Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tài liệu môn Cơ sở Văn hoá Việt Nam - Bài tham khảo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.28 KB, 17 trang )

Cư dân các dân tộc ít người ở Tây Nguyên đã đạt đến những hiểu biết sâu và
có các kỹ thuật điêu luyện trong việc sử dụng cồng chiêng trong văn hoá và âm
nhạc của mình
Điều này thể hiện ở việc chỉnh âm chiêng mua về với tư cách là một hàng hoá để nó
trở thành một nhạc cụ trong dàn cồng chiêng của dân tộc; thể hiện ở việc lựa chọn
các biên chế dàn chiêng, ở việc quy định giới tính, tư thế và kỹ xảo diễn tấu. Ngoài
ra, họ còn sáng tác nhiều bản nhạc chiêng cho những công dụng khác nhau.
Cồng chiêng Tây Nguyên có giá trị như một bằng chứng độc đáo của đặc trưng
truyền thống văn hoá
Cồng chiêng có mặt trong nền văn hoá của nhiều nước trên thế giới (nhất là châu Á).
Tuy nhiên, dạng cồng chiêng được tổ chức thành dàn để diễn tấu độc lập hoặc kết
hợp với các nhạc cụ khác thì chủ yếu thấy ở các nước Đông Nam Á. Ở Việt Nam, hầu
như tất cả các tộc người đều sử dụng cồng chiêng. Nhưng các dân tộc thường chỉ
dùng 1-2 cồng phối hợp với một trống dùng trong nghi lễ hoặc giữ nhịp cho múa.
Người Mường ở các tỉnh miền núi phía Bắc có dàn cồng sắc bùa, bao gồm một biên
chế 8-12 chiếc cồng núm. Biên chế chiêng thành dàn là đặc trưng trong văn hoá của
các tộc người Tây Nguyên.
Các dàn cồng chiêng Tây Nguyên có nhiều điểm tương đồng với cồng chiêng Đông
Nam Á. Tuy vậy, nó có những nét khác biệt: Văn hoá và âm nhạc cồng chiêng Tây
Nguyên là văn hoá và âm nhạc dân gian. Nó là sở hữu cộng đồng, là chuẩn mực văn
hoá cho thành viên cộng đồng thực hiện. Ở những tộc người mà cồng chiêng dành
riêng cho nam giới thì mọi chàng trai tộc người đó phải biết đánh chiêng. Ở những
tộc người, nơi cồng chiêng do nữ giới đảm nhiệm thì mọi cô gái phải biết thực hiện
nhiệm vụ này (ở nhóm Noong dân tộc Mnông thì đó là nhiệm vụ của cả nam lẫn nữ).
Là sở hữu của cộng đồng, cồng chiêng Tây Nguyên có vai trò như một biểu tượng
cho năng lực sáng tạo văn hoá, âm nhạc của người dân trong không gian văn hoá Tây
Nguyên. Cho đến nay, cồng chiêng và sinh hoạt văn hoá gắn bó với cồng chiêng vẫn
tồn tại trong từng gia đình, p’lei, bon, buôn. Trong khi ở một số nước Đông Nam Á,
cồng chiêng hầu như đã trở thành hoạt động âm nhạc có tính chuyên nghiệp như các
dàn Gamelan của Inđônêxia, dàn Khong wong trong Mahori của Thái Lan, trong Pin
Peat của Campuchia. Đặc điểm này cho thấy cồng chiêng Tây Nguyên có thể còn lưu


giữ nhiều yếu tố cổ xưa hơn.
Văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên đang đứng trước nguy cơ của sự mai một
Trước hết là sự suy giảm nhanh chóng về số lượng các dàn cồng chiêng. Theo thống
kê của Sở Văn hoá Thông tin Gia Lai, trước năm 1980 trong các p’lei/p’lơi của người
Giarai, Bana trong tỉnh có hàng chục ngàn bộ cồng chiêng. Có gia đình sở hữu 2-3
bộ, mỗi p’lei có hàng chục bộ. Đến năm 1999, cả tỉnh có 900 p’lei và chỉ còn 5.117
bộ, năm 2002 còn lại chưa đến 3.000 bộ. Tỉnh Lâm Đồng chỉ còn lại 3.113 bộ. Từ
năm 1982 đến 1992, tỉnh Đắc Lắc đã mất 5.325 bộ chiêng, từ năm 1993 đến 2003 lại
mất tiếp 850 bộ, hiện tại cả tỉnh chỉ còn 3.825 bộ cồng chiêng.
Nguy cơ mai một cồng chiêng còn thể hiện ở các bài bản nhạc chiêng dần dần bị lãng
quên. Các nghệ nhân trải qua thời gian, do nhiều tác động khác nhau đã quên nhiều
bản nhạc chiêng. Người Mnông trước đây có 40 bản nhạc chiêng, nay các nghệ nhân
chỉ còn nhớ, lưu truyền và trình diễn được 10 bản nhạc chiêng. Mặt khác, những nghệ
nhân có đôi tai thẩm âm, có năng khiếu trong việc chỉnh chiêng cũng thưa vắng dần
trong các cộng đồng cư dân.
Đáng tiếc nhất là khi những người già, những nghệ nhân Tây Nguyên chết đi đã
mang theo cả kho tàng di sản văn hoá cồng chiêng mà không dễ dàng tạo dựng và
khôi phục được. Sự đứt gãy dòng chảy của văn hoá truyền thống dẫn đến sự thờ ơ, hờ
hững của lớp trẻ với văn hoá của các thế hệ tiền nhân, trong đó có văn hoá âm nhạc
cồng chiêng.
Trở thành kiệt tác truyển khẩu và di sản phi vật thể của nhân loại, Không gian văn
hoá cồng chiêng Tây Nguyên đặt ra những vấn đề cấp thiết trong công tác bảo tồn,
phát huy giá trị của nó. Bài toán bảo tồn sẽ cực kỳ phức tạp, vất vả. Vì, khác với Nhã
nhạc cung đình Huế, là một hiện tượng văn hóa, để bảo tồn chúng ta chỉ cần đầu tư
cho công tác nghiên cứu và phát triển nghệ nhân biểu diễn, cồng chiêng không chỉ là
nghệ thuật biểu diễn đơn thuần, mà gắn bó chặt chẽ với nghi lễ, với đời sống hằng
ngày, với chính không gian của vùng đất ấy. Vì vậy, cần có một chương trình tổng
thể, quy mô cho công việc này. Trước mắt, cần đẩy mạnh công tác sưu tầm, ghi chép
và nghiên cứu một cách bài bản, hệ thống về cồng chiêng và văn hóa cồng chiêng
Tây Nguyên. Tiến hành phục hồi và giữ gìn các sinh hoạt văn hóa để tạo môi trường

diễn xướng của sinh hoạt văn hóa cồng chiêng trên quan điểm kế thừa có chọn lọc.
Từng bước xây dựng phòng lưu trữ di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên tại Trung
tâm Dữ liệu Di sản văn hóa (Viện Văn hóa-Thông tin) và tại các bảo tàng tỉnh: Kon
Tum, Gia Lai, Ðác Lắc, Ðác Nông và Lâm Ðồng. Ðồng thời có kế hoạch đào tạo dài
hạn, cơ bản đội ngũ cán bộ khoa học am hiểu về âm nhạc truyền thống, văn hóa, lịch
sử Tây Nguyên, chú trọng đào tạo cán bộ là người dân tộc thiểu số. Mở lớp truyền
dạy kinh nghiệm đánh chiêng, chỉnh chiêng tại cộng đồng.
Muốn làm tốt công việc này cần phải xác định một số định hướng như sau:
Cần có một chương trình nghiên cứu khoa học cho Không gian văn hoá cồng
chiêng Tây Nguyên với 3 nhóm công việc: Sưu tầm và nghiên cứu; bảo tồn và phục
hồi; truyền dạy và quảng bá. Trước mắt, phải chặn đứng nạn “chảy máu” cồng
chiêng, tiến hành bảo tồn tĩnh lẫn bảo tồn động đối với di sản văn hoá này, tiến hành
đào tạo đội ngũ cán bộ nghiên cứu là người dân tộc ít người tại địa phương.
Bản chất của cồng chiêng Tây Nguyên là sáng tạo của cộng đồng và cũng chính cộng
đồng bảo tồn, lưu giữ, trao truyền nó. Vì vậy, phát huy vai trò của cộng đồng phải là
yêu cầu có tính nguyên tắc trong hệ thống các công việc trên.
Xử lý thoả đáng, biện chứng quan hệ giữa hai phạm trù “bảo tồn và phát huy” đối với
hàng loạt vấn đề đặt ra của đời sống hàng ngày trong Không gian văn hoá cồng
chiêng Tây Nguyên. Muốn bảo tồn cồng chiêng và văn hoá cồng chiêng, phải giữ gìn,
khôi phục các sinh hoạt văn hoá – tín ngưỡng liên quan đến cồng chiêng, trong đó
không nhất thiết phải kế thừa y nguyên (không nên đưa cồng chiêng thành đoàn văn
công chuyên nghiệp, sân khấu hoá việc trình diễn cồng chiêng).
Khai thác tiềm năng kinh tế của kiệt tác truyền khẩu và di sản phi vật thể này nhưng
không phá vỡ hay làm tăng thêm nguy cơ mai một của Không gian văn hóa cồng
chiêng Tây Nguyên. Là một sáng tạo mang tầm kiệt tác của nhân loại, Không gian
văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên có khả năng hấp dẫn, thu hút khách du lịch. Đây
cũng là cơ hội tốt để tuyên truyền, quảng bá về giá trị của di sản: Tạo ra các tour du
lịch, đưa khách du lịch đến xem, nghe trình diễn cồng chiêng tại cộng đồng, in ấn,
xuất bản những sản phẩm như sách, băng đĩa, tờ rơi… để khai thác tiềm năng kinh tế
của di sản, phục vụ sự phát triển kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, bảo vệ sự bền vững của

kiệt tác này cũng là yêu cầu đặt ra và là cam kết của chúng ta với cộng đồng thế giới.
Những nỗ lực đưa Không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên là Di sản văn
hoá Phi vật thể của nhân loại đã được đền bù xứng đáng.
Việc chuẩn bị hồ sơ trình UNESCO là công việc rất vất vả, khó khăn. Trong đợt xét
duyệt đầu tiên (2001), Việt Nam đã đệ trình hai hồ sơ là múa rối nước và hát chèo
tàu, nhưng do chưa có kinh nghiệm nên di sản chưa được công nhận. Ðối với Không
gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, chúng ta chưa có sự nghiên cứu toàn diện, các
nhà khoa học nước ngoài cũng chưa có chuyên luận nào. Ðịa bàn của không gian văn
hóa cồng chiêng lại trải rộng trên năm tỉnh, với 11 dân tộc. Mà thời gian để chuẩn bị
hồ sơ lại không nhiều, chỉ vỏn vẹn có sáu tháng. Vấn đề quan trọng là phải xây dựng
bộ hồ sơ theo đúng mẫu của UNESCO, gồm: các băng video 120p, 40p, 10p; một bộ
ảnh (kèm phim âm bản, phim dương bản); 1 băng ghi âm, 1 báo cáo khoa học đánh
giá di sản và chương trình hành động để phục hồi, bảo tồn và phát huy giá trị di sản;
1 thư mục nghiên cứu về di sản; cam kết và thỏa thuận của cộng đồng và cơ quan
quản lý, ngoài ra là các tài liệu tham khảo như sơ đồ, các công trình nghiên cứu, giới
thiệu về di sản…, tất cả đều phải được dịch và giới thiệu bằng tiếng Anh. Ðể xây
dựng hoàn chỉnh hồ sơ về cồng chiêng, ngoài các tư liệu lưu trữ sẵn có, cán bộ của
Viện đã phải chia thành nhiều bộ phận, phụ trách những phần việc khác nhau như đi
điền dã, biên tập, dịch thuật, lồng tiếng…
Với danh nghĩa là nghệ thuật biểu diễn của từng dân tộc thì cồng chiêng cũng đã có
mặt trong một số ngày hội của quốc gia, đã từng đi trình diễn ở nước ngoài, nhưng
với tư cách là cồng chiêng Tây Nguyên, thì chuyện lại không đơn giản. Sau lễ công
bố danh hiệu, đã có lời mời đưa cồng chiêng đi biểu diễn ở nước ngoài, Bộ Văn hóa –
Thông tin đã đồng ý trên nguyên tắc, nhưng phương thức tiến hành thì chúng tôi đang
phải cân nhắc. Cần nhấn mạnh đây là một không gian văn hóa, vì vậy, khi giới thiệu,
nhất là ra quốc tế, cần hết sức thận trọng. Tôi không đồng ý quan điểm sân khấu hóa
nghệ thuật cồng chiêng. Chúng ta đã có bài học đau xót từ việc sân khấu hóa, chuyên
nghiệp hóa quan họ Bắc Ninh. Với cồng chiêng, tất nhiên sẽ phải có hình thức quảng
bá cho giá trị độc đáo của Di sản, nhưng làm thế nào, thì cần có sự bàn soạn và đồng
thuận của các nhà khoa học, và nhất là các cộng đồng làng, những chủ thể trực tiếp

của Di sản.
Tìm giải pháp để đưa các đoàn nghệ nhân đi biểu diễn và xây dựng một số buôn làng
thành điểm du lịch, với đầy đủ một không gian sinh hoạt và diễn xướng cồng chiêng.
Sắp tới, Bộ Văn hóa- Thông tin sẽ tiến hành xây dựng một trung tâm bảo tồn và phát
triển di sản văn hóa phi vật thể tại TP Hồ Chí Minh, hy vọng sẽ kéo gần một không
gian văn hóa đến với đông đảo nhân dân. Hiện nay, chúng tôi đang xây dựng kịch
bản cho lễ đón bằng công nhận Kiệt tác truyền khẩu và Di sản phi vật thể nhân loại,
dự kiến sẽ tổ chức thành một liên hoan cồng chiêng tại Tây Nguyên, khoảng cuối
tháng giêng năm Bính Tuất. Bởi vì nếu làm không khéo thì sẽ tăng nguy cơ mai một
vốn truyền thống. Ðược trao danh hiệu là niềm tự hào lớn, nhưng cũng đừng nghĩ
rằng điều đó là vĩnh viễn. Cứ hai năm một lần, UNESCO tiến hành xem xét lại các di
sản được trao danh hiệu, và giám sát quá trình thực hiện các cam kết bảo tồn, nếu
không làm tốt, có thể bị tước danh hiệu.
Thế hệ hôm nay tràn đầy niềm tự hào bởi trong 90 di sản của các nước trên thế giới
được UNESCO công nhận là kiệt tác truyền khẩu và di sản phi vật thể của nhân loại,
Việt Nam có Nhã nhạc cung đình Huế và Không gian văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên. Niềm tự hào này cũng đặt trên vai chúng ta trách nhiệm phải bảo vệ, giữ gìn
các di sản này cho hôm nay và mai sau.
Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII lần đầu tiên khẳng định: Văn hóa là nền tảng
tinh thần của xã hội, là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Đại hội VIII (năm 1996) xác định: Văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội. Và mốc đánh dấu sự đổi mới toàn diện trong tư duy về văn hóa của Đảng
thể hiện ở Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đây là văn kiện mang tính cương lĩnh
của Đảng về văn hóa trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Dự thảo
Báo cáo chính trị Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nêu từng vấn đề cụ thể về
chăm lo phát triển văn hóa, trong đó có phương hướng củng cố và tiếp tục xây dựng
môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú, đa dạng.
Thời gian qua, hoạt động văn hóa ngày càng mở rộng, từng bước được nâng chất,

đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của nhân dân. Tuy nhiên, văn hóa
phát triển chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế, một số lĩnh vực quản lý còn thiếu
chặt chẽ; môi trường văn hóa còn bị ô nhiễm, các tệ nạn xã hội, tội phạm và sự xâm
nhập của các sản phẩm văn hóa và dịch vụ văn hóa độc hại làm suy đồi đạo đức, nhất
là trong thanh thiếu niên hiện nay khiến dư luận quan tâm, lo ngại. Công tác tuyên
truyền, giáo dục và biện pháp giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc chưa thật sự đi vào
chiều sâu; chưa phát huy tính chủ động, tích cực, tự giác của chủ thể văn hóa; thiếu
những công trình văn hóa để lại dấu ấn lịch sử, thiếu sân chơi lành mạnh. Trong khi
đó có nơi, có lúc văn hóa tiêu cực, tệ nạn xã hội… lấn át.
Từ thực tế đó, cần có những giải pháp hợp lý nhằm khắc phục những tồn tại nêu
trên, tránh chạy theo hình thức; phát triển kinh tế và văn hóa gắn với môi trường tự
nhiên và xã hội, nhất là giữ gìn không gian văn hóa của cộng đồng
Chính vì vậy, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú, đa dạng là
điều kiện để giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, làm cho đời sống văn hóa tinh thần của
người dân thêm phong phú, đủ sức đề kháng với sự du nhập của những sản phẩm văn
hóa không tốt từ bên ngoài, tránh nguy cơ bị hòa tan trong quá trình hội nhập quốc tế,
mặt khác, cũng tạo điều kiện để văn hóa dân tộc được giao lưu, hợp tác và phát triển.
Trên cơ sở chủ trương xây dựng và tăng cường hiệu quả hoạt động của hệ thống thiết
chế văn hóa ở tất cả các cấp, đồng thời có kế hoạch cải tạo, nâng cấp và đầu tư xây
dựng mới một số công trình văn hóa nghệ thuật, TDTT hiện đại. Tôi đề nghị đưa vào
nghị quyết đại hội nội dung cụ thể về đầu tư xây dựng các công trình văn hóa trọng
điểm hiện đại, đạt tầm khu vực và thế giới. Trong đó, đầu tư cho việc bảo tồn, phát
huy các giá trị di sản văn hóa, phát triển bảo tàng là một nhu cầu bức xúc, cần có quy
hoạch phát triển lâu dài, sự quan tâm đầu tư đúng mức và cơ chế đặc thù cho thiết chế
văn hóa quan trọng này.
Riêng với TPHCM, là một trong những trung tâm kinh tế và văn hóa lớn của cả
nước, cũng là địa phương có hệ thống bảo tàng nhiều nhất. Thời gian qua, TP đã có
sự đầu tư đáng kể nhiều công trình văn hóa - xã hội nhưng vẫn chưa đáp ứng đầy đủ
nhu cầu hưởng thụ văn hóa của người dân. Vấn đề đặt ra là tiếp tục đầu tư, phát triển,
hoàn thiện các thiết chế văn hóa với những công trình, dự án được triển khai thực

hiện đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, có phân kỳ phù hợp.
Bản sắc văn hóa dân tộc là khái niệm bao quát một cách uyển chuyển, linh hoạt
các đặc điểm làm nên diện mạo, sắc thái văn hóa riêng của dân tộc. Về nội hàm, bản
sắc văn hóa là tổng hòa các giá trị, các yếu tố vừa đa dạng, vừa lâu dài, không ra đời
một cách ngẫu nhiên, mà hình thành, khẳng định và phát triển như sản phẩm của điều
kiện kinh tế, địa lý, của quá trình dựng nước và giữ nước, của quá trình sáng tạo các
giá trị văn hóa "nội sinh" kết hợp với tiếp thu có chọn lọc một số yếu tố tinh hoa văn
hóa "ngoại sinh". Bản sắc văn hóa vừa gắn với những giá trị cơ bản, cốt lõi làm nên
cốt cách của dân tộc, vừa được biểu thị trong sinh hoạt hằng ngày. Ðể có các giá trị
thiêng liêng làm nên bản sắc văn hóa, dân tộc phải đổ mồ hôi và cả máu mới có được.
NỀN VĂN HOÁ VIỆT NAM TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC
NGHỊ QUYẾT HỘI NGHỊ LẦN THỨ NĂM BAN CHẤP HÀNH TRUNG
ƯƠNG ĐẢNG (KHÓA VIII)
VỀ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HOÁ VIỆT NAM
TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC
Văn hoá Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên
cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao
lưu và tiếp thụ tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện
mình. Văn hoá Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam,
làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc.
Văn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số có bước tiến đáng kể. Đội ngũ những nhà
văn hoá người dân tộc thiểu số phát triển cả về số lượng, chất lượng, đã có những
đóng góp quan trọng vào hầu hết các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, phát huy chủ
nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hoá
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thụ tinh hoa văn hoá nhân loại, làm
cho văn hoá thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng
gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt
và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân
trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá

vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc
lên chủ nghĩa xã hội.
Nền văn hoá Việt Nam là nên văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các
dân tộc Việt Nam
Hơn 50 dân tộc sống trên đất nước ta đều có những giá trị và sắc thái văn hoá riêng.
Các giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hoá Việt Nam và
củng cố sự thống nhất dân tộc là cơ sở để giữ vững sự bình đẳng và phát huy tính đa
dạng văn hoá của các dân tộc.
Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó
đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng
Mọi người Việt Nam phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh
đều tham gia sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hoá nước nhà. Công nhân,
nông dân, trí thức là nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân, cũng là nền tảng của sự
nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà
nước. Đội ngũ trí thức gắn bó với nhân dân giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp
xây dựng và phát triển văn hoá.
Văn hoá là một mặt trân; xây dựng, phát triển văn hoá là một sự nghiệp cách mạng
lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng
Bảo tồn và phát huy những di sản văn hoá tốt đẹp của dân tộc, sáng tạo nên những
giá trị văn hoá mới, xã hội chủ nghĩa, làm cho những giá trị ấy thấm sâu vào cuộc
sống của toàn xã hội và mỗi con người, trở thành tâm lý và tập quán tiến bộ, văn
minh là một quá trình cách mạng đầy khó khăn, phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian.
Trong công cuộc đó, "xây" đi đôi với "chống", lấy "xây" làm chính. Cùng với việc
giữ gìn và phát triển những di sản văn hoá quí báu của dân tộc, tiếp thụ những tinh
hoa văn hoá thế giới, sáng tạo, vun đắp nên những giá trị mới, phải tiến hành kiên trì
cuộc đấu tranh bài trừ các hủ tục, các thói hư tật xấu, nâng cao tính chiến đấu, chống
mọi mưu toan lợi dụng văn hoá để thực hiện "diễn biến hoà bình".
Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới với những đức tính
sau:
- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa

xã hội, có chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân
dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội.
- Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn
trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi
trường sinh thái.
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao
vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ
và thể lực.
Tạo ra ở các đơn vị cơ sở (gia đình, làng, bản, xã, phường, khu tập thể, cơ quan, xí
nghiệp, nông trường, lâm trường, trường học, đơn vị bộ đội , các vùng dân cư (đô
thị, nông thôn, miền núi ) đời sống văn hoá lành mạnh, đáp ứng những nhu cầu văn
hoá đa dạng và không ngừng tăng lên của các tầng lớp nhân dân.
Gìn giữ và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Nêu cao vai trò
gương mẫu của các bậc cha mẹ. Coi trọng xây dựng gia đình. Xây dựng mối quan hệ
khăng khít giữa gia đình, nhà trường và xã hội.
Đẩy mạnh phong trào xây dựng làng, ấp, xã, phường văn hoá, nâng cao tính tự quản
của cộng động dân cư trong công cuộc xây dựng nếp sống văn minh.
Thu hẹp dần khoảng cách đời sống văn hoá giữa các trung tâm đô thị và nông thôn,
giữa những vùng kinh tế phát triển với các vùng sâu, vùng xa, vùng núi, biên giới, hải
đảo, giữa các tầng lớp nhân dân.
Phát triển và không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hoá ở
cơ sở; đầu tư xây dựng một số công trình văn hoá trọng điểm tầm quốc gia. Tăng
cường hoạt động của các tổ chức văn hoá, nghệ thuật chuyên nghiệp, phát triển
phong trào quần chúng hoạt động văn hoá, nghệ thuật.
Phát triển sự nghiệp văn hoá, nghệ thuật và Bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá
Di sản văn hoá là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân
tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hoá. Hết sức coi trọng bảo

tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hoá truyền thống (bác học và dân gian), văn
hoá cách mạng, bao gồm cả văn hoá vật thể và phi vật thể.
Nghiên cứu và giáo dục sâu rộng những đạo lý dân tộc tốt đẹp do cha ông để lại.
Đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII) về giáo dục - đào tạo
và khoa học - công nghệ. Coi trọng giáo dục đạo lý làm người, ý thức trách nhiệm,
nghĩa vụ công dân, lòng yếu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, đạo đức, lối sống, nếp sống
văn hoá, lịch sử dân tộc và bản sắc dân tộc, ý chí vươn lên vì tương lai của mỗi người
và tiền đồ của đất nước, bồi dưỡng ý thức và năng lực phát huy giá trị văn hoá dân
tộc, tiếp thụ tinh hoa văn hoá nhân loại.
Bảo tồn, phát huy và phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số
"Coi trọng và bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống và xây dựng, phát triển
những giá trị mới về văn hoá, văn học, nghệ thuật của các dân tộc thiểu số.
Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, chữ viết của các dân tộc. Đi đôi với việc sử dụng
ngôn ngữ, chữ viết phổ thông, khuyến khích thế hệ trẻ thuộc đồng bào các dân tộc
thiểu số học tập, hiểu biết và sử dụng thành thạo, tiếng nói, chữ viết của dân tộc
mình. Phát hiện, bồi dưỡng, tổ chức lực lượng sáng tác, sưu tầm, nghiên cứu văn hoá,
văn học nghệ thuật là người dân tộc thiểu số.
Đầu tư và tổ chức điều tra, sưu tầm, nghiên cứu, phổ biến các giá trị văn hoá, văn
học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số.
Xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá, mở rộng mạng lưới thông tin ở vùng
dân tộc thiểu số.
Thực hiện tốt chính sách phát triển kinh tế xã hội ở vùng dân tộc thiểu số, sớm giảm
tỉ lệ hộ đói nghèo, ổn định và cải thiện đời sống, xoá mù chữ, nâng cao dân trí, xoá bỏ
hủ tục lạc hậu, đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và
đời sống văn hoá lành mạnh trong xã hội, trước hết trong từng gia đình.
Kiên quyết loại bỏ những phần tử thoái hoá biến chất về đạo đức. Nghiêm trị bọn tội
phạm. Ngăn chặn và đẩy lùi các hoạt động phản văn hoá, các sản phẩm văn hoá độc
hại.
Xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội, đẩy lùi hủ tục, các tệ
nạn cờ bạc, ma tuý, mại dâm, bạo lực, gây rối trật tự công cộng.

Cải thiện đời sống văn hoá ở những vùng đời sống văn hoá còn quá thấp kém, nhất là
những vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, đáp ứng nhu cầu thiết
yếu nhất về đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân.
- Chính sách bảo tồn, phát huy di sản văn hoá dân tộc hướng vào cả văn hoá vật thể
và phi vật thể. Tiến hành sớm việc kiểm kê, sưu tầm, chỉnh lý vốn văn hoá truyền
thống (bao gồm văn hoá bác học và văn hoá dân gian) của người Việt và các dân tộc
thiểu số; phiên dịch, giới thiệu kho tàng văn hoá Hán Nôm. Bảo tồn các di tích lịch
sử, văn hoá và các danh lam thắng cảnh, các làng nghề, các nghề truyền thống
Trọng đãi những nghệ nhân bậc thầy trong các ngành, nghề truyền thống.
Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
Trong thời đại ngày nay, xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra
mạnh mẽ, trên quy mô lớn. Cùng với sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ hiện đại và mạng thông tin toàn cầu, "ngôi nhà" thế giới dường
như trở nên "nhỏ bé" hơn. "Toàn cầu hoá kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng
chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc
gia, nhất là các nước đang phát triển"
(1)
. Sự ảnh hưởng của quá trình này không chỉ về
phương diện kinh tế. Bất luận tham gia chủ động hay buộc phải cuốn theo một cách
bị động vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế thì văn hóa dân tộc đều phải tiếp xúc, giao
thoa với các nền văn hóa khác trên thế giới, đều thôi thúc từng dân tộc suy nghĩ xem
phải ứng xử với xu thế lịch sử này như thế nào.
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) là một sản phẩm của quá trình toàn cầu hóa
kinh tế, đến lượt mình, tổ chức này lại thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa kinh tế phát
triển mạnh mẽ hơn và trở nên hiệu quả hơn. Trở thành thành viên chính thức của
WTO, Việt Nam có cơ hội phát triển, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, đồng thời cũng đứng trước nhiều vấn đề mới trong việc giữ vững sự độc lập tự
chủ của nền kinh tế còn non trẻ và kém phát triển; trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc; bảo đảm quốc phòng và an ninh, bảo vệ Tổ quốc.
Thế giới đương đại đang chứng kiến hai yếu tố lớn tác động mạnh mẽ đến bức tranh

kinh tế toàn cầu là: sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự gia tăng hoạt động của
các công ty xuyên quốc gia. Những công ty tư bản xuyên quốc gia, những thế lực chủ
yếu chi phối "luật chơi" của kinh tế thế giới không phải không mong muốn kiến tạo
"một thế giới theo hình ảnh của nó"
(2)
- như cách diễn đạt của C.Mác, Ph.Ăng-ghen
cách đây gần 160 năm - cả về chính trị và văn hóa. Với góc tiếp cận này, việc Việt
Nam trở thành thành viên của WTO lại là một "thời cơ" lớn đối với các thế lực thù
địch thực thi chiến lược "diễn biến hòa bình", chống phá cách mạng Việt Nam. Sự
chống phá đó, trong nhiều trường hợp, được ẩn náu, che dấu kín đáo trong các quan
hệ kinh tế, thương mại, hợp tác, đầu tư làm cho chúng ta khó nhận biết chính xác, rõ
ràng, và vì thế, cuộc đấu tranh chống "diễn biến hòa bình" trở nên phức tạp, khó khăn
hơn.
Cơ hội và thách thức khi gia nhập WTO không phải là "nhất thành bất biến", mà đan
xen lẫn nhau, tác động sâu rộng không chỉ đến lĩnh vực kinh tế, mà đến mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, đến từng tổ chức và con người. Tận dụng được cơ hội, vượt qua
và đẩy lùi thách thức, biến thách thức thành cơ hội để phát triển, phụ thuộc vào việc
chúng ta phát huy nhân tố chủ quan, nội lực của đất nước, bản sắc văn hóa, tinh thần
yêu nước, ý chí tự lực tự cường của cả dân tộc như thế nào.
Văn hóa, cũng như các lĩnh vực khác, chịu sự tác động sâu sắc của quá trình toàn cầu
hóa kinh tế. Bản thân văn hóa không chỉ thể hiện ở những sản phẩm văn hóa tinh
thần, trong các hoạt động văn hóa tinh thần mà còn ẩn chứa bên trong tất cả các hoạt
động của đời sống xã hội, trong tất cả các nhóm dân cư, trong đời sống tâm lý, tình
cảm, tư tưởng của con người, trong các thể chế chính trị - xã hội của đất nước Lĩnh
vực sản xuất vật chất đơn thuần cũng hàm chứa trong nó những nội dung văn hóa,
phản ánh đặc tính văn hóa của con người, của cộng đồng người trong lĩnh vực sản
xuất vật chất đó. Một sản phẩm vật chất cụ thể bao giờ cũng kết tinh những giá trị
văn hóa nào đó. Một công ty liên doanh kinh tế không phải đơn thuần chỉ có nội dung
kinh tế mà chứa đựng trong đó những giá trị văn hoá, những mối quan hệ văn hóa
giữa các bên liên doanh: văn hóa giao tiếp, ứng xử; văn hóa sản xuất, kinh doanh và

cả những yếu tố chính trị - tư tưởng. Sự tác động của quá trình này đối với văn hóa
vừa biểu hiện trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại và các lĩnh vực khác, vừa trực
tiếp tác động đến văn hóa, đến các giá trị văn hóa, đến phong tục tập quán, các giá trị
truyền thống và các thiết chế văn hóa của xã hội mà hiện nay chúng ta khó có thể
dự lường hết được.
Việc thực hiện những cam kết với WTO tạo điều kiện thuận lợi để tiếp thu những
tinh hoa văn hóa nhân loại, có cơ hội phát triển và làm thăng hoa văn hóa dân tộc, tôn
vinh hình ảnh Việt Nam trong cộng đồng thế giới. Những giá trị văn hóa mới phù
hợp với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa có điều kiện phát triển mạnh mẽ. Lớp
cán bộ trẻ có trình độ chuyên môn cao, thông thạo ngoại ngữ, tin học, năng động, tự
tin, dám nghĩ, dám làm, dám cạnh tranh, có ý thức dân tộc cao, có tác phong công
nghiệp từng bước xuất hiện và phát triển. Biết làm giàu chính đáng cho bản thân, cho
cộng đồng và cho xã hội trở thành một giá trị tiêu biểu và là một biểu hiện sinh động
của tình yêu quê hương, đất nước. Lòng nhân ái, tình thương con người biến thành
hành động cụ thể giúp nhau vượt khó, vươn lên làm giàu
Tuy nhiên, là thành viên của WTO, dưới sự tác động của quá trình toàn cầu hóa kinh
tế, mặt trái của kinh tế thị trường, sự chống phá của các thế lực thù địch, thì những
thách thức đối với giá trị văn hóa truyền thống cũng gia tăng. Các nấc thang giá trị có
sự thay đổi sâu sắc, làm cho việc phân biệt "đúng - sai", "tốt - xấu" trong nhiều
trường hợp trở nên hết sức phức tạp. Những yếu tố ngoại lai, lai căng có điều kiện
xâm nhập, phát triển, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống văn hóa tinh thần xã hội.
Những "nọc độc" về văn hóa, chính trị thâm nhập vào bằng nhiều con đường, với
nhiều hình thức tinh vi khác nhau, làm cho tư tưởng, đạo đức, lối sống con người dễ
bị nhiễm độc; vấn đề "bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn
hóa và an ninh xã hội" được đặt ra một cách gắt gao hơn. Chủ nghĩa cá nhân, thực
dụng, lối sống vì đồng tiền, làm giàu bằng mọi giá, các tệ nạn xã hội có điều kiện
phát triển. Trong bối cảnh đó, nếu không có chiến lược văn hóa phù hợp, thì sự ảnh
hưởng này sẽ dẫn đến những hậu quả khó lường.
Nhận thức đúng vấn đề đó, tại Đại hội X của Đảng, ngay khi nước ta chưa chính thức
là thành viên của WTO, Đảng ta đã chỉ rõ: "Khai thác có hiệu quả các cơ hội và giảm

tối đa những thách thức, rủi ro khi nước ta là thành viên Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO)"
(3)
. Chiến lược văn hóa, trong điều kiện mới, cần phải quán triệt sâu sắc quan
điểm, tư tưởng trên đây của Đảng. Say sưa tìm kiếm sự phát triển kinh tế mà không
quan tâm đúng mức đến vấn đề văn hóa trong chiến lược phát triển thì đó là một hành
động tự làm suy yếu sức mạnh của bản thân mình. Chiến lược văn hóa, trong điều
kiện đó, phải tập trung giải quyết hai nội dung cơ bản và cấp thiết có quan hệ biện
chứng với nhau, không tách rời nhau: thứ nhất, giữ gìn, kế thừa, phát triển bản sắc
văn hóa dân tộc; thứ hai, phát huy văn hóa dân tộc, nguồn sức mạnh nội sinh của đất
nước trong quá trình hội nhập. Xây dựng và phát triển, giữ gìn và phát huy gắn bó
chặt chẽ với nhau trong chiến lược văn hóa.
Ở nội dung thứ nhất, để giữ gìn, kế thừa, phát triển bản sắc văn hóa dân tộc, chúng ta
cần đẩy mạnh hơn nữa việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, thực sự coi đó vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội.
Văn hóa dân tộc là một chỉnh thể đồ sộ, phong phú bao gồm tri thức, tư tưởng, tín
ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, phong tục, tập quán, truyền thống nó vừa là
"trầm tích" của tình cảm và ý thức dân tộc trong quá khứ, vừa là kết tinh của tinh thần
thời đại và định hướng giá trị của dân tộc. Mỗi dân tộc có cách giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc của mình. Cần phải có thái độ biện chứng "gạn đục, khơi trong" những
giá trị văn hóa dân tộc. Văn hóa luôn là hệ thống mở, những giá trị đích thực tiêu
biểu cho cốt cách, phẩm chất dân tộc Việt Nam cần phải được bồi đắp nội dung mới
cho phù hợp với thời đại, những mặt hạn chế cần phải được khắc phục, đổi thay.
Những giá trị bên ngoài đã được "Việt Nam hoá", được các thế hệ con người Việt
Nam thâu lượm, chọn lọc biến "cái của người", thành "cái của ta" cũng là văn hóa
dân tộc. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin không phải do dân tộc ta sản sinh ra, nó là kết tinh
văn hóa nhân loại đã được dân tộc ta tiếp thu và trở thành điều cốt lõi của nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, càng cần phải kiên định hơn nữa
trong bối cảnh mới.
Các giá trị tốt đẹp của xã hội và con người Việt Nam là sản phẩm của lịch sử dựng

nước và giữ nước suốt mấy ngàn năm của dân tộc và là bản chất của quá trình lịch sử
ấy. Các thế hệ ông cha đã sản sinh ra những giá trị văn hóa dân tộc; kế thừa, phát huy
và phát triển là công việc của con cháu, của thế hệ hôm nay. Trên tinh thần ấy, cần
phải quán triệt sâu sắc những định hướng mà Đại hội X của Đảng đã chỉ ra về kế
thừa, phát huy và phát triển giá trị văn hóa trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế:
"Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế
quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt
là lý tưởng sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hóa con người Việt
Nam"
(4)
.
Ở nội dung thứ hai, vấn đề phát huy văn hóa dân tộc, nguồn sức mạnh nội sinh của
đất nước trong quá trình hội nhập. Vào WTO, chúng ta vừa có điều kiện để phát huy
văn hóa dân tộc, vừa phải có trách nhiệm hơn, có ý thức cao hơn trong việc tôn vinh
những giá trị văn hóa dân tộc. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc là nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong điều kiện mới của sự
mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là để đến với
thế giới một cách tốt hơn, học tập chỗ mạnh của các nền văn hóa khác một cách tốt
hơn, tiếp thu văn hóa nhân loại, thông qua tính dân tộc để thâu lượm, sàng lọc tính
thời đại, tính thế giới.
Cần nhận thức và xác định đúng đắn ý nghĩa, tầm quan trọng của văn hóa khi thực
hiện các cam kết kinh tế, thương mại song phương, đa phương trong khuôn khổ
WTO. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển, tôn vinh
những giá trị văn hóa dân tộc và hình ảnh Việt Nam trước bạn bè năm châu là trách
nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, của tất cả các cấp, các ngành, của mọi con người,
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Ở đây, vai trò của các doanh nghiệp hết sức
quan trọng. Tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc phải trở thành một hành trang cơ bản
giúp họ sản xuất kinh doanh, cạnh tranh với "thiên hạ", tô đẹp hình ảnh Việt Nam
trên thế giới. Mọi sản phẩm làm ra, mọi hoạt động kinh doanh, buôn bán không chỉ

mang lợi ích kinh tế, mà phải có ý nghĩa, giá trị văn hóa sâu đậm. Kinh tế và văn hoá,
giá trị kinh tế và giá trị văn hóa dân tộc hòa quyện tạo ra niềm tự hào chính đáng đó
của dân tộc Việt Nam.
Trong xã hội đang và sẽ tiếp tục diễn ra quá trình: những giá trị được sinh ra, hoặc
phát triển chủ yếu trong chống ngoại xâm, trong thời bao cấp chuyển thành những giá
trị của thời kỳ đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế. Sự chuyển biến này là đòi hỏi tất
yếu của tình hình mới. Vào WTO thì sự chuyển biến này càng có điều kiện và đòi hỏi
phải đẩy nhanh tốc độ. Thành công của sự nghiệp đổi mới, chấn hưng đất nước, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay phụ thuộc rất lớn vào tính đúng hướng và chất
lượng của quá trình đó. Điều quyết định đảm bảo tính đúng hướng và chất lượng của
quá trình chuyển động này là sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước; là sự
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; phát huy cao độ tinh
thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường trong mỗi con người và của toàn dân tộc.
Thực tiễn trên thế giới những năm gần đây cho thấy rõ điều đó. Dưới sự tác động
mạnh mẽ của toàn cầu hoá kinh tế, người dân của nhiều quốc gia đã lấy việc sử dụng
đồ điện, ô-tô sản xuất trong nước làm vinh dự. Để đối phó với sự khủng hoảng tài
chính - tiền tệ ở châu Á năm 1997- 1998, không ít người dân Hàn Quốc đã tự nguyện
quyên góp tiền, vàng cho chính phủ nhằm cứu vãn nền kinh tế sắp lâm vào khủng
hoảng; người dân một số nước Đông - Nam Á cũng có những hành động tương tự
(5)
.
Những ví dụ nêu trên đáng để cho chúng ta suy ngẫm về ý thức dân tộc, lòng tự hào
và tinh thần dân tộc trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế.
Dân tộc ta chỉ có thể phát triển và khẳng định được chính mình trong dòng chảy của
toàn cầu hóa kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế, trong "sân chơi" của WTO, thực hiện
thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, "sánh
vai cùng các nước trên thế giới trong nhịp bước khẩn trương của thời đại"
(6)
, khi
chúng ta biết phát huy mạnh mẽ nội lực của chính mình, biết giữ gìn, bảo vệ và

không ngừng bồi đắp, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc của mình.
• Giao lưu văn hoá là một thuộc tính của xã hội loài người, là quy luật
vận động, phát triển của mọi nền văn hóa. Ngày nay quá trình toàn
cầu hoá đang cuốn hút hầu như tất cả các quốc gia
Giao lưu văn hoá là điều tất yếu, là quy luật vận động và phát triển của nhân loại. Nó
là một quá trình thường xuyên, diễn ra một cách tự nhiên, không phụ thuộc vào ý
muốn chủ quan của giới cầm quyền. Dù có đóng cửa, dù có bế quan toả cảng như thế
nào đi chăng nữa, nhưng quá trình giao lưu văn hoá vẫn cứ diễn ra, vấn đề là ở chỗ
nó diễn ra như thế nào mà thôi.
Quá trình giao lưu văn hoá là quá trình tiếp nhận những giá trị văn hoá tốt đẹp của
nhau, làm giàu thêm văn hoá của bản địa và từ đó mỗi một dân tộc có đóng góp tích
cực chung vào kho tàng văn hoá của nhân loại. Tình trạng đóng cửa của triều đình
nhà Nguyễn, thái độ cực đoan trong chính sách thực dân của Pháp ở Việt Nam đã làm
chậm quá trình giao lưu văn hoá của Việt Nam với thế giới. Ngay cả phong trào duy
tân (đổi mới), những cải cách, những làn gió mới thổi vào xã hội Việt Nam đầu thế
kỷ XX đã làm nên cuộc cách mạng thật sự trong đời sống văn hoá của Việt Nam
nhưng chính quyền phong kiến Việt Nam cũng không ưng. Không ưng bởi vì những
cải cách đó trên thực tế đã nã những viên đại bác vào thành luỹ của chế độ phong
kiến, làm xói mòn những giá trị của chế độ hiện hành. Chính quyền thực dân Pháp lẽ
ra phải ưng thuận và ủng hộ cho những cải cách về văn hoá duy tân, phải ủng hộ cho
quá trình vùng lên mạnh mẽ đầu thế kỷ XX phong trào học chữ quốc ngữ, phong trào
vận động đời sống mới, phong trào chấn hưng thực nghiệp. Nhưng, chính quyền thực
dân Pháp lại cũng không ưng, vì những cải cách đó cổ vũ tinh thần yêu nước. Với con
mắt cực đoan, bảo thủ cho nên thực dân Pháp lo sợ các phong trào duy tân dẫn tới
việc đấu tranh chống lại ngay bản thân thực dân Pháp, tác động không tốt tới sự cai
trị của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam. Âm binh đã được triệu lên, và những âm
binh này quay lại tiến công trực diện vào chế độ thực dân-phong kiến. Thế cho nên
mới dẫn đến việc các yếu nhân của phong trào duy tân cũng bị thực dân Pháp đàn áp,
bắt bớ, cấm chỉ hoạt động. Chính đây là một trong những biểu hiện của sự bóp nghẹt
về văn hoá trong quá trình cai trị của thực dân Pháp ở Đông Dương.

Trong quá trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn luôn chú trọng làm cho đất
nước Việt Nam tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hoá của các nền văn hoá thế giới.
Hồ Chí Minh không phải là con người theo chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi mà là một con
người có ý thức chủ động, tích cực tiếp nhận văn hoá của nước khác. Hồ Chí Minh
yêu mến văn hoá Pháp, yêu mến văn hoá Mỹ trong khi thực dân Pháp, đế quốc Mỹ
xâm lược đất nước Việt Nam.
Quá trình tiếp nhận như vậy là quá trình làm giàu cho kho tàng văn hoá dân tộc.
Nhưng, ở Hồ Chí Minh, sự tiếp biến, giao lưu văn hoá có mấy điểm đáng lưu ý nhất:
Một: có thái độ chủ động, không được có tinh thần đóng cửa, bài ngoại; nói như danh
từ hiện đại thì là phải tích cực, chủ động hội nhập.
Hai: trong giao lưu văn hoá, phải tiếp thu những điều tốt đẹp, không lai căng. Với
tinh thần đó, trong suốt chiều dài lịch sử, Việt Nam không mặc cảm tự ty mà chủ
động giao lưu và tự khẳng định bản sắc dân tộc mình. Hồ Chí Minh cho rằng, phải
mở rộng kiến thức của mình về văn hoá thế giới, nhưng cũng tránh nguy cơ chúng ta
trở thành những kẻ bắt chước; rằng, không thể lấy từ nghệ thuật của dân tộc khác
những mặt nào đó mà không chú ý chọn lọc; văn hoá của dân tộc khác cần phải
nghiên cứu toàn diện, chỉ có trong trường hợp đó mới có thể thu lại nhiều hơn cho
văn hoá của chính mình.
Nói chủ động tiếp thu văn hoá của nước khác là nói trong cái thế của Việt Nam trong
từng thời kỳ. Thường thì trên thế giới, người ta tổng kết có mấy con đường giao lưu
văn hoá: 1. Con đường thương mại, tức là con đường hợp tác, trao đổi về làm ăn
kinh tế (xưa gọi là con đường tơ lụa); 2. Con đường truyền giáo và tiếp nhận tôn giáo
(do vậy, có những tôn giáo mang tính phổ biến toàn cầu, tiêu biểu nhất là ba tôn giáo
lớn: Thiên chúa giáo, Phật giáo, Hồi giáo); 3. Con đường quan hệ chủ động, bình
đẳng giữa các quốc gia độc lập, có chủ quyền; 4. Con đường chiến tranh xâm lược.
Việt Nam không may, chủ yếu lại thông qua con đường thứ tư này. Ngày nay, Việt
Nam đang mạnh lên qua con đường thứ ba. Còn trước đây, thực ra con đường thứ
nhất, con đường thứ hai đều thông qua con đường thứ tư. Do vậy, việc giao lưu văn
hoá Việt Nam mới có những nét đặc biệt. Chính bản thân Hồ Chí Minh là người thấu
hiểu và muốn tăng cường giao lưu văn hoá qua con đường thứ ba, tức là qua quan hệ

chủ động, bình đẳng giữa các quốc gia độc lập, có chủ quyền.
Trong giao lưu, một vấn đề tất yếu xẩy ra: giữ lại cái gì và tiếp nhận, tạo ra cái gì?
Đây chính là vấn đề muôn thuở trong bước đường tồn tại và phát triển của từng dân
tộc. Bao giờ yếu tố văn hoá nền (cốt cách, bản sắc) của mỗi dân tộc không còn thì
cũng tức là dân tộc đó bị mất đi.
Là một nhà văn hoá đồng thời là một nhà chính trị, Hồ Chí Minh chú ý ngay đến việc
giữ gìn văn hoá bản địa khi đã có chính quyền cách mạng trong tay. Chính văn hoá
bản địa là cái nền để tiếp biến. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc (ethny), hiện
theo phân loại, có 54 dân tộc. Đây là một nền văn hoá thống nhất trong đa dạng. Hồ
Chí Minh có quan điểm giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá của 54 dân tộc trên
đất Việt Nam, giữ gìn các vốn cổ, trong đó có ngôn ngữ dân tộc.
Hồ Chí Minh lưu ý cho mọi người trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân
tộc, với những ý như: không phải cái gì cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới.
Cái gì xấu thì phải bỏ. Cái gì cũ mà không xấu nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại
cho hợp lý. Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm. Những điều Hồ Chí Minh nói
như nguyên lý ứng xử văn hoá như vậy, nhưng trong cuộc sống thật không đơn giản.
Một tình trạng khác mà Hồ Chí Minh cũng nhắc nhở: phát huy vốn cũ của dân tộc
nhưng tránh phục cổ một cách máy móc. Hồ Chí Minh phê bình tình trạng khôi phục
cả đồng bóng, rước xách thần thánh quên cả sản xuất, cứ trống mõ bì bõm, ca hát lu
bù.
Ba: Hồ Chí Minh cũng lưu ý đến thái độ đúng đắn về nhận và cho. Hồ Chí Minh cho
rằng, Việt Nam có thể tiếp nhận bất cứ cái hay nào của Âu, Mỹ nhưng điều cốt yếu là
phải sáng tạo; mình đã hưởng cái hay của người thì mình cũng có cái hay cho người
ta hưởng; mình đừng chịu vay mà không trả.
Sự tiếp biến văn hoá của Hồ Chí Minh được diễn ra trong suốt cuộc đời của mình,
nhưng mạnh nhất, có hiệu quả nhất, đương nhiên là từ khi nước nhà đã giành được
độc lập, xây dựng cuộc sống mới, lúc làm Chủ tịch nước, Chủ tịch Đảng cầm quyền.
Nhưng, cái nền, cái quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề đó là nhất quán. Hồ Chí
Minh thâu thái cổ kim Đông Tây, đem những cái tốt đẹp trong văn hoá của nhân loại
hoà vào và phát triển cùng văn hoá dân tộc, nâng tầm văn hoá dân tộc lên, đưa văn

hoá dân tộc đóng góp chung vào văn hoá thế giới, thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau của
các dân tộc, góp vào bước tiến chung của nhân loại Giao lưu văn hoá là điều tất yếu,
là quy luật vận động và phát triển của nhân loại. Nó là một quá trình thường xuyên,
diễn ra một cách tự nhiên, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của giới cầm
quyền. Dù có đóng cửa, dù có bế quan toả cảng như thế nào đi chăng nữa, nhưng quá
trình giao lưu văn hoá vẫn cứ diễn ra, vấn đề là ở chỗ nó diễn ra như thế nào mà thôi.
Quá trình giao lưu văn hoá là quá trình tiếp nhận những giá trị văn hoá tốt đẹp của
nhau, làm giàu thêm văn hoá của bản địa và từ đó mỗi một dân tộc có đóng góp tích
cực chung vào kho tàng văn hoá của nhân loại. Tình trạng đóng cửa của triều đình
nhà Nguyễn, thái độ cực đoan trong chính sách thực dân của Pháp ở Việt Nam đã làm
chậm quá trình giao lưu văn hoá của Việt Nam với thế giới. Ngay cả phong trào duy
tân (đổi mới), những cải cách, những làn gió mới thổi vào xã hội Việt Nam đầu thế
kỷ XX đã làm nên cuộc cách mạng thật sự trong đời sống văn hoá của Việt Nam
nhưng chính quyền phong kiến Việt Nam cũng không ưng. Không ưng bởi vì những
cải cách đó trên thực tế đã nã những viên đại bác vào thành luỹ của chế độ phong
kiến, làm xói mòn những giá trị của chế độ hiện hành. Chính quyền thực dân Pháp lẽ
ra phải ưng thuận và ủng hộ cho những cải cách về văn hoá duy tân, phải ủng hộ cho
quá trình vùng lên mạnh mẽ đầu thế kỷ XX phong trào học chữ quốc ngữ, phong trào
vận động đời sống mới, phong trào chấn hưng thực nghiệp. Nhưng, chính quyền thực
dân Pháp lại cũng không ưng, vì những cải cách đó cổ vũ tinh thần yêu nước. Với con
mắt cực đoan, bảo thủ cho nên thực dân Pháp lo sợ các phong trào duy tân dẫn tới
việc đấu tranh chống lại ngay bản thân thực dân Pháp, tác động không tốt tới sự cai
trị của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam. Âm binh đã được triệu lên, và những âm
binh này quay lại tiến công trực diện vào chế độ thực dân-phong kiến. Thế cho nên
mới dẫn đến việc các yếu nhân của phong trào duy tân cũng bị thực dân Pháp đàn áp,
bắt bớ, cấm chỉ hoạt động. Chính đây là một trong những biểu hiện của sự bóp nghẹt
về văn hoá trong quá trình cai trị của thực dân Pháp ở Đông Dương.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn luôn chú trọng làm cho đất
nước Việt Nam tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hoá của các nền văn hoá thế giới.
Hồ Chí Minh không phải là con người theo chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi mà là một con

người có ý thức chủ động, tích cực tiếp nhận văn hoá của nước khác. Hồ Chí Minh
yêu mến văn hoá Pháp, yêu mến văn hoá Mỹ trong khi thực dân Pháp, đế quốc Mỹ
xâm lược đất nước Việt Nam.
Quá trình tiếp nhận như vậy là quá trình làm giàu cho kho tàng văn hoá dân tộc.
Nhưng, ở Hồ Chí Minh, sự tiếp biến, giao lưu văn hoá có mấy điểm đáng lưu ý nhất:
Một: có thái độ chủ động, không được có tinh thần đóng cửa, bài ngoại; nói như danh
từ hiện đại thì là phải tích cực, chủ động hội nhập.
Hai: trong giao lưu văn hoá, phải tiếp thu những điều tốt đẹp, không lai căng. Với
tinh thần đó, trong suốt chiều dài lịch sử, Việt Nam không mặc cảm tự ty mà chủ
động giao lưu và tự khẳng định bản sắc dân tộc mình. Hồ Chí Minh cho rằng, phải
mở rộng kiến thức của mình về văn hoá thế giới, nhưng cũng tránh nguy cơ chúng ta
trở thành những kẻ bắt chước; rằng, không thể lấy từ nghệ thuật của dân tộc khác
những mặt nào đó mà không chú ý chọn lọc; văn hoá của dân tộc khác cần phải
nghiên cứu toàn diện, chỉ có trong trường hợp đó mới có thể thu lại nhiều hơn cho
văn hoá của chính mình.
Nói chủ động tiếp thu văn hoá của nước khác là nói trong cái thế của Việt Nam trong
từng thời kỳ. Thường thì trên thế giới, người ta tổng kết có mấy con đường giao lưu
văn hoá: 1. Con đường thương mại, tức là con đường hợp tác, trao đổi về làm ăn
kinh tế (xưa gọi là con đường tơ lụa); 2. Con đường truyền giáo và tiếp nhận tôn giáo
(do vậy, có những tôn giáo mang tính phổ biến toàn cầu, tiêu biểu nhất là ba tôn giáo
lớn: Thiên chúa giáo, Phật giáo, Hồi giáo); 3. Con đường quan hệ chủ động, bình
đẳng giữa các quốc gia độc lập, có chủ quyền; 4. Con đường chiến tranh xâm lược.
Việt Nam không may, chủ yếu lại thông qua con đường thứ tư này. Ngày nay, Việt
Nam đang mạnh lên qua con đường thứ ba. Còn trước đây, thực ra con đường thứ
nhất, con đường thứ hai đều thông qua con đường thứ tư. Do vậy, việc giao lưu văn
hoá Việt Nam mới có những nét đặc biệt. Chính bản thân Hồ Chí Minh là người thấu
hiểu và muốn tăng cường giao lưu văn hoá qua con đường thứ ba, tức là qua quan hệ
chủ động, bình đẳng giữa các quốc gia độc lập, có chủ quyền.
Trong giao lưu, một vấn đề tất yếu xẩy ra: giữ lại cái gì và tiếp nhận, tạo ra cái gì?
Đây chính là vấn đề muôn thuở trong bước đường tồn tại và phát triển của từng dân

tộc. Bao giờ yếu tố văn hoá nền (cốt cách, bản sắc) của mỗi dân tộc không còn thì
cũng tức là dân tộc đó bị mất đi.
Là một nhà văn hoá đồng thời là một nhà chính trị, Hồ Chí Minh chú ý ngay đến việc
giữ gìn văn hoá bản địa khi đã có chính quyền cách mạng trong tay. Chính văn hoá
bản địa là cái nền để tiếp biến. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc (ethny), hiện
theo phân loại, có 54 dân tộc. Đây là một nền văn hoá thống nhất trong đa dạng. Hồ
Chí Minh có quan điểm giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá của 54 dân tộc trên
đất Việt Nam, giữ gìn các vốn cổ, trong đó có ngôn ngữ dân tộc.
Hồ Chí Minh lưu ý cho mọi người trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân
tộc, với những ý như: không phải cái gì cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới.
Cái gì xấu thì phải bỏ. Cái gì cũ mà không xấu nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại
cho hợp lý. Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm. Những điều Hồ Chí Minh nói
như nguyên lý ứng xử văn hoá như vậy, nhưng trong cuộc sống thật không đơn giản.
Một tình trạng khác mà Hồ Chí Minh cũng nhắc nhở: phát huy vốn cũ của dân tộc
nhưng tránh phục cổ một cách máy móc. Hồ Chí Minh phê bình tình trạng khôi phục
cả đồng bóng, rước xách thần thánh quên cả sản xuất, cứ trống mõ bì bõm, ca hát lu
bù.
Ba: Hồ Chí Minh cũng lưu ý đến thái độ đúng đắn về nhận và cho. Hồ Chí Minh cho
rằng, Việt Nam có thể tiếp nhận bất cứ cái hay nào của Âu, Mỹ nhưng điều cốt yếu là
phải sáng tạo; mình đã hưởng cái hay của người thì mình cũng có cái hay cho người
ta hưởng; mình đừng chịu vay mà không trả.
Sự tiếp biến văn hoá của Hồ Chí Minh được diễn ra trong suốt cuộc đời của mình,
nhưng mạnh nhất, có hiệu quả nhất, đương nhiên là từ khi nước nhà đã giành được
độc lập, xây dựng cuộc sống mới, lúc làm Chủ tịch nước, Chủ tịch Đảng cầm quyền.
Nhưng, cái nền, cái quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề đó là nhất quán. Hồ Chí
Minh thâu thái cổ kim Đông Tây, đem những cái tốt đẹp trong văn hoá của nhân loại
hoà vào và phát triển cùng văn hoá dân tộc, nâng tầm văn hoá dân tộc lên, đưa văn
hoá dân tộc đóng góp chung vào văn hoá thế giới, thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau của
các dân tộc, góp vào bước tiến chung của nhân loại

×