Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Bài tập lớn anh chị hãy trình bài lịch sử phát triển của lý thuyết địa tô đất đai hãy rút ra ý nghĩa cho việc hoạch định các chính sách kinh tế trong quản lý và sử dụng đất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.95 KB, 11 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
---------------********--------------

BÀI TẬP LỚN
Tư tưởng Hồ Chí Minh

Đề tài: Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh “Nước độc lập mà người
dân khơng được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa
lý gì”

Họ và tên: Bùi Quang Duy
MSV: 11151040
Lớp: Tư tưởng Hồ Chí Minh_30

Hà Nội, tháng 4 năm 2017
0


I – Mở đầu:
Trong suốt chiều dài bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc
ta, người dân của đất nước Việt Nam đã trải qua bao hi sinh bao mất mát mới có
được độc lập tự do như ngày hôm nay. Nhưng liệu độc lập như vậy đã đủ? Con
người Việt Nam, dân tộc Việt Nam có phải hướng đến mục đích cuối cùng là
độc lập? Có lẽ là chưa đủ nếu như độc lập mà không có hạnh phúc hay tự do.
Chủ tịch Hồ Chí Minh – một vị lãnh tụ thiên tài, một danh nhân văn hóa
thế giới cũng như một nhà lý luận tư tưởng của cách mạng Việt Nam đã thấy
được vấn đề cốt lõi cũng như cái đích của độc lập. Một trong những di sản về tư
tưởng mà Người để lại cho dân tộc, cho Đảng cũng như toàn dân là vấn đề độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội luôn là một trong những vấn đề trung
tâm được thể hiện rõ ràng và xuyên suốt quá trình hoạt động thực tiễn của cách
mạng trong nước và thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước độc lập


mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có ý
nghĩa lý gì”.
Trên cơ sở phân tích mối quan hệ giữa độc lập dân tộc phải gắn với con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta sẽ cùng
làm sáng tỏ luận điểm trên.
II – Nội dụng:
1. Độc lập dân tộc theo con đường cách mạng vô sản là tiền đề của hạnh
phúc, tự do:
Năm 1911, khi Việt Nam đã hoàn toàn trở thành thuộc địa của thực dân
Pháp, nước mất độc lập, dân nơ lệ, Hồ Chí Minh khơng hồn tồn tán thành con
đường cứu nước của các bậc tiền bối, quyết tâm đi ra nước ngoài tìm con đường
cứu nước mới. Trong khoảng bảy năm từ năm 1911 đến trước khi Cách mạng
Tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi, Hồ Chí Minh đã : tìm hiểu các cuộc cách
mạng lớn trên thế giới, tìm hiểu nghiên cứu các kiểu nhà nước và khảo sát cuộc
sống của nhân dân các dân tộc bị áp bức. Ngay sau thắng lợi của Cách mạng
1


Tháng Mười Nga, tuy chưa có được nhận thức lý tính, nhưng Người thấy rằng
chỉ có đi theo con đường Cách mạng tháng Mười Nga thì mới giành được độc
lập dân tộc.
Nghiên cứu Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, Hồ Chí
Minh đã tìm thấy con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước giải phóng dân
tộc. Người quyết tâm thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành độc lập dân
tộc theo con đường cách mạng vơ sản. Năm 1923, Hồ Chí Minh viết: “Chỉ có
chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt
chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đồn kết, ấm no trên quả
đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hịa bình, hạnh phúc, nói
tóm lại là nền cộng hịa thế giới chân chính, xóa bỏ những biên giới tư bản chủ
nghĩa cho đến nay chỉ là những vách tường dài ngăn cản những người lao động

trên thế giới hiểu nhau và yêu thương nhau”. Hồ Chí Minh khơng bao giờ chấp
nhận độc lập dân tộc dưới chế độ quân chủ chuyên chế, càng không chấp nhận
chế dộ thực dân. Bởi vì, đó là chế độ mà người dân bị đầu độc về tinh thần lẫn
về thể xác, bị bịt mồm và bị giam hãm. Hơn ai hết, Người ý thức rất rõ khơng có
độc lập là sống kiếp ngựa trâu, thì “chết tự do cịn hơn sống nơ lệ”. Vì vậy,
Người nung nấu và truyền quyết tâm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân “dù có
phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành kỳ được độc lập cho dân tộc”.
Độc lập dân tộc không phải là điều mới mẻ trong lịch sử dân tộc và lịch sử
thế giới. Nhưng độc lập dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh lại hồn tồn mới,
vì đó là một kiểu độc lập dân tộc được nâng lên một trình độ mới, một chất mới.
Người đã chọn kiểu độc lập dân tộc theo con đường cách mạng vơ sản, đó là
kiểu độc lập dân tộc làm tiền đề và phải đi tới hạnh phúc, tự do.
“Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” là dòng tiêu ngữ của nước ta suốt 70 năm
qua, tuy đơn giản nhưng đó là “ham muốn tột bậc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Tơi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành”. Theo Hồ Chí Minh, trong điều kiện nước thuộc
địa như Việt Nam thì trước hết phải đấu tranh giành độc lập dân tộc, nhưng nếu
2


nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì đó vẫn là độc lập kiểu
cũ, và vì vậy độc lập đó cũng chẳng có nghĩa lý gì.
Hạnh phúc tự do là thước đo giá trị của độc lập dân tộc. Muốn có hạnh phúc,
tự do thì độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Người nhấn mạnh
chỉ có trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì mỗi người mới có điều kiện để cải thiện
đời sống riêng của mình, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng của mình,
chăm lo cho con người và con người có điều kiện phát triển tồn diện. Trong
nền độc lập Người hướng tới mọi người đều phải được hưởng ấm no, hạnh phúc
nếu không độc lập chẳng có ý nghĩa gì.

2. Hạnh phúc, tự do là giá trị của độc lập dân tộc:
Trong điều kiện nước thuộc địa như Việt Nam thì trước hết phải đấu tranh
giành độc lập dân tộc, nhưng nếu nước độc lập mà dân khơng hưởng hạnh phúc
tự do thì đó vẫn là độc lập kiểu cũ, và vì vậy độc lập đó cũng chẳng có nghĩa lý
gì.
Chủ nghĩa xã hội trong quan niệm của Hồ Chí Minh khơng phải là câu trả lời
cho mong muốn chủ quan của con người theo quan niệm duy tâm, không tưởng,
mà là câu trả lời cho một sự vận động lịch sử hiện thực theo khái niệm duy vật
phê phán. Chủ nghĩa xã hội là một vấn đề hiện thực, xuất phát từ thực tiễn khách
quan, từ hiện thực vận động của lịch sử, từ đặc điểm Việt Nam, một nước vốn là
thuộc địa, nông nghiệp lạc hậu, khoa học kỹ thuật kém phát triển, tiến thẳng lên
chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội
trong quan điểm Hồ Chí Minh khơng thể suy nghĩ chủ quan, giáo điều, nóng vội,
duy ý chí mà phải dựa trên cơ sở thực tiễn nước ta, đặc điểm thế giới và xu thế
của thời đại. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội nhằm làm cho
nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có cơng ăn việc làm,
được ấm no và sống một đời hạnh phúc.
Có được độc lập chưa đủ, độc lập nhưng người dân phải được hưởng hạnh
phúc, tự do. Đấy chính là địi hỏi chính đáng, điều mà khơng phải ai khác chính
cụ Hồ đã chỉ ra. Hạnh phúc, tự do mới chính là mục đích cuối cùng, là mong
ước thẳm sâu nhất của mỗi người dân nước Việt. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội
3


là “độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân, không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”,
“Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung
sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, khơng lao động được thì nghỉ
ngơi,...Tóm lại xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày
càng tốt đó là chủ nghĩa xã hội”. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đem lại hạnh

phúc, ấm no cho nhân dân.
Chủ nghĩa xã hội xoá bỏ căn nguyên kinh tế sâu xa của tình trạng người bóc
lột người do chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sinh ra, nhờ đó xố bỏ
cơ sở kinh tế sinh ra ách áp bức con người về chính trị và sự nô dịch con người
về tinh thần, ý thức và tư tưởng. Chỉ với chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc mới
đạt tới mục tiêu phục vụ lợi ích và quyền lực của mọi người lao động, làm cho
mọi thành viên của cộng đồng dân tộc trở thành người chủ thực sự, có cuộc sống
vật chất ngày càng đầy đủ và đời sống tinh thần ngày càng phong phú. Nó cũng
bảo đảm cho dân tộc vượt qua tình trạng đói nghèo, lạc hậu và tụt hậu trong
tương quan với các dân tộc khác trong thế giới và ngày càng phát triển mạnh
mẽ hơn để đạt tới sự bình đẳng trong các mối quan hệ giữa con người với con
người, giữa cộng đồng dân tộc này với cộng đồng dân tộc khác. Toàn bộ khả
năng và điều kiện bảo đảm chỉ có thể được tìm thấy và giải quyết bằng con
đường phát triển chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội là giai đoạn phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản về mặt giải
phóng con người khỏi mọi áp bức, bóc lột đem lại cho con người hạnh phúc, tự
do. Vì vậy Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trị của tư tưởng, văn hóa, đạo đức, lối
sống. Văn hóa là lối sống, là quyền con người, là cái chân, thiện, mỹ giữa người
với người. Điều đặc biệt mang sắc thái Hồ Chí Minh, đó là Người chú trọng tiếp
cận chủ nghĩa xã hội theo phương diện đạo đức. Con người có hạnh phúc trong
chế độ xã hội chủ nghĩa phải là những con người được giáo dục và có đạo đức.
Chế độ xã hội chủ nghĩa mang lại hạnh phúc cho con người phải là chế độ
khơng có chủ nghĩa cá nhân, và những gì phản văn hóa và đạo đức. Hồ Chí
Minh chỉ rõ chủ nghĩa cá nhân là trái với đạo đức cách mạng, là trở lực trên con
4


đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không
thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân.
Tóm lại, Hồ Chí Minh đã sớm phát hiện ra giá trị của chủ nghĩa xã hội. Chế

độ xã hội chủ nghĩa theo quan điểm Hồ Chí Minh khơng chỉ là thước đo giá trị
của độc lập dân tộc mà còn tạo nên sức mạnh để bảo vệ vững chắc độc lập dân
tộc và tự bảo vệ. Độc lập dân tộc chỉ có đi tới chủ nghĩa xã hội thì mới có một
nền độc lập dân tộc thật sự, hồn toàn, nhân dân mới được hưởng hạnh phúc tự
do; chủ nghĩa xã hội chỉ có phát triển trên một một nền độc lập dân tộc thật sự
thì mới có điều kiện phát triển và hoàn thiện.
3. Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay:
Hệ thống động lực của chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất
phong phú, trong đó bao trùm lên tất cả là động lực con người, trên cả hai bình
diện : cộng đồng và cá nhân. Đó là phát huy sức mạnh đồn kết của cả cộng
đồng dân tộc - động lực chủ yếu để phát triển đất nước. Đó là phát huy sức
mạnh của con người được giải phóng để làm chủ. Để phát huy sức mạnh này
phải tác động vào nhu cầu, lợi ích của con người, phát huy động lực chính trị,
tinh thần đạo đức, truyền thống, quyền làm chủ của người lao động, thực hiện
công bằng xã hội … Đó là khắc phục các trở lực kìm hãm sự phát triển của chủ
nghĩa xã hội, bao gồm đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, đấu tranh chống tham
ô, lãng phí, quan liêu, chống chủ quan, bảo thủ, giáo điều, lười biếng, khơng
chịu học tập cái mới … Đó cũng là những trở lực đối với sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội.
Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan
hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa
những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc
biệt về khoa học công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng
nền kinh tế hiện đại. Để tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội. Sự biến đổi về chất nghĩa là sự biến đổi mang tính chất bản
chất, căn bản, tồn diện khác với sự biến đổi về lượng, sự biến đổi của từng bộ
5



phận. Nghĩa là trong thời kỳ quá độ, ở nước ta sẽ diễn ra sự biến đổi mang tính
chất bản chất, căn bản và toàn diện ở tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và
q trình đó phải diễn ra lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ
chức kinh tế, xã hội đan xen. Đó là do xuất phát điểm của nước ta thấp và xã hội
ta cũng chưa trải qua sự phát triển của chủ nghĩa tư bản vì vậy, thời kỳ quá độ
phải diễn ra lâu dài là một tất yếu lịch sử. Có thể khẳng định, khi bước vào thời
kỳ quá độ, chúng ta gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, "các thế lực thù địch
tiếp tục chống phá, tìm cách xóa bỏ chủ nghĩa xã hội". Trong bối cảnh khó khăn
đó, Đảng ta vẫn lạc quan khẳng định, "Chúng ta có nhiều thuận lợi cơ bản: có
sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh
sáng lập và rèn luyện, có bản lĩnh chính trị vững vàng và dày dặn kinh nghiệm
lãnh đạo; dân tộc ta là một dân tộc anh hùng; nhân dân ta có lịng u nước
nồng nàn, có truyền thống đoàn kết và nhân ái, cần cù lao động và sáng tạo,
luôn ủng hộ và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; chúng ta đã từng bước xây
dựng được những cơ sở vật chất - kỹ thuật rất quan trọng; cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại, sự hình thành và phát triển của kinh tế tri thức cùng
với q trình tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế là một thời cơ để phát triển”.
Nhận thức đúng những thời cơ và thách thức đang đặt ra để thực hiện được
mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ, Đảng ta chỉ rõ chúng ta phải
quán triệt và thực hiện tốt các phương hướng, nhiệm vụ cơ bản: Đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ
tài nguyên, môi trường; Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Xây dựng con
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công băng xã hội; Bảo
đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; Thực
hiện đường lối đối ngoại độc lập, dân chủ, hịa bình, hữu nghị, hợp tác và phát
triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân
tộc thống nhất; Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân; Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

6


Trải qua gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã
hội, kể từ Ðại hội VI (năm 1986), và hơn 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đến nay,
Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn, hết sức quan trọng. Thực hiện
đường lối đổi mới, với mơ hình kinh tế tổng quát là xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh
tế - xã hội, tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển
mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đời sống nhân dân ngày
càng được nâng cao.
Trong năm 2011, mặc dù sự phục hồi kinh tế sau khủng hoảng tài chính tồn
cầu cịn rất chậm, song mức tăng trưởng kinh tế bình quân vẫn đạt 7%/năm, tuy
thấp hơn kế hoạch (7,5% - 8%), nhưng vẫn được đánh giá cao hơn bình quân các
nước trong khu vực.
Như vậy, trong vòng 20 năm (1991 - 2011), tăng trưởng GDP của Việt Nam
đạt 7,34%/năm, thuộc loại cao ở khu vực Đơng Nam Á nói riêng, ở châu Á và
trên thế giới nói chung; quy mơ kinh tế năm 2011 gấp trên 4,4 lần năm 1990,
gấp trên 2,1 lần năm 2000 (thời kỳ 2001 - 2011 bình quân đạt 7,14%/năm)
Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá,
trong đó sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương
thực đã bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; sản phẩm công nghiệp phát triển
ngày càng đa dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện, từng
bước nâng cao khả năng cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền kinh tế, giữ vững
thị trường trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu; chú trọng đầu tư phát
triển một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao; khu vực dịch vụ có tốc độ
tăng trưởng ổn định. Sự phục hồi và đạt mức tăng trưởng khá này đã tạo cơ sở
vững chắc để quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm (2011 - 2015) trong những
năm sau đạt kết quả vững chắc hơn.

Thành công nổi bật, đầy ấn tượng qua hơn 25 năm thực hiện đổi mới, đầu
tiên phải kể đến việc chúng ta đã giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với phát triển văn hóa; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; các
7


cơ hội phát triển được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư,
khuyến khích, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân.
GDP bình qn đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái của Việt Nam
năm 1988 chỉ đạt 86 USD/người/năm - là một trong những nước thấp nhất thế
giới, nhưng đã tăng gần như liên tục ở những năm sau đó, giai đoạn 2005 - 2010
đạt 1.168 USD/người/năm, nước ta đã ra khỏi nhóm nước thu thập thấp để trở
thành nước có thu nhập trung bình (thấp).
Trong lĩnh vực lao động và việc làm: Từ năm 1991 đến năm 2000, trung
bình mỗi năm cả nước đã giải quyết cho khoảng 1 - 1,2 triệu người lao động có
cơng ăn việc làm; những năm 2001 - 2005, mức giải quyết việc làm trung bình
hằng năm đạt khoảng 1,4 - 1,5 triệu người; những năm 2006 - 2010, con số đó
lại tăng lên đến 1,6 triệu người. Cơng tác dạy nghề từng bước phát triển, góp
phần đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo từ dưới 10% năm 1990 lên khoảng 40%
năm 2010 (13).
Cơng tác xóa đói giảm nghèo đạt được kết quả đầy ấn tượng. Theo chuẩn
quốc gia, tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm từ 30% năm 1992 xuống khoảng 9,5% năm
2010. Còn theo chuẩn do Ngân hàng thế giới (WB) phối hợp với Tổng cục
Thống kê tính tốn, thì tỷ lệ nghèo chung (bao gồm cả nghèo lương thực, thực
phẩm và nghèo phi lương thực, thực phẩm) đã giảm từ 58% năm 1993 xuống
29% năm 2002 và còn khoảng 17% năm 2008. Như vậy, Việt Nam đã “hoàn
thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm
2015”, mà Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDGs) của Liên hợp quốc đã đề ra (14). Tại
cuộc Hội thảo quốc tế với tiêu đề Xóa đói, giảm nghèo: Kinh nghiệm Việt Nam
và một số nước châu Á do Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức tại Hà Nội vào giữa

tháng 6-2004, Việt Nam được đánh giá là nước có tốc độ giảm nghèo nhanh
nhất khu vực Đơng Nam Á (15).
Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mơ, đa dạng hóa về
loại hình trường lớp từ mầm non, tiểu học đến cao đẳng, đại học. Năm 2000, cả
nước đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; dự tính
đến cuối năm 2010, hầu hết các tỉnh, thành sẽ đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung
8


học cơ sở. Tỷ lệ người lớn (từ 15 tuổi trở lên) biết chữ đã tăng từ 84% cuối
những năm 1980 lên 90,3% năm 2007. Từ năm 2006 đến nay, trung bình hằng
năm quy mơ đào tạo trung học chun nghiệp tăng 10%; cao đẳng và đại học
tăng 7,4%. Năm 2009, trên 1,3 triệu sinh viên nghèo được Ngân hàng chính sách
xã hội cho vay với lãi suất ưu đãi để theo học.
Cơng tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Bảo hiểm y tế được mở
rộng đến khoảng gần 60% dân số. Các chỉ số sức khỏe cộng đồng được nâng
lên. Tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm từ 81% năm 1990 xuống còn
khoảng 28% năm 2010; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng đã giảm tương
ứng từ 50% xuống cịn khoảng 20%. Cơng tác tiêm chủng mở rộng được thực
hiện, nhiều dịch bệnh hiểm nghèo trước đây đã được thanh tốn hoặc khống chế.
Tuổi thọ trung bình của người dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 72 tuổi hiện
nay.
Chỉ số phát triển con người (HDI) tăng đều đặn và liên tục suốt mấy thập
kỷ qua: từ 0,561 năm 1985 lần lượt tăng lên 0,599 năm 1990; 0,647 năm 1995;
0,690 năm 2000; 0,715 năm 2005 và 0,725 năm 2007 (16). Nếu so với thứ bậc
xếp hạng GDP bình quân đầu người thì xếp hạng HDI của Việt Nam năm 2007
vượt lên 13 bậc: GDP bình quân đầu người xếp thứ 129 trên tổng số 182 nước
được thống kê, cịn HDI thì xếp thứ 116/182. Điều đó chứng tỏ sự phát triển
kinh tế - xã hội của nước ta có xu hướng phục vụ sự phát triển con người, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội khá hơn một số nước đang phát triển có GDP

bình qn đầu người cao hơn Việt Nam. Như vậy, tổng quát nhất là chỉ số phát
triển con người (HDI) của nước ta đã đạt được ba sự vượt trội: chỉ số đã tăng lên
qua các năm; thứ bậc về HDI tăng lên qua các năm; chỉ số và thứ bậc về tuổi thọ
và học vấn cao hơn chỉ số về kinh tế.
Tóm lại, sau gần 30 năm thực hiện đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn, toàn diện. Cùng với tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ
mơ được duy trì, các mặt: chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh được bảo
đảm và ổn định. Trong đó có những thành tựu rất đáng khích lệ về thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội gắn bó chặt chẽ với tăng trưởng kinh tế, phát triển nguồn
9


lao động và chất lượng lao động, khoa học và cơng nghệ. Thành tựu đó ngày
càng khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành
cơng của đổi mới, khích lệ, động viên nhân dân tiếp tục hưởng ứng, góp phần
quan trọng vào việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tiếp tục thúc đẩy sự
nghiệp đổi mới toàn diện đất nước với những bước tiến cao hơn. Thành tựu này
được các nước trong khu vực cũng như các đối tác có quan hệ với Việt Nam
thừa nhận và xem đây là một thuận lợi trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam
III – Kết luận:
Độc lập dân tộc cũng đòi hỏi phải thực sự đảm bảo quyền làm chủ của
nhân dân, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc, con người được phát
triển toàn diện, hạnh phúc, có năng lực làm chủ. Độc lập tự do địi hỏi phải xóa
bỏ tình trạng áp bức bóc lột, nô dịch của dân tộc này đối với dân tộc khác về
kinh tế, chính trị và tinh thần. Vì vậy, để đảm bảo độc lập dân tộc và thực sự giữ
vững thành quả ấy, cả nước phải tiến lên xã hội chủ nghĩa, đó là quy luận của
thời đại, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân ta là: độc lập – tự do – hạnh phúc.
Tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh là nền tảng và kim chỉ nam cho sự nghiệp
đổi mới của chúng ta. Tư duy của Người hướng vào mưu cầu hạnh phúc cho dân

tộc, mưu cầu phúc lợi cho xã hội. Tròn nửa thế kỉ sau, khi nhân loại tôn vinh
Bác là: “ Anh hùng giải phóng dân tộc và Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”.
Ai cũng thấy được Bác đã mang lại hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội. Đó chính là hạnh phúc, tự do, là đỉnh cao giá trị nhân văn, văn hóa của
lồi người .

10



×