MỤC LỤ
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU........................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG...........................................................................2
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÁCH MẠNG
VÔ SẢN VÀ QUA ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG VÔ
SẢN...............................................................................................................2
1.1. Khái niệm và quan điểm Mác- Lênin về cách mạng vô sản
...................................................................................................................2
1.1.1. Khái niệm..........................................................................2
1.1.2. Một số quan điểm của Mác- Lênin về cách mạng vô sản. 3
1.1.3. Đánh giá............................................................................9
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân
tộc và giá trị thời đại.............................................................................10
1.2.1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi
theo con đường cách mạng vơ sản......................................................10
1.2.2. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do
Đảng Cộng sản lãnh đạo......................................................................13
1.2.3. Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đồn kết của
tồn dân trên cơ sở liên minh cơng nơng............................................14
1.2.4. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng
con đường cách mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị của quần
chúng với đấu tranh vũ trang...............................................................16
CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH
VỀ CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VÔ SẢN VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA
ĐẢNG.........................................................................................................18
i
2.1. Quan điểm Hồ Chí Minh về Cách mạng Vơ sản...............18
2.1.1. Vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận cách mạng vô sản
vào Việt Nam, xây dựng học thuyết giải phóng và phát triển dân tộc
theo khuynh hướng vơ sản, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
.............................................................................................................18
2.1.2. Sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam - nhân tố hàng đầu
bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc và tiến lên xây
dựng chủ nghĩa xã hội.........................................................................21
2.1.3. Vận dụng và phát triển lý luận về chuyên chính vơ sản,
xây dựng nền chun chính cách mạng với hình thức cộng hịa dân
chủ, xây dựng nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.. 23
2.2. Sự vận dụng của Đảng trong thời kỳ cách mạng dân chủ
nhân dân.................................................................................................26
2.2.1. Thực trạng vận dụng của Đảng cộng sản........................26
2.2.2. Một số giải pháp đối với trong thời kỳ cách mạng nhân
dân hiện nay........................................................................................27
KẾT LUẬN..........................................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................30
ii
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp, ông cha ta
đã sử dụng nhiều con đường gắn với những khuynh hướng chính trị khác
nhau, sử dụng những vũ khí tư tưởng khác nhau. Nhưng tất cả những phong
trào yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX dù diễn ra rất sơi nổi nhưng
đều bị thực dân Pháp dìm trong biển máu. Đó là tình trạng khủng hoảng về
đường lối cứu nước ở Việt Nam vào đầu thế kỷ XX. Nó đặt ra u cầu bức
thiết phải tìm một con đường cứu nước mới.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh đã kiên trì, bền bỉ, có lúc phải vượt qua những thử thách khắc nghiệt để
vận dụng và phát triển lý luận cách mạng vô sản phù hợp với thực tiễn Việt
Nam, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội; xây dựng nên một học thuyết
về cách mạng giải phóng và phát triển dân tộc; từng bước giải quyết đúng
những yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam, đưa sự nghiệp đấu tranh
giành độc lập dân tộc đến thành công, kháng chiến chống đế quốc xâm lược
đến thắng lợi, góp sức cùng nhân loại biến thế kỷ XX thành một thế kỷ giải
trừ chủ nghĩa thực dân, đặt nền móng đưa đất nước vững bước đi lên theo con
đường xã hội chủ nghĩa.
Do đó, qua q trình học tập và tìm hiểu, tác giả đã lựa chọn đề tài ”
"Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác
con đường cách mạng vô sản” Vận dụng của Đảng ta như thế nào trong
thực tiễn cách mạng Việt Nam thời kỳ cách mạng dân chủ nhân dân” Để
có cái nhìn sâu và rộng hơn về vấn đề.
1
PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÁCH MẠNG VÔ
SẢN VÀ QUA ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG VƠ
SẢN
1.1. Khái niệm và quan điểm Mác- Lênin về cách mạng vô sản
1.1.1. Khái niệm
Cách mạng vô sản là một cuộc cách mạng xã hội trong đó giai cấp cơng
nhân cố gắng lật đổ giai cấp tư sản. Các cuộc cách mạng vơ sản nói chung
được những người theo chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản và hầu hết
những người vơ chính phủ ủng hộ.
Các nhà lý luận mácxít tin rằng các cuộc cách mạng vơ sản có thể và có
thể sẽ xảy ra ở tất cả các nước tư bản, liên quan đến khái niệm cách mạng thế
giới.
Phân nhánh Lênin của chủ nghĩa Mác cho rằng một cuộc cách mạng vô
sản phải được dẫn dắt bởi một đội tiên phong của " những người làm cách
mạng chuyên nghiệp ", gồm những nam giới và phụ nữ toàn tâm toàn ý theo
chủ nghĩa cộng sản và trở thành hạt nhân của phong trào cách mạng cộng sản.
Đội tiên phong này sẽ lãnh đạo và tổ chức cho giai cấp công nhân trước và
trong cuộc cách mạng, nhằm mục đích ngăn chặn chính phủ cản trở cách
mạng thành cơng.
Cuối cùng, có những người vơ chính phủ xã hội chủ nghĩa và những
người xã hội chủ nghĩa tự do. Quan điểm của họ là cuộc cách mạng phải là
một cuộc cách mạng xã hội từ dưới lên, tìm cách biến đổi tất cả các khía cạnh
của xã hội và các cá nhân tạo nên xã hội (xem Cách mạng Asturian và Cách
mạng Catalonia). Alexander Berkman nói "có những cách mạng này và những
cách mạng kia. Một số cuộc cách mạng chỉ thay đổi hình thức chính phủ bằng
cách đưa một bộ cai trị mới thay thế cho cái cũ. Đây là những cuộc cách
2
mạng chính trị, và vì thế chúng thường gặp rất ít kháng cự. Nhưng một cuộc
cách mạng nhằm xóa bỏ tồn bộ hệ thống nơ lệ tiền lương cũng phải loại bỏ
quyền lực của một giai cấp chuyên đàn áp giai cấp khác. Nghĩa là, cuộc cách
mạng đó khơng chỉ là một sự thay đổi đơn thuần của những người cai trị, của
chính phủ, khơng phải là một cuộc cách mạng chính trị, mà là một cuộc cách
mạng tìm cách thay đổi tồn bộ tính cách của xã hội. Đó sẽ là một cuộc cách
mạng xã hội "
1.1.2. Một số quan điểm của Mác- Lênin về cách mạng vô sản
Chủ nghĩa quốc tế vô sản là ý thức về sự thống nhất lợi ích giai cấp
của những người vơ sản trên toàn thế giới.
Ý thức về sự thống nhất này xuất phát trước hết từ địa vị kinh tế xã hội
của họ. Mác chỉ ra rằng chính phương thức sản xuất đại công nghiệp TBCN là
nguyên nhân khách quan của thuộc tính này.
“Nói chung, cơng nghiệp lớn tạo ra ở khắp nơi những quan hệ như nhau
giữa các giai cấp xã hội và do đó xóa bỏ tính chất riêng biệt của những dân
tộc khác nhau. Và sau hết, trong khi giai cấp tư sản của mỗi dân tộc còn duy
trì những lợi ích dân tộc riêng biệt thì cơng nghiệp lớn lại tạo ra một giai cấp
cùng có những lợi ích như nhau trong tất cả các dân tộc, một giai cấp khơng
cịn tính riêng biệt dân tộc nữa...”
Lênin đã làm rõ vấn đề này thông qua việc phân tích tính chất xã hội
hóa ở phạm vi thế giới của công nghiệp hiện đại: “Thực vậy, việc sản xuất
cho một thị trường rộng lớn ở trong nước và trên thế giới, việc phát triển mối
liên hệ thương nghiệp chặt chẽ về mua bán nguyên liệu và vật liệu phụ giữa
các miền trong nước và giữa các nước với nhau, bước tiến bộ vĩ đại về kỹ
thuật, việc tập trung sản xuất và nhân khẩu trong những xí nghiệp lớn, truyền
thống cổ hủ của chế độ gia trưởng bị phá vỡ, lớp dân cư di động được tạo ra,
mức nhu cầu và trình độ văn hóa của cơng nhân được nâng cao, - tất cả những
3
cái đó đều là những nhân tố của q trình tư bản chủ nghĩa, quá trình làm cho
sản xuất ở trong nước ngày càng được xã hội hóa, và do đấy, làm cho người
tham gia sản xuất cũng ngày càng được xã hội hóa”.
Sự thống nhất đó cũng làm thành nền tảng cho mối liên hệ bình đẳng về
lợi ích, tinh thần trách nhiệm với sự nghiệp chung của giai cấp công nhân ở
các quốc gia - dân tộc: “Muốn cho các dân tộc có thể thực sự đồn kết lại thì
họ phải có những lợi ích chung. Muốn cho những lợi ích của họ trở thành lợi
ích chung thì những quan hệ sở hữu hiện có phải bị thủ tiêu, bởi lẽ những
quan hệ sở hữu hiện có tạo điều kiện cho một số dân tộc này bóc lột một số
dân tộc khác; chỉ có giai cấp cơng nhân là thiết tha với việc thủ tiêu những
quan hệ sở hữu hiện tồn. Duy chỉ có mình nó mới có thể làm được việc này.
Giai cấp vô sản chiến thắng giai cấp tư sản đồng thời cịn có nghĩa là khắc
phục tất cả những cuộc xung đột dân tộc và xung đột công nghiệp hiện nay
đang sinh ra sự thù hằn giữa các dân tộc. Vì vậy mà thắng lợi của giai cấp vô
sản đối với giai cấp tư sản đồng thời cịn là dấu hiệu giải phóng tất cả các dân
tộc bị áp bức”(3).
Chủ nghĩa quốc tế vô sản là sự thống nhất về tư tưởng trong giai cấp công
nhân.
Mác khẳng định: “Sự thống trị của tư bản là có tính chất quốc tế. Chính
vì thế, cuộc đấu tranh của công nhân ở tất cả các nước để tự giải phóng, chỉ có
thể thành cơng được, nếu cơng nhân cùng nhau đấu tranh chống lại tư bản
quốc tế”.
Sự thống nhất về tư tưởng có được khơng phải chỉ từ sự đồng cảm của
những người cùng bị tư bản bóc lột, mà cịn từ sự phát triển trí tuệ, từ cuộc
đấu tranh tư tưởng nội bộ thông qua tranh luận. Trong Lời tựa viết cho bản
tiếng Đức của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, tái bản năm 1890,
Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh: “Để đạt tới thắng lợi cuối cùng của những nguyên
lý đã đề ra trong “Tuyên ngôn”, Mác chỉ tin tưởng vào sự phát triển trí tuệ của
4
giai cấp công nhân, sự phát triển mà hành động chung và tranh luận chung
nhất định sẽ mang lại”.
Nó cịn xuất hiện từ sự giáo dục lâu dài, chu đáo và kỹ lưỡng của các tổ
chức chính trị của giai cấp công nhân. Lênin viết: “... muốn cho cách mạng vơ
sản thắng lợi thì phải giáo dục lâu dài cho cơng nhân tinh thần bình đẳng và
hữu nghị dân tộc đầy đủ nhất”. Lênin cịn nói: “Thắng lợi của cách mạng vơ
sản thế giới địi hỏi giai cấp cơng nhân các nước tiên tiến phải hết sức tin cậy
lẫn nhau, đoàn kết anh em hết sức chặt chẽ với nhau và phải hết sức nhất trí
trong các hành động cách mạng của họ”.
Và sự thống nhất ấy có được, cịn từ chiều sâu của nhận thức về nhu
cầu phát triển của nhân loại: “... đối lập với xã hội cũ cùng với sự bần cùng về
kinh tế và sự điên rồ về chính trị của nó đang xuất hiện một xã hội mới mà
nguyên tắc quốc tế phải là hòa bình, bởi vì cùng một nguyên tắc giống nhau
ngự trị ở tất cả các dân tộc - lao động!”.
Chủ nghĩa quốc tế vô sản là sự thống nhất về mục tiêu quốc tế của giai
cấp công nhân với việc họ trở thành giai cấp đại biểu cho lợi ích của dân tộc.
Đó là sự thống nhất về ý chí và hành động của công nhân. Ăngghen
viết: “Vô sản tất cả các nước đồn kết lại!”, một khẩu hiệu cơng khai tuyên bố
tính chất quốc tế của cuộc đấu tranh, và ngày nay, “giai cấp vô sản chiến đấu
ở tất cả các nước đều ghi khẩu hiệu đó trên lá cờ của mình”. Và theo đó:
“Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội
dung, không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình
thức đấu tranh dân tộc. Đương nhiên là trước hết, giai cấp vô sản mỗi nước
phải thanh toán xong giai cấp tư sản nước mình đã”.
Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp cơng nhân phù hợp cơ bản về lợi ích và
với những xu hướng tiến bộ của vấn đề dân tộc hiện đại. Trong Lời tựa cho
lần xuất bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản bằng tiếng Ý năm 1893,
5
Ăngghen coi nhiệm vụ giải quyết vấn đề độc lập dân tộc như một tiền đề để
giai cấp công nhân thực hiện tốt chủ nghĩa quốc tế: “Không khôi phục lại độc
lập và thống nhất cho từng dân tộc thì về phương diện quốc tế, không thể thực
hiện được sự đồn kết của giai cấp vơ sản và sự hợp tác hịa bình và tự giác
giữa các dân tộc đó để đạt tới mục đích chung”(11). Trong thời đại đế quốc
chủ nghĩa, Lênin đã phát hiện ra sự gắn bó về lợi ích giữa giai cấp cơng nhân
và các dân tộc trong q trình đấu tranh để tự giải phóng. Từ đó Người đã
phát triển khẩu hiệu hành động chiến lược của Tuyên ngôn thành: Giai cấp
công nhân và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới hãy đoàn kết lại! “Đối
lập với thế giới cũ, cái thế giới của áp bức dân tộc, của sự phân tranh dân tộc
hoặc của sự tách biệt giữa các dân tộc, công nhân đưa ra một thế giới mới,
một thế giới trong đó những người lao động thuộc mọi dân tộc đồn kết với
nhau, trong đó khơng có chỗ cho bất cứ một đặc quyền đặc lợi nào, cũng như
khơng có chỗ cho bất cứ một sự áp bức nào giữa người với người”.
Chủ nghĩa quốc tế vô sản không chấp nhận, khơng điều hịa với các thứ
chủ nghĩa dân tộc. Lênin viết: “Chủ nghĩa Mác khơng thể điều hịa được với
chủ nghĩa dân tộc, dù là chủ nghĩa dân tộc “công bằng”, “thuần khiết”, tinh vi
và văn minh đến đâu đi nữa. Thay cho mọi chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa Mác
đưa ra chủ nghĩa quốc tế...” vì “Chúng ta phản đối những mối hằn thù dân
tộc, những mối bất hòa dân tộc, sự biệt lập dân tộc. Chúng ta là những người
quốc tế chủ nghĩa”. Theo đó, “trước hết cần phải giữ vững tinh thần quốc tế
chân chính, tinh thần đó sẽ loại trừ sự xuất hiện của mọi thứ chủ nghĩa sôvanh...”.
Chủ nghĩa quốc tế vô sản là sự thống nhất nhận thức lý luận về sứ mệnh
lịch sử thế giới của giai cấp công nhân.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân chính là hạt nhân lý luận - khoa
học cho sự đoàn kết và hợp tác hành động của công nhân thế giới. Những
nguyên lý lý luận ấy là sự đúc kết từ thực tiễn. “Chủ nghĩa cộng sản nảy sinh
6
ra từ nền đại công nghiệp và những hậu quả của đại công nghiệp, từ sự xuất
hiện của thị trường thế giới và cuộc cạnh tranh khơng thể kìm hãm được do sự
xuất hiện của thị trường thế giới gây ra; từ những cuộc khủng hoảng thương
nghiệp ngày càng có tính chất phá hoại và tính chất phổ biến và giờ đây đã
hoàn toàn trở thành những cuộc khủng hoảng của thị trường thế giới; từ sự
hình thành ra giai cấp vơ sản và sự tích tụ của tư bản; và từ cuộc đấu tranh
giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản do đó mà nảy sinh ra”.
Nó chỉ ra sứ mệnh giải phóng tồn nhân loại của giai cấp công nhân
hiện đại: “... lịch sử của cuộc đấu tranh giai cấp đó hiện nay đã phát triển tới
giai đoạn trong đó giai cấp bị bóc lột và bị áp bức, tức là giai cấp vô sản,
khơng cịn có thể tự giải phóng khỏi ách của giai cấp bóc lột và áp bức mình,
tức là giai cấp tư sản, nếu không đồng thời và vĩnh viễn giải phóng tồn xã
hội khỏi ách bóc lột, áp bức, khỏi sự phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp”.
Lý luận về giai cấp cơng nhân cịn xuất phát từ kinh nghiệm đấu tranh
chính trị. Mác viết: “... chúng ta hãy nhớ một nguyên tắc cơ bản của Quốc tế:
sự đồn kết. Chúng ta sẽ đạt được mục đích vĩ đại mà chúng ta đang hướng
tới, nếu chúng ta củng cố vững chắc nguyên tắc đầy sức sống ấy trong tất cả
các công nhân ở tất cả các nước. Cách mạng là phải đoàn kết, kinh nghiệm
lớn lao của Công xã Pa-ri đã dạy chúng ta như thế; Công xã Pa-ri sở dĩ thất
bại vì tất cả những trung tâm chính như Béc-lin, Ma-đrít,v.v., đã khơng đồng
thời bùng nổ một phong trào cách mạng to lớn tương xứng với trình độ đấu
tranh cao của giai cấp vơ sản Pa-ri”.
Chủ nghĩa quốc tế vô sản là sự phối hợp hành động cách mạng của giai
cấp công nhân ở các nước trên toàn thế giới.
Tổ chức quốc tế của giai cấp công nhân là biểu hiện đầu tiên về sự phối
hợp hành động của giai cấp vô sản. Tổ chức ấy được sinh ra từ giác ngộ về
giai cấp. Việc hình thành một trung tâm quốc tế để lãnh đạo cuộc đấu tranh
7
của giai cấp cơng nhân ở các nước, từ đó thúc đẩy sự ra đời của chính đảng
của giai cấp công nhân ở từng nước là sứ mệnh hàng đầu của các tổ chức
quốc tế của những người cộng sản. “Liên đoàn những người cộng sản” là tổ
chức đầu tiên được thành lập trên cơ sở của sự giác ngộ lý luận chủ nghĩa xã
hội khoa học do Mác và Ăngghen xây dựng. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản
(3-1848) được coi là “bản khai sinh” của tổ chức quốc tế đầu tiên này. Những
nguyên lý mà Mác và Ăngghen trình bày trong tác phẩm này là nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho toàn bộ hoạt động phong trào cộng sản và cơng
nhân quốc tế. Từ đó đến nay, về mặt tổ chức quốc tế, giai cấp công nhân và
những người cộng sản trên tồn thế giới đã có nhiều sáng tạo về hình thức tổ
chức: từ các tổ chức như Quốc tế I (1864 - 1889), Quốc tế II (1889 - 1914),
Quốc tế III (Quốc tế cộng sản 1919 - 1943) đến các hình thức tổ chức quốc tế
tương đương như Cục thông tin quốc tế, Hội nghị các đảng cộng sản và công
nhân quốc tế, Diễn đàn thường niên của các đảng cộng sản và công nhân quốc
tế v.v.. Mác, Ăngghen và Lênin là những lãnh tụ đã dành nhiều cơng sức, trí
tuệ cho việc xây dựng những tổ chức quốc tế đầu tiên và định ra cương lĩnh
chiến đấu, lý luận chỉ đạo cho phong trào công nhân thế giới - biểu hiện sinh
động chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Sự phối hợp hành động cách mạng có nhiều biểu hiện, gần gũi nhất là
sự ủng hộ, giúp đỡ, phối hợp hành động giữa giai cấp công nhân của các dân
tộc đã được đoàn kết lại. Lênin từng trao nhiệm vụ cho Quốc tế III: “Trong tất
cả các nước thuộc địa và các nước lạc hậu, không những chúng ta phải đào
tạo những cán bộ độc lập, xây dựng nên những tổ chức đảng, không những
phải tiến hành tuyên truyền ngay từ giờ cho việc tổ chức các Xô-viết nông
dân và cố gắng làm cho các Xô-viết đó phù hợp với những hồn cảnh tiền tư
bản chủ nghĩa, mà Quốc tế cộng sản còn phải xác định và chứng minh trên lý
luận cho một nguyên tắc là: với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên
tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ xô-viết, và qua những giai đoạn
8
phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản, không phải trái qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa”.
Sự phối hợp hành động ấy còn bao gồm cả sự kết hợp cuộc cách mạng
của giai cấp công nhân chính quốc với các phong trào dân tộc, dân chủ.
“Cuộc cách mạng xã hội chỉ có thể tiến hành được dưới hình thức một thời
đại kết hợp cuộc nội chiến của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản trong các
nước tiên tiến, với cả một loạt phong trào dân chủ và cách mạng, kể cả những
phong trào giải phóng dân tộc trong các nước chưa phát triển, lạc hậu và bị áp
bức”.
Sự thống nhất, phối hợp hành động của giai cấp vô sản ở các nước cũng
chấp nhận những sự khác biệt về chi tiết khi vận dụng các nguyên lý của chủ
nghĩa quốc tế. Lênin từng nhắc nhở: “Chừng nào mà giữa các dân tộc và các
nước vẫn còn những sự khác nhau về dân tộc và về chế độ nhà nước - những
sự khác nhau này, ngay cả khi nền chun chính của giai cấp vơ sản đã được
thiết lập trên phạm vi toàn thế giới, cũng vẫn còn tồn tại trong một thời gian
lâu, rất lâu, - thì chừng đó, sự thống nhất sách lược quốc tế của phong trào
công nhân cộng sản ở tất cả các nước vẫn khơng địi hỏi phải xóa bỏ mọi mầu
sắc khác nhau..., mà nó địi hỏi phải áp dụng những nguyên tắc cơ bản của
chủ nghĩa cộng sản. (Chính quyền xơ-viết và chun chính vơ sản) sao cho
những nguyên tắc ấy được cải biến đúng đắn trong những vấn đề chi tiết,
được làm cho phù hợp, cho thích hợp với những đặc điểm dân tộc và đặc
điểm nhà nước - dân tộc”.
1.1.3. Đánh giá
Như vậy, chủ nghĩa quốc tế vô sản là một hệ thống lý luận chỉ đạo giai
cấp cơng nhân quốc tế về chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động trong quá
trình cùng nhau thực hiện sứ mệnh mà lịch sử trao cho: đấu tranh xóa bỏ
CNTB và xây dựng thành cơng CNXH, chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn
thế giới.
9
Cơ sở kinh tế xã hội của chủ nghĩa quốc tế vơ sản xuất phát từ tính chất
xã hội hóa cao của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã thống nhất tồn
thể giai cấp cơng nhân thế giới ở nhiều điểm: sản xuất cơng nghiệp mang tính
chất liên hiệp, lao động của công nhân bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng
dư; CNTB, chủ nghĩa đế quốc là những thế lực quốc tế đã liên minh với nhau
để bóc lột và chống lại họ; đồn kết quốc tế và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp
công nhân là kinh nghiệm chính trị và là quy luật đấu tranh cách mạng; quá
trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân cũng địi hỏi phải có tư
duy và hành động ở tầm mức thế giới...
Mặt đối lập với chủ nghĩa quốc tế vô sản là chủ nghĩa dân tộc lớn, chủ
nghĩa dân tộc hẹp hòi, là quan niệm biệt phái về tổ chức và hành động, sự
chia rẽ, sự bất đồng về quan điểm giữa các đảng do xuất phát từ lợi ích cục
bộ, thiển cận... Đây cũng là những điểm yếu, mặt hạn chế xuất hiện từ phong
trào cộng sản - công nhân quốc tế và đã bị giai cấp tư sản lợi dụng, gây nhiều
trở ngại. Song cũng đã nhiều lần, sức mạnh tự thân của quy luật khách quan
và ý chí đồn kết của giai cấp công nhân đã tái lập lại chủ nghĩa quốc tế vô
sản ngày càng mạnh mẽ và sâu rộng hơn trong phong trào công nhân thế giới.
Trong bối cảnh chính trị mới của thế giới hiện nay, chủ nghĩa quốc tế
vô sản vẫn là quy luật vận động phát triển và thắng lợi của cuộc đấu tranh của
giai cấp cơng nhân trên tồn thế giới. Dĩ nhiên, cần thấy rằng, đã và đang xuất
hiện nhiều thách thức, khó khăn mới từ chiến lược tồn cầu của chủ nghĩa đế
quốc, từ “chủ nghĩa tự do mới” và chủ nghĩa quốc gia - dân tộc hiện đại...
Thực tế đó địi hỏi mỗi đảng cộng sản và tồn thể phong trào cơng nhân thế
giới cần phải nỗ lực, đồn kết và sáng tạo để vượt qua. Trung thành và vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa quốc tế vô sản trong điều kiện mới vẫn là phương
châm hành động của chúng ta.
10
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc và giá
trị thời đại
1.2.1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường
cách mạng vô sản
Yêu nước và kiên quyết chống giặc ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền và
nền độc lập là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Phát huy truyền
thống đánh giặc giữ nước của dân tộc, tận mắt chứng kiến cảnh nước mất nhà
tan, nhân dân đói khổ lầm than, ngày 5-6-1911, người thanh niên yêu nước
Nguyễn Tất Thành ra đi tìm con đường cứu nước mới cho dân tộc. Mang
trong mình khát vọng giải phóng dân tộc, qua nhiều năm bơn ba ở nước
ngồi, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tìm ra con
đường cách mạng đúng đắn - con đường cách mạng vô sản. Người khẳng
định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, khơng có con đường nào khác
con đường cách mạng vô sản”. Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường cách
mạng giải phóng dân tộc theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga
(1917), bởi theo Người: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã
thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh
phúc tự do, bình đẳng thật”. Con đường giải phóng dân tộc theo khuynh
hướng cách mạng vơ sản, là cuộc cách mạng tồn diện, sâu sắc và triệt để.
Cuộc cách mạng đó khơng chỉ giải phóng giai cấp, mà gắn liền với nó là giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội.
Trong q trình vận dụng lý luận cách mạng vơ sản vào Việt Nam, Hồ
Chí Minh đã kiên trì khắc phục những trở ngại của khuynh hướng giáo điều,
nhấn mạnh một chiều đấu tranh giai cấp trong nửa sau những năm 20 và nửa
đầu những năm 30 của thế kỷ XX, làm cho lý luận cách mạng giải phóng dân
tộc theo khuynh hướng vơ sản có sức sống mạnh mẽ, thâm nhập trong đông
đảo quần chúng nhân dân. Đi theo con đường cách mạng vô sản, Hồ Chí
Minh sớm xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là
11
“làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản”. Sau khi giành độc lập, phải tiến lên xây dựng CNXH. Bên cạnh đó,
Người dành nhiều tâm trí vào sự nghiệp cách mạng XHCN và xây dựng
CNXH ở Việt Nam, hình thành nên những quan điểm hết sức cơ bản về
CNXH và con đường đi lên CNXH từ một nước thuộc địa, với những tàn tích
phong kiến nặng nề; xác định những đặc trưng bản chất của CNXH, mục tiêu
và bước đi để đạt tới CNXH. Đó là một q trình cải biến cách mạng lâu dài,
gian khổ, phải trải qua nhiều chặng đường khác nhau, tất cả vì sự nghiệp giải
phóng con người, làm cho con người phát triển toàn diện, có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc.
Cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vơ sản, tức là
độc lập dân tộc đi tới CNXH. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết, là tiền
đề đi tới CNXH. Không giành được độc lập dân tộc sẽ khơng có gì hết. Độc
lập dân tộc thể hiện ở chỗ giành và giữ chính quyền dân chủ nhân dân, chuẩn
bị tiền đề đi lên CNXH. Nhưng nếu nước độc lập mà dân khơng hưởng hạnh
phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. CNXH là hạnh phúc, tự do.
Vì vậy, phải xây dựng CNXH như là sự phát triển tất yếu của độc lập dân tộc,
để bảo vệ độc lập dân tộc và tạo ra bước phát triển mới với một trình độ cao
hơn của tồn bộ tiến trình cách mạng. Đây chính là sự phát triển sáng tạo luận
điểm của V.I.Lênin về cách mạng không ngừng - cách mạng dân tộc dân chủ
và cách mạng XHCN, giữa hai giai đoạn đó khơng có một bức tường thành
nào ngăn cách cả.
Thực tiễn đó cho thấy, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi
phải đi theo con đường của cách mạng vô sản là một trong những sáng tạo nổi
bật về mặt lý luận của Hồ Chí Minh. Chính theo con đường cách mạng vơ
sản, nhân dân Việt Nam đã làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 “long
trời lở đất”, dẫn tới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2-91945). Trong Tuyên ngôn độc lập đọc trước quốc dân đồng bào vào ngày 2-912
1945, Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự
do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”. Với Tun ngơn
độc lập, Hồ Chí Minh đã tun bố với toàn thế giới về quyền độc lập dân tộc,
thống nhất đất nước, toàn vẹn lãnh thổ và quyền dân tộc tự quyết của dân tộc
Việt Nam. Trong đó, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ
vừa là tiền đề, vừa là điều kiện tiên quyết của chế độ dân chủ, cho việc xác
lập và bảo vệ quyền con người.
Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, do Đảng và Hồ Chí Minh lãnh
đạo đã mở ra một thời đại mới cho dân tộc Việt Nam - thời đại độc lập dân
tộc gắn liền với CNXH. Kiên trì với con đường đã lựa chọn, trải qua 30 năm
trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, với
tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nơ lệ”, “khơng có gì q hơn độc lập, tự do”; trên cơ sở
đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng, với sức mạnh tổng hợp của toàn dân
tộc, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của thực
dân, đế quốc, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Trong cuộc đấu tranh
trường kỳ này, tất cả người dân Việt Nam đã kiên cường đấu tranh cho độc
lập dân tộc và tự do cho nhân dân. Quyền vốn dĩ tự nhiên đó của con người
Việt Nam, của dân tộc Việt Nam được cộng đồng quốc tế đón nhận như là
một trong những tư tưởng lớn của thời đại.
1.2.2. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng Cộng sản
lãnh đạo
Đây là một sáng tạo của Hồ Chí Minh về lý luận cách mạng giải phóng
dân tộc. Hồ Chí Minh cho rằng, “Cách mệnh trước hết phải có đảng cách
mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới thành cơng...”. Đảng đó phải được xây
dựng theo nguyên tắc đảng kiểu mới của V.I.Lênin, được vũ trang bằng chủ
nghĩa Mác - Lênin. Nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng Cộng sản là: Xác định mục
tiêu của cách mạng, xây dựng đường lối cách mạng giải phóng dân tộc; thơng
13
qua cương lĩnh, tổ chức vận động, tập hợp các lực lượng cách mạng, xây
dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất. Đối với cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng
sản phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: chống đế quốc và chống phong
kiến, giành độc lập dân tộc, đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Cương
lĩnh Chính trị đầu tiên được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng do Nguyễn
Ái Quốc soạn thảo đã khẳng định: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai
cấp”(6). Điều đáng chú ý là, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng không chỉ
là của riêng giai cấp công nhân, mà của toàn dân tộc. Tại Đại hội lần thứ II
của Đảng (tháng 02/1951), Hồ Chí Minh phân tích: “Trong giai đoạn hiện
nay, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là
một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, cho nên phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”. Năm 1961,
khi nhân dân miền Bắc đang thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, Hồ Chí
Minh một lần nữa khẳng định: “Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng
là của dân tộc, khơng thiên tư, thiên vị”.
Đó là một Đảng đạo đức và văn minh, được võ trang bằng lý luận Mác
- Lênin; có bản lĩnh chính trị vững vàng; đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm
chất đạo đức trong sáng, năng lực trí tuệ dồi dào, biết giải quyết mọi vấn đề
xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và theo kịp bước tiến của thời đại. Đảng đó
phải xây dựng được một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, vững chắc, lâu
dài, chân thành, đoàn kết; trong đó, lực lượng của Đảng là cả dân tộc, mọi con
dân nước Việt, con Lạc cháu Hồng. Đảng đó cịn biết tập hợp các lực lượng
cách mạng và tiến bộ trên thế giới đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa
thực dân, vì mục tiêu chung của nhân loại tiến bộ là: hịa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Thực tiễn phong phú cách mạng Việt Nam chứng minh rằng, sự lãnh
đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Đồng thời, chính trong q trình lãnh đạo cách
14
mạng, Đảng đã được tôi luyện, thử thách và không ngừng trưởng thành, dày
dạn kinh nghiệm để ngày càng xứng đáng với vai trò và sứ mệnh lãnh đạo
cách mạng, xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân; qua đó, khẳng định một
chân lý, “ở Việt Nam khơng có một lực lượng chính trị nào khác, ngồi Đảng
Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng
lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách cam go để đưa dân tộc
đến bến bờ vinh quang, hạnh phúc”.
1.2.3. Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đồn kết của tồn dân trên
cơ sở liên minh cơng nơng
Sinh thời, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cách mạng giải phóng dân tộc là sự
nghiệp đoàn kết toàn dân, trên cơ sở liên minh cơng nơng làm nịng cốt”...
Trong đó, “thực hiện cho được liên minh cơng nơng vì đó là sự bảo đảm chắc
chắn nhất những thắng lợi của cách mạng”.
Từ thực tiễn Việt Nam, với tuyệt đại đa số dân số là nơng dân, Hồ Chí
Minh cho rằng, nơng dân là những người chịu nhiều tầng áp bức, bị bần cùng
hóa nên họ ln có ý thức phản kháng, sẵn sàng tham gia cách mạng. Do đó,
cách mạng giải phóng dân tộc phải có sự tham gia của giai cấp nơng dân và là
sự nghiệp của tồn dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Nông dân là một
lực lượng rất to lớn của dân tộc, một đồng minh rất trung thành của giai cấp
công nhân. Muốn kháng chiến kiến quốc thành công, muốn độc lập, thống
nhất thật sự, ắt phải dựa vào lực lượng của nông dân. Đồng bào nông dân sẵn
có lực lượng to lớn, sẵn có lịng nồng nàn u nước, sẵn có chí khí kiên quyết
đấu tranh và hy sinh. Do vậy, vấn đề giải phóng dân tộc ở Việt Nam, thực
chất là vấn đề nông dân. Nông dân vừa là động lực, vừa là lực lượng đông
đảo, nòng cốt, và cũng là đối tượng vận động của cách mạng.
Đánh giá cao vai trò, sứ mệnh của giai cấp nơng dân, nhưng Hồ Chí
Minh ln khẳng định, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng và
Đảng phải lãnh đạo xây dựng khối liên minh công - nơng làm nịng cốt cho
15
Mặt trận Dân tộc thống nhất. Hồ Chí Minh chủ trương vận động, tập hợp rộng
rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam, những người dân mất nước, đang phải
chịu thân phận nô lệ, tham gia vào Mặt trận Dân tộc thống nhất, nhằm huy
động sức mạnh của toàn dân tộc vào cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do. Đây
là luận điểm rất mới, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối với cách mạng
thế giới, đặc biệt là phong trào giải phóng dân tộc. Đó là sự bổ sung kịp thời
vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Có thể nói, đối với cách
mạng Việt Nam, luận điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề xây dựng khối đại
đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh công - nông đã được vận dụng một cách
chủ động, sáng tạo trong tiến trình tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc.
1.2.4. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường
cách mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị của quần chúng với đấu tranh
vũ trang
Vượt lên tư tưởng của các nhà lãnh đạo cách mạng tiền bối, Hồ Chí
Minh xác định phương pháp đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam phải
được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh chính
trị của quần chúng với đấu tranh vũ trang; thực hiện khởi nghĩa từng phần tiến
tới tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn.
Trên cơ sở nắm vững những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ
Chí Minh đã nhận thức sâu sắc bản chất của chế độ thực dân: “Chế độ thực
dân, tự bản thân nó, đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu
rồi”,“lũ giặc cướp nước, chết thì chết, nết khơng chừa. Càng gần thất bại thì
chúng càng hung ác”. Người khẳng định: “Độc lập tự do khơng thể cầu xin
mà có được”. Vì vậy, để thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, cũng
như cuộc đấu tranh để bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ CNXH, tất yếu phải
“Dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính
quyền và bảo vệ chính quyền”.
16
Quan điểm bạo lực cách mạng của Hồ Chí Minh khơng hề đối lập với
tinh thần u chuộng hịa bình và chủ nghĩa nhân đạo của dân tộc Việt Nam
mà là sự tiếp nối truyền thống nhân nghĩa của cha ông ta. Đối với Hồ Chí
Minh, trong cuộc đấu tranh chính nghĩa để giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, việc sử dụng bạo lực cũng nhằm mục đích hịa bình: “Dụng việc binh là
việc nhân nghĩa, muốn cứu dân, cứu nước”. Theo Người, hịa bình phải là nền
hịa bình thật sự, gắn liền với độc lập, chủ quyền của Tổ quốc và tự do, dân
chủ của nhân dân. Nếu mục tiêu đó khơng được đáp ứng, phương thức tiến
hành chiến tranh tất yếu là bạo lực cách mạng. Đó chính là nghệ thuật khéo
léo dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng của Người.
Tuy đề cao vai trò của bạo lực cách mạng nhưng Hồ Chí Minh khơng
tuyệt đối hóa vai trị của bạo lực, của đấu tranh vũ trang trong chiến tranh
cách mạng. Với Người, đấu tranh vũ trang chỉ là một trong những phương
pháp để thực hiện mục tiêu chính trị của cách mạng. Với tinh thần ấy, sau khi
về nước chuẩn bị giành chính quyền, tháng 12-1944, trên cơ sở nghiên cứu kỹ
tình hình cách mạng trong nước và trên thế giới, Hồ Chí Minh ra Chỉ thị
thành lập đội “Việt Nam tun truyền giải phóng qn”. Người căn dặn:
“Chính trị trọng hơn quân sự”, “tuyên truyền trọng hơn tác chiến”, “người
trước, súng sau”. Chỉ thị nêu rõ nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang cách
mạng, phương châm xây dựng ba thứ quân, phương thức hoạt động là kết hợp
quân sự với chính trị.
Trong q trình lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền, Hồ Chí Minh và
Đảng đã chỉ đạo tích cực xây dựng và phát triển lực lượng, để khi có thời cơ
sẽ phát động khởi nghĩa vũ trang. Trước hết là xây dựng các căn cứ địa, đồng
thời mở các lớp đào tạo, huấn luyện cán bộ, xây dựng các tổ chức chính trị
của quần chúng... Với sự chủ động, tích cực chuẩn bị đón chờ thời cơ khởi
nghĩa, tháng Tám năm 1945, khi thời cơ đến, lệnh “Tổng khởi nghĩa” được
17
ban ra, chỉ trong chưa đầy nửa tháng, cả nước đã đứng lên giành chính quyền
về tay nhân dân.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm
lược, kế thừa và phát huy nghệ thuật lãnh đạo Tổng khởi nghĩa giành chính
quyền trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh và Đảng Lao
động Việt Nam đã tập trung lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang lớn mạnh,
với ba thứ quân và không ngừng nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật của
quân đội để đánh bại các chiến lược quân sự của kẻ thù; đồng thời, kết hợp
với xây dựng lực lượng chính trị mạnh mẽ của quần chúng để khi thời cơ đến
tiến hành tổng tiến công, giành thắng lợi quyết định trong sự nghiệp giải
phóng dân tộc.
18