Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

NGHIÊN CỨU CÁC CƠ CHẾ ĐẢM BẢO AN NINH MÁY TÍNH MÀ CÓ THỂ THỰC HIỆN ĐƯỢC TỪ PROXY SERVER

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.91 KB, 15 trang )

TIỂU LUẬN AN TOÀN VÀ BẢO MẬT THÔNG TIN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KĨ THUẬT HƯNG YÊN
KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
o0o
TIỂU LUẬN
MÔN : AN TOÀN VÀ BẢO MẬT THÔNG TIN
ĐỀ TÀI :NGHIÊN CỨU CÁC CƠ CHẾ ĐẢM BẢO AN NINH
MÁY TÍNH MÀ CÓ THỂ THỰC HIỆN ĐƯỢC TỪ PROXY
SERVER
Giáo viên hướng dẫn : Nguyễn Duy Tân
Nhóm sinh viên thực hiện : Bá Thị Hà
Hưng Yên, Tháng 12 năm 2009
1. Tìm hiểu về Proxy Server.
BÁ THỊ HÀ_TK6LC1 Page 1
TIỂU LUẬN AN TOÀN VÀ BẢO MẬT THÔNG TIN
Proxy Server (PS) là một server Internet làm chức năng kiểm soát việc truy cập
Internet của các máy khách. Sử dụng PS, công ty có thể cấm nhân viên truy cập
những địa chỉ Web không mong muốn, cải thiện tốc độ nhờ lưu trữ cục bộ các
trang Web và giấu định danh của mạng nội bộ để gây khó khăn cho người muốn
thâm nhập từ bên ngoài.
Proxy Server là một server đóng vai trò trung gian giữa người dùng
trạm( workstation user) và Internet. Với Proxy Server, các máy khách( clients) tạo
ra các
kết nối đến các dịch vụ mạng một cách gián tiếp.
Khi user yêu cầu( request) một dịch vụ Internet( vd như yêu cầu www.abc.com),
thay vì yêu cầu này sẽ được gởi đến trình chủ(Server) www.com liền, nó sẽ được
gởi đến proxy server. Proxy Server tiếp nhận và xử lý yêu cầu( nếu yêu cầu này là
hợp lệ).
Sử dụng chức năng bộ đệm Cache: kiểm tra xem yêu cầu này có trong bộ đệm
Cache hay không, nếu có nó sẽ gởi trả lại đáp ứng( response) về cho user( không
cần kết nối đến trình chủ chỉ định.


Nếu yêu cầu không có trong bộ đệm Cache thì Proxy Server đóng vai trò là
user( đại diện cho, chứ không phải là chính user đã gởi yêu cầu) và sử dụng địa chỉ
IP riêng của nó để gởi yêu cầu đến Server chỉ định( www.abc.com) trên Internet.
Sau khi nhận được Response từ Server chỉ định, Proxy Server sẽ gởi về cho user.
2. Lợi ích của việc dùng Proxy Server
Để đáp ứng những nhu cầu của người sử dụng khi cần truy xuất đến những ứng
dụng cung cấp bởi internet nhưng vẫn đảm bảo được an toàn cho hệ thống cục bộ.
Trong hầu hết những phương pháp được đưa ra để giải quyết điều này là cung cấp
một host đơn để truy xuất đến internet cho tất cả những người sử dụng. Tuy nhiên,
phương pháp này không phải là phương pháp giải quyết thỏa mản nhất bởi vì nó
tạo cho người sử dung cảm thấy không thoải mái. Khi truy xuất đến internet thì họ
không thể thực hiện những công việc đó một cách trực tiếp, phải login vào
BÁ THỊ HÀ_TK6LC1 Page 2
TIỂU LUẬN AN TOÀN VÀ BẢO MẬT THÔNG TIN
hual_homed host, thực hiện tất cả những công việc ở đây, và sau đó bằng cách nào
đó chuyển đổi kết quả đạt được của công việc trở lại workstation sở hữu. Điều này
trở nên rất tồi tệ ở những hệ thống với nhiều hệ điều hành khác nhau, vd: nếu hệ
thống là bastion_host nhưng riêng dual_host là unix.
Khi dual_home host được thiết kế trên mô hình không có proxy, điều đó sẽ khiến
cho người sử dụng thêm bực bội và đáng chú ý hơn là giảm đi những tiện ích mà
intenet cung cấp, tồi tệ hơn là chúng thường không cung cấp một cách không an
toàn và đầy đủ,khi một máy gồm nhiều người sử dụng tất nhiên độ an toàn của nó
sẽ giảm, đặt biệt khi cố gắn bắt với vạn vật bên ngoài. Proxy server giúp người sử
dụng thoải mái hơn và an toàn cho dual homed host, thay thế yêu cầu của người sử
dụng bằng cách gián tiến thông qua dual homed host. Hệ thống proxy cho phép tất
cả những tương tác nằng dưới một hình thức nào đó. User có cảm giác làm việc
trực tiếp với server trên internetmà họ thật sự muốn truy xuất.
PS giống như một vệ sĩ: bảo vệ máy khách khỏi những rắc rối thường có trên
Internet. Một PS thường nằm bên trong tường lửa, giữa trình duyệt Web và server
thực, làm chức năng tạm giữ những yêu cầu Internet của các máy khách để chúng

không thể giao tiếp trực tiếp với Internet. Điều này bảo đảm rằng người dùng
không truy cập được thông tin không mong muốn, chẳng hạn như những cơ sở
Web về hình ảnh khiêu dâm hay những trang Web bị công ty “cấm cửa”.
Với PS, các công ty có thể kiểm soát được việc truy cập Internet bằng cách loại bỏ
một số địa chỉ Web khỏi danh sách các Web site được phép truy cập của máy
khách. Ví dụ không muốn nhân viên mua bán cổ phiếu trong giờ làm việc thì nhà
quản trị mạng có thể dùng PS để khóa việc truy cập vào các site tài chính trong
một số giờ.
Mọi yêu cầu của máy khách đều phải đi đến PS, nếu địa chỉ IP có trên proxy, nghĩa
là Web site này được lưu trữ cục bộ, thì trang này sẽ được phép truy cập mà không
cần phải kết nối với Internet; nếu không có trên PS và trang Web không thuộc loại
bị cấm, yêu cầu sẽ được chuyển đến server thực và sau đó ra Internet.
BÁ THỊ HÀ_TK6LC1 Page 3
TIỂU LUẬN AN TOÀN VÀ BẢO MẬT THÔNG TIN
PS cho phép các công ty lưu trữ cục bộ các trang Web thường được truy cập nhất
trong bộ đệm và như thế sẽ tiết kiệm được chi phí. Việc ghi xuống bộ đệm những
trang Web cũng làm tăng tốc độ hiển thị các trang Web vì chúng được truy cập
nhanh chóng từ đĩa cứng thay vì phải qua Internet.
Người dùng phổ biến nhất của PS là những nhà cung cấp dịch vụ Internet như
America Online và những công ty lớn, không chỉ muốn tải xuống nhanh mà còn
muốn chia sẻ một tập những địa chỉ IP, với số lượng hạn chế, cho các nhóm người
dùng của mình; hơn nữa việc gán địa chỉ Internet cho tất cả người dùng rất tốn thời
gian.
PS cũng bảo vệ mạng nội bộ khỏi bị xác định bởi bên ngoài. Nó thực hiện chức
năng này bằng cách mang lại cho mạng hai định danh: một để dùng trong nội bộ và
một để dùng cho bên ngoài. Điều này tạo nên một “bí danh” đối với thế giới bên
ngoài, nhờ thế sẽ gây khó khăn nếu người dùng muốn “tự tung tự tác” hay các tay
bẻ khoá muốn xâm nhập trực tiếp đến một máy nào đó. Ngoài ra, cách này cũng
giúp mạng duy trì được tính “nặc danh tương đối” để những nhà tiếp thị khó lòng
lần theo dấu vết những Web site mà người dùng có truy cập đến.

PS còn làm cho việc sử dụng băng thông hiệu quả hơn. Với băng thông hạn chế mà
yêu cầu truy cập Internet lại rất cao, thì PS là cách có lợi. Giả sử, một cơ quan có
hai kết nối: kết nối 56K bit/s với Internet và kết nối Ethernet cục bộ với 50 PC.
Nếu không có PS, mỗi yêu cầu và phản hồi Internet đều truyền trên đường 56K,
như vậy có thể xảy ra tình trạng tắt nghẽn nếu có nhiều người dùng truy cập đồng
thời Internet. PS cho phép người dùng truy cập Internet một cách cục bộ qua kết
nối Ethernet, nhờ vậy nhiều yêu cầu cho cùng trang Web sẽ không tràn ngập
đường kết nối 56K.
Tóm lại Proxy Server có các ưu điểm sau:
+ Sử dụng chức năng bộ đệm Cache: tăng hiệu suất dịch vụ mạng( user nhận được
response nhanh chóng.
BÁ THỊ HÀ_TK6LC1 Page 4
TIỂU LUẬN AN TOÀN VÀ BẢO MẬT THÔNG TIN
+ Dữ liệu request được gởi đến Server chỉ định bằng địa chỉ IP của Proxy Server
nên ngăn không cho những truy cập không hợp lệ vào máy user thông qua Internet.
+ Dữ liệu response gởi về từ Server chỉ định được Proxy Server xử lý( kiểm tra
virus, lọc dữ liệu để loại bỏ những dữ liệu không mong muốn…) trước khi chuyển
về cho user.
Tuy nhiên, không phải lúc nào PS cũng hữu ích, ví dụ như khi gặp phải loại thông
tin không cho phép lưu lại trên bộ đệm kiểu như CGI (PC World Việt Nam 10/99,
trang 74). Mặt khác, tốc độ cũng sẽ bị ảnh hưởng vì PS kiểm tra từng yêu cầu trước
khi phản hồi.
Đó chính là sự chậm trễ giữa thời gian xuất xuất hiện một dịch vụ mới và proxy
cho dịch vụ đó, khoảng thời gian phụ thuộc vào phương pháp thiết kế proxy cho
dịch vụ đó, điều này cho thấy khá khó khăn khi đưa dịch vụ mới vào hệ thống khi
chưa có proxy cho nó thì nên đặt bên ngoài fire wall, bởi vì nếu đặt bên trong hệ
thống thì đó chính là yếu điểm.
Đôi khi cần một proxy khác nhau cho mỗi nghi thức, bởi vì proxy server phải hiểu
nghi thức đó để xác định những gì được phép và không được phép. Để thực hiện
nhiệm vụ như là client đến server thật và server thật đến proxy client, sự kết hợp ,

install và config tất cả những server khác nhau đó có thể rất khó khăn
Những dịch vụ proxy thường sửa đổi chương trình client, procedure hoặc cả hai.
Ngoại trừ một số dịch vụ được thiết kế cho proxying , proxy server yêu cầu sửa đổi
với client hăọc procedure, mỗi sự sửa đổi có những bất tiện riêng của nó, không
thể luôn luôn sử dụng công cụ có sẵn với những cấu trúc hiện tại của nó
Proxying dựa vào khà năng chèn vào proxy server giữa server thật và client mà yêu
cầu tác động tương đối thẳn thắn cả hai.
Những dịch vụ proxy không bảo vệ cho hệ thống ứng với những nghi thức kém
chất lượng. Như một giải pháp an toàn, proxying dựa vào những khả năng xác định
những tác vụ trong nghi thức an toàn. Không phải tất cả các dịch vụ đều cung cấp
BÁ THỊ HÀ_TK6LC1 Page 5
TIỂU LUẬN AN TOÀN VÀ BẢO MẬT THÔNG TIN
theo khuynh hướng an toàn này, như nghi thức Xwindows cung cấp khá nhiều
những tác vụ không an toàn.
3. Proxying đã thực hiện như thế nào?
Những chi tiếc trong việc proxying thực hiện như thế nào khác nhau từ dịch vụ này
đến dịch vụ khác, khi setup proxying, có một vài dịch vụ thưc hiện dể dàng hoặc tự
động, nhưng vài dịch vụ có sự chuyển đổi rất khó khăn. Tuy nhiện, trong hầu hết
những dịch vụ ngoài yêu cầu những phần mềm proxy server tương ứng, trên client
cũng cần phải có những yêu cầu như sau:
Custum client software: phần mềm loại này phải biết như thế nào để liên kết với
proxy server thay server thật khi user yêu cầu và yêu cầu proxy server những gì
server thật kết nối đến. Những phần mềm custom client thường chỉ có hiệu quả chỉ
một vài platform
Vd: packet getaway từ Sun là một proxy packet cho FTP và Telnet, nhưng nó chỉ
được sử dụng trên hệ thống SUN bởi vì nó cung cấp recompiled Sun binaries
Mặc dù nếu phần mềm hiệu quả cho platform tương ứ ng, nó cũng có thể không
phải điều mà user mong muốn, vd: macintosch có hàng chục chương trình PTF
client, một trong vài số đó có những giao diện khá ấn tượng với user, những phần
khác có những đặc điểm hửu dụng khác. Anarchie là chương trình mà nó kết hợp

một archie client và FPT client bên trong chương trình đơn, vì vậy user có thể tìm
file với archie và dùng FPT để lất nó, tất cả với giao diện người sử dụng thích hợp,
điều này sẽ không may mắn cho chúng ta nếu muốn hổ trợ proxy server.
Sử dụng những chuyển đổi client cho proxying không dễ dàng thuyết phục user.
Trong hầu hết những hệ thống sử dụng client không chuyển đổi những kết nối bên
trong và một số chuyển đổi chỉ với những kết nối bên ngoài.
Custom user procedure: user dùng phần mềm client chuẩn để giao tiếp với proxy
server và nó kết nối với server thật, thay thế trực tiếp server thật.
Proxy server được thiết kế thực thi với phần mềm client chuẩn. Tuy nhiên, chúng
yêu cuầ user theo những custom procedure. User trước tiên kết nối với proxy
BÁ THỊ HÀ_TK6LC1 Page 6
TIỂU LUẬN AN TOÀN VÀ BẢO MẬT THÔNG TIN
server và sau đó cung cấp proxy server tên host mà nó muốn kết nối đến. Bởi vì
một vài nghi thức được thiết để chuyển những thông tinnày, user không phải nhớ
tên proxy server nhưng củng phải nhớ tên host mà nó muốn giao tiếp.
Như thế nào để thực hiện công việc này, cần phải nắm được những thủ tục đặc
trưng theo sau mỗi nghi thức.
Vd: với FTP, có thể user muốnn nhận một file từ anonymous FTP server, user cần
thực hiện những bước sau:
• Sử dụng bất kỳ FTP client , user kết nối đến proxy server thay thế trực tiếp
đến anonumous FTP server.
• Tại dấu nhắc user name, trong việc thêm vào tên chỉ định muốn sử dụng,
user phải chỉ định tên server thật muốn kết nối
4. Các dạng Proxy System
a,Dạng kết nối trực tiếp
Phương pháp đầu tiên được sử dụngtrong kỹ thuật proxy là cho user kết nối trực
tiếp đến firewall proxy, sau đó proxy hỏi user cgo địa chỉ host hướng đến, đó là
một phương pháp brute force sử dụng bởi firewall một cách dể dàng, và đó cũng là
nguyên nhân tại sao nó là phương pháp ít thích hợp.
Trước tiên, yêu cầu user phải biết địa chỉ của firewall, kế tiếp nó yêu cầu user nhập

vào hai địa chỉ hai địa chỉ cho mỗi kết nối: địa chỉ của filewall và địa chỉ đích
hướng đến. Cuối cùng nó ngăn cản những ứng dụng hoặc những nguyên bản trên
máy tính của user điều đó tạo sự kết nối cho user, bởi vì chúng không biết như thế
nào điều khiển những yêu cầu đặc biệt cho sự truyền thông với proxy
b,Dạng thay đổi Client
Phương pháp kế tiếp sử dụng proxy setup phải thêm vào những ứng dụng tại máy
tính của user. User thưc thi những ứng dụng đặc biệt đó với việc tạo ra sự kết nối
thông qua firewall. User với ứng dụng đó hành động chỉ như những ứng dụng
không sửa đổi. User cho địa chỉ của host hướng tới. Những ứng dụng thêm vào biết
địa chỉ firewall từ file config cuc bộ, setup sự kết nối đến ứng dụng proxy trên
BÁ THỊ HÀ_TK6LC1 Page 7
TIỂU LUẬN AN TOÀN VÀ BẢO MẬT THÔNG TIN
firewall, và truyền cho nó địa chỉ cung cấp bởi người sử dụng. Phương pháp này
rất khó hiệu quả và có khả năng che dấu người sử dụng, tuy nhiên, cần có một ứng
dụng client thêm vào cho mỗi dịch vụ mạng là một đặt tính trở ngại.
c,Proxy vô hình
Một phương pháp phát triển gần đây cho phép truy xuất đến proxy, trong vài hệ
thống firewall được biết như proxy vô hình. Trong mô hình này, không cần có
những ứng dụng thêm vào với user và không kết nối trực tiếp đến firewall hoặc
biết rằng firewall có tồn tại. Sử dụng sự điều khiển đường đi cơ bản, tất cả sự kết
nối đến mạng bên ngoài được chỉ đường thông qua firewall. Như những packet
nhập vào firewall, tự động chúng được đổi hướng đến proxy đang chờ. Theo
hướng này,firewall thực hiện rất tốt việc giả như host đích. Khi kết nối tạo ra
firewall proxy , client applycation nghỉ rằng nó được kết nối đến server thật, nếu
được phép, proxy applycation sau đó thực hiện hàm proxy chuẩn trong việc tạo kết
nối thứ hai đến server thật
Proxy lớp ứng dụng thì đối nghị với proxy lớp circuuit: application_level proxy
được thực thi ở lớp ứng dụng. Nó cung cấp cho từng dịch vụ riêng và interpret
những dòng lệnh trong nghi thức đó. Một circuit_level proxy tạo nên một circuit
giữa server và client không cần phải interpret những nghi thức này. Nói chung,

application_level proxy sử dung modified client. Để tạo ra kết nối proxy, phải biết
vị trí nào muốn kết nối đến. Một hybrid gateway đơn giản có thể chặn đứng kết
nối, nhưng một proxy host chỉ có thể nhận kết nồima đề nghị với nó, và phải chỉ ra
vị trí muốn kết nối. Một application_level proxy có thể nhận thông tin trong từng
nghi thức riêng. Một circuit_level proxy không thể interpret theo từng nghi thức và
cần phải có thông tin hổ trợ cho nó thông qua một cách nào khác. ưu điểm của
circuit_level proxy server là ở đó nó cung cấp cho hầu hết các nghi thức khác nhau
, hầu như circuit_level proxy cũng là proxy server chung cho tất cả các dạng nghi
thức, tuy nhiên không phải tất cả các nghi thức đều dễ dàng được điều khiển bởi
circuit_level proxy , khuyết điểm của circuit_level proxy là nó điều khiển những gì
BÁ THỊ HÀ_TK6LC1 Page 8
TIỂU LUẬN AN TOÀN VÀ BẢO MẬT THÔNG TIN
xảy ra thông qua proxy này như là packet filter, nó điều khiển những kết nối cơ
bản dựa vào địa chỉ nguồn và địa chỉ đích và không thể xác định những lệnh đi qua
nó là an toàn hoặc những sự kiện mà nghi thức đó mong muốn, circuit_level proxy
dể dàng bị đánh lừa bởi những server setup lại những cổng gán đến những server
khác.
Proxy chung thì đối nghịch với những proxy chuyên biệt: mặc dù
“application_level” và “circuit_level” thường được dùng, nhưng đôi khi cũng phân
biệt giữa “dedicated” và “generic” proxy server là server chỉ phục vụ một nghi
thức đơn , generic proxy server là server phục vụ cho nhiền nghi thức. Thật ra,
dedicated proxy server là application_level, và generic proxy server là
circuit_level.
Intelligent proxy server: một proxy server có thể làm nhiều điều chứ không phải
chỉ chuyễn tiếp những yêu cầu, đó chính là một intelligent proxy server, vd: cern
http proxy server caches data, vì vậy nhiều yêu cầu data không ra khỏi hệ thống
khi chưa có sự xử lý ccủa proxy server. Proxy server (đặt biệt là application level
server) có thể cung cấp login dễ dàng và điều khiển truy xuất tốt hơn, còn circuit
proxy thường bị giới hạn bởi những khả năng này
Using proxying với những dịch vụ internet:vì proxy server chèn vào giữa sự kết

nối client và server, nó phải được thích ứng với từng dịch vụ riêng, đội khi một số
dịch vụ rất dễ với cách phục vụ bình thường nhưng lại rất khó khi thêm vào proxy.
5, Các tính năng cơ bản của Proxy Server.
Proxy server cung cấp ba chức năng chính:
1. Tường lửa và filtering
2. Chia sẻ kết nối
3. Caching
Các tính năng của Proxy server rất quan trọng trên các mạng diện rộng giống như
các mạng nội bộ của công ty và các mạng ISP. Càng nhiều người dùng trong một
mạng LAN và càng cần giữ bảo mật cho thông tin riêng tư thì chức năng của Proxy
BÁ THỊ HÀ_TK6LC1 Page 9
TIỂU LUẬN AN TOÀN VÀ BẢO MẬT THÔNG TIN
server càng cần thiết.
5.1.Tường lửa và Filtering.
Proxy servers làm việc ở lớp Application, lớp 7 trong mộ hình tham chiếu OSI.
Chúng không được phổ biến như các tường lửa thông thường mà làm việc ở mức
thấp hơn và hỗ trợ lọc ứng dụng một cách độc lập. Proxy servers cũng khó khăn
hơn trong việc cài đặt và duy trì so với tường lửa. Mặc dù vậy, nếu proxy server
được cấu hình đúng cách sẽ cải thiện được vấn đề bảo mật và hiệu suất cho mạng.
Các proxy đều có khả năng mà các tường lửa thông thường không thể cung cấp.
Một số quản trị viên mạng sử dụng cả tường lửa và proxy server để làm việc cùng
nhau. Muốn thực hiện như vậy, họ phải cài đặt cả phần mềm tường lửa và phần
mềm proxy server trên một server gateway.
Vì hoạt động lại lớp Application, nên chức năng lọc của proxy servers có thể được
coi như một bộ định tuyến thông thường. Cho ví dụ, proxy Web server có thể kiểm
tra URL của các yêu cầu gửi ra đối với các web page bằng cách thanh tra các thông
báo HTTP GET và POST. Sử dụng tính năng này, các quản trị viên mạng có thể
ngăn chặn sự truy cập và trong miền một cách bất hợp pháp nhưng lại cho phép
truy cập vào các site khác. Các tường lửa thông thường, không thể thấy được các
tên miền của Web bên trong các thông báo. Với lưu lượng dữ liệu gửi vào, các

router thông thường có thể lọc bởi số cổng hoặc địa chỉ mạng, nhưng các proxy
server cũng có thể lọc dựa trên nội dung ứng dụng bên trong thông báo.
5.2.Chia sẻ kết nối với Proxy Server.
BÁ THỊ HÀ_TK6LC1 Page 10
TIỂU LUẬN AN TOÀN VÀ BẢO MẬT THÔNG TIN
Nhiều sản phẩm phần mềm dành cho chia sẻ kết nối trên các mạng gia đình đã xuất
hiện trong một số năm gần đây. Mặc dù vậy, trong các mạng kích thước lớn và
trung bình, proxy server vẫn là giải pháp cung cấp sự mở rộng và hiệu quả trong
truy cập Internet. Thay cho việc gán cho mỗi máy khách một kết nối Internet trực
tiếp thì trong trường hợp này, tất cả các kết nối bên trong đều có thể được cho qua
một hoặc nhiều proxy và lần lượt kết nối ra ngoài.
5.3.Proxy Server và Caching.
Caching của các trang web có thể cải thiện chất lượng dịch vụ của một mạng theo
3 cách. Thứ nhất, nó có thể bảo tồn băng thông mạng, tăng khả năng mở rộng. Tiếp
đến, có thể cải thiện khả năng đáp trả cho các máy khách. Ví dụ, với một HTTP
proxy cache, Web page có thể load nhanh hơn trong trình duyệt web. Cuối cùng,
các proxy server cache có thể tăng khả năng phục vụ. Các Web page hoặc các dòng
khác trong cache vẫn còn khả năng truy cập thậm chí nguồn nguyên bản hoặc liên
kết mạng trung gian bị offline.
6.Giải pháp chia sẻ và bảo mật mạng với Proxy Server
Chúng ta sẽ xây dựng Firewall theo kiến trúc application-level gateway, theo đó
một bộ chương trình proxy được đặt ở gateway ngăn cách một mạng bên trong
(Intranet) với Internet.
Bộ chương trình proxy được phát triển dựa trên bộ công cụ xây dựng Internet
Firewall TIS (Trusted Information System), bao gồm một bộ các chương trình và
sự đặt lại cấu hình hệ thống để nhằm mục đích xây dựng một firewall. Bộ chương
trình được thiết kế để chạy trên hệ UNIX sử dụng TCP/IP với giao diện socket
Berkeley.
Bộ chương trình proxy được thiết kế cho một số cấu hình firewall, theo các dạng
cơ bản: dual-home gateway, screened host gateway, và screened subnet gateway.

Thành phần Bastion host trong Firewall, đóng vai trò như một người chuyển tiếp
thông tin, ghi nhật ký truyền thông, và cung cấp các dịch vụ, đòi hỏi độ an toàn
cao.
BÁ THỊ HÀ_TK6LC1 Page 11
TIỂU LUẬN AN TOÀN VÀ BẢO MẬT THÔNG TIN
6.1.Phần mềm firewall- proxy Server.
Bộ chương trình proxy gồm những chương trình mức ứng dụng (application-level
programs), dùng để thay thế hoặc là thêm vào phần mềm hệ thống. Đối với mỗi
dịch vụ, cần có một phần mềm tương ứng làm nhiệm vụ lọc các bản tin. Trên cơ sở
phân tích cấu trúc và nội dung thông, bản tin này sẽ được cho đi qua hoặc cấm, tuỳ
theo chính sách bảo vệ. Bộ chương trình proxy có những thành phần chính bao
gồm:
SMTP Gateway - Proxy server cho dịch vụ SMTP (Simple Mail Tranfer Protocol)
FTP Gateway - Proxy server cho dịch vụ Ftp
Telnet Gateway - Proxy server cho dịch vụ Telnet
HTTP Gateway - Proxy server cho dịch vụ HTTP (World Wide Web)
Rlogin Gateway - Proxy server cho dịch vu rlogin
Plug Gateway - Proxy server cho dịch vụ kết nối server tức thời dùng giao thức
TCP (TCP Plug-Board Connection server)
SOCKS - Proxy server cho các dịch vụ theo chuẩn SOCKS
NETACL - Điều khiển truy nhập mạng dùng cho cac dịch vụ khác
IP filter ? Proxy điều khiển mức IP
a, SMTP Gateway - Proxy server cho cổng SMTP
Chương trình SMTP Gateway được xây dựng trên cơ sở sử dụng hai phần mềm
smap và smapd, dùng để chống lại sự truy nhập thông qua giao thức SMTP.
Nguyên lý thực hiện là chặn trước chương trình mail server nguyên thuỷ của hệ
thống, không cho phép các hệ thống bên ngoài kết nối trực tiếp với mail server. Vì
ở trong mạng tin cậy mail server thường có một số quyền ưu tiên khá cao. Trên hệ
điều hành UNIX chương trình mail server được thực hiện bởi sendmail.
Khi một hệ thống ở xa nối tới cổng SMTP. Chương trình smap sẽ dành quyền phục

vụ và chuyển tới thư mục dành riêng và đặt user-id ở mức bình thường (không có
quyền ưu tiên). Mục đích duy nhất của smap là đối thoại SMTP với các hệ thống
BÁ THỊ HÀ_TK6LC1 Page 12
TIỂU LUẬN AN TOÀN VÀ BẢO MẬT THÔNG TIN
khác, thu lượm mail, ghi vào đĩa, ghi nhật ký, và kết thúc. Smapd thường xuyên
quét thư mục này, khi phát hiện có thư sẽ chuyển dữ liệu cho sendmail để phân
phát vào các hòm thư cá nhân hoặc chuyển tiếp tới các mail server khác.
Như vậy, một user lạ trên mạng không thể kết nối trực tiếp với Mail Server. Tất cả
các thông tin đi theo đường này hoàn toàn có thể kiểm soát được. Tuy nhiên,
chương trình cũng không thể giải quyết vấn đề giả mạo thư hoặc các loại tấn công
bằng đường khác.
b, FTP Getway Proxy server cho dịch vụ FTP
Proxy server cho dịch vụ FTP cung cấp khả năng kiểm soát truy nhập dịch vụ FTP
dựa trên địa chỉ IP và hostname, và cung cấp điều khiển truy nhập thứ cấp cho
phép tuỳ chọn khoá hoặc ghi nhật ký bất kỳ lệnh FTP nào. Các địa chỉ đích của
dịch vụ này cũng có thể tuỳ chọn được phép hay bị cấm. Tất cả các sự kết nối và
dung lượng dữ liệu chuyển qua đều bị ghi nhật kí lại.
FTP Gateway tự bản thân nó không đe doạ an toàn của hệ thống Firewall, bởi vì nó
chạy chroot tới một thư mục rỗng và không thực hiện một thủ tục vào ra file nào cả
ngoài việc đọc file cấu hình của nó. FTP Server chỉ cung cấp dịch vụ FTP, mà
không quan tâm đến ai có quyền hay không có quyền kết xuất (download) file. Do
vậy, việc xác định quyền phải được thiết lập trên FTP Gateway và phải thực hiện
trước khi thực hiện việc kết xuất (download) hay nhập (upload) file. Ftp Gateway
nên được cấu hình dựa theo chính sách an toàn của mạng. Bộ chương trình proxy
cho phép người quản trị mạng cung cấp cả dịch vụ ftp và ftp proxy trên cùng một
hệ thống nhưng việc làm này là không đảm bảo an ninh của firewall.
Tóm lại, sử dụng FTP Gateway có thể ngăn ngừa mọi sự thâm nhập vào mạng qua
cổng FTP một cách khá linh hoạt (cho phép ngăn cản từng địa chỉ hay toàn bộ
mạng) và cũng kiểm soát việc truy nhập tới từng khả năng như download hay
upload thông tin.

c, Telnet Gateway - Proxy server cho Telnet
BÁ THỊ HÀ_TK6LC1 Page 13
TIỂU LUẬN AN TOÀN VÀ BẢO MẬT THÔNG TIN
Telnet Gateway là một proxy server quản lý truy nhập mạng dựa trên địa chỉ IP
và/hoặc hostname, và cung cấp sự điều khiển truy nhập thứ cấp cho phép tuỳ chọn
khoá bất kỳ đích nào. Tất cả các sự kết nối dữ liệu chuyển qua đều được ghi nhật
ký lại. Mỗi một lần user nối tới Telnet Gateway, người sử dụng phải lựa chọn
phương thức kết nối.
Telnet Gateway không phương hại tới an toàn hệ thống, vì nó chỉ hoạt động trong
một phạm vi cho phép nhất định. Cụ thể, hệ thống sẽ chuyển điều kiển tới một thư
mục dành riêng. Đồng thời cấm truy nhập tới các thư mục và file khác.
Telnet Gateway được sử dụng để kiểm soát các truy nhập vào hệ thống mạng nội
bộ. Các truy nhập không được phép sẽ không thể thực hiện được còn các truy nhập
hợp pháp sẽ bị ghi lại nhật ký về thời gian truy nhập và các thao tác đã thực hiện.
d, HTTP Gateway - Proxy server cho web
HTTP Gateway là một Proxy Server quản lý truy nhập hệ thống qua cổng HTTP
(Web). Chương trình này, dựa trên địa chỉ đích và địa chỉ nguồn để ngăn cấm hoặc
cho phép yêu cầu truy nhập đi qua.
Đồng thời căn cứ và mã lệnh của giao thức HTTP, phần mềm này sẽ cho phép thực
hiện hoặc loại bỏ yêu cầu.
Các yêu cầu truy nhập đều được ghi vào nhật ký nhằm quản lý và thống kê.
Với cơ chế đón nhận thông tin trực tiếp từ cổng HTTP, phần mềm này đảm bảo
kiểm soát được toàn bộ những truy nhập vào hệ thống thông qua Web. Đồng thời
việc xử lý bản tin, thực hiện trong bộ nhớ, nên không ảnh h*ởng đến hệ thống.
e, Rlogin Gateway - Proxy server cho rlogin
Các terminal truy nhập qua thủ tục BSD rlogin được kiểm soát bởi rlogin gateway.
Chương trình cho phép kiểm tra và điều khiển truy nhập mạng tương tự như telnet
gateway. Rlogin client có thể chỉ ra một hệ thống ở xa ngay khi bắt đầu nối vào
proxy. Chương trình sẽ hạn chế yêu cầu tương tác giữa user với máy.
g, Plug Gateway - TCP Plug-Board Connection server

BÁ THỊ HÀ_TK6LC1 Page 14
TIỂU LUẬN AN TOÀN VÀ BẢO MẬT THÔNG TIN
Firewall cung cấp các dịch vụ thông thường như Usernet news. Người quản trị
mạng có thể chọn hoặc là chạy dịch vụ này ngay trong firewall, hoặc cài đặt một
proxy server cho dịch vụ này.
Do dịch vụ News chạy trực tiếp trên firewall thì dễ gây lỗi hệ thống, nên cách an
toàn hơn là sử dụng proxy. Plug gateway được thiết kế để kiểm soát dịch vụ
Usernet News và một số dịch vụ khác như Lotus Notes, Oracle, etc.
6.2. Lựa chọn giải pháp
Một bộ Firewall bao gồm một hệ thống phần mềm máy chủ mạnh với hệ điều hành
cụ thể, ghép nối vào mạng thông qua các thiết bị mạng: Hub, Switch, Router,
Do vậy việc lựa chọn máy chủ, thiết bị mạng, hệ điều hành và phần mềm bảo về và
kiểm soát sẽ quyết định khả năng ứng dụng, tốc độ truy nhập và giá thành thực
hiện.
Các giải pháp thực hiện:
Với một yêu cầu bảo vệ và kiểm soát hệ thống, có một số phương phát khả thi. Tuỳ
thuộc vào chiến lược và mức độ yêu cầu, có thể chọn một trong các mô hình kết
nối dưới đây:
Kết nối trực tiếp đơn.
Kết nối song song.
Kết nối gián tiếp.
Đối với mỗi mô hình, thiết bị phần cứng và phần mềm là khác nhau, kéo theo chi
phí thực hiện sẽ khác nhau. Tất nhiên khả năng và phạm vi cũng khác nhau. Do
khuôn khổ của giải pháp này là thiết lập Firewall cho một mạng đã có, nên những
yếu tố về thiết bị, phần mềm, đường truyền trong mạng, được xem như đã có và
không đề cập đến nữa.
BÁ THỊ HÀ_TK6LC1 Page 15

×