
ổ
ng h
ợ
p các thông tin
tư các
báo cáo
- Khảo sát thực tế
-
Ph
ỏ
ng v
ấ
n
-
Nghiên c
ứu về l
ư
ợc sử các vấn
đề liên quan đến sinh kế cộng
đồng và hộ gia đình
- Nghiên cứu các chính sách, dự
án liên quan đến sinh kế và quản
lý tài nguyên
-
Th
ả
o lu
ậ
n nhóm
- Khảo sát thực tế
- Phỏng vấn
- Hội thảo với các bên liên
quan
-
Xác đ
ịnh mối quan hệ giữa sinh
kế hộ gia đình với tài nguyên
LSNG
- Đánh giá thực trạng sử dụng và
quản lý đất lâm nghiệp của hộ gia
đình cũng như các yếu tố ảnh
hưởng.
H
ộ
i th
ả
o c
ấ
p
xã
- Báo cáo kết quả nghiên cứu
- Thu nhận các góp ý của các bên
liên quan
- Xác định các vấn đề chính cần
chỉnh sửa
-
Vi
ết báo cáo t
ương
ứng với
từng nội dung nghiên cứu
-
H
ọ
p thôn, h
ộ
i th
ả
o c
ấ
p xã và
các bên liên quan để:
+ Trình bày kết quả nghiên cứu
+ Thảo luận nhóm
-
T
ổ
ng h
ợ
p, ki
ể
m tra, x
ử
lý s
ố
liệu và viết báo cáo
Hoàn thi
ệ
n
báo cáo cuối
cùng
Sơ đồ 1. Tiến trình, nội dung và phương pháp nghiên cứu
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Khái quát đặc điểm nguồn lực tự nhiên và kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu
Là một xã vùng núi phía Tây tỉnh Thừa Thiên Huế, Hồng Trung nằm về phía Tây Bắc và cách trung
tâm thị trấn A Lưới khoảng 13km. Toàn xã tổ chức thành 6 thôn: Ta ay, A Niêng, Lê Triêng 1, Lê
Triêng 2, Ta và Đụt, với tổng diện tích tự nhiên là 6.791ha. Độ cao trung bình địa hình của xã
khoảng 500m so với mặt nước biển, trải dài dọc theo đường Quốc lộ 49B (đường Hồ Chí Minh), đồi
núi chiếm 94,45% diện tích đất tự nhiên toàn xã. Địa hình lòng chảo, cao dần về phía Đông Bắc và
Tây Nam và bị chia cắt bởi 7 con suối nhỏ, chảy vào sông Alin, thuận lợi cho việc xây dựng các
công trình thuỷ lợi và hệ thống nước tự chảy. Đặc biệt hai dãy núi lớn Co Bung và Tiên Công tạo
một thung lũng dài và hẹp, dân cư tập trung chủ yếu dọc tuyến đường 49B. (UBND huyện A Lưới,
2004).
Theo thông tin cung cấp của UBND huyện A lưới (2004), có 5 loại đất chính tại địa bàn xã Hồng
Trung: Đất vàng nhạt trên đất cát (Fp), 5.676ha); Đất phù sa không được bồi đắp hàng năm (Pk),
667ha; Đất feralit đỏ vàng trên đất sét (Fe), 210ha; Đất nâu vàng trên dốc tụ (F), 186ha; và mặt
nước sông suối, 32ha.
Cư dân định cư thành cụm tại Hồng trung từ năm 1976 do sự di chuyển của nhóm ngưới Pakô du
canh du cư dọc biên giới Lào – Việt theo chính sách định canh định cư. Hiện nay, toàn xã có 362
hộ, 1.719 khẩu và 783 lao động. Trong đó người dân tộc Pakô có 352 hộ, 1.423 nhân khẩu, chiếm
99% dân số của xã. Mặc dù theo đánh giá chung của UBND huyện, tình hình đời sống của nhân dân
ngày càng được cải thiện và đi lên, tình trạng đói giáp hạt triền miên không còn diễn ra. Tỷ lệ hộ
nghèo của xã vẫn còn tương đối cao, chiếm 62,5% tổng số hộ trong xã (Nghèo: 234 hộ; TB: 110 hộ;
Khá: 26 hộ). (UBND xã Hồng Trung, 2006).
Kinh tế hộ của đồng bào chủ yếu dựa vào sản xuất
nông nghiệp (chiếm 95% tổng số hộ). Thế mạnh
của xã là điều kiện tự nhiên và đất đai phù hợp cho
phát triển trồng trọt và chăn nuôi, diện tích đất lâm
nghiệp lớn có thể trồng cây đặc sản và phát triển
trồng cây công nghiệp, rừng kinh tế. Song do việc
bố trí cơ cấu cây trồng chưa hợp lí, thiếu trình độ
canh tác trong trồng trọt và chăn nuôi, sản xuất
mang tính tự cung tự cấp. Bình quân lương thực
đầu người của xã Hồng Trung thấp so với các
xã trong huyện A Lưới (243,8kg/người/năm).
Thu nhập chính của người dân chủ yếu từ cây
sắn, chuối, ngô; một số hộ có thu nhập từ cà phê,
nuôi cá và chăn nuôi bò để giải quyết cuộc sống
hàng ngày, ngoài ra đồng bào hầu như không có
nguồn thu nhập nào khác cho nên mức thu nhập của
các hộ nhìn chung chưa cao
(1.950.000đ/người/năm). Một số đặc trưng về tỷ
lệ hộ và lao động được thể hiện chi tiết ở biểu đồ
1 (UBND xã Hồng Trung, 2006).
3.2. Mối quan hệ giữa tài nguyên lâm sản ngoài gỗ (LSNG) với cuộc sống của người dân
3.2.1. Tầm quan trọng của LSNG đối với cuộc sống và thu nhập của hộ gia đình
93.9
1.1
3.9
1.1
95.2
0.8
3.3
0.6
0.0
20.0
40.0
60.0
80.0
100.0
120.0
Hộ nông, ngư
nghiệp
Hộ tiểu thủ
công nghiệp
Hộ dịch vụ,
thương mại
Hộ khác
Loại hộ
T ỷ lệ ( % )
Tỷ lệ hộ Tỷ lệ lao động
Biểu đồ 1. Đặc thù lao động xã
Hồng Trung
Kể từ ngày định cư cho đến nay, cuộc sống và sản xuất của người dân có những chuyển biến nhất
định từ trồng trọt đến chăn nuôi cũng như mức độ phụ thuộc cuộc sống của họ vào rừng. Có thể
khái quát sự thay đổi mức độ đóng góp của các nguồn sinh kế đó thông qua biểu đồ 2 và 3.
Qua biểu đồ 3 cho thấy, cơ cấu thu nhập của các hộ gia đình ở các giai đoạn khác nhau cũng có
những thay đổi nhất định. Trong đó nguồn thu từ trồng trọt vẫn chiếm tỷ lệ cao từ 50 - 60% tổng thu
nhập. Nguồn thu từ các LSNG cũng chiếm tỷ lệ khá cao ở giai đoạn khi người dân mới định cư về
đây, chiếm 40% trong cơ
Biểu đồ 2. Cơ cấu thu nhập của hộ gia đình
Biểu đồ 3. Vai trò của các nhóm LSNG
cấu thu nhập của hộ gia đình. Bởi vì ở giai đoạn này, do sản xuất chưa phát triển nên nguồn lương
thực, thực phẩm từ nương rẫy vẫn chưa thể đáp ứng nhu cầu thiết yếu của họ, hơn nữa thói quen
phụ thuộc vào tài nguyên có sẳn vẫn tồn tại trong phần lớn bộ phận người dân, nên việc thu hái các
sản phẩm từ rừng là một giải pháp sinh tồn. Ngày nay, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật,
người dân đã có nhiều cơ hội và lựa chọn trong phát triển sản xuất để cung cấp cho hoạt động sống
của mình, trong khuôn khổ chính sách quản lý và hạn chế khai thác của nhà nước (1990), LSNG
chiếm khoảng 10% tổng thu nhập hộ gia đình. Vậy, LSNG đã và vẫn đang cung cấp lương thực,
thực phẩm khi cần thiết trong điều kiện thiếu chợ và trong các thời điểm đói giáp hạt của người dân
xã Hồng Trung.
50
10
40
55
20
25
60
30
10
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
Tỷ lệ %
1976 1990 2006
Năm
Trồng trọt Chăn nuôi LSNG
0
1
2
3
4
5
6
Năm
Mức độ q uan trọng
Chăn nuôi
1 5
Dược liệu 3 2
Làm nhà
4 3
Lương thực, t hực phẩm
5 4
Thủ công mỹ nghệ
2
2
1976 2006
Kết quả điều tra cho thấy, LSNG đóng vai trò quan trọng đối với người dân sống gần rừng như xã
Hồng Trung. Tuy nhiên mức độ quan trọng của từng nhóm LSNG đối với các hộ gia đình và cộng
đồng cũng có sự khác nhau tương ứng với từng thời điểm. Điều đó phụ thuộc vào nhiều tiêu chí,
chẳng hạn như: giá trị bán tiền mặt cho gia đình, giá trị sử dụng cho gia đình, mức độ khó trong
khai thác, thời gian khai thác trong năm, giai đoạn khi trử lượng còn nhiều so với hiện tại… Qua
biểu đồ 4 cho thấy sự thay đổi đáng kể về tầm quan trọng của nhóm sản phẩm phục vụ chăn nuôi
giai đoạn năm 1976 và hiện tại. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với sự phát triển trong lĩnh vực
chăn nuôi hiện tại của các hộ gia đình và cộng đồng. Chăn nuôi hiện tại đã được người dân chú ý
đầu tư phát triển, nó là nguồn thu nhập khá chính về tiền mặt cho gia đình. Sau sản phẩm phục vụ
chăn nuôi là nhóm lương thực, thực phẩm. Mức độ quan trọng của nhóm dùng làm vật liệu làm nhà
và cây dược liệu phần nào thấp hơn trước. Trong khi đó các vật liệu làm thủ công mỹ nghệ vẫn giữ
nguyên tầm quan trọng trong cuộc sống gia đình.
3.2.2. Thực trạng quản lý, sử dụng và phát triển tài nguyên LSNG
Qua thảo luận nhóm đã xác định được thực trạng quản lý, sử dụng và phát triển nguồn tài nguyên
này như sau:
- Nguồn tài nguyên về LSNG tại địa bàn nghiên cứu đa dạng, tuy nhiên vấn đề về quy hoạch bảo
tồn vẫn chưa được quan tâm. Đặc biệt trữ lượng đang ngày càng ít đi nên giá cả và thị trường
thường không ổn định và chưa phát triển. .
- Người dân ít hiểu biết về thị trường, các sản phẩm được bán dưới dạng sản phẩm thô nên phần giá
trị tăng thêm hầu như không có; đặc biệt không thể cất trử thời gian dài.
- Việc sản xuất, chế biến các sản phẩm truyền thống từ LSNG vẫn chưa phát triển đã làm gián đoạn
mối quan hệ giữa thị trường và thu nhập từ hoạt động này.
- Trong các tổ chức liên quan đến quản lý, khai thác và buôn bán LSNG (09 tổ chức), vai trò của
Hạt kiểm lâm được thể hiện khá rõ trong việc giám sát việc khai thác Mây trên địa bàn. Tuy nhiên
các loại LSNG khác thì việc quản lý vẫn chưa có chính sách cụ thể.
3.3. Thực trạng, diễn biến sử dụng và phát triển tài nguyên đất của hộ gia đình và cộng đồng
3.3.1. Hiện trạng sử dụng đất của cộng đồng và hộ gia đình
Hồng Trung có tổng diện tích đất tự nhiên là 6.791ha. Trong đó đất nông lâm nghiệp là 4.177ha,
chiếm tỷ lệ 61,5%, nhưng chủ yếu là đất lâm nghiệp (3.984ha); Đất đang sản xuất nông nghiệp chỉ
có 193,7ha, chiếm 2,8% diện tích đất tự nhiên. Đất nông nghiệp nằm tập trung dọc theo đường
Quốc lộ 49 và ven chân núi. Đất chưa sử dụng chiếm tỷ lệ rất cao, khoảng 36% (2.430ha) nhưng
chưa được khai hoang mở rộng diện tích để sản xuất nông lâm nghiệp.
Trong phần diện tích đất phục vụ cho hoạt động sản xuất nông nghiệp bao gồm đất để trồng lúa (lúa
nước và lúa cạn), đất trồng cây hàng năm và đất trồng cây lâu năm. Nếu xét trên bình diện chung,
diện tích trung bình từng loại đất này cho từng hộ gia đình dao động trong khoảng 600-1200m2.
Tuy nhiên do đặc thù về vị trí địa lý và số lượng hộ trong thôn nên cũng có sự khác nhau tương đối
về diện tích giữa các thôn trong xã, điều đó được thể hiện ở biểu đồ 4 và biểu đồ 5.
Biểu đồ 4. Diện tích đất nông nghiệp bình quân
Biểu đồ 5. Diện tích đất lâm nghiệp bình quân
Với lợi thế về mặt địa hình và hệ thống khe suối, diện tích lúa nước ở thôn Lê Triêng 1 và Lê
Triêng 2 có tổng diện tích (Lê Triêng 1 có 6,5ha và Lê Triêng 2 có 13ha so với 29,2 ha tổng diện
tích lúa nước của xã) cũng như diện tích bình quân hộ cao hơn so với các thôn và hộ khác trong xã.
Trong khi đó thôn Đụt là thôn có lợi thế về diện tích ao cá, diện tích hồ nuôi trung bình của các hộ
khoảng 700m
2
. Ngược lại, biết tận dụng lợi thế về đất đồi nên diện tích đất bình quân phục vụ cho
trồng hoa màu và lúa rẫy ở thôn Ta Ay và Thôn Ta lại chiếm tỷ lệ cao hơn so với các thôn khác.
Diện tích đất vườn nhà của các hộ gia đình giao động từ 1000-1500m
2
phụ thuộc vào thời điểm định
cư và số nhân khẩu trong gia đình.
Đối với diện tích lâm nghiệp, các hộ gia đình ở xã Hồng Trung đã được giao đất và giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất (sau khi quy hoạch năm 2004 dưới sự tài trợ của dự án SNV). Tuy nhiên,
những phần đất được giao này dựa trên những phần đất trước đây gia đình đã khai hoang để canh
tác vườn đồi và 1 phần đất từ lâm trường A Lưới do đó cũng có sự chênh lệch diện tích khá rõ giữa
các hộ gia đình, đặc biệt là những hộ gia đình mới tách hộ sau này. Những hộ có lao động và định
cư trước cũng như có tham gia trồng rừng của lâm trường A Lưới thì diện được được giao có những
0
500
1000
1500
2000
2500
Diệ n tích bình quân hộ (m2)
Lúa nước
623 1175 1269 1317 1468 1194
Lúa rẫy
1600 2000 2200 600 800 1600
Hoa màu
1100 1200 700 600 300 600
Ao hồ
300 300 500 600 400 700
Vườn nhà
1445 1455 1159 927 1294 1177
Ta ay Ta A Niêng
Lê Triêng
1
Lê Triêng
2
Đụt
2.25
2.57
1.67
1.55
1.96
1.82
0.00
0.50
1.00
1.50
2.00
2.50
3.00
Ta ay Ta A Niêng Lê Triêng
1
Lê Triêng
2
Đụt
Thôn
D iệ n tí c h b ì n h q uâ n tr ê n h ộ (h a )
hộ lên đến 10ha. Trong khi đó vẫn còn khoảng 15% hộ gia đình trong xã vẫn không được giao đất
để phục vụ cho hoạt động sản xuất lâm nghiệp. Diện tích đất lâm nghiệp được giao bình quân của
các hộ khoảng 2ha. Thôn Ta là thôn có diện tích trung bình trên hộ là cao nhất và ngược lại thôn có
diện tích đất lâm nghiệp được giao trung bình thấp nhất là thôn Lê Triêng 1.
3.3.2. Diễn biến sử dụng và phát triển tài nguyên đất cấp xã và hộ gia đình
3.3.2.1. Diễn biến sử dụng đất ở cấp xã
Để thấy được sự thay đổi trong việc sử dụng đất cấp xã, nhóm nghiên cứu đã sử dụng các số liệu sử
dụng đất 5 năm trở lại đây của xã tương ứng với các loại đất theo mục đích sử dụng, kết quả được
khái quát ở biểu đồ dưới đây:
Biểu đồ 6. Diễn biến
diện tích đất theo mục
đích sử dụng (2000 –
2005)
Qua biểu đồ 6 cho
thấy, các loại đất phục
vụ cho sản xuất và
sinh hoạt cộng đồng
đều có xu hướng tăng
so với năm 2000. Đặc
biệt trong đó đất phục
vụ cho trồng rừng sản
xuất và đất trồng lúa
có sự thay đổi rõ rệt.
Đất rừng sản xuất tăng
rõ kể từ sau quy hoạch
năm 2004, diện tích trồng lúa tăng do việc tận dụng tốt các vùng đất dọc suối kết hợp với việc đầu
tư hệ thống thuỷ lợi. Các phần đất bằng chưa sử dụng, đặc biệt là đất đồi núi chưa sử dụng được tận
dụng triệt để để đưa vào sản xuất. Trong đó đất bằng chưa sử dụng được tận dụng để phục vụ trồng
lúa nước, cây hàng năm, đất ở và đất chuyên dùng. Còn đất đồi chưa sử dụng được tận dụng để
trồng lúa khô, quy hoạch đồng cỏ và phục vụ trồng rừng sản xuất.
Đối việc sử dụng đất lâm nghiệp, ngoài những diện tích rừng tự nhiên có sẳn (5.037,1 ha) thì trong
những năm trước khi quy hoạch và giao đất, thông qua hoạt động trồng rừng của Lâm trường A
Lưới và của hộ gia đình, 422ha rừng cũng đã được trồng (keo, quế, trẩu). Trong đó Lâm trường A
Lưới đóng vai trò quan trọng, diện tích trồng rừng của Lâm trường trên địa bàn xã lên đến 391,3ha.
Những diện tích này cũng đã được giao lại cho hộ gia đình và cộng đồng sau khi quy hoạch sử dụng
đất năm 2004. Đồng thời một diện tích khá lớn về đất phục vụ cho trồng rừng sản xuất cũng đã
được quy hoạch. Phần diện tích này đã được giao theo hình thức sổ đỏ cộng đồng (242,3ha).
3.3.2.2. Diễn biến sử dụng đất lâm nghiệp ở cấp hộ gia đình
Khi được định cư ở xã Hồng Trung, ngoài những phần đất đất ở, vườn nhà và đất lúa nước được
cấp cho các hộ, các hộ đã chủ động trong việc khai hoang các diện tích đất đồi để canh tác hoa màu
(cây hàng năm). Diện tích khai hoang phụ thuộc vào năng lực của từng hộ, do đó cũng có sự chênh
lệch khá rõ giữa hộ các hộ có nhiều lao động và hộ có ít lao động. Những diện tích khai hoang này
được người dân trồng các loại cây như: sắn, ngô, lúa cạn, chuối, dứa, với giá trị thấp và chủ yếu
phục vụ cung cấp lương thực cho gia đình. Việc trồng các loài cây ăn quả có giá trị, cây công
nghiệp và cây rừng vẫn chưa phải là lựa chọn của các hộ trong giai đoạn này. Đến thời điểm quy
hoạch sử dụng đất và giao đất năm 2004, có khoảng 30,7ha đất được người dân trồng cây keo, quế
và trẩu (keo: 16,9ha; quế: 5,2ha; trẩu: 8,6ha).
Việc quy hoạch sử dụng đất và giao đất cho các hộ gia đình được tiến hành vào năm 2004 dựa trên
cơ sở những diện tích khai hoang của các hộ gia đình và một phần đất từ rừng của Lâm trường A
Lưới. 317 hộ gia đình ở trên địa bàn xã đã được giao 618,15ha. Tổng diện tích cho các hộ tính theo
thôn được thể hiện ở biểu đồ 7.
612
-65.06
54.2
0.5
31.5
3.25
3.46
-630.7
-800
-600
-400
-200
0
200
400
600
800
Đất trồng lúa
Đất cỏ chăn
nuôi
Đất trồng cây
hàng năm
Đất rừng sản
xuất
Đất ở nông
thôn
Đất có mục
đích công
cộng
Đất bằng chưa
sử dụng
Đất đồi núi
chưa sử dụng
Loại đất theo mục đích sử dụng
Diện tích biến động (ha)
Biểu đồ 7. Diện tích đất lâm nghiệp được giao tương ứng với từng thôn
Qua biểu đồ ta thấy, thôn có diện tích được giao lớn nhất là thôn Lê Triêng 2, và thôn có diện tích
được giao nhỏ nhất là thôn Đụt. Sở dĩ diện tích đất lâm nghiệp được giao có sự chênh lệch đáng kể
giữa các thôn ngoài vấn đề về số hộ thì đặc điểm về địa lý và địa hình cũng là yếu tố chi phối đáng
kể. Trong tổng diện tích được giao tính cho toàn xã là 618,15ha có khoảng 245,6ha là đất có từ
nguồn gốc khai hoang của hộ gia đình, phần còn lại là từ đất rừng của Lâm trường. Có đến 112 hộ
nhận đất là có phần đất từ rừng của Lâm trường. Phần lớn những diện tích này hiện tại vẫn còn
rừng, nên những phần nào thuộc rừng phòng hộ thì người dân tiếp tục quản lý bảo vệ và hưởng lợi
theo quyết định 178/QĐ-TTg. Những phần nào thuộc rừng sản xuất thì Lâm trường sẽ khai thác và
bàn giao lại đất cho hộ. Tuy nhiên công tác này vẫn còn tiến hành rất chậm nên rất nhiều hộ gia
đình vẫn chưa sử dụng được những phần đất này.
Bảng 1. Các mô hình canh tác trên đất lâm nghiệp được giao và các đặc điểm liên quan
Mô hình
Di
ệ
n
tích
(ha)
S
ố
hộ
Ngu
ồ
n
đầu tư
Ghi chú
M
ỡ
+ Keo
(70% + 30%)
18,235
27
D
ự
án
SNV
M
ậ
t đ
ộ
1300 cây; Phân 1,3 t
ạ
;
Tiền: 1,4 triệu đồng.
Thông + Keo
(70% + 30%)
7,17
8
D
ự
án
SNV
M
ậ
t đ
ộ
: 2500 cây; Phân: 2,5 t
ạ
;
Tiền: 1,4 triệu đồng.
Tre + M
ỡ
+ Dó
(50% + 50%)
29,76
25
D
ự
án
SNV
M
ậ
t đ
ộ
2500 cây (M
ỡ
+ Dó) +
300 cây tre; Phân 2,8 tạ; Tiền:
1,4 triệu đồng
Keo + Dó
(Keo: 1500; Dó:
100)
30
42
D
ự
án
ADB
M
ậ
t đ
ộ
1600 cây (Keo: 1500;
Dó: 100); Phân 1,5 tạ; Tiền 1,6
triệu đồng
Keo thu
ầ
n
70
66
T
ự
b
ỏ
vốn
M
ậ
t đ
ộ
1650; đ
ầ
u tư 1
tri
ệ
u
đồng/ha.
(Nguồn: Họp thôn kết hợp điều tra phỏng vấn, 2007)
Kể từ khi được giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, các hộ gia đình đã yên tâm và
có định hướng đầu tư trên phần đất của mình. Các hộ gia đình đã có bước chuyển đổi cây trồng và
quan tâm phát triển lâm nghiệp trên diện tích đất này. Nguồn lực đầu tư, loại hình cây trồng trên
diện tích đất lâm nghiệp được giao được thể hiện qua bảng 1.
Mặc dù các hộ gia đình trên địa bàn xã đều nhận thức được hiệu quả kinh tế mang lại từ việc nếu
đầu tư trồng cây lâm nghiệp và cây công nghiệp trên đất được giao. Tuy nhiên do điều kiện kinh tế
thấp, thiếu vốn đầu tư cũng như chưa tin tưởng và am hiểu về thị trường nên hoạt động này vẫn
chưa được người dân quan tâm trong những năm trước 2004. Nhưng trong 3 năm trở lại đây, sau
khi đã được giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đã tạo nên tâm lý yên tâm cho các hộ
gia đình, đặc biệt là sự đầu tư và hỗ trợ của các dự án phát triển lâm nghiệp về kiến thức và nguồn
135.19
105.19
73.51
106.84
135.41
62.01
82.80
57.70
23.65
80.30
92.10
36.00
0.00
20.00
40.00
60.00
80.00
100.00
120.00
140.00
160.00
Ta ay Ta A Niêng Lê Triêng 1 Lê Triêng 2 Đụt
Thôn
Diện tích (ha)
Tổng diện tích được giao Đất từ lâm trường
lực đã thúc đẩy việc quan tâm và phát triển lâm nghiệp của các hộ gia đình. Ngoài việc đầu tư của
các dự án SNV, dự án ADB, các hộ gia đình cũng đã chủ động sử dụng nguồn lực của hộ gia đình
trong đầu tư trồng rừng. Các loại mô hình sử dụng đất cũng thể hiện tương đối đa dạng trên các
phương diện kỹ thuật và mức độ đầu tư (bảng 1). Tuy nhiên đối với các hộ tự bỏ vốn trồng rừng thì
mô hình điển hình vẫn là cây keo, phân bón vẫn chưa được sử dụng để trồng rừng theo hình thức
thâm canh. Nhưng điều thú vị ở đây là nhiều hộ gia đình đã chủ động tạo nguồn giống thông qua hệ
thống vườn ươm tự thiết kế của hộ và nhóm hộ.
IV. KẾT LUẬN
Mối quan hệ giữa sự thay đổi của hệ thống tài nguyên và sinh kế của cộng đồng trong bối cảnh sự
thay đổi của chính sách và cơ chế thị trường là một trong những vấn đề phức tạp. Sự thích ứng của
người dân địa phương chịu sự chi phối của nhiều nhân tố bao gồm cả nguồn lực tự nhiên, nguồn lực
xã hội, nguồn lực con người, nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất. Việc sử dụng tài nguyên
rừng và đất lâm nghiệp của cộng đồng và người dân Hồng Trung cũng không nằm ngoài bối cảnh
đó. Điều này được thể hiện thông qua mấy quan điểm chính dưới đây:
- Việc tiếp cận đến rừng và đất rừng của cộng đồng và người dân địa phương đã có lịch sử từ
lâu đời. Đó là nguồn tài nguyên đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống và sinh hoạt của họ từ vấn
đề nơi ở, môi trường sống đến cung cấp các nhu yếu phẩm của họ từ xa xưa cho đến nay. Nên việc
ngăn chặn sự tác động luôn phải đi kèm với các giải pháp hỗ trợ về phát triển sinh kế, duy trì và
phát huy những nét văn hoá truyền thống với sự phát triển của hệ thống kinh tế xã hội.
- Tài nguyên rừng và đất lâm nghiệp là một thế mạnh và chiếm diện tích lớn ở xã (trên 90%
tổng diện tích). Nguồn tài nguyên này đã đóng góp khá quan trọng trong cuộc sống của người dân,
đặc biệt là LSNG. Khai thác LSNG để cung cấp lương thực thực phẩm, sử dụng để chăn nuôi, vật
liệu để làm nhà và thủ công mỹ nghệ là những giải pháp được người dân lựa chọn phù hợp với
từng thời điểm cụ thể. Cùng với sự phát triển của hệ thống xã hội, người dân đã có nhiều lựa chọn
và cơ hội trong phát triển sinh kế thì tính độc lập tương đối của người dân vào nguồn tài nguyên này
cũng ngày một nâng lên. Nhưng vấn đề khai thác đứng trên quan điểm bảo tồn vẫn chưa thực sự
được nhận thức trong tâm trí người dân. Thiết nghĩ, việc quản lý và phát triển nguồn tài nguyên này
thông qua việc quy hoạch vùng khai thác, quy định tiêu chuẩn và cách thức khai thác, xây dựng các
mô hình phục hồi, phát triển hệ thống ngành nghề và tìm kiếm thị trường là những việc cần được ưu
tiên trong quá trình hoạch định chính sách quản lý và sử dụng nguồn tài nguyên này ở cấp độ địa
phương.
- Công tác QHSD đất và GĐLN đã có những tác động nhất định đến tâm lý và định hướng
đầu tư của người dân. Ngoài sự hỗ trợ từ phía các chương trình dự án, người dân cũng đã chủ động
trong việc tự đầu tư phát triển trên mảnh đất của mình. Tuy nhiên, khả năng đầu tư cũng chỉ mới tập
chủ yếu vào các hộ có điều kiện kinh tế (hộ TB và hộ khá). Các hộ có điều kiện kinh tế thấp thì việc
đầu tư phát triển trên đất lâm nghiệp vẫn còn rất nhiều hạn chế, hệ thống cây trồng có giá trị kinh tế
thấp vẫn được sử dụng khá phổ biến trên những diện tích này với mục đích giải quyết vấn đề lương
thực cho hộ gia đình. Thậm chí ngay cả những hộ có điều kiện để đầu tư trồng rừng thì cũng dừng
lại mở mức mua cây giống và tận dụng lao động gia đình. Việc đầu tư thâm canh như bón phân và
chăm sóc hàng năm vẫn chưa được quan tâm. Với thực tế này thiết nghĩ cần phải có sự tác động từ
các ban ngành liên quan trên cả các phương diện như: kỹ thuật, nguồn vốn, thông tin để tạo động
lực và lòng tin thật sự cho cộng đồng và các hộ gia đình có cơ hội và mạnh dạn đầu tư phát triển
nguồn tài nguyên đất quan trọng này. Đặc biệt vấn đề về lựa chọn loài cây, hướng dẫn về mặt kỹ
thuật, tìm kiếm và tư vấn thì trường là những vấn đề nên được đặt lên ưu tiên hàng đầu trong tư vấn
và hỗ trợ cho người dân. Bởi vì đây là mắt xích quan trọng của việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất
và nâng cao sinh kế hộ gia đình trong mối quan hệ của sự phát triển bền vững.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DFID (Bộ phát triển Quốc tế Vương quốc Anh) (1998). Phương pháp Sinh kế bền vững.
FAO (1995): Lâm sản ngoài gỗ. Rome.
Phòng thống kê huyện A Lưới (2007). Niên giám thống kê huyện A Lưới năm 2006.
Sở NN&PTNT tỉnh Thừa Thiên Huế (2004). Báo cáo chuyên đề: Phục vụ xây dựng chiến lược phát triển lâm
nghiệp tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2001-2010.
UBND huyện A Lưới (2004). Phương án quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp xã Hồng Trung –
giai đoạn 2004-2014.
UBND xã Hồng Trung. Báo cáo tình hình kinh tế xã hội năm từ 2002 - 2006.
UBND xã Hồng Trung. Dự án: Hỗ trợ phát triển sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ
sản xuất của đồng bào các dân tộc xã Hồng Trung - Huyện A lưới - Tỉnh Thừa Thiên Huế thuộc chương
trình 135 giai đoạn II, 2006 – 2010. 2006.
THE ADAPTATION OF FARMER PRACTICE IN USING AND MANAGEMENT OF FOREST LAND
AND NON-TIMBER FOREST PRODUCT RESOURCE TO LOCAL GOVERNMENT POLICY AND
MARKET MECHANISM ORIENTED IN HONG TRUNG COMMUNE, A LUOI DISTRICT, THUA
THIEN HUE PROVINCE, VIETNAM
Ngo Tung Duc, Ho Dac Thai Hoang, Nguyen Thi Hong Mai, Nguyen Van Binh
Hue University of Agriculture and Forestry
Summary
The relation between the change of resource system and community livelihood have been affected by many
factors. Using forest and land resources of the community and the local people of Hong Trung commune is
not an exception. Approaching sustainable livelihood frame has been used to analyze the use and
management of this resource source. Result of this research confirmed that impacts of the system of policy
and investment, the community and the people have changing and adapting repeatedly with each fixed stage
of the development. Livelihood front and production system based – using forest and land resources
foundation have had some bold switches. As to forest resource aspect, NTFPs played a very important role in
local people's lives for a long time; people have good experience in gathering and using this kind of resource
in both domestical and market use. However, gathering and using NTFPs get no interests from both people
and the authorities in term of conservation. About land resource, strong support from authorities and NGOs
made a remarkably change of using type and the development. The farming system of low productivity and
value crops has been changed. Especially the forest production activity has thrived evidently after the
planning and allocation of forest land use. These above things have been given the choices and adaptations
of households and the community in managing and using resources, though there have somewhat limitations
that need to be taken into consideration in which the competence and acknowledgment of the people as well
as influenced parties are problems to be concerned. These are core matters that this research is to concentrate
on analyzing and reflecting.