MỤC LỤ
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................2
CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG THỜI KỲ BAO CẤP...............................2
1.1. Khái niệm và phân loại....................................................................2
1.1.1. Khái niệm....................................................................................2
1.1.2. Các hình thức bao cấp.................................................................2
1.1.3. Đặc điểm.....................................................................................5
1.2. Tình hình kinh tế xã hội...................................................................6
1.2.1. Nơng nghiệp................................................................................6
1.2.2. Cơng nghiệp................................................................................6
1.2.3. Văn hóa.......................................................................................7
1.2.4. Xã hội..........................................................................................8
1.2.5. Giáo dục......................................................................................9
1.2.6. Y tế............................................................................................10
1.3. Thời kỳ đổi mới..............................................................................10
CHƯƠNG II: NHỮNG HẠN CHẾ VÀ BÀI HỌC RÚT RA CHO
VIỆC PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG XHCN NƯỚC
TA HIỆN NAY..........................................................................................11
2.1. Hạn chế............................................................................................11
2.1.1. Đối với từng thời kỳ..................................................................11
2.1.1. Đánh giá chung..........................................................................11
2.2. Bài học rút ra để phát triển nền kinh tế thị trường....................12
2.2.1. Khơng ngừng hồn thiện thể chế...............................................13
2.2.2. Cơng băng với doanh nghiệp.....................................................13
2.2.3. Chọn mơ hình phát triển phù hợp..............................................14
2.2.4. Coi trọng phát triển kinh tế tư nhân..........................................15
PHẦN III: KẾT LUẬN.................................................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................17
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Ở thời nay, ăn mặc “sành điệu”, ăn uống “sành điệu”, chọn nhà hàng
nào, thời trang nào… là thứ mà mọi người phải đau đầu suy nghĩ, người đơn
giản hơn một chút thì phải là “ăn ngon mặc đẹp”…Nhưng cách đây 40, 50
năm, vào những năm 70, 80 của thế kỷ 20, các thế hệ người Việt chỉ ước ao
đủ ăn đủ mặc. Cái đói trường kỳ gặm nhấm tâm can và dạ dày khiến mọi suy
nghĩ của một ngày chỉ xoay quanh vấn đề miếng ăn.
Thời bao cấp, với cách gọi nôm na trong người dân là “thời đặt gạch
xếp hàng”, diễn ra từ năm 1957 tại miền Bắc, tới sau 4/1975 thì triển khai trên
toàn quốc, mãi tới 4/1989 mới thực sự kết thúc. Giai đoạn này nằm trong ký
ức không thể quên của thế hệ đầu 8X, 7X, 6X… Đây là một giai đoạn mà hầu
hết hoạt động kinh tế diễn ra dưới nền kinh tế kế hoạch hóa do nhà nước kiểm
sốt, một đặc điểm của nền kinh tế theo chủ nghĩa cộng sản, khơng chấp nhận
kinh doanh tự do. Để có cái nhìn sâu và rộng hơn, tơi đã chọn đề tài “ Từ
những hạn chế của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp rút ra bài học
cho việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta
hiện nay”.
Đề tài gồm có…………
PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG THỜI KỲ BAO CẤP
1.1. Khái niệm và phân loại
1.1.1. Khái niệm
Thời bao cấp là tên gọi được sử dụng tại Việt Nam để chỉ một giai đoạn
mà hầu hết sinh hoạt kinh tế đều được Nhà nước bao cấp, diễn ra dưới nền
kinh tế kế hoạch hóa, một đặc điểm của nền kinh tế theo chủ nghĩa cộng sản.
Theo đó thì kinh tế tư nhân dần bị xóa bỏ, nhường chỗ cho kinh tế do nhà
nước chỉ huy. Mặc dù kinh tế chỉ huy đã tồn tại ở miền Bắc dưới chế độ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa từ trước năm 1975, song thời kỳ bao cấp thường
được dùng để chỉ sinh hoạt kinh tế cả nước Việt Nam ở giai đoạn từ đầu năm
1976 đến cuối năm 1986 trên toàn quốc, tức là trước Đổi Mới.
Trong nền kinh tế kế hoạch, thương nghiệp tư nhân bị loại bỏ, hàng hóa
được phân phối theo chế độ tem phiếu do nhà nước nắm toàn quyền điều
hành, hạn chế đến thủ tiêu việc mua bán trên thị trường hoặc vận chuyển tự
do hàng hoá từ địa phương này sang địa phương khác. Nhà nước có độc
quyền phân phối hàng hóa, hạn chế trao đổi bằng tiền mặt. Chế độ hộ khẩu
được thiết lập trong thời kỳ này để phân phối lương thực, thực phẩm theo đầu
người, tiêu biểu nhất là sổ gạo ấn định số lượng và mặt hàng được phép mua.
1.1.2. Các hình thức bao cấp
Bao cấp qua giá và số lượng hàng hóa
Nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, hàng hóa thấp hơn
nhiều lần so với giá trị thực với chúng trên thị trường. Do đó, hạch tốn kinh
tế chỉ là hình thức.
Cơng nhân lao động nặng được cấp 20 kg gạo mỗi tháng, trong khi cán
bộ công chức chỉ được có 13 kg. Do gạo ít nên thường ăn độn thêm ngô,
khoai, sắn, bo bo, phần gạo do trung ương cấp còn phần độn do địa phương
phụ trách tăng gia thêm vào, như 13 kg gạo thì có 10 kg là độn khoai,
sắn...Cho dù có tiền, hàng hóa rất khan hiếm, mà dù có tem phiếu người mua
có thể sắp hàng vào mua nhưng đến lượt mình thì khơng cịn hàng, đành về
tay khơng. Hàng hóa thì ngồi phẩm chất kém, lượng hàng rất hạn chế, chỉ đủ
dùng một thời gian ngắn, đến cuối tháng thì đã cạn kiệt, phải mua ở chợ đen.
Người ngoại quốc ở Việt Nam thì có quyền mua sắm một số mặt hàng
ở cửa hiệu quốc doanh riêng biệt như Intershop ở Hà Nội, cung cấp một số
mặt hàng đặc biệt như đồ hộp, rượu vang.
Nguồn thức ăn độn thêm chủ yếu từ Liên Xô, Ấn Độ cùng một số nước
khác từng viện trợ. Ngồi ra cũng có một số thực hiện theo nghị định thư
hàng đổi hàng. Bên cạnh đó, Việt Nam mượn 300.000 tấn lúa mì của Ấn Độ
tuy nhiên do năng lực xay xát của Việt Nam cũng không thể làm bột kịp phải
thương thuyết nhờ Ấn Độ xay xát giúp. Việt Nam nhận 70% lượng bột, phần
còn lại xem như khấu hao xay xát và trả công cho họ cũng như Indonesia
đồng ý bán nợ cho Việt Nam 200.000 tấn gạo. Bộ Lương thực nhờ ông JeanBaptiste Doumeng - giám đốc Công ty Ipitrade, thành viên Đảng Cộng sản
Pháp thân thiện với Việt Nam giúp đỡ tìm kiếm nguồn cung cấp rồi mua bằng
tiền.
mặt 500.000 tấn gạo của Thái Lan để bán nợ lại cho Việt Nam.
Ngoài hàng tiêu dùng, dưới thời bao cấp nhà nước còn nắm cả việc
phân phối nhà cửa. Tiêu chuẩn là mỗi người được 4 mét vuông. Những khu
nhà tập thể giống như ở Liên Xô được xây lên trong thành phố và cấp cho cán
bộ trung cấp và công nhân nhưng quản lý kém khiến khu đất công cộng bị lấn
chiếm khiến khó nhận ra đâu là của chung, đâu là của riêng. Nhà cửa hư hỏng
thì có Sở nhà đất lo sửa. Đời sống trong những khu tập thể này càng tồi tệ với
việc chăn nuôi gia súc trong những căn hộ chật hẹp, mất vệ sinh. Đây cũng là
một khía cạnh của thời bao cấp trong thành phố. Giá nhà ở các thành phố
tương đối rẻ, nhưng công nhân viên chức vẫn không mua nổi vì thu nhập quá
thấp.
Bao cấp qua chế độ tem phiếu
Nhà nước quy định chế độ phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cán bộ,
công nhân viên theo định mức qua hình thức tem phiếu. Chế độ tem phiếu với
mức giá khác xa so với giá thị trường đã biến chế độ tiền lương thành lương
hiện vật, thủ tiêu động lực kích thích người lao động và phá vỡ nguyên tắc
phân phối theo lao động. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắt đầu áp dụng sổ gạo
vào khoảng năm 1960, lúc đầu là lương thực, sau thêm tem phiếu cho tất cả
càng mặt hàng nhu yếu. Trọng tâm của thời bao cấp là tem phiếu quy định
loại hàng và số lượng người dân được phép mua, chiếu theo một số tiêu chuẩn
như cấp bậc và niên hạn. Có diện được ưu đãi, cho phép ưu tiên mua dùng;
diện khác thì khơng. Ví dụ như thịt lợn, người dân thường chỉ được mua 1,5
kg/tháng nhưng cán bộ cao cấp có quyền mua 6 kg/tháng. Pin, Vải vóc, phụ
tùng xe đạp, đường cát, sữa đặc, chất đốt, nước mắm, mỡ, muối, tất cả đều có
tem phiếu.
Tùy thuộc vào vị trí cơng việc, đặc thù nghề nghiệp mà cán bộ, công
chức nhà nước cũng như người dân lao động được phát tem phiếu mua lương
thực, thực phẩm với chế độ riêng.
Cán bộ cao cấp hưởng tiêu chuẩn đặc biệt A1; phiếu A dành cho bộ
trưởng; thứ trưởng phiếu B; trưởng các cục, vụ, viện được hưởng phiếu C và
có các cửa hàng phục vụ riêng tại phố Tông Đản, Nhà thờ, Vân Hồ (Hà Nội)...
Lúc bấy giờ dân gian có câu Tơng Đản là của vua quan/ Nhà thờ là của trung
gian nịnh thần/ Đồng Xuân là của thương nhân/ Vỉa hè là của nhân dân anh
hùng.
Bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách
Khơng có chế tài ràng buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị
được cấp vốn. Điều đó vừa làm tăng gánh nặng đối với ngân sách, vừa làm
cho việc sử dụng vốn kém hiệu quả, nảy sinh cơ chế "xin - cho".
1.1.3. Đặc điểm
+ Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung là nền kinh tế chỉ có hai thành
phần sở hữu về tư liệu sản xuất là: Sở hữu Nhà nước và sở hữu tập thể, được
thể hiện dưới dạng Quốc doanh và Hợp tác xã.
Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa
trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh
nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định của nhà nước. Tất cả phương
hướng sản xuất, vật tư, vốn, định giá sản phẩm, tổ chức bộ máy, nhân sự, tiền
lương,…đều do nhà nước quyết định. Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoach, cấp
phát vốn cho doanh nghiệp, doanh nghiệp nộp lại sản phẩm cho nhà nước. Lỗ
thì nhà nước chịu lãi thì nhà nước thu.
+ Nền kinh tế hai thành phần chịu sự quản lý tập trung của Nhà nước
thông qua kế hoạch hóa là khâu trung tâm.
Các cơ quan can thiệp sâu vào mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của
doanh nghiệp nhưng lại khơng chịu trách nhiệm gì về vật chất và pháp lý đối
với các quyết định của mình. Những thiệt hại vật chất do các quyết định sai
lầm gây ra thì ngân sách nhà nước phải gánh chịu. Các doanh nghiệp không
được quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, đồng thời cũng không bị ràng
buộc trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh.
+ Động lực cơ bản của vận động kinh tế là sự giác ngộ cách mạng của
đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức, và kỷ luật hành chính, được tạo bởi
cơng tác chính trị, tư tưởng cơng tác động viên tinh thần.
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan hệ hiện vật là chủ yếu
cịn quan hệ hàng hóa – tiền tệ khơng được coi trọng mà chỉ là hình thức. Nhà
nước quản lý kinh tế thông qua chế độ “cấp phát – giao nộp”. Vì vậy, sức lao
động hay các văn bằng phát minh sáng chế, tư liệu sản xuất quan trọng khơng
được coi là hàng hóa về mặt pháp lý.
+ Bộ máy quản lý nhà nước cồng kềnh, nhiều cấp trung gian, kém năng
động gây ra tình trang cửa quyền quan liêu, hách dịch nhưng lại được hưởng
chế độ, quyền lợi cao hơn người lao động.
Thực hiện cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, thống nhất cao độ từ
trung ương đến địa phương đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân; nền kinh tế
mang nặng tính chất hiện vật, quan hệ hàng hoá - tiền tệ chỉ được thừa nhận
về mặt hình thức, cịn trên thực tế là thực hiện chế độ cấp phát, giao nộp, phân
phối theo kế hoạch đến tận tay người tiêu dùng, các đơn vị kinh tế khơng có
quyền tự chủ trong sản xuất – kinh doanh; trong kinh tế đối ngoại, chủ yếu
trao đổi ngoại thương với các nước XHCN dưới hình thức các nghị định thư,
hợp tác kinh tế mà thực chất là đổi trực tiếp hàng lấy hàng; thực hiện nhà
nước độc quyền ngoại thương, trên thực tế đó là một nền kinh tế khép kín.
1.2. Tình hình kinh tế xã hội
1.2.1. Nông nghiệp
Sau năm 1975, với tiêu chuẩn phân phối trung bình 9 kg
gạo/người/tháng thì 4 triệu dân thành thị mỗi năm phải cần 530.000 tấn gạo.
Nhưng số lượng này không được đảm bảo khi Nhà nước chỉ có thể huy động
nổi hơn 1 triệu tấn mỗi năm trên tồn quốc trong khi số gạo đó phải dùng để
nuôi một quân đội thường trực lớn và phân phối cho dân thành thị. Chính vì
thế nhà nước chỉ có thể cung cấp cho người dân thành thị một lượng lương
thực và thực phẩm tối thiểu vừa đủ để họ duy trì cuộc sống. Trong thời bao
cấp xảy ra một nghịch lý người dân thành thị có khẩu phần ăn cịn kém chất
lượng hơn người dân nơng thơn trong khi ở các quốc gia khác thành thị ln
có mức sống cao hơn nông thôn.
1.2.2. Cơng nghiệp
Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam
tháng 12-1976 đã xác định “Đẩy mạnh cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa, xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nước ta từ sản xuất
nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng
một cách hợp lý, trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết
hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu công nông nghiệp; kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện
quan hệ sản xuất mới, kết hợp kinh tế với quốc phòng”.
Trong 10 năm 1975-1986, Nhà nước đã đầu tư vào ngành công nghiệp
65 tỷ đồng (tính theo giá 1982) trong đó, đầu tư cho công nghiệp nặng là trên
70% và công nghiệp nhẹ gần 30%. Đầu tư công nghiệp chiếm trên 40% tổng
vốn đầu tư vào khu vực sản xuất với tốc độ tăng đầu tư cao hơn mức bình
qn của tồn bộ khu vực sản xuất. Trong thời kỳ này, nhiều cơng trình tương
đối lớn được xây dựng. Đến năm 1985, tồn ngành cơng nghiệp có 3.220 xí
nghiệp quốc doanh, 36.630 cơ sở tiểu thủ công nghiệp với 2,653 triệu lao
động, đã sản xuất được 105 tỷ đồng giá trị tổng sản lượng, làm ra 30% thu
nhập quốc dân, 40% tổng sản phẩm xã hội và trên 50% giá trị sản lượng cơng
- nơng nghiệp.
1.2.3. Văn hóa
Người dân ít được tiếp xúc văn hóa phương Tây, văn học, phim, nhạc...
đều được kiểm soát, được xem là gần gũi quần chúng và có giá trị nghệ thuật.
Văn học được lưu hành chủ yếu là văn học cổ điển, văn học Nga, văn học xã
hội chủ nghĩa, văn học cánh tả, văn học hiện thực phê phán, hiện thực xã hội
chủ nghĩa và lãng mạn tích cực; các trường phái được xem là "tiêu cực", "rẻ
tiền" không được phép lưu hành. Văn chương chủ yếu tuyên truyền cho chủ
nghĩa xã hội - cộng sản, tinh thần yêu nước, tinh thần tập thể, yêu lao động,
tinh thần quốc tế.
Âm nhạc được cho phép bao gồm nhạc cổ điển phương Tây như giao
hưởng, opera; dân ca và nhạc cách mạng (hay gọi là nhạc đỏ)
Nhạc tiền chiến, nhạc chế độ cũ miền Nam (hay gọi là nhạc vàng), nhạc
trẻ, ca trù, chầu văn, nhã nhạc và âm nhạc từ các nước "tư bản" đều bị cấm.
Cuối bao cấp, nhạc nhẹ được cho phép.
Phim chỉ có phim nhựa (kể cả phim tài liệu), chưa có phim truyền hình,
chủ yếu chiếu rạp, lưu động và phát một số buổi nhất định trên truyền hình.
Cuối thời bao cấp, phim thương mại được chấp nhận ở mức độ nhất định. Các
phim nước ngoài được trình chiếu chủ yếu là phim Liên Xơ và các phim các
nước xã hội chủ nghĩa (phim Trung Quốc bị cấm sau chiến tranh biên giới
năm 1979), ngoài ra cịn có phim các nước Pháp, Mỹ, Anh, Ấn Độ,... Các
phim Việt Nam chủ yếu tuyên truyền chiến đấu, sản xuất, một số tác phẩm
văn học hiện thực phê phán trước 1945 được chuyển thể.
Nhà nước chú trọng chống mê tín dị đoan, phổ biến khoa học. Báo chí
khơng có quảng cáo thương mại. Các tờ báo rất giống nhau về quan điểm, tư
tưởng, chỉ khác là phục vụ cho các đối tượng khác nhau, không chạy theo lợi
nhuận, được bao cấp. Các văn nghệ sĩ sinh hoạt trong các cơ quan tổ chức của
nhà nước, được nhà nước trả lương như cơng chức.
1.2.4. Xã hội
Ngồi hậu quả kinh tế, thời bao cấp tại Việt Nam cũng là thời kỳ khép
kín và nghi kị về mặt xã hội và chính trị. Mặc dù khơng có luật chính thức,
nhưng nhà nước khá thận trọng với người phương Tây, người nước ngoài vì
khác biệt tư tưởng và các vấn đề an ninh. Người Việt phần lớn không được
tiếp xúc với người ngoại quốc. Ai vi phạm sẽ bị công an tra hỏi. Du lịch
không được quan tâm, xuất nhập cảnh rất gắt gao.
Sự thiếu thốn thời bao cấp khiến nạn ăn cắp vặt nảy sinh. Phân hóa giàu
nghèo rất thấp. Giáo dục, y tế được bao cấp dù khá nghèo nàn về trang thiết
bị. Sinh viên ra trường đều có việc làm nhưng chịu sự phân công của nhà
nước, không được tự lựa chọn công việc, không bị thất nghiệp. Thi đại học rất
khó, địi hỏi tiêu chuẩn cao. Tính cộng đồng trong xã hội cao. Khơng có nhiều
loại hình giải trí nhưng con người ít chịu áp lực của cơng việc và nhu cầu vật
chất hơn so với thời kỳ Đổi Mới.
1.2.5. Giáo dục
Thành tựu giáo dục trong thời kỳ này là phát triển hệ thống giáo dục
phổ thông đại trà đến tận cấp xã; mỗi xã, phường đều có trường phổ thông
cấp I hoặc trường phổ thông cấp I-II; tập trung cho cơng tác bổ túc văn hóa và
xóa mù chữ trong độ tuổi đi học; mỗi quận, huyện và thị xã có trường bổ túc
văn hóa cho cán bộ cơ sở. Tuy nhiên đi kèm với sự phát triển mạnh về mặt số
lượng, chất lượng hệ thống giáo dục lại đi xuống vì tình trạng thiếu trường
lớp, thiếu giáo viên được đào tạo tốt, lương giáo viên bị hạ thấp, việc thi cử bị
bng lỏng, bệnh thành tích phát triển.
Khi hai miền Nam và Bắc thống nhất năm 1976 thì khuôn mẫu giáo
dục ở miền Bắc tiếp cận với hệ thống giáo dục đã được thiết lập ở miền Nam;
cụ thể nhất là học trình 10 năm tiểu học và trung học ở miền Bắc phải phù
hợp với học trình 12 năm ở trong Nam. Hai hệ thống này song hành; Miền
Bắc tiếp tục hệ 10 năm và miền Nam giữ hệ 12 năm từ năm 1976 đến năm
1981.
Đến năm 1981, thì cho áp dụng hệ 11 năm cho miền Bắc (thêm lớp 5).
Năm 1992-1993, hệ thống 11 năm phổ thông của miền Bắc được thay đổi từ
11 năm sang 12 năm (thêm lớp 9). Từ đó đến nay tồn bộ hệ thống là 12 năm
thống nhất cả nước. Cuộc cải cách giáo dục bắt đầu từ năm 1981: Hệ thống
giáo dục chuyển từ 10 năm sang 12 năm (bỏ lớp vỡ lịng), kéo theo sự đổi
mới chương trình sách giáo khoa và cải tiến chữ viết. Do dư luận xã hội phản
ứng mạnh, ngành giáo dục dần quay lại chữ viết cũ. Do tinh thần chỉ đạo hệ
thống giáo dục Việt Nam phải bắt kịp trình độ Liên Xơ và các nước Đơng Âu,
khiến chương trình giảng dạy của cuộc cải cách giáo dục năm 1981 bị chính
các nhà trường kêu quá tải. Với ý nghĩa nội dung bao giờ cũng quyết định
phương pháp, nếu sách giáo khoa bị quá tải thì khơng có một phương pháp
nào ngồi phương pháp truyền thụ một chiều cho kịp với nội dung sách giáo
khoa. Ngoại ngữ chủ yếu tiếng Nga, còn tiếng Anh một thời bỏ, đến 1985 lại
được cho học.
1.2.6. Y tế
Thời bao cấp, người dân đi khám chữa bệnh hay mua thuốc rồi mang
hóa đơn về cơ quan hay bệnh viện thanh tốn mà khơng mất tiền, song điều
kiện chữa trị vơ cùng thiếu thốn. Bao cấp nhưng trong bối cảnh Nhà nước
thiếu kinh phí, sản xuất khơng phát triển nên bệnh viện gặp vơ vàn khó khăn.
Các loại thuốc men, trang thiết bị y tế… chủ yếu được viện trợ. Bộ Y tế có cả
Vụ kế hoạch, Cục Vật tư làm nhiệm vụ phân chỉ tiêu cho các bệnh viện. Ví
dụ: Bệnh viện Bạch Mai một năm được cấp bao nhiêu chiếu, chăn, đường,
sữa, xăng dầu, thuốc men… Các bệnh viện thời bao cấp có quy mơ nhỏ, chủ
yếu kiểu nhà một tầng đến ba tầng. Thuốc men, thiết bị y tế không đủ đáp ứng
nhu cầu một phần nhập khẩu, một phần được viện trợ từ các nước cộng sản.
1.3. Thời kỳ đổi mới
Từ năm 1986, Việt Nam đã thực hiện cơng cuộc đổi mới tồn diện đất
nước. Dưới áp lực của tình thế khách quan, nhằm thốt khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội, Việt Nam đã có những bước cải tiến nền kinh tế theo hướng
thị trường, tuy nhiên cịn chưa tồn diện, chưa triệt để. Đó là khốn sản phẩm
trong nơng nghiệp theo Chỉ thị số 100-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương
khóa IV; bù giá vào lương ở Long An; Nghị quyết Trung ương 8 khóa V
(năm 1985) về giá - lương — tiền; thực hiện Nghị định số 25 - CP và Nghị
định số 26 - CP của Chinh phủ... Đó là những căn cứ thực tế để Đảng Cộng
sản Việt Nam đi đến quyết định thay đổi về cơ bản cơ chế quản lý kinh tế.
Đề cập sự cần thiết đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đại hội VI khẳng
định "Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh
tế. Cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm nay không tạo
được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc
sử dụng, và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm
năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu thông, và đẻ
ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội". Chính vì vậy, việc đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế trở thành nhu cầu cần thiết và cấp bách.
CHƯƠNG II: NHỮNG HẠN CHẾ VÀ BÀI HỌC RÚT RA CHO
VIỆC PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG XHCN
NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Hạn chế
2.1.1. Đối với từng thời kỳ
* Giai đoạn từ năm 1976-1980:
- Kinh tế mất cân đối , sản xuất phát triển chậm , thu nhập quốc dân và
năng xuất thấp làm cho đời sống nhân dân khó khăn.
* Giai đoạn từ năm 1980-1985:
- Những khó khăn cũ chưa khắc phục , có mặt cịn trầm trọng hơn , tình
hình kinh tế - xã hội chưa ổn định .
- Xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan , nhất là sai
lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo và quản lý , chậm khắc phục.
2.1.1. Đánh giá chung
Cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung còn mang rất nhiều hạn chế,
khuyết tập ngay cả trong thời chiến ở nước ta nhưng nó chưa bộc lộ một cách
gay gắt. cơ chế này chỉ thực sự bộc lộ những khuyết điểm của nó sau năm
1975 khi đất nước thống nhất, cả nước đi lên xây dựng và phát triền kinh
tế.Một số nhược điểm của cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung.
+ Thủ tiêu cạnh tranh, kìm hãm sự phát triển của tiến bộ khoa học kỹ
thuật.
+ Triệt tiêu động lực kinh tế đối với người lao động, khơng kích thích
tính năng động sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh.
+ Làm cho đội ngũ cán bộ công chức của các cơ quan hành chính nhà
nước trở nên quan liêu, lộng quyền, hách dịch.
+ Khi nền kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều
sâu dựa trên cơ sở ứng dụng các thành tựu của khoa học cơng nghệ hiện đại
thì cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung càng bộc lộ những khiếm
khuyết cảu nó, làm cho nền kinh tế xã hội của các nước xã hội chủ nghĩa
trước đây ( trong đó có nước ta) lâm vào tình trạng khủng hoảng, trị trệ.
Tóm lại, Ở nước ta Đảng và nhà nước ta thực hiện cơ chế quản lý kinh
tế kế hoạch hóa tập trung từ năm 1954 đến năm 1986, trong giai đoạn đầu, đất
nước có chiến tranh cơ chế này đã thể hiện sự phù hợ và đúng đắn, đáp ứng
được những u cầu của thời chiến, chính vì vậy nó đã góp phần quan trọng
vào thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước,
Nhưng sau nay 1975 khi đất nước ta hoàn toàn thống nhất, thì cơ chế quản lý
kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã khơng cịn phù nữa. Chính vì do duy trì q
lâu nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung tù 1954 – 1986 đã làm cho đất nước ta
lâm vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng nghiêm trọng nhất là trong thập niên
80 của thế kỉ XX và đến năm 1986 Đảng và Nhà nước ta đã phải tiến hành
công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế - xã hội.
2.2. Bài học rút ra để phát triển nền kinh tế thị trường
Mơ hình “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” áp dụng ở
nước ta với một thời gian chưa phải là dài, nếu khơng nói là cịn q ngắn
ngủi nếu so với nhiều mơ hình kinh tế đã tồn tại hàng trăm năm trên thế giới.
Vì thế nên, việc nhận thức về mơ hình kinh tế này cịn đang ở chặng đường
đầu, với những nét chấm phá rất đơn giản; và, tất yếu là cịn có nhiều cách
nhìn nhận khác nhau, thậm chí là trái ngược nhau. Qua thời kỳ bao cấp chúng
ta có thể rút ra một số bài học để phát triển nền kinh tế thị trường XHCN như
sau:
2.2.1. Khơng ngừng hồn thiện thể chế
Bất cập rõ nhất của bộ máy nhà nước và hành chính là sự yếu kém
trong phối hợp hoạch định, thực thi chính sách và trao đổi phản hồi. Hiệu lực
thực thi, khả năng giải trình yếu và việc thiếu ràng buộc trách nhiệm cũng là
những vấn đề nghiêm trọng. Những tồn tại này đã hạn chế nhiều tác động tích
cực của các chính sách tốt và nhiều khi hoạt động của bộ máy nhà nước mang
tính “nhà nước vị nhà nước” hơn là “nhà nước vị công dân và doanh nghiệp”.
Các cơng cụ chính sách kinh tế đã tương đối có đủ “tên”, song hiệu lực
và hiệu quả chưa cao. Mặc dù đã có sự “lồng ghép” các mục tiêu và một số
chương trình mục tiêu, song việc tiên liệu tác động xã hội, mơi trường của các
chính sách kinh tế cịn thiếu ngay từ khâu định hình và hoạch định chính sách.
Việc thực thi giám sát sau đó cũng yếu. Trong khi đó, các mục tiêu chính sách
thường q tham vọng, chịu áp lực cứng nhắc theo nhiệm vụ chính trị, và
thiếu linh hoạt cần thiết khi bối cảnh thay đổi. Nhiều ý tưởng chủ đạo vẫn
mang nặng dấu ấn của những quan điểm về quản lý nhà nước trong một nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Chức năng nhà nước trong nền kinh tế thị
trường chưa được đề ra và lập luận sáng tỏ. Sâu xa hơn, trong khi các mục
tiêu phát triển ngày càng gần với cách nhìn nhận có tính phổ biến trên thế giới
thì quan niệm về định hướng XHCN lại chưa được làm sáng tỏ trong mối
quan hệ với các mục tiêu đó.
2.2.2. Cơng băng với doanh nghiệp
Kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp cận dưới
góc độ tài chính - ngân hàng đòi hỏi các quan điểm điều hành và phương thức
quản lý tài chính, tiền tệ phải tuân theo các quy luật của KTTT và bản chất
của CNXH để có thể bảo đảm thúc đẩy kinh tế phát triển, giải quyết hài hòa
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và chính sách xã hội. Mạnh dạn xóa bỏ tư
duy bao cấp và quản lý bằng biện pháp hành chính, bằng mệnh lệnh chuyển
sang quản, cơng cụ và địn bẩy kinh tế. Quyền tự chủ kinh doanh, tự chủ về
tài chính của các doanh nghiệp, đơn vị kinh tế ngày càng được nâng cao.
Hệ thống ngân hàng đã, đang và cần tiếp tục được cải tổ theo mơ hình
hiện đại, tách bạch chức năng quản lý nhà nước và chức năng kinh doanh tiền
tệ, tín dụng. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước thực hiện vai trò quản lý Nhà
nước trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và chức năng của một ngân hàng trung
ương trong ổn định hệ thống tiền tệ, kiểm sốt lạm phát, góp phần thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế; từng bước mở cửa thị trường tín dụng, các dịch vụ ngân
hàng phù hợp với cam kết quốc tế; phát triển một hệ thống các tổ chức tín
dụng đa sở hữu với một thể chế tương đối hoàn chỉnh. Đặc biệt, bên cạnh hệ
thống các ngân hàng thương mại đa hình thức sở hữu thực hiện chức năng
kinh doanh tiền tệ, đã hình thành một ngân hàng chính sách xã hội để thực
hiện nhiệm vụ cho vay xóa đói, giảm nghèo, thơng qua các chương trình cho
vay hộ nghèo, cho vay sinh viên có hồn cảnh khó khăn, và hỗ trợ các chương
trình an sinh xã hội khác.
2.2.3. Chọn mơ hình phát triển phù hợp
Thứ nhất, đó là nền kinh tế đa dạng, đa sở hữu, ngày càng tăng cường
sự liên kết và tương tác giữa các loại hình doanh nghiệp, các thành phần kinh
tế và các thị trường.
Đó là nền kinh tế có sự tồn tại và cạnh tranh ngày càng bình đẳng giữa
các loại hình doanh nghiệp và thành phần kinh tế. Kinh tế Nhà nước giảm dần
tỷ trọng, và hoạt động chủ yếu trong những lĩnh vực an ninh quốc phòng, khai
thác các tài nguyên quý, hiếm, kinh doanh trong những ngành, lĩnh vực quan
trọng, có ý nghĩa chiến lược. Kinh tế tập thể sẽ tiếp tục được đổi mới và phát
triển đa dạng.
Thứ hai, đó là nền kinh tế ngày càng hướng vào khai thác các động lực
và đáp ứng các yêu cầu phát triển theo chiều sâu và bền vững.
Nền kinh tế ngày càng chuyển từ phát triển bề rộng sang chủ yếu theo
bề sâu, dựa trên khoa học và công nghệ (nhất là công nghệ sạch, hiện đại).
Các doanh nghiệp ngày càng quan tâm đến xây dựng và bảo vệ thương hiệu,
phát triển văn hóa kinh doanh và thực hiện tốt các trách nhiệm xã hội, bảo vệ
môi sinh, tiết kiệm năng lượng, giảm thiểu chất thải và phế liệu sản xuất.
Thứ ba, đó là nền kinh tế vận hành theo các nguyên tắc thị trường mở,
phù hợp với các cam kết hội nhập quốc tế và có sự điều tiết của Nhà nước
pháp quyền vì mục tiêu con người.
Các thiết chế thị trường và dân chủ xã hội khác ngày càng được hoàn
thiện và phát triển đồng bộ, lành mạnh phù hợp với các cam kết hội nhập
quốc tế. Môi trường đầu tư - kinh doanh ngày càng đậm tính thị trường, bình
đẳng, minh bạch hơn và ngày càng đóng vai trị bà đỡ, trực tiếp ni dưỡng,
thẩm định và phán quyết hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vai trò của
các hiệp hội doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ ngày càng tăng.
2.2.4. Coi trọng phát triển kinh tế tư nhân
Trong quá trình đổi mới và phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt
Nam, khu vực kinh tế tư nhân (KTTN) có nhiều tiềm năng to lớn và ngày
càng được đề cao như là động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội
đất nước. Đến nay, KTTN đã đóng góp cho đất nước khoảng 60% GDP, giải
quyết hơn 80% lực lượng lao động của xã hội. Đội ngũ doanh nhân trong khu
vực này ngày càng có bản lĩnh và kỹ năng kinh doanh thị trường...
Phát triển nhanh chóng và hiệu quả khu vực KTTN là đòi hỏi cấp thiết
từ cuộc sống và cũng là quyết tâm lớn của Đảng, Nhà nước; đồng thời, phải
xuất phát từ thực tiễn đặc thù, các nguyên tắc của cơ chế kinh tế thị trường,
cũng như các cam kết và thông lệ quốc tế trong xu hướng mở cửa, tăng
cường, hội nhập quốc tế.
PHẦN III: KẾT LUẬN
Trong hồn cảnh đất nước gặp nhiều khó khăn: vừa xây dựng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc vừa tiến hành giải phóng dân tộc ở miền Nam từ 1954
thì cơ chế kế hoạch hóa tập chung quan liêu,bao cấp ở nước ta lúc bấy giờ có
rất nhiều ý nghĩa như:
- Tập trung tối đa các nguồn lực phát triển kinh tế hướng vào mục tiêu
chung của cả nước là xây dựng phát triển kinh tế và đấu tranh giải phóng dân
tộc.
- Phát huy tinh thần đồn kết đấu tranh ,hăng hái sản xuất của nhân dân.
- Chứng tỏ nhà nước ta đã quan tâm, chăm lo hết mức cho cuộc sống
của nhân dân qua hình thức cấp phát, chỉ định.
Tuy nhiên thời kỳ bao cấp cũng đã gây ảnh hưởng lớn đến tiến trình hội
nhập phát triển nền kinh tế thị trường của nước ta sau này. Nhận thức điều đó,
Đảng và nhà nước đã có những chính sách hợp lý trong những năm qua giúp
cho Việt Nam đạt được nhiều thành công đặc biệt đối với nền kinh tế. Từ đó
củng cố niềm tin cảu toàn dân đối với Đảng và Nhà nước, kiên định con
đường đi lên CNXH với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. />2. />%A5p#Kh%E1%BB%A7ng_ho%E1%BA%A3ng_v%C3%A0_
%C4%90%E1%BB%95i_m%E1%BB%9Bi
3. Sinh hoạt lí luận - Số 4( 47- 2017) Học viện chính trị quốc gia HCMphân viện Đà Nẵng.
4. Tạp chí cộng sản -
Số 3( 2- 2011)