MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài...............................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu.........................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................2
I. QUAN NIỆM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ............................2
1.1. Khái niệm dân chủ.........................................................................2
1.1.1.
Dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh......................................2
1.1.2. Dân chủ trong các lĩnh vực đời sống xã hội................................3
1.2. Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về dân chủ......................4
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ của nhân dân............4
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong lĩnh vực chính trị.......5
1.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong lĩnh vực kinh tế..........6
1.2.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong lĩnh vực văn hoá - xã
hội..........................................................................................................7
1.2.5. Thực hành dân chủ......................................................................9
II. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VÀO NỀN DÂN CHỦ
NƯỚC TA HIỆN NAY.............................................................................13
2.1. Thực trạng nền dân chủ Việt Nam.............................................13
2.2. Một số khuyến nghị vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh đối với
nền dân chủ Việt Nam........................................................................15
2.2.1. Trên lĩnh vực kinh tế.................................................................15
2.2.2. Trên lĩnh vực chính trị tư tưởng................................................18
2.2.3. Trên lĩnh vực văn hóa – xã hội..................................................20
i
KẾT LUẬN....................................................................................................22
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................23
ii
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam ta đang ngày một tiến
lên sánh vai cùng các cường quốc năm châu trên thế giới, đang dần khẳng
định vị thế của mình với các nước bạn về một nền độc lập, tự do, dân chủ.
Để đạt được thành quả này là cả một quá trình đấu tranh gian khổ với
những hy sinh mất mát không thể bù đắp được của bao thế hệ cha ơng chúng
ta. Và cũng để có và giữ được nền độc lập dân chủ của nước nhà thì ngoài sự
cống hiến, hy sinh của cả một dân tộc, trong đó có những người con “kiệt
xuất” với phẩm chất anh dũng, kiên cường, khơng sợ khó, sợ khổ, sẵn sàng hy
sinh cho Tổ quốc. Người thanh niên tên Nguyễn Tất Thành đã một mình bơn
ba khắp năm châu bốn bể để tìm ra con đường mang lại độc lập tự do cho Tổ
quốc mình. Nhắc tới người là nhắc tới một vị anh hùng dân tộc, một danh
nhân văn hoá của nhân loại, một vị lãnh tụ tài ba và đặc biệt là người cha già
kình yêu của dân tộc. Học tập ở người là học tập cả một kho tàng kiến thức
quý giá mà không một sách vở nào có thể dạy nổi.
Chúng ta tiếp cận với hệ thống tư tưởng của Người, cho chúng ta hiểu
được tầm quan trọng của hệ thống tư tưởng này trong công cuộc xây dựng và
đổi mới đất nước. Hơn nữa đã giúp chúng ta hiểu rõ hơn thế nào là độc lập, tự
do, dân chủ. Với tầm quan trọng này và mong muốn được tìm hiểu, học hỏi,
chia sẻ kiến thức nhóm đã nghiên cứu với các bạn nhóm mình quyết định
chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân chủ”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu sâu và rõ ràng về những quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn
đề dân chủ. Nhằm giải đáp được thế nào là dân chủ, giúp chúng ta hiểu sâu
thêm về quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ. Đặc biệt là đã làm rõ được
vấn đề về dân chủ trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội cũng như làm
1
bật lên nội dung của thực hành dân chủ, làm thế nào để xây dựng Đảng bộ,
Nhà nước, Mặt trận và các ban ngành đoàn thể đảm bảo dân chủ và cơng bằng
xã hội.
NỘI DUNG
I. QUAN NIỆM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ
1.1. Khái niệm dân chủ
Dân chủ là một hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội, trong
đó thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực. Trong học thuyết chính
trị, dân chủ dùng để mơ tả cho một số ít hình thức nhà nước và cũng là một
loại triết học chính trị. Mặc dù chưa có một định nghĩa thống nhất về dân chủ,
có hai nguyên tắc mà bất kỳ một định nghĩa dân chủ nào cũng đưa vào.
Nguyên tắc thứ nhất là tất cả mọi thành viên của xã hội (công dân) đều có
quyền tiếp cận đến quyền lực một cách bình đẳng và thứ hai, tất cả mọi thành
viên (công dân) đều được hưởng các quyền tự do được công nhận rộng rãi.
Theo định nghĩa trong từ điển, Dân chủ “là chính phủ được thành lập
bởi nhân dân trong đó quyền lực tối cao được trao cho nhân dân và được thực
hiện bởi nhân dân hoặc bởi các đại diện được bầu ra từ một hệ thống bầu cử
tự do”. Theo Abrham Lincoln, dân chủ là một chính phủ “của dân, do dân và
vì dân”.
1.1.1. Dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Dân chủ là khát vọng mn đời của con người. Hồ Chí Minh quan
niệm dân chủ là “dân là chủ”. Khi xác định như thế, có lúc Hồ Chí Minh đem
quan niệm “dân là chủ” đối lập với quan niệm “quan chủ”. Đây là quan niệm
được Hồ Chí Minh diễn đạt ngắn, gọn, rõ, đi thẳng vào bản chất của khái
niệm trong cấu tạo quyền lực của xã hội. Mở rộng theo ý đó Hồ Chí Minh cịn
cho rằng: “Nước ta là nước dân chủ,, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm
2
chủ”, “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân làm chủ”, “nước ta là
nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”.
Nói tóm lại, quan niệm Hồ Chí Minh về dân chủ được biểu đạt qua hai
mệnh đề ngắn gọn: “Dân là chủ”, “Dân làm chủ”. Khi biểu đạt như thế, chúng
ta có thể hiểu rằng, dân là chủ, nghĩa là đề cập vị thế của dân; còn dân làm
chủ, nghĩa là đề cập năng lực và trách nhiệm của dân. Cả hai vế này luôn luôn
đi đôi với nhau, và thể hiện vị trí, vai trị, quyền và trách nhiệm của dân.
Quan niệm đó của Hồ Chí Minh phản ánh đúng nội dung bản chất về
dân chủ. Quyền hành và lực lượng đều thuộc về nhân dân. Xã hội nào đảm
bảo cho điều đó được thực thi thì đó là một xã hội thực sự dân chủ.
1.1.2. Dân chủ trong các lĩnh vực đời sống xã hội
Dân chủ thể hiện ở việc đảm bảo quyền con người, quyền công dân.
Dân chủ trong xã hội Việt Nam được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính
trị, kinh tế, văn hố, xã hội… Trong đó dân chủ thể hiện trên lĩnh vực chính
trị là quan trọng nhất, nổi bật nhất và được biểu hiện tập trung trong hoạt
động của nhà nước, bởi vì quyền lực của nhân dân được thể hiện trong hôt
động của nhà nước với tư cách nhân dân có quyền lực tối cao. Hồ Chí Minh
khẳng định cả trên quan điểm lẫn trên thực tế việc khi có nhà nước mới – Nhà
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà – nhân dân cử ra, tổ chức nên bộ máy nhà
nước cũng như tồn bộ hệ thống chính trị.
Trong tác phẩm Thường thức chính trị viết năm 1953, Hồ Chí Minh
chỉ rõ: “Ở nước ta chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm chủ… Nhân
dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi
hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ”
Quan niệm dân chủ, theo Hồ Chí Minh cịn biểu hiện ở phương thức xã
hội. Khẳng định một chế độ dân chủ ở nước ta là “ bao nhiêu lợi ích cũng vì
dân”, “ quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”, đồng thời Người cũng chỉ ra
3
phương thức tổ chức, hoạt động của xã hội nước ta muốn khẳng định là một
nước dân chủ thì phải có cấu tạo quyền lực xã hội mà ở đó người dân, cả trực
tiếp, cả gián tiếp qua dân chủ đại diện, một hệ thống chính trị do “dân cử ra”
và “do dân tổ chức nên”. Để hiểu rõ về vấn đề dân chủ trong các lĩnh vực trên
chúng ta cùng tìm hiểu nội dung chi tiết.
1.2. Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về dân chủ
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ của nhân dân
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ nói chung và về quyền làm chủ của
nhân dân nói riêng là kết quả của sự nhận thức sâu sắc về vai trò của nhân dân
trong lịch sử, là kết quả của sự kết hợp giữa tư tưởng thân dân truyền thống ở
phương Đông và quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng trong
học thuyết Mác- Lênin. Kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa lý luận và
thực tiễn – Hồ Chí Minh đã nâng tư tưởng dân chủ lên một tầm cao mới vừa
mang tính khoa học, vừa mang tính nhân văn sâu sắc.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân là người giữ vai trò quyết định
trên tất cả các lĩnh vực: từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội, từ những
chuyện nhỏ có liên quan đến lợi ích của mỗi cá nhân đến những chuyện lớn
như lựa chọn thể chế, lựa chọn người đứng đầu Nhà nước. Người dân có
quyền làm chủ bản thân, nghĩa là có quyền được bảo vệ về thân thể, được tự
do đi lại, tự do hành nghề, tự do ngôn luận, tự do học tập… trong khuôn khổ
luật pháp cho phép. Người dân có quyền làm chủ tập thể, làm chủ địa phương,
làm chủ cơ quan nơi mình sống và làm việc. Người dân có quyền làm chủ các
đồn thể, các tổ chức chính trị xã hội thơng qua bầu cử và bãi miễn. Đúng như
Hồ Chí Minh nói: "Mọi quyền hạn đều của dân". Cán bộ từ Trung ương đến
cán bộ ở các cấp các ngành đều là "đầy tớ" của dân, do dân cử ra và do dân
bãi miễn. Người giải thích: dân là gốc của nước. Dân là người đã không tiếc
máu xương để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nước khơng có dân thì khơng
4
thành nước. Nước do dân xây dựng nên, do dân đem xương máu ra bảo vệ, do
vậy dân là chủ của nước.
Nhân dân đã cung cấp cho Đảng những người con ưu tú nhất. Lực
lượng của Đảng có lớn mạnh được hay không là do dân. Nhân dân là người
xây dựng, đồng thời cũng là người bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ của Đảng.
Dân như nước, cán bộ như cá. Cá không thể sinh tồn và phát triển được nếu
như khơng có nước. Nhân dân là lực lượng biến chủ trương, đường lối của
Đảng thành hiện thực. Do vậy, nếu khơng có dân, sự tồn tại của Đảng cũng
chẳng có ý nghĩa gì. Đối với Chính phủ và các tổ chức quần chúng cũng vậy.
Tóm lại, nhân dân là lực lượng dựng xây đất nước, là lực lượng hợp
thành, ni dưỡng, bảo vệ các tổ chức chính trị, do vậy nhân dân có quyền
làm chủ đất nước, làm chủ chế độ, làm chủ tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Theo Hồ Chí Minh, người dân chỉ thực sự trở thành người làm chủ khi họ
được giáo dục, khi họ nhận thức được rõ ràng đâu là quyền lợi họ được
hưởng, đâu là nghĩa vụ họ phải thực hiện. Để thực hiện được điều này, một
mặt, bản thân người dân phải có ý chí vươn lên, mặt khác, các tổ chức đoàn
thể phải giúp đỡ họ, động viên khuyến khích họ. "Một dân tộc dốt là một dân
tộc yếu" và nếu nhân dân không được giáo dục để thốt khỏi nạn dốt thì mãi
mãi họ khơng thể thực hiện được vai trị làm chủ.
Người dân chỉ có thể thực hiện được quyền làm chủ khi có một cơ chế
bảo đảm quyền làm chủ của họ. Đảng phải lãnh đạo xây dựng được một Nhà
nước của dân, do dân, vì dân; với hệ thống luật pháp, lấy việc bảo vệ quyền
lợi của dân làm mục tiêu hàng đầu, xây dựng được đội ngũ cán bộ, đảng viên
xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong lĩnh vực chính trị
Trong thời đại của chúng ta, con người là một tài nguyên, thậm chí là
loại tài ngun đặc biệt. Chính vì thế có thể nói, các nước đang phát triển với
5
lợi thế về nguồn nhân lực là những dân tộc có ưu thế. Nếu khơng phát huy
được năng lực của loại tài nguyên đặc biệt này thì các nước thế giới thứ ba
khơng những khơng phát triển mà thậm chí không tồn tại được. Tuy nhiên,
cũng đã đến lúc các nước này phải nhận ra rằng, sự đông dân, đồng thời, là
một con dao hai lưỡi. Khơng có một chế độ lãnh đạo hợp lý thì sự đơng dân là
một gánh nặng. Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là một ví dụ. Hơn một
tỷ nhân dân Trung Quốc đã từng là gánh nặng của nhà nước và đến nay vẫn
thế; nhưng sau hơn 20 năm đổi mới thì sự đông dân ấy đang trở thành một lợi
thế. Chế độ chính trị giữ một vai trị cực kỳ quan trọng trong việc giải quyết
bài toán nhân lực này. Việt Nam cũng vậy. Do đó, nếu khơng xây dựng chế
độ dân chủ để tự do trở thành cảm hứng cơ bản khích lệ con người tham gia
một cách hiệu quả vào q trình cạnh tranh tồn cầu thì khơng thể phát triển
được.
Trong thời đại ngày nay, chúng ta phải trở thành thị trường vì chỉ có
như vậy mới có thể phát triển và làm tăng cả năng lực lẫn thu nhập của con
người. Thu nhập khơng tăng lên thì sức mua của cộng đồng khơng tăng và sức
mua khơng tăng thì chúng ta sẽ khơng có thị trường nào khác ngồi thị trường
lao động đơn giản. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa
học kỹ thuật, những ngành sản xuất địi hỏi lao động giản đơn ít đi và thị
trường lao động đơn giản sẽ mất dần giá trị. Muốn nâng cao chất lượng của
thị trường lao động thì phải đầu tư vào giáo dục - đào tạo. Mặt khác, không
thể tiếp tục chỉ vay mượn hay sử dụng đầu tư nước ngoài để phát triển những
nguồn nội lực. Những nhà nước phi dân chủ không thể trốn tránh q trình
dân chủ hóa xã hội. Người ta vẫn tưởng rằng, nhân dân đang ủng hộ nhà nước
bằng lao động của mình nhưng đến một lúc nào đấy, các nhà nước phi dân
chủ sẽ phải đối mặt với những cuộc cách mạng hay sự cướp bóc dưới hình
thức cách mạng. Những năm cuối thế kỷ XX, chúng ta đã chứng kiến sự sụp
đổ của các chế độ độc tài như Mohamed Suharto, Joseph Estrada, Saddam
6
Hussein... Rõ ràng, những phương pháp chun chính có thể kéo dài tuổi thọ
các thể chế chính trị độc tài nhưng khơng thể nào giúp nó tránh khỏi sự sụp
đổ.
1.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong lĩnh vực kinh tế
Lãnh đạo chính quyền thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội theo nghị quyết đại hội của đảng bộ, chi bộ xã và của cấp trên;
phát triển nông, lâm, ngư, diêm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, tạo
thêm việc làm mới cho người lao động; không ngừng nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân, động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với
Nhà nước; xây dựng nông thôn giàu đẹp, văn minh.
Thực hiện nhiệm vụ cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng
thơn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, quản lý và sử dụng đất hợp lý,
tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, áp dụng các tiến bộ khoa học
kỹ thuật vào sản xuất, tăng giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích; thực
hiện nhiệm vụ xây dựng cơ sở hạ tầng (điện, đường, trường, trạm...) theo
phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm; quản lý và sử dụng tốt các
nguồn vốn vay, vốn nhân dân đóng góp và các nguồn vốn khác; phát triển sự
nghiệp văn hố, giáo dục, y tế, bảo vệ mơi trường, thực hiện tốt các chính
sách xã hội, xố đói, giảm nghèo.
1.2.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong lĩnh vực văn hoá - xã hội
Về văn hoá
Tiếp tục mở rộng các hoạt động văn hoá, nhằm nâng cao đời sống văn
hố vui tươi lành mạnh và trình độ văn hoá của nhân dân để phục vụ nhiệm
vụ củng cố miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. Tăng cường công tác
xuất bản; chú trọng xây dựng cơ sở đầu tiên cho nền điện ảnh Việt Nam; phát
triển vững chắc ngành sân khấu và ca vũ; lập thêm tủ sách và nhà văn hoá,
câu lạc bộ ở các cơ sở và tăng cường lãnh đạo sinh hoạt văn nghệ, văn hoá
của quần chúng; đẩy mạnh và lãnh đạo phong trào thể dục thể thao. Đồng thời
7
phải nâng cao chất lượng của nền văn học, nghệ thuật; đào tạo bồi dưỡng
thêm nhiều tài năng mới, chú trọng khai thác hơn nữa vốn cũ văn hoá dân tộc
và tăng cường trao đổi văn hoá với các nước; học tập kinh nghiệm các nước
tiên tiến.
Về giáo dục
Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thanh toán nạn mù chữ, đặc biệt chú
trọng dạy văn hoá cho các cán bộ cơ sở, có kế hoạch mở rộng phong trào học
tập trong các cơ quan, xí nghiệp, quân đội.
Đối với giáo dục phổ thông, chủ yếu là phát triển tuỳ theo khả năng,
và nâng cao chất lượng cấp 2 và 3, chú ý đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, tăng
cường số lượng và chất lượng các sách giáo khoa, ban hành chính sách cụ thể
đối với các trường dân lập và tư thục, tăng cường lãnh đạo giáo dục miền núi,
xúc tiến việc nghiên cứu đặt chữ viết cho các dân tộc thiểu số, và có kế hoạch
hướng dẫn các lớp vỡ lòng.
Về đại học và chuyên nghiệp, cần củng cố những cơ sở đã có và phát
triển từng bước. Tăng cường việc giáo dục chính trị và tư tưởng chủ nghĩa
Mác - Lênin, ra sức bồi dưỡng và đào tạo giáo sư, chú ý rút kinh nghiệm cải
tiến chương trình. Xây dựng cơ sở nghiên cứu khoa học. Cải tiến việc bổ túc
văn hố cho cán bộ cơng nơng để đưa vào các trường đại học, chuyên nghiệp.
Về y tế
Mở rộng phong trào vệ sinh phòng bệnh, nâng cao chất lượng các cơ
sở chữa bệnh, kiện toàn việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ các cấp, cải tiến và
tăng cường việc sản xuất, nhập nội thuốc và sử dụng nguyên liệu trong nước.
Đặc biệt chú ý công tác y tế và vệ sinh ở miền núi, công tác bảo vệ sản phụ và
hài nhi. Y tế công trường, nông trường, xí nghiệp, cơ quan cần chú trọng để
làm tốt hơn nữa nhiệm vụ bảo vệ và bồi dưỡng sức khoẻ cho công nhân và
cán bộ, nhất là phụ nữ. Việc nghiên cứu đông y và sử dụng hợp lý, theo khả
năng lực lượng đông y cũng như học tập kinh nghiệm y học tiên tiến của các
8
nước bạn và thế giới, cần được tổ chức tích cực và chu đáo hơn, để xây dựng
và phát triển nền y tế nhân dân.
Về lĩnh vực tơn giáo
Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam được xây dựng
trên quan điểm cơ bản của học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
tín ngưỡng, tơn giáo và căn cứ vào đặc điểm tín ngưỡng, tơn giáo ở Việt Nam.
Tư tưởng nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của nhân dân; đồn kết tơn giáo, hịa hợp
dân tộc. Tinh thần đó được Đảng và Nhà nước Việt Nam thể hiện bằng hệ
thống chính sách phù hợp với từng giai đoạn cách mạng và đã có từ khi mới
thành lập Đảng.
Trong q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta ln có quan
điểm, thái độ rõ ràng về tín ngưỡng, tơn giáo. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại
biểu tồn quốc lần thứ VII của Đảng năm 1991 đã khẳng định: "Tín ngưỡng,
tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đảng và Nhà nước ta
tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và khơng tín ngưỡng của nhân dân, thực
hiện bình đẳng, đồn kết lương giáo và giữa các tơn giáo. Khắc phục mọi thái
độ hẹp hịi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống những
hành vi lợi dụng tôn giáo phá hoại độc lập dân tộc và đoàn kết dân tộc, chống
phá chủ nghĩa xã hội, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ cơng dân". Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng ghi rõ: "Tín
ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Thực hiện
nhất qn chính sách tơn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, đồng thời
chống việc lợi dụng tín ngưỡng để làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và
nhân dân".
Những quan điểm của Đảng ta từ ngày thành lập đến nay chứng minh
rằng Đảng coi quyền tự do tín ngưỡng là một nhu cầu quan trọng của con
người, là một trong những quyền cơng dân, quyền chính đáng của con người.
9
Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta ln ln tơn trọng đức tin của đồng bào theo
tín ngưỡng, tơn giáo khác nhau; tôn trọng quyền được theo bất cứ tôn giáo
nào cũng như quyền không theo tôn giáo nào, mong muốn cho người dân theo
tôn giáo được "phần hồn thong dong, phần xác ấm no".
1.2.5. Thực hành dân chủ
Xây dựng và hoàn thiện các chế độ dân chủ rộng rãi
Ngay từ năm 1941, trong chương trình của Mặt trận Việt Nam độc lập
đồng minh (Việt Minh), Hồ Chí Minh đã “thiết kế” một chế độ dân chủ cộng
hoà cho nước ta sau khi cuộc cách mạng do nhân dân thực hiện thắng lợi. Đó
là chương trình thực hiện mục tiêu dân chủ, xác định rõ quyền và trách nhiệm
của nhân dân trước vận mệnh của nước nhà; gắn độc lập, tự do của Tổ quốc
với quyền lợi của từng người dân. Chương trình Việt Minh đã khơi dậy sức
mạnh vơ biên của nhân dân giành chính quyền về tay mình.Với thắng lợi của
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, một tuyên bố về chế độ dân chủ ở Việt
Nam đã được Hồ Chí Minh nêu trong bản Tun ngơn độc lập khai sinh nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ngày 2-9-1945, trong đó các giá trị về dân chủ
được gắn liền với đất nước độc lập, tự do, hạnh phúc.
Dân chủ ở nuớc Việt Nam mới được thể hiện và mới được đảm bảo
trong đạo luật cơ bản nhất là các Hiến pháp do Hồ Chí Minh chủ trì xây dựng
và được Quốc hội thông qua. Hiến pháp năm 1946, bản Hiến pháp đầu tiên
của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, thể hiện rõ nhất và thấm đậm nhất tư
tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh. Hiến pháp năm 1946 đặt cơ sở pháp lý đầu
tiên cho việc thực hiện quyền lực của nhân dân.
Với trách nhiệm chủ trì việc soạn thảo hiến pháp năm 1959, Hồ Chí
Minh lại một lần nữa khẳng định quan niệm đảm bảo dân chủ trong việc xác
lập quyền lực của nhân dân trong Hiến pháp. Cơ chế thực hiện quyền lực của
nhân dân trong bản Hiến pháp năm 1959 được phát triển, cụ thể hố thêm.
Điều đó thể hiện rõ ở các điều về quyền lực của nhân dân (Điều 4); vấn đề đại
10
biểu của nhân dân trong Quốc hội và hội đồng nhân dân (Điều 5) và đặc biệt
ở điều 6 ghi rõ: “Tất cả các cơ quan nhà nước đầu phải dựa vào nhân dân, liên
hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân.
Tất cả các nhân viên cơ quan nhà nước đều phải trung thành với chế độ dân
chủ của nhân dân, tuân theo Hiến pháp và pháp luật, hết lòng hết sức phục vụ
nhân dân”.
Hồ Chí Minh chú trọng đảm bảo quyền lực của giai cấp, tầng lớp, các
cộng đồng dân tộc trong thể chế chính trị nước ta. Đối với giai cấp cơng nhân,
Hồ Chí Minh khẳng định rằng, cơng nhân có quyền thực sự trong xí nghiệp,
và tự làm chủ về tư liệu sản xuất, họ phải được làm chủ trong việc quản lý,
làm chủ trong việc phân phối sản phẩm lao động. Đối với nông dân, Hồ Chí
Minh cho rằng, bao giờ ở nơng thơn người dân thực sự nắm chính quyền,
nơng dân phải được giải phóng, thì mới có dân chủ thực sự. Hồ Chí Minh
đánh giá cao vai trị của tầng lớp trí thức trong tiến trình dân chủ hố ở Việt
Nam và cho rằng lao động trí óc có nhiệm vụ rất quan trọng trong sự nghiệp
kháng chiến kiến quốc. Người đặc biệt quan tâm giải phóng phụ nữ để phụ nữ
bình đẳng với nam giới, thực sự tham gia tích cực vào các cơng việc xã hội.
Người cũng đề cao vai trị làm chủ đất nước của thanh, thiếu niên. Đối với
một quốc gia đa dân tộc như ở Việt Nam, Hồ Chí Minh quan tâm đấn việc
đảm bảo quyền làm chủ của tất cả nhân dân các dân tộc và cho rằng, phải làm
cho các dân tộc làm chủ đất nước, mau chóng phát triển kinh tế, văn hố, thực
hiện các dân tộc bình đẳng về mọi mặt..
Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm
bảo thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân
Để vượt lên tình trạng thấp kém của nền kinh tế, rút ngắn khoảng cách
về trình độ phát triển giữa nước ta với nhiều nước trên thế giới, trong điều
kiện cạnh tranh quốc tế quyệt liệt hiện nay, ta không có con đường nào khác
là phải “phát huy cao độ nội lực của dân tộc”, mà một trong những nhân tố cơ
11
bản lảm nên nội lực đó là phát huy dân chủ. Chính khát vọng dân chủ đã tạo
lên sức mạnh kiên cường đấu tranh cho độc lập, tự do. Giành được chính
quyền về tay nhân dân rồi thì quyền làm chủ thật sự của người dân là nội
dung đích thực của độc lập tự do. Bởi như Bác Hồ đã nói: “Nhưng nếu nước
độc lập mà dân khơng hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lý gì”.
Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều
đó rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra
sáng kiến”. Bởi vậy, Ngưới nhắc nhở: “Phải thật sự tôn trọng quềyn làm chủ
của nhân dân. Tuyệt đối không được lên mặt “Quan cách mạng” ra lệnh ra
oai”. Điều cần chú ý trong tư duy Hồ Chí Minh về dân chủ thì dân chủ của ta
phải là “Dân chủ thật sự”, “Nước ta phải đi đến dân chủ Thực sự” Chúng ta
phải ra sức thực hiện những cải cách xã hội, để nâng cao đời sống của nhân
dân, thực hiện dân chủ thực sự”, Nhiều lần Người nhắc đi nhắc lại hai chữ
“Thật sự” , “Thật sự” như là một thuộc tính cơ bản khơng thể thiếu của nền
dân chủ của chế độ ta, nó vốn xa lạ với thứ dân chủ trừu tượng, dân chủ hình
thức mà người ta dễ dàng nghĩ tới là dân chủ trong xã hội tư sản.
Qua đó, có thể thấy dân chủ lả một nội dung lớn trong tư tưởng Hồ Chí
Minh. Theo người, thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải
quyết được mọi khó khăn. Mọi chủ trương, đường lối, thuộc tất cả các lĩnh
vực kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội …Đều được người xem xét và giải
quyết từ địa vị người làm chủ và quyền làm chủ của nhân dân.
Phát huy dân chủ phải kết hợp chặt chẽ tăng cường pháp chế, thực hiện
quản lý xã hội bằng pháp luật, theo pháp luật. Nhà nước ta phải tiếp tục thể
chế hoá bằng pháp luật các quyền dân chủ của người dân trên các lĩnh vực đời
sống, đặc biệt là trong hoạt động kinh tế. Đồng thời, phải đẩy mạnh cuộc đấu
tranh phòng và chống vi phạm pháp luật, đảm bảo cho mỗi cơng dân đều
được bình đẳng trước pháp luật, đảm bảo mọi hành vi vi phạm pháp luật đều
12
được xét sử nghiêm minh, đúng người, đúng tội, không phân biệt người đó là
ai, để đem lại niềm tin cho nhân dân vào tính nghiêm minh của pháp luật nhà
nước ta.
Xây dựng các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đồn thể chính trị
- xã hội vững mạnh để đảm bảo dân chủ trong xã hội
Trong việc xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh
chú trọng tới việc xây dựng Đảng - với tư cách là Đảng cầm quyền, Đảng
lãnh đạo của nhà nước,lãnh đạo toàn xã hội; xây dựng nhà nước của dân, do
dân, vì dân; xây dựng mặt trận với vai trị là liên minh chính trị tự nguyện của
tất cả các tổ chức chính trị - xã hội vì mục tiêu chung của sự phát triển của đất
nước; xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi khác của nhân dân.
Có đảm bảo và phát huy dân chủ trong Đảng thì mới đảm được dân
chủ trong tồn xã hội. Đó là quan điểm nhất qn của Hồ Chí Minh. Quyền
lãnh đạo của Đảng xuất phát từ giai cấp công nhân,dân tộc và nhân dân Đảng
trở thành hạt nhân chính trị của tồn xã hội và là nhân tố tiên quyết để đảm
bảo tính chất dân chủ của xã hội. Dân chủ trong Đảng, do đó, trở thành yếu tố
quyết định tới trình độ dân chủ của tồn xã hội.
Nhà nước thực hiện chức năng quản lí xã hội của mình qua việc đảm
bảo thực thi ý chí của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động đối với sự
phát triển của đất nước. Nhà nước thể chế hóa tồn bộ bản chất dân chủ của
chế độ.
Các tổ chức Mặt trận và đoàn thể nhân dân thể hiện quyền làm chủ và
tham gia quản lí xã hội của tất cả các giai cấp, tầng lớp trong xã hội.
Tất cả các tổ chức đó đều có mục tiêu chung là đạt tới trình độ dân chủ
cao, dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đó cũng là động lực cơ bản nhất để các giai
cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam phấn đấu trong sự nghiệp cách mạng.
Thực hành dân chủ rộng rãi, theo quan điểm Hồ Chí Minh, là trên nền tảng
của khối đại đoàn kết dân tộc, nịng cốt là liên minh cơng - nơng – trí.
13
II. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VÀO NỀN DÂN
CHỦ NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Thực trạng nền dân chủ Việt Nam
Tình hình thực thi dân chủ ở nước ta trong những năm gần đây đã có sự
tiến bộ đáng kể. Tuy nhiên những căn bệnh kinh niên như bệnh quan liêu, cơ
hội, cá nhân chủ nghĩa vẫn luôn luôn rình rập cản trở quá trình đổi mới, cản
trở sự phát triển của xã hội, làm trì trệ trào lưu dân chủ hóa. Những tệ nạn đó
hiện đang tồn tại dưới nhiều hình thức, nhiều lĩnh vực, ở tất cả các ngành, các
cấp. Cụ thể biểu hiện ở hàng ngũ cán bộ lãnh đạo, căn bệnh tham nhũng, quan
liêu, mầm sống của tư tưởng phi dân chủ chưa có xu hướng thun giảm. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Tác phong của những “ông quan liêu” là thiếu dân
chủ, không giữ đúng nguyên tắc lãnh đạo tập thể, phân công phụ trách”. Từ
đó dẫn đến việc lãnh đạo điều hành theo cảm tính, mệnh lệnh, độc tài, bất
chấp pháp luật mà làm nhiều hành vi sai trái đối với nhân dân, vi phạm chính
sách, đường lối của Đảng và Nhà nước. Còn đối với đa số nhân dân, căn bệnh
chủ yếu là sự thiếu hiểu biết pháp luật, hạn chế về nhận thức, dẫn đến những
hành động tự phát manh động, vi phạm pháp luật. Mất dân chủ tất yếu dẫn
đến mất ổn định về chính trị, làm mất lịng tin giữa nhân dân với Đảng, cản
trở sản xuất và ảnh hưởng đến đời sống nhân dân, khiến cho Đảng và Nhà
nước rất quan tâm lo lắng. Nhiều đoàn cán bộ của Đảng và Chính phủ đã
được cử xuống cơ sở để khảo sát, tìm hiểu thực chất vấn đề mâu thuẫn và
động viên nhân dân. Qua nghiên cứu thực tiễn cho thấy, một trong những
nguyên nhân gây bất đồng giữa các tổ chức Đảng, chính quyền cơ sở với quần
chúng chính là tình trạng tham nhũng, quan liêu của nhiều cán bộ Đảng, chính
quyền địa phương. Bên cạnh đó, một bộ phận quần chúng lại bị những phần
tử cơ hội có động cơ xấu lợi dụng kích động, gây mất ổn định chính trị, kinh
tế và tạo dư luận xấu trên diễn đàn quốc tế, khu vực. Riêng các cuộc biểu tình
bãi cơng của cơng nhân có ngun nhân chung bắt đầu từ sự vi phạm quyền
lợi và nhân phẩm của cơng nhân. Điều đáng nói ở đây là đôi khi một số cá
14
nhân có trách nhiệm vì tham quyền lợi kinh tế mà che giấu cho những hành
động sai trái, vi phạm pháp luật Nhà nước Việt Nam của một số chủ tư bản.
Tóm lại, trong phạm vi cả nước, tình trạng vi phạm quy chế dân chủ,
tuy có quy mơ và mức độ khác nhau, nhưng rõ ràng đã và đang trở thành vấn
đề bức xúc cần phải xem xét thấu đáo để có giải pháp tháo gỡ hữu hiệu. Trên
cơ sở nhận thức tư tưởng dân chủ của chủ tịch Hồ Chí Minh, qua nghiên cứu,
phân tích, chúng tơi thấy những hạn chế, tồn tại sự vi phạm quy chế dân chủ
biểu hiện ở các lĩnh vực cụ thể sau đây:
2.2. Một số khuyến nghị vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh đối với nền
dân chủ Việt Nam
2.2.1. Trên lĩnh vực kinh tế
Phải nói rằng ảnh hưởng của cơ chế quản lí quan liêu bao cấp vốn đã
tồn tại hàng chục năm khơng thể xóa bỏ trong tiềm thức của đa số cán bộ,
công chức đang nắm giữ cương vị điều hành nền kinh tế đất nước hiện nay.
Không những thế dù đường lối đổi mới về kinh tế của Đảng và chiến lược
phát triển kinh tế, các doanh nghiệp gồm nhiều thành phần, trang cấp cho họ
nhiều quyền lực, chủ động kinh doanh làm giàu… song vẫn còn tồn tại trên
thực tế sự bất bình đẳng, sự “phân biệt đối xử” trong cơ chế cạnh tranh thị
trường. Đây là hành vi mất dân chủ, thiếu bình đẳng trong chính sách kinh tế
của nhà nước với các thành phần kinh tế được pháp luật bảo vệ. Có thể thấy
sự bất bình đẳng đó qua các mối tương quan giữa: các doạnh nghiệp vừa và
nhỏ,… Sự thiếu dân chủ trong kinh tế không hẳn chỉ là sự yếu kém của khâu
quản lí tổ chức trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế, mà phải khẳng định rằng,
đó là sự bất bình đẳng có ý thức bởi những lí do nhạy cảm hoặc sự bất cập về
chính sách. Chẳng hạn trong việc vay vốn sản xuất, đối với một doanh nghiệp
nhà nước không những được ưu tiên về lãi suất thủ tục xin vay… mà còn tiếp
tục được ưu tiên cấp tiếp vốn dù doanh nghiệp làm ăn khơng có lãi, chưa trả
nợ cũ… Đó là chưa kể đến chính sách ưu đãi về thuế, chính sách ưu tiên về
15
thị trường cung cấp nguyên liệu và thị trường tiêu thụ sản phẩm… Tuy rằng
những biện pháp mang tính tình thế đó đã giúp đỡ cho sự tồn tại của khơng ít
doanh nghiệp, song cũng nhờ thế mà kẻ đã lợi dụng kẻ hở luật pháp để chiếm
đoạt tài sản Nhà nước, ức hiếp người lao động. Các chính sách về đấu thầu
hay chỉ định thầu các gói kinh tế, các cơng trình có vốn đầu tư béo bở mà chỉ
một số người, một số công ty mới giành được đã để lại dư luận không tốt và
nhiều vấn đề bàn cải bởi thực chất đằng sau đó là bóng dáng của đút lót, tham
nhũng, lợi dụng chức quyền để thu lợi cá nhân bất chính. Nhiều vụ án đem ra
xét xử thời gian qua làm người ta giật mình về con số tài sản, tiền bạc bị
chiếm đoạt, tiêu tán, đồng thời tỉ lệ nghịch với con số thất thoát là sự giảm
thiểu của các con số đầu tư vốn nước ngoài và sự sa sút của nền kinh tế. Câu
hỏi đặt ra là vai trò của các tổ chức Đảng, đồn, cơng đồn, hội nơng dân…
được phát huy tới mức nào, vai trò cá nhân và việc sử dụng quyền làm chủ ra
sao? Tại sao nạn tiêu cực hoành hành tự do như vậy? Cần phải tháo gỡ vướng
mắc ở đâu nào?
Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh soi rọi và những vấn đề thực
tiễn, rõ ràng có những vấn đề bất cập phải thay đổi. Đương thời Hồ Chí Minh
thường nhắc đến câu tục ngữ: “Có thực mới vực được đạo” để nhấn mạnh đến
vai trò quan trọng hàng đầu của mặt trận kinh tế đối với toàn bộ sự nghiệp bảo
vệ và phát triển đất nước. Chính vì tính phức tạp và quan trọng của kinh tế,
cho nên mỗi cá nhân có thể gánh vác được nhiệm vụ của mình, Chủ tịch Hồ
Chí Minh chủ trương trước hết phải đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục, làm sao
để mỗi cơng dân: “Có ý thức làm chủ đất nước, tinh thần tập thể xã hội chủ
nghĩa và tư tưởng mình vì mọi người, mọi người vì mình”. Đối với đội ngũ
cán bộ phải đào tạo, chọn lựa những cán bộ có phẩm chất đạo đức, có tri thức
đồng thời phải đánh giá đúng khả năng của cán bộ trước khi giao cho họ
những vị trí, trọng trách mà họ đảm nhận. Bởi vì đội ngũ cán bộ làm công tác
kinh tế, hằng ngày phải đối mặt với cám dỗ vật chất, nên vai trị quản lí, giáo
16
dục tư tưởng của các tổ chức đồn thể, chính quyền là rất cần thiết. Theo Hồ
Chí Minh tự phê bình và phê bình là phương thuốc hiệu nghiệm nhất để chữa
căn bệnh cá nhân chủ nghĩa, mà “muốn thắng kẻ địch bên ngoài, trước hết
phải thắng kẻ địch bên trong là chủ nghĩa cá nhân”.
Việc đề bạt cán bộ nhất là cán bộ quản lí kinh tế cần phải thực hiện có
nguyên tắc và dựa trên tinh thần phát huy của dân chủ quần chúng, có như
vậy mới giảm bớt được tệ nạn bè phái, tài không xứng chức, giảm bớt hội phá
hoại của những kẻ “nhiệt tình dốt nát”, những kẻ chuyên luồn lót kiếm lời
bằng bất cứ thủ đoạn nào.
Song song với việc bồi dưỡng chính trị, tri thức cho cán bộ, lựa chọn
cán bộ đúng người, đúng việc, phải chú trọng đến quyền lợi kinh tế của nhân
dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Mọi người đều bình đẳng về kinh tế” do đó,
“cần phải làm cho đời sống và sự sinh tồn của mỗi người dân được bảo đảm”.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về lợi ích kinh tế chính đáng của người
lao động được thể hiện rất rõ ràng cơng khai, dân chủ: “Có làm, có hưởng”,
“làm theo năng lực, hưởng theo lao động”. Người luôn luôn nhắc nhở cán bộ
rằng: “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng”, và kịch liệt lên án hành vi
của những cán bộ lên mặt “quan cách mạng”, chỉ biết hô hào nhân dân hy
sinh chiến đấu mà không chăm lo đến đời sống nhân dân.
Thực hiện tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh về kinh tế trong tình hình
hiện nay, trước hết là việc thực thi nghiêm túc quyền bình đẳng trong kinh
doanh, sản xuất đối với tất cả các thành phần kinh tế theo đúng luật. Cần phải
xóa hết các đặc quyền đặc lợi của một số cơng ty, doanh nghiệp, xóa hẳn có
chế “xin - cho”, đưa nền kinh tế vào hoạt động trong một cơ chế thống nhất:
cơ chế thị trường, hạch toán kinh doanh.
Ngồi việc tăng cường bộ máy kiểm tra, kiểm tốn, phải dựa vào quần
chúng, phát huy tinh thần đấu tranh dân chủ của quần chúng để giám sát, phát
17
hiện những hành vi sai phạm trong quản lí tài chính và trong hoạt động sản
xuất kinh doanh. Phát huy vai trò của các tổ chức Đảng cơ sở, tổ chức cơng
đồn, mặt trận, hội nơng dân, hội phụ nữ,… để bảo vệ quyền lợi cho người
lao động. Kiên quyết xử lí đối với những trường hợp coi thường pháp luật, coi
thường nhân dân, bất kể những đối tượng vi phạm đó là cán bộ cao cấp hoặc
là ơng chủ nước ngoài. Bên cạnh việc chú trọng bảo về quyền lợi của người
lao động phải có hình thức khen thưởng bằng vật chất xứng đáng đối với
những người có cơng lao đóng góp đối với sự nghiệp phát triển kinh tế. Đồng
thời đẩy mạnh việc nghiên cứu, sửa đổi các bộ luật kinh tế cho phù hợp với
tình hình thực tế tạo điều kiện cho đầu tư, kinh doanh, khuyến khích các
thành phần kinh tế mở rộng sản xuất. Thực hiện dân chủ về nền kinh tế theo
tư tưởng Hồ Chí Minh cịn phải chú ý ưu tiên đầu tư cho các vùng, các miền
có khó khăn (vùng núi, hải đảo, vùng biên giới), làm cho đời sống nhân dân ở
những khu vực này ngày càng được cải thiện, theo kịp miền xi. Việc triển
khai các chương trình kinh tế vùng núi, đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở, tài trợ
cho việc thay đổi cơ cấu kinh tế của từng vùng, nhằm từng bước “xóa đói,
giảm nghèo”, chính là hướng đi đúng trên con đường dân chủ hóa kinh tế ở
nước ta hiện nay.
2.2.2. Trên lĩnh vực chính trị tư tưởng
Có thể nói, bước vào thời kỳ đổi mới (tính từ năm 1986), khơng khí
dân chủ đã được tun truyền mạnh mẽ và được nhân dân cả nước hưởng ứng
nhiệt liệt. Trên các diễn đàn báo chí ngơn luận, các bài viết của đồng chí
N.V.L trong chun mục “Nói và làm” đã thực sự gây được cảm tình và sự
ủng hộ của dư luận. Chỉ đến lúc này người ta mới nói và làm mạnh hơn mà ít
sợ bị “nâng quan điểm” như trong thời kỳ trước. Sự nhìn nhận về con người,
về đạo đức lối sống, sinh hoạt cũng có phần được cải thiện, bây giờ người ta
đã ít chú trọng về lý lịch mà đánh giá cao hơn về tri thức…Tất cả những thay
đổi lớn lao trong tư duy, quan niệm đó chính là sự thành cơng của sự nghiệp
18