Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Những sai sót do khấu trừ sai chứng từ thuế GTGT hàng nhập khẩu ủy thác.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.65 KB, 12 trang )

BÀI THẢO LUẬN
CHỦ ĐỀ 4
SAI SÓT DO KHẤU TRỪ SAI CHỨNG TỪ NỘP THUẾ GIÁ
TRỊ GIA TĂNG CỦA HÀNG NHẬP KHẨU ỦY THÁC
3/31/2014
DANH SÁCH NHÓM 04:
1- Lê Thùy Nhung
2- Lê Kim Oanh
3- Đỗ Khánh Linh
4- Bùi Thị Hằng
5- Nguyễn Thị Ngân
6- Nguyễn Thị Ngọc
7- Trương Thị Thanh Loan
8- Trần Thị Lan Anh
9- Lã Thị Thanh Hoa
DÀN Ý
Phần I: Những vấn đề chung về nhập khẩu ủy thác
I- Vai trò và ý nghĩa của hoạt động nhập khẩu ủy thác
II- Quyền và trách nhiệm của 2 bên tham gia hoạt động nhập khẩu ủy thác
Phần II: Những sai sót do khấu trừ sai chứng từ nộp thuế GTGT của hàng nhập
khẩu ủy thác: (tình huống và cách khắc phục sửa chữa sai sót)
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1- Luật thuế GTGT
2- Thông tư số 153/2010/TT-BTC ngày 28/9/2010 của BTC hướng dẫn về hóa
đơn bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ
3- Phụ lục 4 của TT153/TT-BTC ban hành ngày 28/09/2010
4- Thông tư 06/2012/TT-BTC ngày 11/01/2012
PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHẬP KHẨU ỦY THÁC
I- Vai trò và ý nghĩa của hoạt động nhập khẩu ủy thác
Các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu có thể tiến hành nhập khẩu hàng hóa
theo phương thức trực tiếp là phương thức kinh doanh mà trong đó đơn vị tham gia


hoạt động kinh doanh nhập khẩu có thể trực tiếp đàm phán, ký kết hợp đồng với
nước ngoài, trực tiếp giao, nhận hàng và thanh toán tiền hàng hoặc tiến hành nhập
khẩu theo phương thức uỷ thác là phương thức kinh doanh mà trong đó đơn vị
tham gia hoạt động kinh doanh nhập khẩu không đứng ra trực tiếp đàm phán với
nước ngoài mà phải nhờ qua một đơn vị nhập khẩu có uy tín thực hiện hoạt động
nhập khẩu cho mình.
Doanh nghiệp có thể lựa chọn nhập khẩu trực tiếp hoặc nhập khẩu uỷ thác hoặc kết
hợp cả trực tiếp và ủy thác. Thông thường, phương thức trực tiếp được sử dụng khi
doanh nghiệp có đủ khả năng tổ chức đàm phán, ký kết hợp đồng, am hiểu đối tác
và am hiểu thị trường cũng như mặt hàng nhập khẩu. Ngược lại nếu chưa thật sự
am hiểu thị trường hay bạn hàng mới với những mặt hàng mới hoặc chưa đủ khả
năng tổ chức đàm phán, ký kết hợp đồng nhập khẩu doanh nghiệp có thể tiến hành
nhập khẩu hàng hóa theo phương thức ủy thác.
 Như vậy, hoạt động nhập khẩu uỷ thác là một trong những hoạt động
quan trọng và chủ yếu trong kinh doanh nhập khẩu.
Đặc điểm hoạt động nhập khẩu ủy thác là có hai bên tham gia trong hoạt động
nhập khẩu.
• Bên giao ủy thác nhập khẩu (bên uỷ thác): là bên có
đủ điều kiện mua hoặc bán hàng nhập khẩu.
• Bên nhận ủy thác nhập khẩu (bên nhận uỷ thác): là
bên đứng ra thay mặt bên ủy thác ký kết hợp đồng với bên nước ngoài. Hợp đồng
này được thực hiện thông qua hợp đồng uỷ thác và chịu sự điều chỉnh của luật kinh
doanh trong nước. Bên nhận uỷ thác sau khi ký kết hợp đồng ủy thác nhập khẩu sẽ
đóng vai trò là một bên của hợp đồng mua bán ngoại thương. Do vậy bên nhận ủy
thác sẽ phải chịu sự điều chỉnh về mặt pháp lý của luật kinh doanh trong nước, luật
kinh doanh của bên đối tác và luật buôn bán quốc tế.
 Theo phương thức kinh doanh xuất nhập khẩu uỷ thác, doanh nghiệp
giao ủy thác giữ vai trò là người sử dụng dịch vụ, còn doanh nghiệp nhận
ủy thác lại giữ vai trò là người cung cấp dịch vụ, hưởng hoa hồng theo sự
thoả thuận giữa hai bên ký trong hợp đồng uỷ thác.

II- Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hoạt động nhập khẩu ủy
thác
Tiêu chí
Bên nhận ủy thác
nhập khẩu
Bên giao ủy thác
nhập khẩu
Nghĩa vụ các bên
o Hướng dẫn bên ủy
thác chuẩn bị hàng
hóa theo điều kiện
nhập khẩu
o Thực hiện nhập
khẩu theo đúng hợp
đồng : tuân thủ thỏa
thuận về số lượng,
quy cách, giá cả,…
o Nghĩa vụ thông báo
cho bên ủy thác về
các vấn đề xảy ra
o Nghĩa vụ với tài sản,
tài liệu được giao :
nghĩa vụ bảo quản,
giữ gìn và chịu trách
nhiệm nếu hư hỏng
o Nghĩa vụ bảo mật về
những thông tin
quan trọng
o Nghĩa vụ giao hàng
o Cung cấp thông tin,

tài liệu cho việc
thực hiện hợp đồng
o Trả phí ủy thác,
giao tiền đúng thỏa
thuận
o Chịu trách nhiệm
trong việc đồng ý
cho bên nhận ủy
thác ủy thác lại cho
bên thứ 3
o Trong cùng một
thời gian không
được ủy thác cho
nhiều đơn vị kinh
doanh nhập khẩu và
không được chuyển
quyền sở hữu cho
đơn vị khác kể từ
khi ủy thác
o Chịu mọi rủi ro về
hàng hóa nếu bên
nhận ủy thác chứng
minh không phải lỗi
của mình và không
phải do bên thứ 3
Quyền của các bên o Nhận phí ủy thác,
không chịu trách
nhiệm với hàng
hóa đã giao cho
bên ủy thác sau

khi hai bên đã
kiểm tra kĩ
o Có quyền được
o Được biết thông tin
về tình hình hàng
hóa
o Được bồi thường
thiệt hại do bên
nhận ủy thác gây ra
o Được đàm phán kí
kết hợp đồng nhập
cung cấp thông
tin, tài liệu cần
thiết, yêu cầu bên
ủy thác bồi
thường do các
thiệt hại mà họ
gây ra
khẩu với bên nước
ngoài
o Được sử dụng
ngoại tệ theo quy
định của nhà nước
PHẦN II: NHỮNG SAI SÓT DO KHẤU TRỪ SAI CHỨNG TỪ NỘP THUẾ
GTGT CỦA HÀNG NHẬP KHẨU ỦY THÁC.
I- SAI SÓT I: Bên nhận ủy thác không cung cấp đủ chứng từ
( như HĐ thanh toán qua ngân hàng, tờ khai hải quan, hợp
đồng nhập khẩu, chứng từ nộp thuế GTGT) nhưng bên đi ủy
thác vẫn hạch toán phần thuế GTGT với hàng nhập khẩu đó
vào phần thuế được khấu trừ.

1- Tình huống
A là bên ủy thác. B là bên nhận ủy thác.
• Bên A kí với bên B hợp đồng ủy thác nhập khẩu 1 lô thuốc lá sợi từ Trung
Quốc. Trong hợp đồng ủy thác có ghi các điều khoản về số lượng chất lượng
hàng hóa, thời điểm giao hàng, chi phí vận chuyển bên B chi hộ Bên A, Hợp
đồng cũng ghi rõ bên B có trách nhiệm kê khai và nộp hộ toàn bộ các loại
thuế phát sinh ở khâu nhập khẩu.
• Ngày 30/04/2013, bên B nhập 1 lô thuốc lá sợi từ TQ về. Tại cửa khẩu nhập
đầu tiên, B khai tờ khai Hải quan và làm các thủ tục nộp thuế NK, thuế
TTĐB, thuế GTGT đúng quy định.
• Ngày 4/5/2013, B xuất 2 hóa đơn GTGT cho A, một hóa đơn GTGT cho hoa
hồng ủy thác, 1 hóa đơn cho thuốc lá sợi nhập khẩu và các chứng từ kèm
theo của lô thuốc lá bao gồm: tờ khai hải quan, hợp đồng nhập khẩu, chứng
từ thanh toán do phía ngân hàng nghỉ quốc tế lao động và nghỉ thứ 7, chủ
nhật nên bên B hẹn sẽ giao sau. Kế toán bên A vẫn hạch toán nghiệp vụ nhập
hàng và khấu trừ thuế.
Căn cứ vào Điều kiện khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào được quy định tại
khoản 2 điều 12 luật Thuế GTGT như sau:
“a) Có hoá đơn giá trị gia tăng mua hàng hoá, dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế giá
trị gia tăng ở khâu nhập khẩu;
b) Có chứng từ thanh toán qua ngân hàng đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào, trừ
hàng hoá, dịch vụ mua từng lần có giá trị dưới hai mươi triệu đồng;
c) Đối với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu, ngoài các điều kiện quy định tại điểm a và
điểm b khoản này phải có hợp đồng ký kết với bên nước ngoài về việc bán, gia
công hàng hoá, cung ứng dịch vụ, hoá đơn bán hàng hoá, dịch vụ, chứng từ thanh
toán qua ngân hàng, tờ khai hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu.”
Việc thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu dưới hình thức thanh toán bù trừ
giữa hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu với hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu, trả nợ thay Nhà
nước được coi là thanh toán qua ngân hàng.
Trong trường hợp này, kế toán bên A phải làm thủ tục nhập kho hàng hóa, lưu các

chứng từ đã nhận, đến khi nhận được chứng từ thanh toán của bên B thì mới kê
khai và hạch toán thuế GTGT đầu vào.
2- Cách khắc phục :
• Nếu kế toán đã hạch toán vào ngay từ khi nhập kho mà trong kì quyết toán
thuế , hóa đơn hoặc các chứng từ thiếu vẫn chưa được bên B giao đầy đủ.
Bên A làm các thủ tục sửa phần đã hạch toán nhầm theo các quy định kế
toán hiện hành, và đợi khi có đủ các chứng từ cần thiết thì hạch toán và làm
đơn xin hạch toán bổ sung phần thuế chưa được khấu trừ ở những kì tiếp
theo.
• Nếu hóa đơn chứng từ về đầy đủ trong kì thì có thể bỏ qua, nhưng cần được
chú ý ở các nghiệp vụ khác, tránh gây ra nhầm lẫn nhiều trường hợp, ảnh
hưởng đến uy tín của DN với cơ quan thuế, và gây phiền hà, mất thời gian
cho công tác quyết toán thuế.
II- SAI SÓT 2: Bên nhận ủy thác xuất hóa đơn GTGT đối với
hàng hóa nhập khẩu cho bên giao ủy thác theo tỷ giá không
trùng với tỷ giá tại thời điểm kê khai thuế với cơ quan Hải
Quan
1- Tình huống
A là bên ủy thác. B là bên nhận ủy thác.
• Bên A kí với bên B hợp đồng ủy thác nhập khẩu 1 lô hàng từ Mỹ. trong hợp
đồng ủy thác có ghi các điều khoản về số lượng chất lượng hàng hóa, thời
điểm giao hàng, chi phí vận chuyển bên B chi hộ Bên A vv… nhưng trong
điều khoản thanh toán hợp đồng lại không nêu về việc quy đổi tỷ giá
USD/VND vào thời điểm nào.
• Ngày 15/3 Bên B nhập hàng hóa từ Mỹ, hàng về tới cửa khẩu, B làm tờ khai
Hải Quan theo mẫu quy định. Trị giá nhập khẩu lô hàng 100000USD. Quy
đổi theo tỷ giá ngày 15/3 là 20951VND/USD
o Trị giá NK: 100000*20951=2095100000 đồng
o Thuế NK 20%: 419020000 đồng
o Thuế GTGT 10%: 251412000 đồng

o Tổng giá thanh toán: 2765532000 đồng
( Bên B làm thủ tục và nộp hộ bên A)
• Ngày 20/3 bên B xuất trả hàng cho bên A. Bên B làm 2 hóa đơn GTGT
• + một hóa đơn GTGT đối với khoản hoa hồng ủy thác
• + một hóa đơn GTGT đối với hàng hóa nhận ủy thác.
Nhưng trên hóa đơn GTGT bên B lại quy đổi theo tỷ giá ngày 20/3 là
21000vnd/usd.
o Trị giá NK: 100000*21000=2100000000 đồng
o Thuế NK 20%: 420000000 đồng
o Thuế GTGT 10%: 252000000 đồng
o Tổng giá thanh toán 2772000000 đồng
Căn cứ theo điều 14, thông tư số 153/2010/TT-BTC ngày 28/9/2010 của BTC
hướng dẫn về hóa đơn bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ:
“Đồng tiền ghi trên hoá đơn là đồng Việt Nam.
Trường hợp người bán được bán hàng thu ngoại tệ theo quy định của pháp luật,
tổng số tiền thanh toán được ghi bằng nguyên tệ, phần chữ ghi bằng tiếng Việt.
Người bán đồng thời ghi trên hoá đơn tỷ giá ngoại tệ với đồng Việt Nam theo tỷ
giá giao dịch bình quân của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam công bố tại thời điểm lập hoá đơn.
Trường hợp ngoại tệ thu về là loại không có tỷ giá với đồng Việt Nam thì ghi tỷ
giá chéo với một loại ngoại tệ được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tỷ
giá.”
 Trong trường hợp này, căn cứ vào hóa đơn GTGT hàng nhập khẩu từ Mỹ,
công ty B kê khai với cơ quan Hải quan theo tỷ giá USD/VND tại ngày 15/3 là
đúng quy định.
Theo quy định, khi công ty nhận ủy thác trả hàng cho công ty đi ủy thác, công ty
nhận ủy thác phải xuất trả hóa đơn GTGT
o Một HĐ GTGT đối với hoa hồng đại lý
o Một hóa đơn GTGT đối với số hàng nhập khẩu, làm căn cứ khấu trừ
thuế GTGT cho bên đi ủy thác. Đồng tiền ghi trên hóa đơn là tiền Việt

Nam. Trị giá nhập khẩu, các loại thuế và tổng giá thanh toán trên hóa
đơn GTGT phải trùng khớp với số liệu trên tờ khai Hải Quan.
 Trường hợp này, công ty B tại thời điểm xuất trả hóa đơn GTGT lại quy đổi
theo tỷ giá USD/VND tại ngày 20/3 dẫn tới các loại thuế và tổng giá thanh
toán cao hơn tại thời điểm làm tờ khai hải quan. Sai sót này xuất phát từ cả hai
bên. cụ thể
- Hai bên đã không ghi rõ điều khoản thanh toán trong hợp đồng ủy thác
- công ty B đã ghi sai HĐ GTGT theo quy định
 Sai sót này làm tổng giá thanh toán trên hóa đơn cao hơn
- số tiền công ty A phải thanh toán cho công ty B cao hơn so với thời
điểm B nhập khẩu hàng hóa. Bên B đã chiếm dụng phần chênh lệch do
tỷ giá.
- công ty A được khấu trừ nhiều thuế hơn nhưng phải thanh toán cho B số
tiền cao hơn so với thời điểm B nhập khẩu hàng hóa.
2- Cách khắc phục :
Trường hợp hóa đơn đã lập và giao cho bên ủy thác, đã giao hàng hóa,
cung ứng dịch vụ, bên ủy thác đã kê khai thuế, sau đó phát hiện sai sót thì 2
bên( ủy thác và nhận ủy thác) phải lập biên bản hoặc có thoả thuận bằng văn
bản ghi rõ sai sót, đồng thời người bán lập hoá đơn điều chỉnh sai sót. Hoá
đơn ghi rõ điều chỉnh (tăng, giám) trị giá nhập khẩu, thuế, …, Căn cứ vào hoá
đơn điều chỉnh, bên A và bên B kê khai điều chỉnh doanh số mua, bán, thuế
đầu ra, đầu vào.
III- SAI SÓT 3: Bên nhận ủy thác đã nộp VAT nhưng không xuất
hóa đơn GTGT cho bên ủy thác để bên ủy thác khấu trừ thuế
đối với hàng nhập khẩu
1- Tình huống:
A là bên ủy thác. B là bên nhận ủy thác.
• Bên B nhập khẩu ủy thác hàng hóa cho bên A. Khi thực hiện xuất trả
hàng cho bên A, bên B đã không lập hóa đơn GTGT cho bên A cho số
thuế GTGT đã nộp ở khâu nhập khẩu.

Sai sót này xuất phát từ bên nhận ủy thác nhập khẩu. Cụ thể, theo phụ
lục 4 của TT153/TT-BTC ban hành ngày 28/09/2010:
“ Tổ chức, cá nhân xuất nhập khẩu là đối tượng nộp thuế GTGT theo
phương pháp khấu trừ thuế nhận nhập khẩu hàng hoá uỷ thác cho các cơ sở
khác, khi trả hàng cơ sở nhận uỷ thác lập chứng từ như sau:
Cơ sở nhận nhập khẩu uỷ thác khi xuất trả hàng nhập khẩu uỷ thác, nếu đã
nộp thuế GTGT ở khâu nhập khẩu, cơ sở lập hoá đơn GTGT để cơ sở đi uỷ
thác nhập khẩu làm căn cứ kê khai, khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với
hàng hoá uỷ thác nhập khẩu. Trường hợp cơ sở nhận nhập khẩu uỷ thác chưa
nộp thuế GTGT ở khâu nhập khẩu, khi xuất trả hàng nhập khẩu uỷ thác, cơ
sở lập phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ kèm theo lệnh điều động nội
bộ theo quy định làm chứng từ lưu thông hàng hoá trên thị trường. Sau khi
đã nộp thuế GTGT ở khâu nhập khẩu cho hàng hoá nhập khẩu uỷ thác, cơ sở
mới lập hoá đơn theo quy định trên.
Hoá đơn GTGT xuất trả hàng nhập khẩu uỷ thác ghi:
(a) Giá bán chưa có thuế GTGT bao gồm: giá trị hàng hoá thực tế nhập khẩu
theo giá CIF, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt và các khoản phải nộp
theo chế độ quy định ở khâu nhập khẩu (nếu có).
(b) Thuế suất thuế GTGT và tiền thuế GTGT ghi theo số thuế đã nộp ở khâu
nhập khẩu.
(c) Tổng cộng tiền thanh toán (= a + b)
Cơ sở nhận nhập khẩu uỷ thác lập hoá đơn GTGT riêng để thanh toán tiền
hoa hồng uỷ thác nhập khẩu.”
Trong hoạt động này, công ty nhận nhập khẩu ủy thác đứng tên người nhập khẩu
trên tờ khai hải quan và theo đó tờ khai hải quan bản gốc do công ty này nắm giữ.
Tuy nhiên tiền hàng , các khoản thuế và chi phí nhập khẩu lại do bên đi ủy thác
chịu hết. Như vậy khi công ty đi ủy thác bán hàng hóa nhập khẩu về họ phải được
khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Tuy nhiên do bên nhận ủy thác nhập khẩu không lập
hóa đơn GTGT cho bên đi ủy thác dẫn tới bên đi ủy thác không có cơ sở chứng từ
hợp pháp để khấu trừ thuế GTGT đầu vào, gây ra tổn thất trực tiếp cho bên đi ủy

thác.
2- Cách khắc phục:
Đối với trường hợp này, bên đi ủy thác phải yêu cầu bên nhận ủy thác cung cấp hóa
đơn GTGT về số thuế GTGT mà bên nhận ủy thác đã nộp hộ cho bên ủy thác tại
hải quan để làm cơ sở khấu trừ thuế GTGT đầu vào.
IV- SAI SÓT 4: Bên nhận ủy thác chưa nộp thuế GTGT hàng nhập
khẩu nhưng vẫn xuất hóa đơn GTGT cho bên ủy thác. Bên ủy
thác tiến hành khấu trừ theo hóa đơn GTGT đó.
1- Tình huống:
A là bên ủy thác. B là bên nhận ủy thác.
• Bên B khi xuất trả hàng cho bên A trên cơ sở lập hóa đơn GTGT để bên A
làm căn cứ kê khai, khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với hàng hóa ủy thác
nhập khẩu trong khi tại thời điểm xuất trả hàng, bên B chưa nộp thuế GTGT
cho hàng hóa nhập khẩu ủy thác tại cơ quan hải quan. Bên A thực hiện khấu
trừ thuế đối với hóa đơn GTGT mà bên B xuất cho đối với hàng nhập khẩu
ủy thác bán ra trong kỳ.
Sai sót này xuất phát từ bên nhận ủy thác. Vì như trên, theo phụ lục 4 của
TT153/TT-BTC ban hành ngày 28/09/2010 thì bên nhận ủy thác do chưa nộp
thuế GTGT ở khâu nhập khẩu nên khi xuất trả hàng nhập khẩu chỉ được lập phiếu
xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ kèm theo lệnh điều động nội bộ làm chứng từ lưu
thông hàng hóa trên thị trường. Sau khi nộp thuế GTGT ở khâu nhập khẩu cho
hàng hóa nhập khẩu ủy thác, cơ sở mới được lập hóa đơn GTGT cho bên đi ủy thác
để làm căn cứ khấu trừ thuế GTGT đầu vào.
2- Cách khắc phục:
• Nếu lỗi này phát sinh trong kỳ tính thuế mà bên A phát hiện ra thì sẽ yêu cầu
bên B xuất lại cho bên A phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ cho bên đi
ủy thác làm cơ sở lưu thông hàng hóa.
• Trong trường hợp bên A đã kê khai khấu trừ thuế đối với hóa đơn trong kỳ
và sai sót phát hiện khi đã quá hạn nộp thuế kỳ đó thì bên A sẽ phải khai báo
về sai sót và nộp bổ sung số thuế đã được khấu trừ vào kỳ sau. Đồng thời

yêu cầu bên B xuất lại phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ cho bên đi ủy
thác, đợi đến khi bên B thực hiện nộp thuế tại cơ quan hải quan và xuất hóa
đơn GTGT thì bên A mới kê khai khấu trừ thuế.
V- SAI SÓT 5: Sai sót do khấu trừ thuế GTGT của hàng hóa nhập
khẩu có giá trị từ 20 triệu đồng trở lên được thanh toán bằng
tiền mặt
1- Tình huống:
A là bên ủy thác. B là bên nhận ủy thác.
• Theo hợp đồng ủy thác nhập khẩu quy đinh bên A ủy quyền cho bên B
thanh toán qua ngân hàng đối với các chi phí liên quan đến việc nhập
khẩu hàng hóa .
• Bên B thực hiện thanh toán qua ngân hàng cho người bán về tiền hàng
hóa. Một số chi phí khác có giá trị 25 triệu được bên B thực hiện
thanh toán bằng tiền mặt. Khi thực hiện xuất trả hàng bên B xuất hóa
đơn GTGT cho toàn bộ số tiền hàng và chi phí mà công ty đã trả ở
khâu nhập khẩu. Bên A thực hiện khấu trừ thuế GTGT cho toàn bộ giá
trị chi phí đó khi bán hàng hóa trong kỳ.
Đây là một sai sót xuất phát từ bên đi ủy thác. Cụ thể tại Điểm d.3 Mục d Điều
15 Thông tư 06/2012/TT-BTC ngày 11/01/2012 quy định:
“d.3) Trường hợp hàng hoá, dịch vụ mua vào được thanh toán uỷ quyền qua bên
thứ ba thanh toán qua ngân hàng (bao gồm cả trường hợp bên bán yêu cầu bên mua
thanh toán tiền qua ngân hàng cho bên thứ ba do bên bán chỉ định) thì việc thanh
toán theo uỷ quyền hoặc thanh toán cho bên thứ ba theo chỉ định của bên bán phải
được quy định cụ thể trong hợp đồng dưới hình thức văn bản và bên thứ ba là một
pháp nhân hoặc thể nhân đang hoạt động theo quy định của pháp luật.
Trường hợp sau khi thực hiện các hình thức thanh toán nêu trên mà phần giá trị còn
lại được thanh toán bằng tiền có giá trị từ 20 triệu đồng trở lên thì chỉ được khấu
trừ thuế đối với trường hợp có chứng từ thanh toán qua ngân hàng. Khi kê khai hoá
đơn thuế giá trị gia tăng đầu vào, cơ sở kinh doanh ghi rõ phương thức thanh toán
được quy định cụ thể trong hợp đồng vào phần ghi chú trên bảng kê hoá đơn,

chứng từ hàng hoá, dịch vụ mua vào.”
Như vậy, bên đi ủy thác không được thực hiện khấu trừ thuế GTGT đối với phần
giá trị 25 triệu được thanh toán bằng tiền mặt. Sai sót này khiến bên đi ủy thác
được khấu trừ nhiều hơn so với quy định, gây tổn thất thuế cho cơ quan thuế.
2- Cách khắc phục :
Trong trường hợp này, bên đi ủy thác phải có trách nhiệm thông báo sai sót và thực
hiện nộp bổ sung số thuế tương ứng với phần giá trị thực hiện thanh toán qua ngân
hàng cho cơ quan thuế. Tuy nhiên lỗi này xuất phát là do bên nhận ủy thác đã thực
hiện không đúng quy định nên căn cứ theo hợp đồng ký kết, bên đi ủy thác có
quyền yêu cầu bên nhận ủy thác chịu khoản thuế này.

×