Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

bình ổn thị trường vàng - góp phần ổn định nền kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.74 KB, 9 trang )

49 | P a g e

BÌNH ỔN THỊ TRƯỜNG VÀNG
GÓP PHẦN ỔN ĐỊNH NỀN KINH TẾ VIỆT NAM

Phan Mỹ Linh- K14KTDNE
Nguyễn Thị Thủy- K14TCDNA
Nguyễn Hoàng Long- K14TCDNA

Không chỉ là một loại hàng hóa đơn thuần, vàng còn là một loại tiền tệ đặc biệt
dùng để trao đổi, là phương tiện cất giữ giá trị, làm đồ trang sức và điều quan trọng nhất
là vàng được chấp nhận như “đồng tiền” chung của các quốc gia trên thế giới. Từ đặc
điểm cất giữ giá trị, đặc tính được chấp nhận rộng rãi, vàng được lựa chọn là một hàng
hóa để đầu tư phòng tránh rủi ro của rất nhiều người. Vì những lí do đó, thị trường vàng
chưa bao giờ là hết nóng, các vấn đề về vàng ảnh hưởng và chi phối nền kinh tế tài chính
cũng như đời sống của người dân rất nhiều. Trách nhiệm đặt nặng lên vai nhà nước, cụ
thể là Ngân hàng Nhà nước(NHNN) Việt Nam, làm sao để kinh tế vĩ mô, đời sống nhân
dân ổn định, tránh tình trạng một bộ phận lợi dụng, lũng đoạn thị trường, làm lợi cá nhân
trên thiệt hại của thị trường
1. Thực trạng thị trường vàng Việt nam
a) Sự chênh lệch giữa cung cầu về vàng tại thị trường trong nước
Về phía cung vàng: Ở Việt Nam lượng vàng sản xuất chỉ đáp ứng khoảng 5% nhu
cầu vàng trong nước, do đó cung vàng chủ yếu phụ thuộc vào vàng nhập khẩu.Từ tháng
5/2008, để hạn chế nhu cầu ngoại hối, kiềm chế thâm hụt thương mại, giảm sức ép lên
lạm phát, NHNN đã ngừng cấp phép nhập khẩu vàng. Với bối cảnh dự trữ ngoại hối của
Việt Nam không đủ lớn để can thiệp vào thị trường, việc hạn chế nhập khẩu vàng là biện
pháp hợp lý trong thời điểm này. Tuy nhiên điều này đã tạo ra một sự khan hiếm, hoặc ít
nhất tạo tâm lý khan hiếm về cung vàng trên thị trường.
Từ năm 2009 cho đến nay, lượng nhập khẩu vàng của Việt Nam đã giảm do chính
sách hạn chế nhập khẩu vàng của chính phủ, thậm chí có một số giai đoạn khi giá thế giới
mới tăng trở lại sau khi đi xuống vào thời kỳ trước như hồi đầu năm 2009 và giữa năm


2010, 2011, các doanh nghiệp Việt Nam đã đua nhau xuất khẩu vàng (đã nhập với giá
thấp từ những năm trước đây) khiến xuất siêu một lượng khá lớn lên tới hàng tỷ USD.
Việc xuất khẩu vàng, do đó, đã phần nào tác động làm cầu vàng tăng cao cộng với tâm lý
tích trữ vàng của dân khi giá tăng cao.
Về phía cầu vàng: Thời gian qua thị trường vàng chịu tác động chủ yếu từ hai phía
là nhu cầu tích lũy của dân cư và nhu cầu tất toán trạng thái vàng của một số tổ chức kinh
doanh vàng.
- Nhu cầu tích lũy và dự trữ
50 | P a g e

Tháng 7/2010,NHNN chính thức đóng cửa sàn giao dịch vàng, bãi bỏ việc kinh
doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài, kênh đầu tư vàng tài khoản bị đóng lại đã khiến
một lượng vốn lớn đổ vào thị trường vàng vật chất, khiến nhu cầu vàng tại thị trường Việt
Nam gia tăng.
Theo báo cáo của WGCnhu cầu vàng trong quý II/2013 đạt 23,2 tấn, tương đương
hơn 1 tỷ USD, tăng 24% về lượng và 9% về giá so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó nhu
cầu vàng trang sức của Việt Nam đạt 3,2 tấn, tăng 25%, trong khi vàng miếng và vàng xu
là 20 tấn, tương đương tăng 23% so với quý II/2012. Nhu cầu vàng nói chung tăng 24%.
- Nhu cầu tất toán vàng của các NHTM
Theo báo cáo của NHNN về điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng
trong 8 tháng đầu năm, NHNN đã bán ra khoảng 57 tấn vàng, trong đó bán cho các ngân
hàng thương mại để tất toán trạng thái vào khoảng 30 tấn. Số còn lại, được các đơn vị
trúng thầu bán ra thị trường. Đến nay, tất cả 18 Ngân hàng đã hoàn thành việc tất toán số
dư huy động vốn bằng vàng đến hạn phải chi trả theo quy định. Tổng dư nợ bằng vàng
của toàn hệ thống đã giảm gần 70% và chiếm tỉ lệ không đáng kể so với tổng dư nợ cho
vay của hệ thống đối với nền kinh tế.
b) Chênh lệch giá vàng trong nước và giá vàng thế giới
Là nước nhập khẩu vàng, Việt Nam không thể chi phối và kiểm soát giá vàng thế giới.
Sự biến động bất thường của giá vàng thế giới luôn là yếu tố dẫn dắt biến động của giá vàng
trong nước với diễn biến theo sát thị trường thế giới.

Kể từ sau quyết định lựa chọn SJC là thương hiệu vàng quốc gia, mức chênh lệch giữa
giá vàng miếng SJC và các thương hiệu vàng miếng khác có thời điểm nới rộng ra tới 2 triệu
đồng/lượng. Bên cạnh đó giá vàng trong nước và giá vàng thế giới luôn có sự chênh lệch từ
3-7 triệu đồng/lượng.
Hình 1.1: Chênh lệch giá vàng trong nước và giá vàng quốc tế

Nguồn:Quản lý thị trường vàng Việt Nam từ phản ứng của thị trường đối với sự
thay đổi các chính sách trong giai đoạn 2011-2013 - TS. NGUYỄN ĐỨC TRUNG
51 | P a g e

c) Tình trạng nhập lậu vàng
Nhập lậu vàng là một vấn đề đã tồn tại trong nhiều năm qua bởi lượng cầu trên thị
trường vàng Việt Nam là rất lớn và không ngừng gia tăng trong khi nguồn cung hạn chế do
đây là mặt hàng không được nhà nước khuyến khích tiêu dùng.
Ngoài ra tình trạng nhập lậu vàng còn được lý giải theo các nguyên nhân sau
Thứ nhất: Sự chênh lệch lớn giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới
Do giá vàng trong nước và quốc tế luôn có sự chênh lệch quá lớn (có thời điểm lên
đến 7 triệu đồng/lượng) đã dẫn đến tình trạng “nở rộ” buôn lậu vàng, trang sức bằng vàng
qua biên giới. Tính trung bình, 1kg vàng tương đương 26,6 lượng, khi nhập lậu vào Việt
Nam sẽ thu lãi hơn 100 triệu đồng. Do thu được “siêu lợi nhuận” như vậy, các đối tượng
buôn lậu thường cắt nhỏ vàng miếng để nhập lậu vào Việt Nam, nên rất khó phát hiện, bắt
giữ và bắt được rồi cũng không truy tố được.
Thứ hai, Việc quản lý tình trạng nhập khẩu vàng vẫn còn hạn chế
Thứ ba: Mức xử phạt mang tính “tượng trưng”
Hiện nay mức xử phạt các hành vi buôn lậu vàng tối đa chỉ là 500 triệu đồng kèm
tịch thu tang vật. Số tiền xử phạt đó so với giá trị thu được từ việc nhập lậu trái phép vàng
qua cửa khẩu là còn thấp nên khung hình phạt này còn tương đối nhẹ, chưa đủ sức răn đe
đối với các đối tượng buôn lậu.
2. Tác động của thị trường vàng tới nền kinh tế
Giá vàng trên thị trường tăng mạnh trong thời gian qua gây ảnh hưởng lớn đến

hiệu quả của chính sách tiền tệ và ổn định kinh tế vĩ mô trong trung hạn. Xét từ quan hệ
trực tiếp đến gián tiếp có thể thấy tác động của giá vàng đến nền kinh tế là rất lớn.
Thứ nhất, Ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng huy động nguồn vốn của khu vực tài
chính: Khi giá vàng tăng người dân rút tiết kiệm để đầu tư vàng thay vì gửi tiết kiệm tại
ngân hàng. Đồng thời vốn rút ra lại loanh quanh ở thị trường vốn và ngoại tệ dẫn đến khả
năng huy động vốn của các NHTM bị giảm sút, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của
hệ thống ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Thứ hai, Thị trường ngoại tệ tự do bành trướng: Tình trạng đô la hóa ở Việt Nam
không chỉ biểu hiện bằng tỉ lệ tiền gửi ngoại tệ/tổng tiền gửi trong hệ thống ngân hàng mà
còn là khối lượng ngoại tệ lưu hành ngoài hệ thống tài chính. Khi giá vàng tăng làm cho
nhu cầu mua USD trên thị trường tự do để nhập khẩu vàng lậu lớn dẫn đến tỷ giá USD
tăng, khó kiểm soát.


52 | P a g e

Hình 2.2: Diễn biến tỷ giá USD/VND năm 2012

Nguồn: NHNN
Thứ ba, Nguy cơ lạm phát: Tuy chưa thống kê được quy luật cụ thể cho mối liên
quan chặt chẽ giữa vàng và lạm phát. Tuy nhiên, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế đến
hiện tượng dùng vàng để định giá các tài sản lớn, điển hình là giá bất động sản. Khi vàng
trở thành thước đo giá trị, việc vàng tăng giá kéo giá bất động sản và các loại hàng hóa
khác tăng theo, gây nguy cơ lạm phát.
Thứ tư, Thâm hụt cán cân thương mại: Khi giá vàng tăng thì nhập khẩu vàng tăng
và nhu cầu ngoại tệ để nhập khẩu càng lớn. Với khối lượng vàng cất trữ rất lớn và gia
tăng nhanh chóng những năm gần đây giải thích vì sao thâm hụt cán cân thương mại.
Thứ năm, Ảnh hưởng đến điều hành chính sách tiền tệ: Tỉ trọng vàng trên GDP ở Việt
Nam rất lớn. Điều này ảnh hưởng khá lớn đến điều hành chính sách tiền tệ. Đơn cử, với
tổng phương tiện thanh toán không kể vàng (M2) thì hệ số nhân tiền theo tính toán của

các chuyên gia khoảng 4,8. Nhưng nếu tính gộp M2 + vàng thì hệ số này chỉ còn 2,0. Rõ
ràng rằng có rất nhiều vấn đề đối với hệ thống tiền tệ đang bị chi phối bởi khối lượng
vàng và TTV đang bành trướng hiện nay. Như vậy, vàng không còn là vấn đề nhỏ của các
nhà kinh doanh, mà đang thực sự trở thành một lực lượng thị trường có khả năng chi phối
cả tiết kiệm, đầu tư, cán cân thanh toán, dự trữ ngoại tệ và hiệu quả sử dụng vốn của nền
kinh tế.
3. Chính sách quản lý của Chính phủ
3.1. Chính sách yêu cầu các tổ chức tín dụng chấm dứt huy động và cho vay vốn
bằng vàng
Có rất nhiều văn bản pháp luật trong thời gian vừa qua được ban hành bởi NHNN
gây tác động lớn đến thị trường vàng Việt Nam. Cụ thể các văn bản bao gồm: Thông tư
11/2011, Thông tư số 12/2012/TT-NHNN (sửa đổi thông tư số 11), Chỉ thị số 05/CT-
NHNN, công văn số 3854/NHNN-QLNH ngày 25/06/2012. Trong đó thông tư số 12
/2012/TT-NHNN nêu rõ:
53 | P a g e

Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 11/2011/TT-NHNN như sau:
1. Sửa đổi, bổ sung Điều 2 như sau:
“Điều 2. Tổ chức tín dụng không được huy động vốn bằng vàng, trừ trường hợp phát hành chứng
chỉ ngắn hạn bằng vàng để chi trả vàng theo yêu cầu của khách hàng khi số vàng thu nợ và tồn
quỹ không đủ để chi trả. Việc phát hành chứng chỉ ngắn hạn bằng vàng của tổ chức tín dụng
chấm dứt vào ngày 25 tháng 11 năm 2012.”
2. Sửa đổi, bổ sung Điều 3 (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 32/2011/TT-NHNN ngày
06/10/2011 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) như sau:
“Điều 3. Tổ chức tín dụng không được chuyển đổi vốn huy động bằng vàng dưới mọi hình thức
thành đồng Việt Nam hoặc các hình thức bằng tiền khác; không được sử dụng vàng huy động để
cầm cố, thế chấp, ký quỹ bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ tiền vay tại tổ chức tín dụng khác.”
Tình hình thị trường vàng trong những năm gần đây thực sự rất phức tạp, thể hiện
qua tình hình biến động về giá vàng chóng mặt, dẫn đến gia tăng các cửa hàng kinh doanh
vàng cũng như tình trạng đầu cơ vàng. Việc NHNN ban hành các văn bản quy định các tổ

chức tín dụng không được phép vay và cho vay vàng có mục đích là giảm đầu cơ vàng,
ngoại tệ, tránh nguy cơ rủi ro kinh doanh vàng cho tổ chức tín dụng, góp phần ổn định thị
trường ngoại hối, tiền tệ. Thực tế không phải đến thông tư số 11 hay 12 mới đề cập đến quy
định này, trước đó, ngày 29/10/2010, NHNN đã ban hành Thông tư số 22/2010/TT-NHNN
(Thông tư 22) quy định về huy động và cho vay vốn bằng vàng của TCTD nhằm phát đi
thông điệp thu hẹp quyền được huy động và cho vay vốn bằng vàng của các TCTD.
Mục đích thì vô cùng tích cực nhưng việc đưa ra quyết định này sẽ có nhiều tác
động không mong muốn đến thị trường.Cụ thể ảnh hưởng đến cung cầu vàng trên thị
trường, thanh khoản hệ thống ngân hàng, đời sống người dân (đặc biệt là những người
tham gia gửi vàng) thậm chí là có thể ảnh hưởng đến các thị trường đầu tư tài chính khác.
Một điều tất nhiên, khi quy định ban ra, các tổ chức tín dụng buộc phải làm nghĩa vụ
thanh toán vàng cho khách hàng, nhu cầu trở nên đột biến có thể đẩy giá tăng. Áp lực tất
toán vàng của các tổ chức tín dụng đã khiến Ngân Hàng Trung Ương buộc phải gia hạn
tới 3 lần về thời gian tất toán, cụ thể là lần đầu vào ngày 1.5.2012, lần thứ 2 vào ngày
25/11/2012 và lần chót vào ngày 30/6/2013. Thực tế đời sống người dân cũng không bị
ảnh hưởng quá nhiều: việc huy động vốn bằng vàng tập trung chủ yếu ở hai thành phố lớn
là Thành phố Hồ Chí Minh chiếm 75,85% tổng huy động vốn bằng vàng của cả nước và
Thành phố Hà Nội chiếm 11,67%; 31 tỉnh, thành phố có tỷ trọng huy động vốn bằng vàng
bình quân khoảng 0,5% tổng huy động vốn bằng vàng của cả nước; 30 tỉnh, thành phố
không phát sinh nghiệp vụ này. Vậy là cuộc sống đại bộ phận người dân đặc biệt là người
dân ở nông thôn không bị tác động nhiều. Các tình hình khác cũng khá khả quan: trong
thời gian vừa qua, mặc dù giá vàng thế giới có biến động, nhưng trong nước vẫn giữ được
sự ổn định, không còn những cơn sốt vàng; giới đầu cơ không có cơ hội tạo sóng, làm giá,
54 | P a g e

thao túng thị trường để kiếm lời như trước đây. Mục tiêu bình ổn thị trường vàng mà
NHNN đưa ra đã từng bước được thiết lập.
Tuy nhiên chính sách cũng gây ra những băn khoăn và bất cập vì khi tổ chức tín
dụng không được phép vay vốn bằng vàng đồng nghĩa với lượng vàng sẽ nằm trong dân
cư một cách vô ích. Nếu ngân hàng giữ hộ thu phí thì cũng sẽ nằm im trong kho, còn nếu

người dân tự giữ thì vàng cũng sẽ cất trong tủ. Lượng giá trị tích trữ trong vàng sẽ không
được đem lưu thông, trở nên lãng phí.
3.2. Chính sách quản lý về vàng
Trong các văn bản quy định thì nghị định 24/2012/NĐ-CP ban hành 3/4/2012 là
văn bản đáng được chú ý nhất, quy định rõ các nội dung sau:
Trước tình hình buôn lậu vàng, vàng nhái, vàng giả, nghị định được ban hành với
nội dung chính là khẳng định độc quyền kinh doanh vàng miếng là của nhà nước thông
qua một công ty gia công duy nhất là SJC, đồng thời cũng siết chặt hơn việc kinh doanh
vàng (kể cả vàng trang sức) bằng cách thiết lập các điều kiện chặt chẽ hơn.
Nội dung nghị định có mục đích điều tiết rất tích cực:
Thứ nhất, xóa độc quyền doanh nghiệp trong kinh doanh vàng, tránh việc làm giá, ăn
chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới của các tổ chức kinh tế nhập vàng
hoặc nhập lậu. Nghị định ban hành, nhà nước độc quyền thị trường sẽ dẫn đến toàn bộ chênh
Về quyền sở hữu vàng: Nghị định 24 khẳng định rõ nguyên tắc ”Quyền sở hữu
vàng hợp pháp của tổ chức, cá nhân được công nhận và bảo vệ theo quy định của
pháp luật”.
Về hoạt động sản xuất vàng miếng:chuyển hoạt động sản xuất vàng miếng thành
hoạt động độc quyền Nhà nước và giao cho NHNN tổ chức thực hiện
Về kinh doanh mua bán vàng miếng: hoạt động kinh doanh mua bán vàng miếng
là hoạt động kinh doanh có điều kiện, có cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh
doanh
Về hoạt động sản xuất, gia công, kinh doanh mua bán vàng trang sức, mỹ nghệ:

- Hoạt động sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ phải được NHNN cấp giấy chứng
nhận đủ điều kiện kinh doanh
- Quy định trách nhiệm các hộ kinh doanh
Về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu vàng: Việc xuất khẩu, nhập khẩu vàng
nguyên liệu cho sản xuất vàng miếng là hoạt động độc quyền nhà nước và giao
cho NHNN là cơ quan tổ chức thực hiện.
55 | P a g e


lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới là thuộc về NSNN để đầu tư lại cho nền
kinh tế, thực hiện các công trình phúc lợi xã hội.

Thứ hai,hạn chế được cơ chế xin cho trong hoạt động nhập khẩu, kinh doanh vàng đã
từng tồn tại trước đây khi mà nhiều thương hiệu vàng của các doanh nghiệp cùng tồn tại.
Thứ ba,nhà nước dễ dàng can thiệp để bình ổn thị trường khi giá vàng biến động
mạnh bằng cách điều tiết lượng cung ứng.
Thứ tư,tạo sự tiện lợi cho việc nắm giữ và giao dịch của người dân trong tương lai với
một thương hiệu vàng được đảm bảo.
Thứ năm, giám sát tốt chất lượng vàng miếng (tất cả đều gia công cho NHNN và do
cơ quan này kiểm tra chất lượng), giảm thiểu hiện tượng vàng giả, vàng kém chất lượng,
đồng thời ngăn chặn việc sản xuất vàng miếng từ nguồn nguyên liệu nhập lậu.
Tuy nhiên, thực tế việc ban hành nghị định gặp khá nhiều phản ứng trái chiều của thị
trường. Cụ thể là giá vàng trong nước và giá vàng thế giới vẫn chênh lệch lớn, người dân vẫn
chịu thiệt nhiều vì tâm lý yêu thích vàng, vẫn đầu cơ chạy theo giá vàng. Tất nhiên, không thể
phủ nhận những ảnh hưởng tích cực của nghị định về quản lý vàng này đem lại: Về kinh tế vĩ
mô, tỷ giá và thị trường ngoại tệ tương đối ổn định, không bị tác động tiêu cực bởi sự biến
động của giá vàng. Về lợi ích của người dân, đa số người dân cũng như đa số doanh nghiệp
nói chung sẽ được hưởng lợi trên nhiều phương diện từ sự ổn định của kinh tế vĩ mô. Đồng
thời, đa số người đầu tư vàng sẽ giảm bớt thiệt hại khi việc mua, bán vàng miếng được thuận
tiện với nhiều tổ chức, doanh nghiệp kinh doanh vàng miếng. Điều tích cực nhất là thị loại bỏ
hoàn toàn tình trạng thao túng giá vàng, ép giá người dân của các doanh nghiệp kinh doanh
vàng như trước đây, phần chênh lệch giá vàng thế giới và trong nước tuy vẫn còn cao nhưng
lại được bổ sung vào ngân sách nhà nước chứ không rơi vào túi một số người.
4. Giải pháp bình ổn thị trường vàng
4.1. Triển vọng thị trường vàng thời gian tới
Thứ nhất: Sự biến động của giá vàng sẽ ít ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái.
Theo kinh nghiệm của Trung Quốc và Ấn Ðộ, khi NHTW nắm độc quyền nhập
khẩu vàng, sử dụng hiệu quả các biện pháp kiểm soát nhập lậu vàng cũng như hạn chế

tình trạng vàng hóa nền kinh tế, thì biến động của giá vàng sẽ ít ảnh hưởng đến tỷ giá hối
đoái.Thị trường Việt Nam trước đây xảy ra hiện tượng khi có mức chênh lệch giá, các
đơn vị được phép nhập khẩu và sản xuất vàng cũng như các đối tượng nhập khẩu vàng thu
mua ngoại tệ với số lượng lớn trên thị trường để nhập khẩu vàngnhằm hưởng chênh lệch
giá, tạo áp lực lớn lên thị trường ngoại tệ, khiến tỷ giá biến động mạnh. Kể từ khi các văn
bản pháp quy về quản lý thị trường vàng được ban hành đồng bộ, những cú sốc giá vàng
56 | P a g e

đã không còn ảnh hưởng mạnh đến sự biến động của giá đô la
1
. Trong thời gian tới mối
tương quan giữa chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la sẽ giảm.
Hình 3.1: Phản ứng của giá đô la Mỹ trước cú sốc giá vàng trong nước

Nguồn:Quản lý thị trường vàng Việt Nam từ phản ứng của thị trường đối với sự
thay đổi các chính sách trong giai đoạn 2011-2013 - TS. NGUYỄN ĐỨC TRUNG
Thứ hai: Chênh lệch giá vàng trong nước và giá vàng thế giới tiếp tục được thu hẹp
Tình hình chính trị ở Syria ngày càng căng thẳng.Là nước nằm trong khu vực có
sản lượng dầu lớn nhất thế giới, nên khi chiến tranh xảy ra sẽ làm giá dầu tăng lên, kéo
theo mặt bằng giá nói chung, trong đó có giá vàng, tăng theo. Còn ở trong nước với
những nỗ lực của Chính phủ trong việc ổn định thị trường vàng cùng với nhu cầu tất toán
của các ngân hàng thương mại về cơ bản đã hoàn thành, nhu cầu của người dân cũng
không còn lớn, giá vàng trong nước có xu hướng giảm. Do đó khoảng cách giữa giá vàng
trong nước có xu hướng được thu hẹp trong thời gian tới, thị trường dần ổn định hơn, tình
trạng buôn lậu vàng cũng sẽ giảm.
Thứ ba:Xu hướng đầu cơ vàng tiếp tục tăng
Mặc dù khoảng cách giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới đang được thu hẹp
nhưng hiện tại vẫn có sự chênh lệch ( trên dưới 3 triệu đồng/lượng). Do đó người dân vẫn có
xu hướng sử dụng vàng với mục đích dầu cơ nhằm hưởng chênh lệch giá và kiếm lời.
4.2. Một số kiến nghị

Thứ nhất, giảm thuế suất nhập khẩu vàng xuống mức 0%
Khi thuế suất nhập khẩu của Việt Nam bằng 0% như các nước Đài Loan, Thái Lan,
Singapore, sự khác biệt giữa giá nhập lậu và giá nhập khẩu chính thống sẽ được thu hẹp đáng
kể,
tránh được những bất ổn và những giao dịch không chính thống trên thị trường vàng.

1
Quản lý thị trường vàng Việt Nam từ phản ứng của thị trường đối với sự thay đổi các chính sách trong giai
đoạn 2011-2013 -
TS. NGUYỄN ĐỨC TRUNG – Viện Nghiên cứu khoa học Ngân hàng, Học viện Ngân hàng


57 | P a g e

Hơn nữa, khi thuế nhập khẩu được áp dụng thống nhất, các doanh nghiệp hoàn toàn có thể
tự quyết được loại vàng cần nhập khẩu.
Thứ hai, tăng cường chế tài xử phạt vi phạm đối với hành vi nhập lậu vàng bằng
những văn bản có hướng dẫn cụ thể, chi tiết như: tăng mức xử phạt với hành vi xuất nhập
khẩu vàng trái phép, tước bỏ giấy phép kinh doanh của các đơn vi kinh doanh bị phát hiện
là buôn bán, nhập lậu vàng.
Thứ ba, tăng cường kiểm soát hoạt động của các tổ chức kinh doanh vàng
Các chính sách trong thời gian tới của chính phủ cần được xây dựng theo hướng tổ
chức lại thị trường vàng thông qua việc NHNN quản lý chặt chẽ và can thiệp mạnh vào thị
trường vàng nhằm ngăn ngừa hoạt động đầu cơ vàng, hạn chế kinh doanh vàng miếng nhưng
vẫn đảm bảo quyền tích trữ vàng, mua bán vàng của người dân cũng như các nhà đầu tư
, theo
dõi chặt chẽ tình hình sử dụng vàng miếng mua từ các phiên đấu thầu, đảm bảo NH sử
dụng vàng miếng đúng mục đích đồng thời theo dõi chặt chẽ việc NH tuân thủ quy định
không được giữ trạng thái vàng vượt quá 2% so với vốn tự có và không được duy trì trạng
thái âm vàng.

NHNN cũng cần phải quản lý, giám sát chặt chẽ các hoạt động kinh doanh vàng khác
bao gồm: hoạt động trên sàn vàng của các NHTM, kinh doanh các sản phẩm phái sinh vàng.

Tài liệu tham khảo
- Quản lý thị trường vàng Việt Nam từ phản ứng của thị trường đối với sự thay đổi
các chính sách trong giai đoạn 2011-2013 - TS. NGUYỄN ĐỨC TRUNG – Viện
Nghiên cứu khoa học ngân hàng, Học viện Ngân hàng
- Nghị định 24/2012/NĐ-CP
- Thông tư số 12/2012/TT-NHNN
-
Số liệu từ tổng cục thống kê

- Tác động của thị trường vàng tới chính sách tiền tệ và NHTM tạp chí trên website


×