Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

Thực trạng người chưa thành niên phạm tội tại địa bàn tỉnh Quảng Trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (536.67 KB, 39 trang )

ÂẢI HC HÚ
KHOA LÛT

BÀI NIÊN LUẬN
BỘ MÔN: LUẬT HÌNH SỰ
KHÓA: 2010 - 2014
THỰC TRẠNG NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
PHẠM TỘI TẠI ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG TRỊ
Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên
thực hiện:
ThS. Nguyễn Thò Xuân Hồ Thò Hồng
Huệ
Lớp: Luật K34C

Lời Cảm Ơn
Để hoàn thành niên luận này, ngoài sự cố
gắng của bản thân, sự giúp đở của bạn bè
không thể không kể đến công lao dạy giổ của
quý thầy cô giáo. Em xin gửi tới các thầy cô
giáo khoa Luật_ Đại Học Huế lời cảm ơn chân
thành nhất , đặc biệt lòng biết ơn sâu sắc tới cô
giáo Nguyễn Thò Xuân, người đã tận tình giúp
đỡ, hướng dẫn, chỉ bảo và đóng góp ý kiến để
em thực hiện đề tài. Ngoài ra em còn gửi lời
cảm ơn đến thư viện khoa Luật.
Do thời gian và lượng kiến thức còn có hạn
chế nên trong quá trình nghiên cứu khó tránh khỏi
những thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp
ý kiến của các thầy cô giáo trong hội đồng.
Em xin chân thành cảm ơn!
Huế, tháng 02 năm


2013
Sinh viên thực hiện
Hồ Thò Hồng Huệ
2

3
MỤC LỤC
4
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1-BCA : Bộ công an
2-BLHS : Bộ luật hình sự
3-CTN : Chưa thành niên
4-TNHS : Trách nhiệm hình sự
5
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Xã hội ngày nay là xã hội của hội nhập, của cơ chế thị trường, bao chuyển
biến đáng kể trong nền kinh tế đồng thời cũng có bao chuyển biến về các giá trị
đạo đức cũng như lối sống của con người, đặc biệt là người chưa thành niên.
Người chưa thành niên là lứa tuổi rất đặc biệt. Các em không còn là trẻ con
nhưng cũng chưa phải là người lớn. Là lớp người sẽ kế tục sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ Quốc. Là những mầm non, chủ nhân tương lai của đất nước. Do đó,
trẻ em phải được chăm sóc, bảo vệ và giáo dục thành những con người có ích cho
xã hội. Tuy nhiên, ngày nay chúng ta đang đứng trước một thực tế rất đáng lo
6
ngại, đó là sự phát triển của nền kinh tế thị trường với những mặt trái của nó đã
làm ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ, tình trạng trẻ em phạm tội ngày càng gia
tăng và trở thành vấn đề nhức nhối của toàn xã hội. Sự phạm tội của các em không
chỉ gây ra những hậu quả nghiêm trọng mà còn hủy hoại cuộc đời của chính các
em. Chính vì vậy, chuyện các em phạm tội không chỉ là chuyện riêng của các em

mà là chuyện của chúng ta, không chỉ là chuyện của từng gia đình mà là chuyện
của toàn xã hội. Ý thức được vận mệnh của nhân loại trong tương lai và để giáo
dục, đào tạo thế hệ trẻ trở thành những con người có ích cho xã hội, Liên Hợp
Quốc đã tổ chức nhiều hội nghị toàn thế giới với mục đích tìm ra giải pháp hữu
hiệu cho cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm do người CTN gây ra, mà
kết quả của nó là sự ra đời của nhiều văn bản có giá trị pháp lý toàn cầu.
Ở nước ta, việc chăm sóc, bảo vệ, giáo dục người chưa thành niên được coi
là một chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước và được quan tâm hàng đầu.
Việt Nam là nước đầu tiên của Châu Á và là nước thứ hai trên toàn Thế giới tham
gia Công ước về quyền trẻ em. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật trong nước
được ban hành, qui định các vấn đề liên quan đến trẻ em, như: Hiến pháp năm
1992, Luật chăm sóc và bảo vệ trẻ em, Luật giáo dục. Tuy nhiên, trong quá trình
thực hiện các chính sách này, bên cạnh những kết quả đã đạt được vẫn còn tồn tại
rất nhiều vướng mắc, tình trạng người CTN phạm tội vẫn còn đang tiếp diễn.
Trong những năm gần đây, trên địa bàn cả nước số người CTN phạm tội đang có
xu hướng gia tăng mạnh mẽ và hành vi phạm tội ngày càng tinh xảo. Tình trạng
phạm tội ở người CTN không chỉ gây ra những hậu quả nghiêm trọng ảnh hưởng
đến đời sống, trật tự an toàn xã hội mà còn gây nên sự hoang mang trong nhiều
bậc phụ huynh và dư luận xã hội.
Cũng như tình hình chung của cả nước, Tỉnh Quảng Trị cũng đang phải
đương đầu với tình hình gia tăng người CTN phạm tội này. Với nền kinh tế đang
bước vào thời kì hội nhập, đời sống của người dân cũng đả phát triển, bên cạnh đó
cũng có nhiều xã còn gặp nhiều khó khăn. Cũng chính vì thế sự gia tăng của tệ nạn
xã hội, của hành vi phạm tội trong đó có sự phạm tội của người CTN đã gây nhiều
bức xúc, thu hút sự quan tâm của nhiều người. Đòi hỏi phải có những giải pháp kịp
thời để phòng chống tình trạng người CTN phạm tội. Chỉ khi nào giải quyết được
7
tình trạng này chúng ta mới có thể đảm bảo rằng sẽ có một thế hệ trẻ đủ đức và đủ
tài và có đủ khả năng gánh vác sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
Từ thực tiển về tình trạng người CTN phạm tội tại địa bàn tỉnh Quảng Trị

trong những năm qua, cùng với các lý do trên đây, được sự đồng ý của cô giáo
Nguyễn Thị Xuân tôi xin nghiên cứu đề tài “Thực trạng người chưa thành niên
phạm tội tại địa bàn tỉnh Quảng Trị". Tôi hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ bé
vào công cuộc đấu tranh phòng chống, đẩy lùi thực trạng người CTN phạm tội.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Ở góc độ đề tài nghiên cứu niên luận, mục đích của đề tài :
- Góp phần giáo dục ý thức pháp luật, tăng cường tinh thần đấu tranh phòng
chống người CTN phạm tội trong toàn xã hội.
- Hạn chế những điều kiện phạm tội, tìm ra những giải pháp để ngăn chặn
tình trạng người CTN phạm tội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu: người chưa thành niên phạm tội
Phạm vi nghiên cứu:
+Nghiên cứu những chính sách hình sự của pháp luật Việt Nam đối với với
người CTN phạm tội.
+Thực trạng người CTN phạm tội trên địa bàn huyện tỉnh Quảng Trị
+ Nguyên nhân, hạn chế vướng mắc và đề suất một số giải pháp
4. Cơ sở và phương pháp nghiên cứu đề tài
Cơ sở lý luận: Nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận biện chứng
của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước ta về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục thanh niên.
Phương pháp nghiên cứu đề tài: dựa trên cơ sở phương pháp luận biện
chứng của Chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với phương pháp phân tích,tổng hợp,
thống kê, so sánh
5. Ý nghĩa nghiên cứu đề tài
- Góp phần giáo dục ý thức pháp luật, tăng cường tinh thần đấu tranh phòng
chống người CTN phạm tội trong toàn xã hội.
8
- Hạn chế những điều kiện phạm tội, tìm ra những giải pháp để ngăn chặn
tình trạng người CTN phạm tội.

6. Kết cấu niên luận
Niên luận gồm:
Phần mở đầu
Phần nội dung (gồm 2 chương):
Chương 1: chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội.
Chương 2: thực trạng người chưa thành niên phạm tội tại địa bàn tỉnh
Quảng Trị.
Phần kết luận.
9
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CHÍNH SÁCH HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
1.1. Khái niệm người chưa thành niên và người chưa thành niên
phạm tội
1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên
Người chưa thành niên là những người chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ về
nhân cách, chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân. Pháp luật ở
mỗi quốc gia quy định độ tuổi cụ thể của người chưa thành niên
Theo cách gọi thông thường một chu kỳ sống của con người thường được
chia thành nhiều giai đoạn khác nhau: trẻ em, nhi đồng , thiếu niên, trung niên,
cao niên còn theo cách gọi của thuật ngữ pháp lý thì được chia thành các tên
gọi: trẻ em, người chưa thành niên và thành niên.
Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp quốc
thông qua ngày 20/11/1989 có ghi: “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có
nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có
quy định tuổi thành niên sớm hơn”.
Quy tắc tối thiểu phổ biến của LHQ về bảo vệ người chưa thành niên bị
tước quyền tự do thông qua ngày 14-12-1990 nêu cụ thể: "Người chưa thành niên
là người dưới 18 tuổi. Giới hạn tuổi dưới mức này cần phải được pháp luật xác
định và Theo quan niệm quốc tế thì trẻ em (Child) là người dưới 18 tuổi, người

chưa thành niên (Juvenile) là người từ 15 đến 18 tuổi, thanh niên (Youth) là
người từ 15 đến 24 tuổi, người trẻ tuổi (Young persons) bao gồm trẻ em, người
chưa thành niên và thanh niên không được tước quyền tự do của người chưa
thành niên" (Quy tắc 2.1 mục a).
Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định thống nhất trong
Hiến Pháp năm 1992, Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và
một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Tất cả các văn bản pháp luật đó đều
quy định tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi và quy định riêng những
10
chế định pháp luật đối với người chưa thành niên trong từng lĩnh vực cụ thể.
Khái niệm người chưa thành niên khác với khái niệm trẻ em. Theo Điều 1 Luật
Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004: “Trẻ em là công dân Việt Nam
dưới 16 tuổi”.
Tóm lại, khái niệm người chưa thành niên được xây dựng dựa trên sự phát
triển về mặt thể chất và tinh thần của con người và được cụ thể hoá bằng giới hạn
độ tuổi trong các văn bản pháp luật của từng quốc gia. Theo đó, người ta quy
định những quyền và nghĩa vụ cụ thể của người chưa thành niên.
Như vậy, có thể khái niệm: Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi,
chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và
nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên.
1.1.2. Khái niệm người chưa thành niên phạm tội
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong Bộ luật
hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc
vô ý, xâm phạm các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.Về mặt nguyên tắc,
mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân
tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội. Tuy nhiên, đối với trường
hợp người phạm tội là người chưa thành niên, Nhà nước có chính sách xử lý
riêng, căn cứ vào đặc điểm đặc thù của sự phát triển tâm sinh lý con người ở độ
tuổi này cũng như đường lối, chính sách, pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo

dục trẻ em.
Một người chỉ được coi là người chưa thành niên phạm tội khi họ thỏa mãn
các điều kiện dưới đây:
Họ là người chưa thành niên;
Đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự
Đã thực hiện hành vi mà luật hình sự quy định là tội phạm.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, người chưa thành niên là người
dưới 18 tuổi. Người chưa thành niên phạm tội là người dưới 18 tuổi, đã thực
hiện hành vi phạm tội, thỏa mãn các điều kiện chủ thể của tội phạm, tức là họ
phải có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 14 tuổi trở lên đối với trường hợp
phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do cố ý hoặc từ đủ 16 tuổi trở
11
lên đối với mọi tội phạm. Nói cách khác, người chưa thành niên phạm tội là
người phạm tội trong độ tuổi từ khoảng trên 14 hoặc 16 tuổi (tùy từng trường
hợp tội phạm thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm
trọng, đặc biệt nghiêm trọng) và dưới 18 tuổi. Điều 68 Bộ luật hình sự quy định:
“Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội chịu trách nhiệm
hình sự theo những quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định
khác của Phần chung Bộ luật không trái với những quy định của Chương này”.
Như thế, theo tinh thần của điều luật nêu trên, quan điểm chính thức của Nhà
nước ta khẳng định:
Người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi trở lên đến dưới 18
tuổi, có năng lực trách nhiệm hình sự, đã thực hiện hành vi mà Nhà nước quy
định là tội phạm.
Người không có năng lực trách nhiệm hình sự, dưới 14 tuổi trong trường
hợp tội phạm thực hiện là tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trong do cố
ý hoặc dưới 16 tuổi, trong trường hợp tội phạm thực hiện là tội ít nghiêm trọng,
tội phạm nghiêm trọng hay tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng do vô ý không phải chịu trách nhiệm hình sự bởi họ chưa hoặc không đủ
điều kiện chủ thể của tội phạm.

Như vậy theo tôi người CTN phạm tội có đặc điểm sau:
+ Độ tuổi từ đủ 14 đến 18 tuổi.
+ Có năng lực hành vi hình sự chưa đầy đủ.
+ Thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.
+ Hành vi mà người CTN phạm tội bị pháp luật hình sự cấm.
+ Có lổi trong việc thực hiện hành vi đó.
+ Do Tóa án tuyên.
+ Bản án có hiệ lực pháp luật.
Từ những đặc điểm trên có thể rút ra khái niệm người CTN phạm tội là
người từ đủ 14 tuổi đến 18 tuổi, có năng hành vi hính sự chưa đầy đủ, có lổi cố ý
hoặc vô ý trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật hình
sự cấm và được xử lý theo quy định của pháp luật.
12
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về người chưa thành
niên phạm tội
Trong những năm gần đây, nhà nước đã liên tục đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, đưa pháp luật vào chương trình giảng dạy
của nhà trường đã góp phần nâng cao nhận thức về pháp luật cho các em, tuy
nhiên tình trạng này cũng không ngừng tăng lên, loại tội phạm rất nghiêm trọng
và đặc biệt nghiêm trọng mà các em vi phạm cũng ngày một nhiều hơn, hành vi
phạm tội cũng ngày một tinh vi hơn. Việc xác định nguyên nhân khách quan và
chủ quan dẫn đến tình trạng này có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm sự
phát triển bình thường và bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các em, với những
khiếm khuyết về tâm sinh lý của một người đang phát triển và những tác động
tiêu cực từ gia đình, nhà trường và xã hội đã dẫn các em đến với những chọn lựa
sai lầm, không phù hợp với quy tắc xã hội và quy định của pháp luật. Chính vì
vậy, pháp luật có chính sách xử lý giành riêng cho người chưa thành niên phạm
tội. Người chưa thành niên phạm tội, do có đủ điều kiện chủ thể của tội phạm nên
họ vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm đã gây ra. Tuy nhiên, do sự hạn
chế về khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của người phạm tội ở

lứa tuổi này, Nhà nước ta xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với họ nhằm
uốn nắn lại sự lệch lạc trong sự phát triển nhân cách, đồng thời tạo điều kiện cho
họ tái hoàn lương, sớm hòa nhập với cuộc sống bình thường của đời sống xã hội.
Chính sách hình sự đặc biệt khoan giảm của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đối với người chưa thành niên phạm tội thể hiện ở nguyên tắc xử
lý, ở các hình phạt và biện pháp tư pháp thay thế hình phạt áp dụng đối với họ.
1.2.1. Quy định của Bộ luật Hình sự đối với người chưa thành niên
phạm tội
Nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
BLHS dành riêng một chương (Chương X) quy định về chính sách xử lý
người chưa thành niên phạm tội, chính sách này được xây dựng dựa trên đặc
điểm đặc thù của người chưa thành niên là sự hạn chế về nhận thức, do vậy việc
xét xử họ chù yếu nhằm giáo dục, qua đó giúp các em nhận thức được sai lầm và
tuân thủ quy định của pháp. Các nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên
13
phạm tội là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, mang tính chất định hướng trong
việc giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội.
Trong luật hình sự Việt Nam, các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên
phạm tội được luật hóa tại Điều 69 Bộ luật hình sự hiện hành. Điều 69 Bộ luật
hình sự quy định 6 nguyên tắc cơ bản dưới đây:
Nguyên tắc thứ nhất: Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu
nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành
công dân có ích cho xã hội. Trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành
vi phạm tội của người chưa thành niên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
phải xác định khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm.
Nguyên tắc nêu trên phản ánh mục đích và yêu cầu của việc giải quyết vấn
đề trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội. Việc xử lý hình sự
người chưa thành niên phạm tội trước hết và chủ yếu nhằm:
Giáo dục, làm cho người phạm tội nhận thức được những sai lầm mà họ đã

mắc phải. Mục đích trừng trị, răn đe nhìn chung không đặt ra khi áp dụng hình
phạt và các biện pháp tư pháp đối với loại đối tượng này.
Giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có
ích cho xã hội. Do người chưa thành niên phạm tội là người đang trong giai
đoạn phát triển nhân cách nên mục đích này phải luôn được coi trọng và đặt lên
hàng đầu.
Muốn đạt được những mục đích cơ bản trên, luật đòi hỏi các cơ quan có
thẩm tội phạm mà người chưa thành niên đã thực hiện mà còn phải xác định
nguyên nhân nào đã thúc đẩy họ thực hiện hành vi phạm tội đó và mức độ nhận
thức cụ thể của họ đối với tội phạm đã gây ra ra sao.
Nguyên tắc thứ hai, người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn
trách nhiệm hình sự trong trường hợp thực hiện tội pham ít nghiêm trọng hoặc
tội phạm nghiêm trọng, gây hại không lớn cho xã hội, có nhiều tình tiết giảm nhẹ
và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục.
Quy định của khoản 2 Điều 69 Bộ luật hình sự, như thế, đã bổ sung vào
danh mục các trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự một trường hợp miễn
14
trách nhiệm hình sự mới là miễn trách nhiệm hình sự cho người chư thành niên
phạm tội với những điều kiện nhất định. Các điều kiện đó là:
Người được miễn trách nhiệm hình sự phải là người chưa thành niên tại
thời điểm thực hiện tội phạm.
Tội phạm mà họ thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm
nghiêm trọng.
Hậu quả của tội phạm không lớn.
Có nhiều tình tiết giảm nhẹ.
Được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục.
Nguyên tắc thứ ba, việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành
niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường
hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc
điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.

Cùng với nguyên tắc thứ nhất, nguyên tắc thứ ba đặt yêu cầu và giới hạn
phạm vi những trường hợp cần truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa
thành niên phạm tội. Pháp luật Việt Nam không đặt vấn đề truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với mọi trường hợp người chưa thành niên phạm tội mà chỉ tiến hành
việc làm này trong những trường hợp “cần thiết”. Sự “cần thiết” hay “không cần
thiết” ở đây xác định dựa trên cơ sở căn cứ vào:
Tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đã thực hiện. Nếu
hành vi phạm tội của người chưa thành niên có tính chất không lớn thì không cần
thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ.
Đặc điểm nhân thân người chưa thành niên phạm tội. Nếu người chưa thành
niên lần đầu phạm tội, có nhân thân tốt thì cần thiết phải cân nhắc việc có truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với họ hay không.
Yêu cầu cụ thể của việc phòng ngừa tội phạm đối với bản thân người chưa
thành niên phạm tội và đối với người khác trong xã hội.
Nguyên tắc thứ tư, khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình
phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, thì Tòa án áp dụng một trong các
biện pháp tư pháp được quy định tại Điều 70 Bộ luật hình sự.
15
Những biện pháp tư pháp này gồm có giáo dục tại xã, phường, thị trấn và
đưa vào trường giáo dưỡng. Đây là những biện pháp dược Tòa án áp dụng thay
thế hình phạt để giáo dục, giúp đỡ người chưa thành niên phạm tội trong những
trường hợp có căn cứ do pháp luật quy định.
Nguyên tắc thứ năm, không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với
người chưa thành niên phạm tội. Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người
chưa thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với
người đã thành niên phạm tội tương ứng. Không áp dụng hình phạt tiền đối với
người chưa thành niên phạm tộ ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuôi. Không
áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội.
Nguyên tắc thứ năm giới hạn các hình phạt áp dụng đối với người chưa
thành niên phạm tội. Trong trường hợp cần thiết, vẫn có thể phải áp dụng một

trong các loại hình phạt: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ và tù có thời
hạn cho loại đối tượng này với mức án nhẹ hơn mức án áp dụng cho người đã
thành niên phạm tội tương ứng. Luật cũng xác định rõ, không áp dụng các loại
hình phạt bổ sung và các loại hình phạt đặc biệt nghiêm khắc như tù chung thân
và tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội.
Nguyên tắc thứ sáu, án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội khi
chưa đủ 16 tuổi, thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
Với nguyên tắc nêu trên, luật hình sự Việt Nam khẳng định vẫn có án tích
đối với người chưa thành niên phạm tội trong trường hợp biện pháp xử lý đối với
họ là hình phạt. Tuy nhiên, phạm tội mới trong thời gian mang án tích không phải
là căn cứ để xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm trong trường hợp người
phạm tội dưới 16 tuổi.
Các biện pháp tư pháp và hình phạt giành cho người chưa thành niên
phạm tội
Cùng với hình phạt, biện pháp tư pháp là một trong những hình thức biểu
hiện cụ thể của trách nhiệm hình sự. Các biện pháp tư pháp được chia thành hai
nhóm là biện pháp tư pháp bổ sung cho hình phạt và biện pháp tư pháp thay thế
hình phạt. Các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm
tội quy định tại Điều 70 Bộ luật hình sự là các biện pháp tư pháp thay thế hình
16
phạt. Theo Điều 70 Bộ luật hình sự hiện hành, có hai loại biện pháp chỉ áp dụng
đối với người chưa thành niên phạm tội dưới đây:
Giáo dục tại xã, phường, thị trấn
Đưa vào trường giáo dưỡng
Cả hai biện pháp tư pháp nói trên có những điểm chung dưới đây:
Đều là các biện pháp tư pháp thay thế hình phạt áp dụng cho đối tượng là
người chưa thành niên phạm tội.
Mục đích áp dụng, theo tinh thần Điều 70 Bộ luật hình sự, là nhằm giáo dục
người phạm tội và phòng ngừa tội phạm.
Đều do Tòa án quyết định áp dụng trong giai đoạn xét xử.

Đều không để lại hậu quả pháp lý là án tích cho người bị áp dụng.
Nội dung, căn cứ áp dụng từng biện pháp được quy định trong Điều 70 Bộ
luật hình sự, Nghị định số 59/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 và Nghị định số
52/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 của Chính phủ.
Biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
Điều 1 Nghị định số 59/2000/NĐ-CP của Chính phủ quy định việc thi hành
biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người chưa thành niên phạm
tội ngày 30/10/2000 định nghĩa về biện pháp tư pháp này như sau:
“Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do Tòa án quyết định áp dụng
đối với người chưa thành niên phạm tội nhằm tạo điều kiện cho người đó lao
động, học tập tại cộng đồng và chứng tỏ sự hối cải của mình trong môi trường xã
hội bình thường, dưới sự giám sát, giúp đỡ của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị
trấn, tổ chức xã hội và gia đình”.
Điều kiện áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, theo quy
định của khoản 2 Điều 70 Bộ luật hình sự bao gồm:
Đối tượng áp dụng: là người chưa thành niên phạm tội.
Tội phạm mà họ thực hiện là tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trong.
Với những điều kiện như trên, thực chất chỉ những người từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi mới được áp dụng biện pháp này bởi lẽ những người từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi nếu thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm
17
trọng sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự do chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự do luật định.
Việc giáo dục tại xã, phường, thị trấn được thực hiện theo cơ chế phối hợp
giữa Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người chưa thành niên phạm tội
(hoặc tổ chức xã hội) được giao giám sát, giáo dục, người được giao trách nhiệm
trực tiếp giám sát, giáo dục và gia đình người chưa thành niên phạm tội bị áp
dụng biện pháp này. Người được giao trách nhiệm trực tiếp giám sát, giáo dục
phải lập hồ sơ theo dõi và khi kết thúc thời gian chấp hành biện pháp giáo dục,
phải bàn gian lại hồ sơ đó cho Ủy ban xã, phường, thị trấn hoặc tổ chức xã hội

được giao giám sát, giáo dục.
Thời gian giám sát, giáo dục, theo khoản 2 Điều 70 Bộ luật hình sự, là từ
một đến hai năm.Trong khoảng thời gian này, “người được giáo dục tại xã,
phường, thị trấn phải chấp hành đầy đủ những nghĩa vụ về học tập, lao động,
tuân theo pháp luật dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền xã, phường, thị
trấn và tổ chức xã hội được Tòa án giao trách nhiệm” (khoản 2 Điều 70 Bộ luật
hình sự).
Biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng
Điều 1 Nghị định số 52/2001/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành
biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng ngày 23/8/2001 định nghĩa:
“Biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành
niên phạm tội được quy định trong BLHS, là biện pháp do Tòa án quyết định, áp
dụng đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội, nếu
thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với họ, nhưng do tính chất của
hành vi phạm tội, do nhân thân và môi trường sống của người đó mà cần phải
đưa người đó vào trường giáo dưỡng”.
Điều kiện áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng là:
Về đối tượng áp dụng: áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội,
không kể về tôi gì, có độ tuổi từ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Đối với người nói trên, Tòa án xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình
phạt (gồm cả hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ và phạt tù có
thời hạn) đối với họ.
18
Tuy không cần thiết phải áp dụng hình phạt nhưng lại rất cần thiết đưa họ
vào một môi trường giáo dục tập trung là trường giáo dưỡng.
Cơ sở để Tòa án quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng
mà không áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn là căn cứ vào:
+ Tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội.
+ Nhân thân người chưa thành niên phạm tội.
+ Môi trường sống của người đó không tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp

dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Trường giáo dưỡng có nhiệm vụ quản lý, giáo dục đạo đức, pháp luật, văn
hóa, dạy nghề, giáo dục hướng nghiệp và tổ chức lao động cho học sinh phù hợp
với lứa tuổi, nhằm giúp đỡ họ học tập, rèn luyện tiến bộ, phát triển làn mạnh về
thể chất, tinh thần, trí tuệ để trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội, có
khả năng hòa nhập cộng đồng sau khi chấp hành xong biện pháp giáo dưỡng.
Về mặt thủ tục, ngay sau khi nhận được quyết định thi hành biện pháp giáo
dưỡng của Tòa án, cơ quan Công an cùng cấp có trách nhiệm triển khai kế hoạch
phối hợp với cơ quan, tổ chức hữu quan, chính quyền địa phương và gia đình
người phải chấp hành biện pháp giáo dưỡng để quản lý, giám át họ chặt chẽ,
đồng thời tổ chức thi hành quyết định của Tòa án. Người trực tiếp nhận người
được đưa vào trường giáo dưỡng phải kiểm tra hồ sơ, căn cước và lập biên bản
giao nhận. Hồ sơ đưa người vào trường giáo dưỡng gồm: 1) Lí lịch cá nhân; 2)
Danh bản, chỉ bản; 3) Phiếu khám sức khỏe; 4) Quyết định thi hành biện pháp
giáo dưỡng của Tòa án; 5) Văn bản của cơ quan Công an có thẩm quyền chỉ định
trường giáo dưỡng có trách nhiệm thi hành quyết định của Tòa án; 6) Các tài liệu
có liên quan đến nhaanthaan người được đưa vào trường giáo dưỡng.
Người chấp hành biên pháp giáo dưỡng được gọi là học sinh trường giáo
dưỡng. Học sinh trường giáo dưỡng phải chịu sự giám át, quản lý, giáo dục, phân
công lao động của cán bộ, giáo viên nhà trường và chấp hành nghiêm chỉnh nội
quy của nhà trường. Căn cứ vào độ tuổi, giới tính, trình độ văn hóa, tính chất và
mức độ phạm tội, trường bố trí học sinh thành các đội, lớp. Mỗi đội, lớp phải có
cán bộ, giáo viên của nhà trường trực tiếp phụ trách.
19
Thời gian áp dụng biện pháp giáo dưỡng là từ một năm đến hai năm. Chậm
nhất là 15 ngày trước khi học sinh trường giáo dưỡng hết thời hạn chấp hành biện
pháp giáo dưỡng, Hiệu trưởng trường giáo dưỡng có trách nhiệm thông báo cho
Tòa án đã ra quyết định thi hành biện pháp giáo dưỡng, Ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn nơi người đó cư trú và gia đình họ biết ngày ra trường. Người
chưa thành niên phạm tội sau khi hết thời hạn học tập ở trường giáo dưỡng được

cấp giấy chứng nhận chấp hành xong biện pháp giáo dưỡng.
Hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội
BLHS quy định 4 loại hình phạt được áp dụng đối với người chưa thành
niên phạm tội bao gồm: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ và tù có thời
hạn. Trong đó cảnh cáo là hình phạt nhẹ nhất, được áp dụng đối với người phạm
tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ chưa đến mức miễn hình phạt
theo quy định của pháp luật. Phạt tiền lần đầu tiên được quy định trong BLHS
năm 1999 và được coi là hình phạt chính đối với người chưa thành niên phạm tội
từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, nếu người đó có tài sản hoặc thu nhập riêng, mức
phạt tiền được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội không quá một
phần hai mức tiền phạt mà điều luật quy định.
Cải tạo không giam giữ là hình phạt mang tính nghiêm khắc hơn so với
hình phạt tiền, khi áp dụng hình phạt này đối với người chưa thành niên phạm tội
thì không khấu trừ thu nhập của họ. Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với
người chưa thành niên phạm tội không quá một phần hai thời hạn mà điều luật
quy định.
Trường hợp áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên
phạm tội, Điều 74 Bộ luật hình sự quy định:
Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật
được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt
cao nhất được áp dụng không quá mười tám năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức
hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật
quy định.
Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật
được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt
20
cao nhất được áp dụng không quá mười hai năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức
hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều
luật quy định.
Đối với trường hợp người chưa thành niên phạm nhiều tội, phải tuyên hình

phạt đối với từng tội, sau đó tổng hợp thành hình phạt chung. Trường hợp có tội
thực hiện trước khi đủ 18 tuổi, có tội thực hiện sau khi đủ 18 tuổi, thì việc tổng
hợp hình phạt thực hiện theo phương pháp sau đây:
Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi, thì hình
phạt chung không được vượt quá mức hình phạt cao nhất quy định trong Điều 74
Bộ luật hình sự nêu trên.
Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi, thì hình phạt
chung áp dụng như đối với người đã thành niên phạm tội.
Giảm mức hình phạt và xóa án tích
Chính sách giảm mức hình phạt đã tuyên được áp dụng cả đối với người
chưa thành niên phạm tội và người đã thành niên phạm tội, tuy nhiên đối với
người chưa thành niên phạm tội thì chính sách này có nhiều ưu ái hơn nhằm động
viên các em thi hành án tốt và tạo điều kiện để các em sớm được trở lại với cuộc
sống bình thường. Điều 76 BLHS quy định người chưa thành niên bị phạt cải tạo
không giam giữ hoặc phạt tù, nếu có nhiều tiến bộ và đã chấp hành được một
phần tư thời hạn, thì được Tòa án xét giảm; riêng đối với hình phạt tù, mỗi lần có
thể giảm đến bốn năm nhưng phải bảo đảm đã chấp hành ít nhất hai phần năm
mức hình phạt đã tuyên, trong trường hợp có lập công hoặc bị mắc bệnh hiểm
nghèo thì được xét giảm ngay và có thể được xem xét để miễn chấp hành hình
phạt còn lại. Đối với trường hợp bị phạt tiền thì Tòa án cũng có thể giảm hoặc
miễn chấp hành phần phạt tiền còn lại nếu các em bị lâm vào hòan cảnh kinh tế
đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hỏa hoạn, ốm đau hoặc có lập công lớn.
Xoá án tích là thủ tục cuối cùng của quá trình tố tụng, được áp dụng đối với
những người đã thi hành án xong, thời hạn để được xóa án tích được coi như thời
gian thử thách và người được xóa án tích coi như chưa bị kết án. Thời hạn để
được xóa án tích đối với người chưa thành niên là một phần hai thời hạn áp dụng
đối với người đã thành niên (nữa năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt
21
tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng được hưởng án treo; một năm
rưỡi trong trường hợp hình phạt tù đến ba năm; hai năm rưỡi trong trường hợp

hình phạt tù là từ trên ba năm đến mười lăm năm; ba năm rưỡi trong trường hợp
hình phạt tù từ trên mười lăm năm). Trong trường hợp áp dụng biện pháp tư pháp
giáo dục tại xã, phường, thị trấn và đưa vào trường giáo dưỡng đối với người
chưa thành niên phạm tội thì không bị coi là có án tích.
1.2.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự đối với người chưa thành
niên phạm tội
Thủ tục tố tụng hình sự đối với tội phạm nói chung và người chưa thành
niên phạm tội nói riêng bao gồm các thủ tục điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.
Ngoài những thủ tục chung của Bộ luật TTHS thì cũng như Bộ luật Hình sự, Bộ
luật TTHS giành riêng một chương quy định về tố tụng hình sự và chính sách xử
lý đặc biệt với người chưa thành niên phạm tội (tại Chương XXXII). Trong đó
quy định rõ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán tiến hành tố tụng đối với
người chưa thành niên phạm tội phải là người có những hiểu biết cần thiết về tâm
lý học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội
phạm của người chưa thành niên. Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử người
chưa thành niên phạm tội phải xác định rõ các yếu tố về tuổi, trình độ phát triển
về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của người chưa
thành niên; điều kiện sinh sống và giáo dục; có hay không có người thành niên
xúi giục; nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Quy định này không những phù
hợp với đặc điểm của người chưa thành niên mà còn phù hợp với thực tế về
những nguyên nhân khách quan tác động đến hành vi phạm tội của các em. Thực
tiễn đã chứng minh rằng đa số các em phạm tội đều bị sự tác động từ phía gia
đình và xã hội, trong đó bao gồm cả các em có hoàn cảnh đặc biệt như kinh tế
gia đình khó khăn, bố mẹ ly hôn, gia đình không yên ấm hoặc có người hư hỏng,
phạm tội, bố mẹ không coi trọng việc giáo dục con cái, trình độ văn hóa của các
em quá thấp, các em không có công ăn việc làm…tình trạng các em bị người
thành niên (như bố, mẹ, anh, chị) xúi giục phạm tội cũng chiếm một số lượng
không nhỏ. Chính vì vậy, việc quy định về hiểu biết tâm sinh lý của người chưa
thành niên đối với Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, cũng như các yếu tố
22

liên quan đến nguyên nhân và điều kiện dẫn đến việc thực hiện hành vi phạm tội
của các em là cần thiết.
Về bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên phạm tội
Để ngăn chặn việc thực hiện tội phạm, cũng như để phục vụ cho quá trình
tố tụng hình sự, pháp luật quy định trong một số trường hợp người, cơ quan có
thẩm quyền được áp dụng các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam. Tuy nhiên, đối
với người chưa thành niên phạm tội khi áp dụng các biện pháp này ngoài điều
kiện về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và loại tội phạm còn phải đảm bảo đủ
các căn cứ nêu tại các Điều 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật TTHS, đó là các
điều kiện về bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang
hoặc đang bị truy nã, tạm giữ, tạm giam, thời hạn tạm giam để điều tra.
Về thi hành án phạt tù
Theo quy định thì không được áp dụng chế độ giam giữ người chưa thành
niên như đối với người đã thành niên mà họ phải được giam giữ riêng, các chế độ
đối với người chưa thành niên cũng được ưu ái hơn, pháp luật quy định về chế độ
học văn hóa, đào tạo nghề nghiệp… để giúp các em bổ túc trình độ văn hóa, tạo
dựng nghề nghiệp đảm bảo khi ra trường các em có một nghề ổn định, điều này
cũng có ý nghĩa trong công tác phòng chống tội phạm ở tuổi vị thành niên.
23
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
PHẠM TỘI TẠI ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG TRỊ
2.1. Thực trạng người chưa thành niên phạm tội tại địa bàn tỉnh
Quảng Trị
2.1.1. Khái quát về tỉnh Quảng Trị
Vị trí địa lý: Tỉnh Quảng Trị là tỉnh thuộc vùng có toạ độ địa lý 17010' đến
16018' vĩ độ Bắc, 106032' đến 107024' kinh độ Ðông, cách Thủ đô Hà Nội
598km. Phía Nam giáp huyện Phong Ðiền và A Lưới tỉnh Thừa Thiên- Huế; phía
Bắc giáp huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình; từ Tây Bắc xuống phía Nam giáp 2
tỉnh Xavanakhẹt và Xaravan nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào; phía Ðông
được bao bọc bởi biển Ðông với bờ biển 75 km có đảo Cồn Cỏ rộng 4km2. Diện

tích tự nhiên toàn tỉnh là 4.745,5km2, chiếm 1,44% tổng diện tích tự nhiên của cả
nước.
Dân số - Dân tộc: Theo kết quả điều tra ngày 1/4/2005, tỉnh Quảng Trị có
575.000 người. Trong đó, số người trong độ tuổi lao động xã hội toàn tỉnh là
293.000 người, chiếm 51% dân số. Trên địa bàn tỉnh có 3 dân tộc chính: Ðông
nhất là dân tộc Kinh chiếm khoảng 91%, dân tộc Vân Kiều chiếm khoảng 7,3%
còn lại là dân tộc Pa Kô và một số ít dân tộc khác chiếm 1,7%.
Trình độ dân trí: Tính đến năm 2002, đã phổ cập giáo dục tiểu học cho 9
huyện, thị xã với số xã và thị trấn là 136; số học sinh phổ thông năm học 2001 -
2002 là 139.136 em; số giáo viên phổ thông là 4.965 người. Số thầy thuốc toàn tỉnh
có 1.335 người, trong đó bác sĩ có 359 người, bình quân có 5,9 bác sỹ/1 vạn dân.
Kinh tế - Xã hội năm 2010: Tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP đạt 7,53%.
Trong đó nông - lâm - thủy sản tăng 4,9%; công nghiệp - xây dựng tăng 22%;
dịch vụ tăng 5,1%.
Tỷ lệ đói nghèo toàn tỉnh là 17%.
Tỷ lệ huy động trẻ em đến tuổi đi học đạt 90%
Sản phẩm chủ yếu:
+ Ngành công nghiệp: Xi măng, gạch xây dựng, ti tan.
+ Ngành nông nghiệp: Tiêu, cà phê, cao su, sản phẩm các loại cây lương thực.
24
+ Ngành thủy sản: Cá, tôm, mực.
Với điều kiện hiện nay thì tỉnh Quảng Trị rất thuận lợi phát triển nền kinh tế
của tỉnh nhà.Tác động lớn đến đời sống của bà con từ nông thôn, miền núi đến thành
thị, đặc biệt là lớp trẻ thành niên. Tình trạng người CTN phạm tội ngày càng gia
tăng, đáng quan tâm là tình hình phạm tội ngày càng tinh vi và phức tạp hơn.
2.1.2. Thực trạng người chưa thành niên phạm tội ở địa bàn tỉnh
Quảng Trị
Thời gian qua, tình hình tội phạm trong lứa tuổi chưa thành niên xảy ra trên
địa bàn tỉnh Quảng Tri khá phổ biến, đặc biệt tăng nhanh trong 5 năm trở lại đây.
Từ thực trạng trên cần có sự vào cuộc kịp thời của các cấp, các ngành và toàn xã

hội, trong đó cần xây dựng những giải pháp có tính khả thi, đồng bộ và lâu dài để
hạn chế tình trạng gia tăng người chưa thành niên phạm tội.
Theo báo cáo của Công an tỉnh Quảng Trị, từ năm 1998 đến nay, tội phạm
trong lứa tuổi chưa thành niên xảy ra 2.085 vụ với 2.644 đối tượng, tập trung
nhiều nhất ở các tội trộm cắp tài sản, cố ý gây thương tích, gây rối trật tự công
cộng. Có một số đối tượng người chưa thành niên gây án đặc biệt nghiêm trọng
như giết người, cướp, cướp giật tài sản. Các vụ phạm pháp hình sự do người
chưa thành niên gây ra tập trung ở thành phố, thị xã, thị trấn. Một số vụ các đối
tượng phạm tội không chỉ do bồng bột, thiếu suy nghĩ mà đã có sự tính toán,
chuẩn bị khá kỹ càng, tinh vi.
Theo thống kê 5 năm trở lại đây tội phạm trong lứa tuổi chưa thành niên
tăng nhanh. Loại tội danh trẻ em phạm pháp cao nhất là trộm cắp tài sản với
1.350 vụ, chiếm 64,75%. Công an Tỉnh cũng đã phối hợp với Tỉnh đoàn đẩy
mạnh công tác quản lý, giáo dục trẻ em hư, trẻ em làm trái pháp luật. Toàn tỉnh
hiện có 699 em trong danh sách quản lý trẻ em hư, trẻ em làm trái pháp luật với
các hành vi cướp, cưỡng đoạt tài sản, trộm cắp, lừa đảo, cố ý gây thương tích,
đánh bạc, ma túy và các hành vi vi phạm pháp luật khác. Trên cơ sở đó, Công an
tỉnh và chính quyền cơ sở các cấp đã áp dụng các biện pháp quản lý giáo dục phù
hợp: đưa vào diện quản lý 18 em, lập hồ sơ đưa vào trường giáo dưỡng 4 em,
giáo dục tại xã, phường 64 em, giao cho nhà trường giáo dục 140 em, Đoàn
25

×