Phan Thanh Long (CB)
Đặng Quốc Bảo
Phạm Khắc Chương
Từ Đức Văn
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC THẾ GIỚI
VÀ VIỆT NAM
Hà Nội 2010
1
A. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU CỦA HỌC PHẦN
- Học phần này nhằm cung cấp cho người học một số vấn đề cơ bản về tình hình giáo
dục đại học trên thế giới và ở Việt Nam. Cụ thể là những vấn đề sau:
+ Sơ lược về lịch sử hình thành, phát triển của giáo dục đại học trên thế giới và ở Việt
Nam.
+ Xu hướng phát triển giáo dục đại học trên thế giới
+ Thực trạng giáo dục đại học Việt Nam hiện nay và phương hướng đổi mới giáo dục
đại học Việt Nam trong những năm tới.
+ Quản lí nhà nước về giáo dục đại học.
- Trên cơ sở những hiểu biết nói trên nhằm giúp người học có một quan điểm thích
hợp trong quá trình tham gia đào tạo ở các trường cao đẳng, đại học, góp phần nâng cao chất
lượng đào tạo tại trường mình công tác nói riêng và nền giáo dục đại học nước nhà nói chung.
B. ĐỐI TƯỢNG SỬ DỤNG TÀI LIỆU
- Đây là tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên các trường đại học, cao
đẳng chưa qua đào tạo sư phạm.
- Tài liệu này cũng rất bổ ích cho những người tham gia vào quá trình đào tạo ở các
trường đại học, cao đẳng, các bạn sinh viên và những người quan tâm đến sự nghiệp giáo dục
đại học.
CHƯƠNG 1
LƯỢC SỬ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
Phạm Khắc Chương
Mục đích yêu cầu:
Học chương này học viên cần phải nắm vững một số vấn đề sau:
- Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển của giáo dục đại học trên thế giới (cả
phương Đông và phương Tây).
- Có những thông tin cần thiết về một số trường đại học nổi tiếng trên thế giới.
- Lịch sử hình thành và phát triển giáo dục đại học Việt Nam và những đóng góp của
nó cho sự phát triển nước nhà.
1. Lược sử hình thành và phát triển giáo dục đại học thế giới
Giáo dục là một hiện tượng của xã hội đặc biệt chỉ có ở xã hội loài người. Sự đặc biệt của
giáo dục được thể hiện ở sự truyền thụ và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử xã hội qua các thế hệ,
tạo ra sự phát triển của cá nhân và xã hội.
Từ khi con người biết lao động và có ngôn ngữ thì hiện tượng giáo dục cũng manh nha
xuất hiện. Hiện tượng giáo dục của buổi sơ khai trong xã hội nguyên thuỷ mang tính chất tự
phát, diễn ra rất đơn giản theo cơ chế bắt chước trực tiếp, nhằm truyền đạt những kinh nghiệm
săn bắt, hái lượm, cao hơn nữa là những tập tục, nghi lễ trong cuộc sống chung của bộ tộc, bộ
lạc. Giáo dục trong thời kỳ này là phúc lợi xã hội và bình đẳng với mọi người trong cộng đồng,
bộ tộc. Mọi người lớn đều là thầy giáo, mọi trẻ em đều là trò…
Phương thức sản xuất ngày càng phát triển, của cải trong ngày càng nhiều và có dư thừa,
làm xuất hiện một số người muốn sở hữu riêng những của cải dư thừa đó. Xã hội loài người
chuyển sang một thời kì lịch sử mới, xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội có giai cấp. Hiện tượng
giáo dục trở thành một công cụ vô cùng quan trọng, một thứ đặc quyền, đặc lợi của giai cấp
thống trị, chủ yếu phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị. Trước hết là đào tạo con em họ trở
thành những người có năng lực duy trì nền thống trị, tiếp đến là giáo dục tuyên truyền tính chất
quy thuận, phục tùng đối với tất cả những tầng lớp, giai cấp bị trị.
Sau một thời gian phát triển, trong xã hội xuất hiện một bậc học mang tính hàn lâm, đặc
trưng cho văn minh của một thời đại, chỉ dành riêng cho con em giai cấp thống trị đó là giáo
2
dục đại học. Sau đây chúng ta sẽ xem xét sơ lược lịch sử hình thành nền giáo dục đại học ở
phương Đông cũng như phương Tây.
1.1. Ở phương Đông:
- Một số quốc gia cổ đại phương Đông như Ai Cập, Át xi ri và Babilon (vùng Lưỡng Hà)
từ thiên niên kỉ thứ 3 Tr.CN đã có một nền giáo dục phát triển. Trường học được lập ra ở các
miếu thờ thần. Đạo sĩ, tăng lữ là tầng lớp nắm được nhiều kiến thức khoa học như: số học,
hình học, thiên văn, địa lí,… làm nhiệm vụ giảng dạy bằng văn tự tiết hình. Ở Babilon đã có
một trường đại học, sinh viên được nhà nước cấp dưỡng sau 7 năm học. Họ được bản thân
quốc vương đến khảo sát để đào tạo thành những người quản lí xã hội.
- Ở Ai Cập cổ đại người ta cũng tổ chức các lớp học trong các miếu thờ thần để giảng dạy
cho con em vua chúa, tăng lữ và những người muốn trở thành tăng lữ những kiến thức về số
học, hình học để chia lại ruộng đất sau mùa nước lên của sông Nin (do bờ ruộng bị phù sa bồi
đắp); về y học để ướp xác; về thuật chiêm tinh để dự đoán thời tiết, mùa màng, sản xuất …
Thứ chữ Ai Cập cổ gọi là “văn tự thần thánh” thuộc chữ tượng hình, trước tiên là chỉ
ngay sự vật, rồi sau chỉ âm thanh. Ngày nay các thứ chữ đó còn được lưu giữ trên nhiều cổ vật.
(Từ đầu thế kỷ 19 một học giả người Pháp là Sămpôliông đã tìm ra cách đọc thứ chữ đó).
- Ở Trung Hoa cổ đại. Theo lịch sử thì từ đời nhà Hạ (2050 – 1580 TrCN) đã có trường
gọi là “Thành Quân” và thứ chữ viết tượng hình đã đạt trình độ khá hoàn chỉnh. Một số chữ
được khắc lên mai rùa, xương thú vật dùng để bói toán (gọi là văn tự giáp cốt). Nhà trường
cũng là nơi giáo dục, đào tạo con em chủ nô. Những người làm công tác giáo dục là những
quốc lão có đức, có vị.
Đến đời Tây - Chu (1066 - 771 Tr.CN) nền giáo dục đã được phát triển ở mức độ cao,
nền quốc học đã có hai cấp: tiểu học và đại học. Nội dung giáo dục cơ bản trong hai cấp đó là:
Lễ, Nhạc, Xạ, Ngự, Thư, Số. Đối với tiểu học thì thư, số là trọng điểm. Còn xạ và ngự thì kết
hợp với lễ, nhạc. Con em được vào tiểu học hay đại học không được bình đẳng như nhau. Thí
dụ, con vua vào tiểu học từ 8 tuổi và vào đại học từ 15 tuổi. Nhưng con của lớp triều quan thì
vào tiểu học phải 13 tuổi, vào đại học phải 20 tuổi. Tất nhiên nô lệ và con cái thường dân thì
không có điều kiện vào học các trường đó.
Trong các triều đại phong kiến Trung Quốc từ nhà Tần (221 Tr.CN), nhà Hán cho đến nhà
Minh, Thanh (1911) giáo dục từng bước phát triển về số lượng nhằm giáo dục đào tạo con em giai
cấp phong kiến, địa chủ để duy trì vương quyền và tuyển chọn nhân tài của các triều đại. Ngay từ
đời Đông Hán (925 - 220 Tr.CN) khi đóng đô ở Lạc Dương đã mở một nhà Thái học rất lớn có 247
“phòng”, 1850 “thất”, lúc đông nhất có tới ba vạn thái học sinh. Ngoài hệ thống nhà trường đại học
thường được xây dựng ở kinh đô và tỉnh lớn thì từ đời nhà Đường (581- 604) đã có tổ chức thư viện
được coi như là một loại trường đại học. Thư viện được đặt ở những nơi danh lam thắng cảnh, chứa
rất nhiều sách do một Động chủ hay Sơn trưởng phụ trách. Phương pháp giảng dạy là việc kết hợp
việc giảng bài cho tập thể với sự nghiên cứu của cá nhân là chính.Trong lịch sử phát triển giáo dục
phương Đông hệ thống các trường Quốc Tử Giám là các trường đại học đầu tiên, chủ yếu để đào tạo
con em vua chúa và quan lại trong triều đình.
1.2. Phương Tây
Hy Lạp cổ đại là một vùng đất có nền văn minh phát triển rực rỡ rất sớm của thế giới. Hy
Lạp cổ đại bao gồm nhiều quốc gia nhỏ theo chế độ chiếm hữu nô lệ, trong đó có hai quốc gia
lớn mạnh nhất là Spactơ và Aten.
Nhà nước chiếm hữu nô lệ Spactơ đã tận dụng giáo dục như một lợi khí nhằm giáo dục,
đào tạo con em họ trở thành những chủ nô tàn bạo, có sức khoẻ, võ nghệ cao cường để thẳng
tay đàn áp các cuộc khởi nghĩa của nô lệ, duy trì quyền thống trị. Do đó nhà nước Spactơ rất
quan tâm tổ chức hệ thống giáo dục từ thấp lên cao. Trẻ em con em giai cấp chủ nô nếu không
bị dị tật, ốm yếu sẽ được nuôi dạy ở trong gia đình cho đến 6 tuổi. Sau 6 tuổi các em được nuôi
dưỡng, học tập, rèn luyện rất khắt khe trong trường học của quốc gia để trở thành người công
dân Spactơ “tuyệt đối phục tùng” nhà nước. Sau 18 tuổi có một số đông thanh niên được vào
3
học trường cao cấp quân sự, có các chuyên ngành như bộ binh, kỵ binh… để trở thành những
chiến binh dũng cảm, tàn bạo, trung thành với nhà nước chiếm hữu nô lệ Spactơ.
Từ thế kỷ thứ VI tr.CN, nhà nước chiếm hữu nô lệ Aten ở về phía Đông Nam Hy Lạp có
nhiều hải cảng thuận tiện cho việc giao lưu buôn bán nên nền kinh tế và văn hoá rất phát triển,
đòi hỏi giai cấp quý tộc phải tổ chức một nền giáo dục cao cho con em họ. Từ 1 đến 6 tuổi các
em được giáo dục trong gia đình với nhiều thứ đồ chơi để phát triển thể lực. Sau 6 tuổi, hàng
ngày các em được một người nô lệ thông minh gọi là “Paidagogos” đưa đến trường và góp
phần giáo dục các em.
Vào khoảng 12 tuổi các em được vào trường thể thao rèn luyện “ngũ khoa” là chạy, nhảy,
ném đĩa, ném lao, vật, đồng thời tiếp tục học văn pháp, số học, hình học, âm nhạc. Sau khi tốt
nghiệp trường thể thao (Palacotra) con nhà giàu có thể tiếp tục học ở thể dụng quán
(gummasion) cho đến 18 thì họ được vào trường Cao đẳng quân sự (ephebeia) đồng thời tiếp
tục học văn học, toán học, triết học, âm nhạc và tham gia các buổi sinh hoạt chính trị. Đây là
hệ thống nhà trường đại học đầu tiên của Hy Lạp cổ đại nhằm đào tạo con em giai cấp thống trị
thành những người có trình độ cao, phát triển các mặt chân, thiện, mỹ. Nghiên cứu lịch sử phát
triển giáo dục thế giới, các nhà khoa học đều có một nhận định chung là việc giáo dục, đào tạo
con em giai cấp thống trị có trình độ học vấn cao đã được các quốc gia phát triển dưới chế độ
chiếm hữu nô lệ ở cả phương Đông và phương Tây. Tuy nhiên hình thức tổ chức, nội dung
giáo dục, yêu cầu về trình độ học vấn có khác nhau, nhưng đều có một mục đích chung là đào
tạo nhân tài để tham gia vào các hoạt động quản lý, phát triển của đất nước trong các thể chế
chính trị khác nhau.
Đến thời Trung cổ nhà trường “đại học” (gốc la tinh là universitas) theo đúng ý nghĩa của
nó về tổ chức, nội dung, chương trình, chất lượng đào tạo, giáo sư giảng dạy, v.v…được xây
dựng sớm ở một số quốc gia Tây Âu. Các trường đại học đầu tiên được phát triển dưới sự bảo
trợ của giáo hội công giáo, còn gọi là trường học nhà thờ, được thúc đẩy bởi các tu viện. Đó là
các đại học Bologna - La Mã (thành lập năm 1088), Trường Đại học Pari, Ooclêăng - Pháp
(1150), Trường Đại học Oxford, Kembridge - Anh (1167), Trường Đại học Xalamanca - Tây
Ban Nha(1218), v.v… Đến cuối thế kỷ XIV ở Châu Âu đã có tất cả 40 trường đại học danh
tiếng.
Trong số các trường đại học ở Tây Âu lúc bấy giờ thì trường Đại học Pari là nổi tiếng
nhất. Sinh viên ở đây lâp thành 4 hội đồng hương là Noócmăngđi, Anh, Gôlơ, Picacdi. Các
giáo sư cũng gia nhập các tổ chức mà sau này phát triển thành các khoa. Đến cuối thế kỷ XII
các tổ chức sinh viên và giáo dục liên hiệp lại để bầu ra hiệu trưởng (ban giám hiệu) có sinh
viên tham gia để điều hành việc giảng dạy và học tập. Trong mỗi trường đại học có nhiều khoa
khác nhau như: Pháp lý, y khoa, thần học, nghệ thuật. Các trường đại học thời Trung cổ có uy tín
rất lớn, nhiều khi người ta giao cho việc hoà giải sự tranh chấp giữa chính quyền và giáo hội.
Kết thúc thời kì trung cổ, nền giáo dục đại học hiện đại ra đời (vào thế kỷ XVIII) với đặc
trưng là vai trò của giáo hội ngày càng giảm và tập trung vào nghiên cứu khoa học (có phòng
thí nghiệm, có tạp chí công bố công trình nghiên cứu khoa học…) và ngày càng tiếp cận với
công chúng. Đó là mô hình của các trường đại học của Pháp và Đức.
Từ sự phát triển của các phương thức sản xuất từ thời kỳ cổ đại đến Trung đại, cận đại và
hiện đại, ngày nay hầu hết tất cả các quốc gia trên thế giới đã có hệ thống nhà trường cao đẳng,
đại học đa ngành và chuyên ngành để đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho quốc gia mình
và hỗ trợ cho quốc gia khác, góp phần to lớn vào mục đích giao lưu và hội nhập quốc tế. Do
điều kiện lịch sử phát triển của mỗi quốc gia, các khu vực mà sự xây dựng, trưởng thành của
hệ thống trường cao đẳng và đại học cũng khác biệt nhau.
Hiện nay ở trên thế giới, đối với những quốc gia nhỏ cũng có hàng trăm trường Cao đẳng
và Đại học. Đối với những quốc gia lớn như Trung Quốc, Mỹ, Nga, Nhật có đến hàng ngàn
trường Cao đẳng và Đại học ở khắp cả nước, đến từng địa phương, vùng lãnh thổ để đáp ứng
4
yêu cầu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài và nhu cầu “học tập suốt đời”
theo xu thế hội nhập quốc tế.
Một số hình ảnh minh họa
Đại học Coimbra, trường đại học lâu đời nhất Bồ Đào Nha
Đại học Sydney, đại học lâu đời nhất của Australia
Đại học Birmingham Vương quốc Anh
2. Giới thiệu một số trường đại học hàng đầu thế giới hiện nay
2.1. Bảng xếp hạng những trường đại học hàng đầu thế giới
Nói đến những trường đại học hàng đầu thế giới, người ta thường nghĩ ngay tới những cái
tên như Đại học Harvard, Yale, MIT, Oxford (Hoa Kì) hay Cambridge (Anh) Đó là những
cái tên đã trở thành thương hiệu, là sự đảm bảo về uy tín và chất lượng. Tuy nhiên, gán cho
những trường này cụm từ “hàng đầu thế giới” không phải chỉ là cảm tính hay thói quen mà dựa
trên những tiêu chí hết sức rõ ràng, cụ thể.
Hàng năm, nhiều tổ chức tiến hành bình chọn và xếp loại các trường đại học trên thế giới.
Mỗi một tổ chức có thể đưa ra những tiêu chí không hoàn toàn giống nhau, dẫn tới thứ hạng
của một số trường trong cùng một năm, ở những bảng xếp hạng khác nhau, có thể sẽ khác
nhau. Tuy nhiên sự chênh lệch là không quá lớn.
5
Lấy ví dụ một bảng xếp hạng uy tín do Thời báo Times Higher Education Suppliment
phối hợp với Tổ chức Giáo dục và Hướng nghiệp quốc tế (QS) thực hiện. Xếp hạng các trường
đại học hàng đầu thế giới là sự kiện thường niên của tổ chức này. Trong Bảng xếp hạng các
trường đại học hàng đầu thế giới năm 2007, 10 vị trí đứng đầu thuộc về các trườnsg đại học
của Mỹ và Anh, trong đó đứng đầu là Đại học Harvard, kế đến là Yale, Oxford và Cambridge.
Đây là sự đánh giá được cho là khách quan dựa trên nhiều yếu tố, trong đó có: kết quả
trưng cầu ý kiến nhận xét từ các giáo sư, sinh viên của các trường; các công ty mà sinh viên tốt
nghiệp của trường được nhận vào làm việc; số lượng giáo viên, sinh viên quốc tế cũng như các
nghiên cứu mà trường đang thực hiện.
Theo ông Nunzio Quacquarelli, Giám đốc của QS, thì kết quả xếp hạng chính là sự thể
hiện rõ nhất, chân thực nhất về chất lượng giáo dục của các trường.
Theo bảng xếp hạng này, so với năm 2006, năm 2007 Anh là nước có nhiều tiến bộ nhất
với 4 trường trong số 10 trường đứng đầu. Mặc dù vẫn còn thua kém Mỹ (Mỹ có 6 trường),
nhưng Giáo sư Rick Trainor, Chủ tịch các trường đại học Anh vẫn rất lạc quan: "Kết quả xếp
hạng đã thể hiện nền giáo dục Anh đang chiếm chỗ đứng hàng đầu nhờ có công tác nghiên cứu
và giảng dạy chất lượng cao. Trong khi các đối thủ không ngừng tăng cường quảng bá thương
hiệu thì Anh vẫn vững vàng như là bến đỗ tốt nhất cho sinh viên, giáo viên toàn thế giới".
University College London là trường thăng hạng nhiều nhất, năm 2007 đã lọt vào Top 10
với vị trí số 9, mặc dù năm 2006 chỉ đứng thứ 25.
Đại học Standford, đứng thứ 6 năm 2006, nhưng năm 2007 đã tụt xuống thứ 19. Viện
Công nghệ Massachusetts cũng rơi từ vị trí thứ 4 của năm trước xuống vị trí thứ 10 trong năm
2007. Thụt hạng nhiều nhất trong bảng xếp hạng này là Đại học tổng hợp California Berkeley,
năm 2006 xếp thứ 8, còn năm 2007 xếp thứ 22.
Nền giáo dục châu Á cũng cải thiện được vị trí của mình với 13 trường lọt vào Top 100
(hơn năm 2006 một trường), trong đó có Osaka University và Chinese University of Hong
Kong ở Top 50. Còn châu Âu (trừ Anh) lại có vẻ tụt hạng, năm 2007 chỉ có 35 trường lọt vào
Top 100, so với 41 trường trong năm 2006.
Top 10 trường đại học hàng đầu trên thế giới năm 2007
1. Harvard University (Mỹ)
2. University of Cambridge (Anh)
3. University of Oxford (Anh)
4. Yale University (Mỹ)
5. Imperial C College London (Anh)
10. Massachusetts ollege London (Anh)
6. Princeton University (Mỹ)
7. California Institute of Technology (Mỹ)
7. University of Chicago (Mỹ)
9. University Institute of Technology (Mỹ)
6
Tạp chí Times Higher Education Supplement (THES) cũng cho thấy, năm 2007 trong tốp
“200 trường đại học hàng đầu thế giới” thì Nhật Bản có 11 trường, Trung Quốc: 6 trường;
Hồng Kông: 4 trường, Hàn Quốc: 2 trường, Singapore: 2 trường, Đài Loan: 1 trường, Việt
Nam: chưa có.
Kết quả xếp hạng mỗi năm khác nhau là khác nhau. Ví dụ, năm 2010 thứ tự 10 trường
hàng đầu có sự thay đổi như sau:
7
1. Massachusetts Institute of Technology (MIT) - Mĩ
2. Stanford University - Mĩ
3. Harvart University - Mĩ
4. Universidad Nacional Autónoma de Mécico - Mexico
5. University of California, Berkeley - Mĩ
6. Peking University - Trung Quốc
7. University of Pennsylvania - Mĩ
8. Cornell University - Mĩ
9. Shanghai Jiao Tong University - Trung Quốc
10. Yale University - Mĩ
Bảng xếp hạng năm 2010 cho thấy Trung Quốc có nhiều tiến bộ vượt bậc, đã có 2 trường
lọt vào tốp 10 trường hàng đầu thế giới. Trong khi đó Anh lại có vẻ như đang bị yếu thế dần so
với các năm trước.
Báo cáo về chất lượng giáo dục đại học Việt Nam mới công bố của Bộ Giáo dục Đào tạo
cho biết: Giáo dục đại học Việt Nam chưa có vị trí trong bảng xếp hạng các trường đại học
hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, kết quả xếp hạng "100 trường đại học hàng đầu khu vực Đông
Nam Á" của Webometrics năm 2007 cho thấy: Thái Lan có 41 trường, Myanmar có 18 trường,
Indonesia có 14 trường, Philippines có 13 trường, Singapore và Việt Nam: 7 trường.
Còn nếu xét trên phạm vi toàn thế giới thì Webometrics chỉ công nhận 7 trường đại học
của Việt Nam với các vị trí xếp hạng như sau: Đại học Khoa học Tự nhiên TPHCM: Xếp thứ
28 trong ASEAN và thứ 1.920 thế giới; Đại học Công nghệ TPHCM với vị trí tương ứng là: 36
và 2.190; Đại học Cần Thơ: 47 và 2.532; Đại học Quốc gia Hà Nội: 54 và 2.850; Đại học Bách
khoa Hà Nội: 62 và 3.156; Đại học Công nghệ: 90 và 4.217; Đại học Quốc gia TPHCM: 96 và
4.462.
Tạp chí Newsweek cũng công bố xếp hạng các trường đại học hàng đầu thế giới của mình
hàng năm, dựa trên sự cởi mở, đa dạng và những thành tựu xuất sắc trong nghiên cứu.
Nét mới của bảng xếp hạng này là chú trọng nhiều hơn vào tính chất toàn cầu của các
trường. Bởi vì các trường đại học trên thế giới ngày càng có ý thức trong việc hòa nhập vào
môi trường toàn cầu hóa.
Các trường thu hút sinh viên đại diện cho những nền văn hóa khác nhau từ khắp nơi trên
thế giới; gửi sinh viên của mình tới các trường đại học ở nước ngòai để trang bị cho sinh viên
một nghề đa năng. Đồng thời, mở các khóa học để đáp ứng những đòi hỏi của một thế giới phụ
thuộc lẫn nhau.
Các trường còn xây dựng các chương trình nghiên cứu hợp tác nhằm hướng tới lợi ích
chung.
Đại học Harvard của Mỹ lần thứ 10 liên tiếp dẫn đầu trong bảng xếp hạng này. Trong top
10 vẫn là những cái tên quen thuộc như Đại học Yale, Học viện Công nghệ Massachusetts, Đại
học Cambridge…
Newsweek đánh giá các trường dựa trên một số tiêu chí xếp hạng phổ biến của Đại học
Giao thông và Cục Khảo sát Giáo dục London. 50% kết quả được dựa trên ba tiêu chí: Số
lượng các nhà nghiên cứu cao cấp trong nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau, số lượng bài viết
xuất bản trên tạp chí Khoa học và Tự nhiên và số bài viết được xếp hạng theo chỉ số Khoa học
xã hội và Nhân văn. 40% dựa theo các tiêu chí: Phần trăm các khoa quốc tế và sinh viên quốc
tế, sự đánh giá của các thành viên trong khoa và tỉ lệ khoa trên sinh viên. 10% còn lại là số
lượng đầu sách trong thư viện.
Giáo dục đại học ở bất cứ quốc gia nào cũng có sứ mệnh quan trọng là đào tạo nhân lực
trình độ cao và sáng tạo tri thức mới cho xã hội. Tuy nhiên, hiện nay nhiều trường đại học ở
Việt Nam vẫn còn thiên về chức năng đào tạo với quy mô ngày càng tăng về số sinh viên mà
chưa đầu tư tương xứng cho nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ. Chính
Harvard University
8
vì thế các chỉ số đánh giá khả năng sáng tạo tri thức mới của hệ thống giáo dục đại học Việt
Nam vẫn còn thấp.
Năm 2006, hai trung tâm hàng đầu cả nước là Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Bách
khoa Hà Nội chỉ có 34 công trình khoa học được công bố và có tên trong danh sách của Các
Tạp chí khoa học Quốc tế Institute for Scientific Information (ISI). Đại học quốc gia Seoul -
Hàn Quốc có 4.556 ấn phẩm khoa học; Đại học Bắc Kinh: 3000; Trung Quốc có đến 40.000
ứng dụng sáng chế tại Trung Quốc, ngược lại Việt Nam chỉ có 2 sáng chế. Tính đến tháng
12/2006, Thái Lan có tới 1.406 bài báo quốc tế trong danh sách của ISI, trong khi Việt Nam
chỉ có 375 bài.
Chiến lược phát triển giáo dục từ nay đến 2020 đặt mục tiêu: Việt Nam có 1 đại học trong
danh sách 200 trường đứng đầu và một số đại học trong danh sách 500 trường đại học hàng
đầu thế giới. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải phấn đấu trong hơn 10 năm để vượt hơn 1.000
bậc so với hiện tại.
2.2. Giới thiệu một số trường đại học hàng đầu thế giới
• Trường Harvard (Mỹ) và các trường trực thuộc: Trường Kinh doanh
Harvard, trường Luật Harvard, trường Y Harvard và trường John F. Kennedy of
Government
Trường Đại học Tổng hợp Harvard được thành lập năm 1636 và là một trong những
trường đại học nổi tiếng nhất thế giới bên cạnh các trường: đại học Cambridge, Oxford của
Anh, Sorbonne của Pháp.
Trên 14.000 người đang làm việc ở Harvard, trong đó có hơn 9.000 cán bộ giảng dạy ở
trường y và 2.000 cán bộ giảng dạy khác. Thư viện ở ĐH Harvard có trên 15 triệu đầu sách.
Ban đầu, trường chỉ có 9 sinh viên và duy nhất một thầy giáo. Trong niên khoá 2004-
2005, số sinh viên của trường là 19.731 người tại 10 đơn vị học thuật chính, trong đó có hơn
12.000 nghiên cứu sinh. Ngoài ra, còn có 13.000 SV đăng ký các khoá học tại trường Harvard
mở rộng.
Ngoài thu nhập do giảng dạy và các hoạt động kinh doanh khác, trường còn nhận được
nhiều khoản đóng góp từ các học sinh cũ nay đã thành đạt.
Bảy tổng thống Mỹ: John Adams, John Quincy Adams, Theodore and Franklin Delano
Roosevelt, Rutherford B. Hayes, John Fitzgerald Kennedy và George W. Bush đều là cử nhân
của Harvard. Các cán bộ giảng dạy của trường ĐH danh tiếng này cũng đã tạo ra 40 nhà khoa
học giành giải Nobel. Chi phí của mỗi sinh viên trong năm 2004-2005 là 40.000 đôla.
Mục tiêu của Harvard là cố gắng tạo ra sự hiểu biết và mở mang trí óc của SV đến với
hiểu biết đó, đồng thời giúp SV tận dụng tốt nhất các cơ hội giáo dục của họ. Chính vì thế mà
Harvard khuyến khích sinh viên tôn trọng các ý tưởng và sự thể hiện tự do của họ, hãnh diện với
sự khám phá và khả năng suy nghĩ, theo đuổi tinh thần hợp tác và nhận trách nhiệm đối với hậu
quả của những hành động cá nhân.
Sự ủng hộ mà đại học Harvard dành cho sinh viên là nền tảng để họ xây dựng tính độc
lập và thói quen học tập suốt đời.
Nằm trong trường Đại học Tổng hợp Harvard có rất nhiều trường trực thuộc, trong đó
phải kể tới 4 trường rất nổi tiếng sau:
1. Trường kinh doanh Harvard (Harvard Business School)
- Năm thành lập: 1908
- Địa điểm: Boston, Massachusetts
- Phương châm đào tạo: “đào tạo nên những nhà lãnh đạo làm nên sự khác biệt trên thế
giới” (to educate leaders who make a difference in the world).
- 65.000 sinh viên đã tốt nghiệp của trường có rất nhiều người là lãnh đạo của những
tập đoàn danh tiếng, trong đó có cả những nhà lãnh đạo của các quốc gia như trường hợp của
Tổng thống Mỹ Geogre W. Bush.
9
- Luôn luôn đứng đầu danh sách các trường kinh doanh uy tín nhất của Mỹ (theo
www.forbes.com).
- Các trung tâm nghiên cứu toàn cầu:
California Research Center, Palo Alto
Asia-Pacific Research Center, Hong Kong
Latin America Research Center, Buenos Aires
Japan Research Office, Tokyo
Europe Research Center, Paris
2. Trường Luật Harvard (Harvard Law School)
- Năm thành lập: 1817.
- Hiện tại có 10 thượng nghị sĩ; 10 hạ nghị sĩ và 4 thống đốc bang của Mỹ từng học
tại trường Luật Harvard. Ứng cử viên tự do Ralph Nader trong cuộc chạy đua vào Nhà trắng
(dành được khỏang 1% số phiếu phổ thông) cũng từng học tại trường Luật Harvard.
3. Trường Y Harvard (Harvard Medical School)
- Năm thành lập: 1782
- Phương châm đào tạo: “tạo ra và nuôi dưỡng một cộng đồng những người sẵn sàng phục
vụ và cống hiến để làm dịu đi nỗi đau của của các bệnh nhân” (create and nurture a community
of the best people committed to leadership in alleviating human suffering caused by disease).
- Từ năm 1934 đến năm 1990 có 10 nhà nghiên cứu thuộc trường Y Harvard đoạt các giải
Nobel về Y học. Đặc biệt, có 4 nhà nghiên cứu thuộc trường Y Harvard và một số người đồng
sáng lập Tổ chức bác sĩ quốc tế ngăn ngừa chiến tranh hạt nhân (International Physicians for
the Prevention of Nuclear War) đã được trao giải Nobel hòa bình năm 1985.
4. John F. Kennedy of Government
- Năm thành lập: 1936
- Phương châm đào tạo: “chuẩn bị cho một thế hệ những nhà lãnh đạo của những xã hội
dân chủ; đóng góp giải pháp cho những vấn đề của cộng đồng” (preparing leaders for service
to democratic societies; contributing to the solutions of public problems).
- Cùng với Trường Hành chính quốc gia Pháp (Ecole Nationale D’Administration),
trường John F. Kennedy of Government là môi trường lý tưởng để đào tạo ra những chính
khách, những nhà lãnh đạo của các quốc gia trên thế giới. Ngoài công việc đào tạo, trường còn
có rất nhiều những hoạt động nghiên cứu tại 14 viện và trung tâm nghiên cứu trên khắp thế
giới. Nhiều những công trình nghiên cứu của trường đã có những ảnh hưởng sâu sắc đến các
giải pháp cho những vấn đề chính trị của các quốc gia trên thế giới. Nhiều học viên đã tốt
nghiệp của trường hiện đang giữ các ghế thượng nghị sĩ, hạ nghị sĩ và thống đốc một số bang
của nước Mỹ.
• Đại học Stanford (Mỹ)
Đại học Stanford bao gồm 1 trường đại học và 7 trường cao học, với tổng số sinh viên lên
tới gần 10.000. Cùng nằm trong một trường lớn nhưng với nhiều trường nhỏ chuyên biệt trên
một khuôn viên rộng, có thể coi đây là một “mô hình đô thị đại học” đã khá phổ biến với các
trường đại học lớn ở Âu, Mỹ và một số nước phát triển ở châu Á.
Đại học tổng hợp Stanford (California, Mỹ) là một
trong những trường hàng đầu của Mỹ. Nằm ở 2 quận San
Mateo và Santa Clara, cách thành phố San Francisco
khoảng 1 tiếng đi xe, trường đại học có khuôn viên rộng lớn
nhất nước Mỹ này sở hữu các rừng cây tùng bách trải dài và
bờ biển Thái Bình Dương tuyệt đẹp.
Đại học Stanford.
10
Trường đại học Stanford có diện tích tổng cộng hơn 3300 hecta của bang
California, trong đó 2800 hecta là tài sản của trường và không trực thuộc cơ chế quản lý hành
chính của thành phố.
Đây là một quần thể bao gồm 1 trường đại học và 7 trường cao học cùng hàng trăm viện
nghiên cứu lớn nhỏ. Khuôn viên trường trải rộng trên khoảng 90km đường, có một nhà máy
cấp điện với tải lượng 49 MW, 2 hệ thống cấp nước riêng, 3 đập và hồ nước, 170km đường
ống dẫn nước, 1 hệ thống sưởi trung tâm, một hệ thống truyền tải điện với năng suất lớn, và
một bưu điện.
Ngoài ra, Stanford còn cung cấp hoặc thuê riêng một hệ thống phòng chữa cháy, công an
và nhiều dịch vụ khác. Stanford là một trong những đơn vị trường đại học sử dụng điện tiết
kiệm nhất bang. Nhà máy điện của trường cung cấp toàn bộ điện cho trường và còn thừa đến
25 MW cho dân thường sử dụng.
94% sinh viên đại học, 54% sinh viên cao học và 30% giảng viên của trường sống trong
khuôn viên này. Diện tích nhà ở của giảng viên và cán bộ công nhân viên của trường bao gồm
cả nhà thuê và nhà mua.
Trong khuôn viên có vườn hoa, rất nhiều thư viện, nhà thờ, và bệnh viện (thuộc trường
Y)… Khuôn viên Stanford có rất nhiều cây xanh và thảm cỏ với hệ thống tưới tiêu tự động.
Khu nghiên cứu Stanford nằm trong khuôn viên trường được thành lập năm 1951 để đáp
ứng nhu cầu phát triển đất công nghiệp ở gần trường học và phát triển ngành điện tử gắn với
trường đào tạo kỹ sư của đại học Stanford.
Ngày nay, khu nghiên cứu bao gồm hơn 150 công ty với khoảng 23.000 chuyên viên làm
việc trên các lĩnh vực điện tử, phần mềm, công nghệ sinh học, và các ngành công nghệ cao
khác.
Ngoài ra, còn có công ty nghiên cứu phát triển và các công ty cung cấp dịch vụ hỗ trợ
khác hoạt động trên một tổng diện tích sử dụng gần 1 triệu mét vuông.
Khu mua bán của trường Stanford nằm ở vùng phía bắc của vùng đô thị, có 5 siêu thị lớn
và 140 cửa hàng bán lẻ, thu hút chừng 8 triệu khách hàng năm và có doanh thu trên 500 triệu
USD năm 2003. Toàn bộ khu mua sắm này do công ty Simon Property Group, Inc cho thuê và
quản lý. Đây cũng là khu trung tâm mua sắm có doanh thu trung bình trên diện tích mặt bằng
cao nhất trong cả nước.
Nằm trên địa bàn của nhiều tỉnh khác nhau, trường đại học Stanford luôn coi trọng mối quan
hệ với cộng đồng và có đóng góp trong mọi vấn đề lớn như phát triển kinh tế và giao thông cho
vùng. Trong khu đô thị này cũng có 5 trường học khác.
Hiện tại, trong khu đô thị có hệ thống xe buýt Marguerite và các dịch vụ cung cấp
phương tiện đi lại khác như cho thuê xe hơi, xe đạp… Khoảng 34% giảng viên và cán bộ của
trường đi lại hàng ngày bằng phương tiện công cộng. Có 10 tuyến xe buýt của hệ thống
Marguerite mở rộng cho người dân ngoài trường.
• Viện công nghệ Massachusetts - MIT (Mỹ)
Viện công nghệ Massachusetts (MIT) là Đại học danh tiếng luôn đứng trong danh sách
10 trường Đại học hàng đầu thế giới và xếp hạng nhất trong các trường Đại học ngành công
nghệ thông tin của Mỹ. Sang năm 2010, Viện MIT đã vươn lên đứng đầu trong bảng xếp hạng
các trường đại học thế giới.
Năm 1861, Cộng đồng bang Massachussets tán thành ý kiến thành lập "Học viện kĩ
thuật Massachussets” bao gồm các ngành khoa học xã hội và tự nhiên, được đệ trình bởi nhà
khoa học tự nhiên nổi tiếng William Barton Rogers. Đây là bước quan trọng đầu tiên mà
Rogers hi vọng sẽ thành lập một học viện độc lập thúc đẩy sự tăng trưởng cho nền công nghiệp
của Mỹ. Được sự đồng ý của chính phủ, Rogers đã lập nên quỹ hỗ trợ phát triển chương trình
giảng dạy, đánh giá, các cơ sở vật chất. Nỗ lực của ông bị đình trệ bởi cuộc nội chiến Mỹ, và
cho đến năm 1865 những lớp học đầu tiên mới được mở tại khu Mercantile trung tâm Boston.
11
Toà nhà đầu tiên của MIT được hoàn thành ở Boston's Back Bay năm 1866. Các năm
kế tiếp, MIT đã gây dựng được danh tiếng của mình trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, tuy
vẫn còn trong thời kì khó khăn về tài chính. Đã có quan điểm cho rằng MIT nên liên kết với
Đại học Harvard, một đại học có nguồn tài chính dồi dào nhưng yếu hơn về khoa học công
nghệ để cùng phát triển. Vào những năm 1900, một đề nghị hợp tác với Harvard được đưa ra
nhưng sau đó bị hoãn lại do sự phản đối của các cựu sinh viên MIT. Năm 1916, MIT chuyển
sang khu vực Cambridge hiện tại.
Trong suốt lịch sử của mình, MIT luôn tập trung vào các phát minh trong lĩnh vực khoa
học công nghệ. Số liệu năm 1997 cho thấy tổng thu nhập do các công ty lập nên bởi MIT đứng
hàng 24 trong nền kinh tế thế giới. Năm 2001, MIT triển khai dự án Open Course Ware đưa
các học liệu mở lên mạng Internet. Cùng năm đó Chủ tịch trường là Charles Vest lần đầu tiên
đã công nhận rằng, học viện của ông đang có hạn chế lớn đối với các sinh viên và nhà khoa
học nữ, và ông cam kết sẽ có các chính sách thích hợp để cải thiện. Tháng 8 năm 2001, Susan
Hockfield, nhà thần kinh học, là phụ nữ đầu tiên giữ chức vụ chủ tịch của MIT. Bà chính thức
đảm nhiệm chức vụ vào ngày 6 tháng 12 năm 2004 và là chủ tịch thứ 16 của MIT.
Tạp chí Atlantic năm 2004 xếp hạng MIT như là một trong những đại học khó vào nhất
tại Mỹ. Theo đánh giá của US News và World Report's thì MIT là 1 trong 5 trường luôn được
xếp hạng cao nhất, cùng với Havard, Stanford, Yale và Princeton. Năm 2005, quỹ đóng góp
của MIT cho nền kinh tế là 6.7 tỷ Đôla, xếp hạng thứ 6 tại Mỹ.
MIT được tổ chức thành 5 trường gồm 26 ngành học, bao gồm:
- Trường kiến trúc và Dự án: Kiến trúc; Nghệ thuật và Khoa học truyền thông; Nghiên
cứu về thành thị và dự án.
- Trường kĩ thuật: Không gian và vũ trụ; Chuyên ngành kĩ thuật sinh học; Kĩ thuật hóa
học; Môi trường và dân dụng; Điện học và khoa học máy tính, Kĩ thuật hệ thống; Kĩ thuật và
khoa học vật liệu; Kĩ thuật cơ khí; Kĩ thuật nguyên tử.
- Trường nhân văn, nghệ thuật và khoa học xã hội:Nhân chủng học; Nghiên cứu
truyền thông có tính cạnh tranh; Kinh tế; Ngôn ngữ và văn học; Lịch sử; Nhân văn; Ngôn ngữ
và triết học; Văn học; Âm nhạc và Nghệ thuật sân khấu; Khoa học chính trị; Khoa học, Kĩ thuật
và Xã hội; Nghiên cứu về con người; Báo chí.
- Trường quản lý Alfred P. Sloan.
- Trường khoa học: Sinh học; Khoa học về thần kinh và nhận thức; Hóa học; Trái đất,
khí quyển, Khoa học về hành tinh; Toán; Vật lý.
Khác với hầu hết các trường đại học trên thế giới, tại MIT, số lượng sinh viên sau đại học
nhiều hơn bậc đại học (chiếm khoảng 60% tổng số sinh viên). Nhiều chương trình cao học
được xếp trong số 10 trường Đại học hàng đầu toàn nước Mỹ. Các sinh viên sau đại học của
MIT có thể làm tiến sĩ, Thạc sĩ khoa học, Thạc sĩ kỹ thuật, Thạc sĩ kiến trúc, Thạc sĩ quản trị
kinh doanh…
• Đại học Cambridge - cái nôi của những nhà khoa học xuất chúng
12
ĐH Cambridge (Anh), nơi đào tạo những nhà khoa học xuất chúng
Hình thành từ thế kỷ thứ XIII, năm 1209, Cambridge đã trở nên nổi tiếng trước hết bởi
chính diện mạo của mình với những công trình kiến trúc đẹp trong một khung cảnh thơ mộng.
Nhưng lý do quan trọng hơn và đáng tự hào hơn là bởi chất lượng giáo dục và những thành tựu
khoa học của trường.
Từ trung tâm giáo dục và nghiên cứu khoa học này của thế giới, hàng trăm năm qua đã
cho ra đời rất nhiều những phát minh quan trọng, mà nhiều trong số đó mang tính lịch sử của
toàn nhân loại.
Sự nổi danh của Cambridge trong lĩnh vực khoa học được bắt đầu từ nhà bác học Isaac
Newton ở thế kỷ XVII với cuốn “Những nguyên lý toán học cơ bản". Phải 300 năm sau khi
cuốn sách phát hành thì các phát minh khoa học dựa trên cơ sở các nguyên lý đó mới thực sự
được khám phá. Tiếp theo Newton, rất nhiều những nhà khoa học khác đã góp phần làm nên
sự vĩ đại của Cambridge như: Darwins - cuối thế kỷ XIX - với thuyết tiến hóa, J.J. Thomson
khám phá ra điện tử năm 1897, Cockcroft và Walson phân chia được nguyên tử năm 1923,
1949 Maurice Wikle phát triển những thành tựu đầu tiên của kỹ thuật số, 1953 Crick và
Watson giải mã được cấu trúc ADN. Và hiện nay, truyền thống đó vẫn tiếp diễn với giáo sư vũ
trụ học Stephen Hawking, giáo sư tin học Roger Needham hay bác sỹ Roy Calne - một chuyên
gia trong lĩnh vực cấy ghép gan.
Không dừng lại ở lĩnh vực học thuật, Cambridge đã rất nhanh chóng bắt kịp với đà phát
triển của thế giới trong lĩnh vực công nghệ để làm nên “Hiện tượng Cambridge” khi biến
thành phố này trở thành một trung tâm công nghệ quan trọng của Châu Âu, một “thung lũng
Silicon” của nước Anh.
Còn chất lượng giáo dục của Cambridge thì được đánh giá bởi những lớp sinh viên sau
khi tốt nghiệp trở thành những người thành đạt. Ngôi trường này đã đào tạo ra rất nhiều nhà
thơ, doanh nhân, nghị sĩ, Phó thủ tướng hay những chức vụ tương tự cho nước Anh và cho cả
thế giới.
Có thể kể ra một vài yếu tố làm nên chất lượng của trường Cambridge đó là: giảng viên
giỏi, sinh viên ưu tú; phương pháp học đi đôi với hành; và nguồn đóng góp to lớn từ các nhà
tài trợ.
Sinh viên giỏi và giảng viên giỏi
Phó Hiệu trưởng trường Cambridge hiện nay - bà Alison Rechard đã trả lời câu hỏi này
như sau: “đó là tham vọng to lớn thu hút và giáo dục những sinh viên có triển vọng nhất, tốt
nhất ở mọi ngành; song song với tham vọng tuyển chọn những giảng viên giỏi nhất để dạy
những sinh viên ưu tú trên là làm công tác nghiên cứu mọi lĩnh vực của tri thức”.
Việc tuyển chọn những sinh viên giỏi là một truyền thống của Cambridge. Từ thế kỷ
XVII khi toán học là ngành mũi nhọn của Cambridge, những cuộc thi có tên gọi “Tripos” để
tuyển chọn sinh viên giỏi đã được tổ chức. Và sau đó hình thức này được áp dụng cho các
13
ngành khác như: ngành luật dân sự năm 1816, chuyên ngành thần học năm 1843 và cho đến
trước năm 1900 các cuộc thi để tuyển chọn sinh viên giỏi này đã được áp dụng cho hầu hết các
chuyên ngành.
Để thu hút những sinh viên giỏi, Cambridge còn rất chú trọng đến chính sách hỗ trợ
sinh viên, đặc biệt là những sinh viên nghèo. Chính sách này đã là truyền thống ở Cambridge
từ thời trung cổ, nhà bác học Issaac Newton đã là một sinh viên trong diện hỗ trợ này. Như lời
phát biểu của bà Phó Hiệu trưởng trường: “Khi Isaac Newton vào trường với tư cách là một
sinh viên đại học, ông được hưởng hoàn toàn sự tài trợ của trường Trinity, lúc đó không ai biết
rằng ông là một thiên tài”.
Học đi đôi với hành
Chất lượng giáo dục của Cambridge còn được khẳng định bởi nguyên tắc học tập phải
luôn đi đôi với nghiên cứu“. "Ở Cambridge chất lượng giảng dạy tuyệt vời và các nghiên
cứu tuyệt vời luôn gắn liền với nhau”. Nguyên tắc này cộng với đầu vào sinh viên tốt, điều
kiện học tập đầy đủ với thư viện, phòng thí nghiệm hiện đại bậc nhất thế giới, nên chất lượng
giáo dục ở Cambridge luôn được khẳng định.
Từ năm 1993 trường còn áp dụng một phương thức đánh giá chất lượng giảng dạy (TQA)
bao gồm rất nhiều tiêu chuẩn với các thang điểm khác nhau.
Những sinh viên đại học năm cuối của Cambridge vừa được học rất chuyên sâu, vừa
được hỗ trợ bởi sự chăm sóc đặc biệt của hệ thống giám sát của trường. Các nhà quản lý
Cambridge tin rằng đó là cách dạy hiệu quả nhất đối với những sinh viên triển vọng và có chí
tiến thủ nhất.
Một nhân tố khác làm nên sự nổi tiếng của Cambridge là cách ngôi trường này đưa tri
thức của mình vào cuộc sống khi áp dụng rất hiệu quả công thức: Công nghệ hiện đại + các
nhà đầu tư + các nghiên cứu hàn lâm.
Với truyền thống về nghiên cứu học thuật, Cambridge đã thu hút được những nhà nghiên
cứu hàng đầu trên thế giới hội tụ về đây, cho họ một môi trường làm việc hoàn hảo, điều kiện
làm việc hết sức linh hoạt, cho phép - thậm chí khuyến khích họ làm việc cho các ngành
công nghiệp. Điều này đã kết hợp được những nghiên cứu thuần tuý với ứng dụng, sự tinh túy
của học thuật với thế giới thực và những kinh nghiệm thực tế.
Vì thế, Cambridge là một trường đại học có thu nhập cao khác thường từ lĩnh vực công
nghiệp, điều hành một số lượng dự án nghiên cứu quan trọng liên kết với các nhà công nghiệp.
Sự đóng góp to lớn của các nhà tài trợ
Nhìn vào toàn bộ lịch sử phát triển của Cambridge, có thể thấy trường đã tận dụng rất có
hiệu quả sự ủng hộ và tài trợ của các cá nhân để thúc đẩy sự phát triển và giữ vững ngôi vị của
mình.
Cambridge ra đời do sự bảo trợ đầu tiên của vua Henry III. Và sau đó, trong suốt quá
trình phát triển 800 năm của mình, mỗi bước tiến của Cambridge đều thấy bóng dáng của các
nhà tài trợ. Như sự tài trợ của vua Henry VIII cho các giáo sư ngành thần học, tiếng Hi Lạp,
Do Thái, Y học và Luật học đã tạo nên bước ngoặt trong phương pháp giảng dạy của trường.
Hay Ngài Richard Fitzwilliam giúp trường xây dựng viện bảo tàng để phục vụ cho việc học tập
của các sinh viên nghệ thuật, kiến trúc và khảo cổ. Nguồn tài chính từ quỹ Rockefeller đã biến
thư viện của trường thành một toà nhà nguy nga bên bờ Tây của dòng sông Cam, và sau đó thư
viện này còn nhiều lần được mở rộng thêm cũng vẫn nhờ những nhà tài trợ. Một trung tâm của
trường đại học được xây dựng để phục vụ đời sống văn hoá, xã hội của sinh viên cao học và
nhân viên của trường từ sự cung cấp tài chính của quỹ Wolfson. Và chính quỹ này cũng giúp
thiết lập Văn phòng liên lạc công nghiệp của trường để phục vụ cho dự án “Hiện tượng
Cambridge“ hay cũng có thể gọi là “Điều thần kỳ Cambridge”. Và còn rất nhiều, rất nhiều các
nhà tài trợ khác đã đóng góp cho sự phát triển của Cambridge.
Nhân tố thứ ba này tuy không phải là nhân tố quyết định nhưng nó cũng đóng một vai trò
vô cùng quan trọng, là cơ sở để hai nhân tố trên có thể phát huy toàn bộ tính hiệu quả của nó.
14
Hiện tại thế giới đang ở trong kỷ nguyên của công nghệ với tốc độ thay đổi chóng mặt
của thông tin, đồng thời đứng trước những thách thức vô cùng to lớn như nguy cơ thiếu hụt
năng lượng, biến đổi môi trường Điều này đặt vai trò của công tác nghiên cứu lên một tầm
quan trọng hơn bao giờ hết. Với truyền thống là một trung tâm nghiên cứu nổi tiếng thế giới,
Cambridge đang trong thời kỳ mở rộng lớn nhất trong lịch sử phát triển của mình để đáp ứng
những đòi hỏi của thực tế, với việc nâng cấp một trung tâm khoa học công nghệ mới ở phía tây
trung tâm thành phố Cambridge. Đồng thời, trường coi việc đầu tư vào các lĩnh vực nghiên
cứu mới đặc biệt là đầu tư cho con người, nỗ lực và đổi mới sự hợp tác là yếu tố sống còn cho
sự phát triển của mình.
Năm 2009, Đại học Cambridge kỷ niệm tuổi 800 của mình. Phương châm của trường là
sẽ tiếp tục kế thừa những truyền thống của tám thế kỷ qua, đồng thời tiếp tục cố gắng để khẳng
định mình trong hàng ngũ những trường đại học vĩ đại nhất thế giới.
• Oxford - Đại học cổ nhất Anh Quốc, nơi đào tạo "người đứng đầu",
ĐH đầu tư nhiều tiền cho sinh viên nhất
Oxford là đại học cổ nhất trong thế giới các nước nói tiếng Anh. Tuy không có ngày
thành lập chính thức, nhưng việc giảng dạy ở đây đã được bắt đầu từ năm 1096 và phát triển rất
nhanh kể từ năm 1167 khi vua Henry Đệ Nhị của Pháp cấm sinh viên Anh học tập ở Paris. Hiện
tại, đại học Oxford có khoảng 17 ngàn sinh viên, 25% trong số đó là sinh viên quốc tế đến từ hơn
130 nước khác nhau trên thế giới.
University of Oxford, UK
Là một trong những đại học danh giá nhất thế giới và đứng đầu ở Anh (theo xếp hạng
năm 2005 của hai tờ báo nổi tiếng 'The Times' và 'The Guardian'), Oxford đào tạo rất nhiều
người tài giỏi thuộc tất cả các lĩnh vực tự nhiên và xã hội. Hầu như không thể kể hết những
người nổi tiếng đã xuất thân từ đây: 46 nhà khoa học đoạt giải Nobel (riêng Linus Pauling đoạt
2 giải), 25 thủ tướng Anh, 6 vị vua, nhiều nhà văn, nhà thơ, toán học, kinh tế Thủ tướng Anh
Tony Blair, Cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton, Vua Abdullah của Jordan, Thủ tướng Ấn Độ
Manmohan Singh, Thái tử Nhật Bản Naruhito, nhà vật lý học Stephen Hawking hay cả danh
hài Rowan Atkinson (diễn viên đóng vai Mr. Bean) đều là cựu sinh viên Oxford.
Vì là đại học có từ thời trung cổ, hệ thống giáo dục của Oxford cũng rất khác biệt so với
các đại học khác. Hệ thống dạy kèm (tutorial system) của Oxford được xem là cách giáo dục
tốn kém nhất, và cũng tất nhiên là hiệu quả nhất. Mỗi sinh viên đại học ở đây đều có riêng
các giáo viên kèm cặp trong các môn học, cho và chấm điểm bài tập về nhà. Riêng các sinh
viên sau đại học còn có giáo viên hướng dẫn nghiên cứu. Những năm gần đây tại Anh, Oxford
luôn đứng đầu trong các đại học đầu tư nhiều tiền nhất cho sinh viên của mình.
Bảo tàng công cộng cổ nhất, từ điển phổ biến nhất.
Các sinh viên của Oxford được phân vào các college, mỗi college có truyền thống riêng.
Christ Church là college nổi tiếng nhất và là nơi đào tạo ra 13 Thủ tướng Anh. Magdalen là
15
college đẹp nhất, St John’s là college giàu nhất, hay University, Balliol và Merton là các
college cổ nhất.
Do đại học Oxford đẹp và thơ mộng nên mỗi năm có vài triệu khách du lịch đến đây tham
quan. Oxford cũng có nhiều bảo tàng giá trị, tiêu biểu là bảo tàng Ashmolean (thành lập năm
1683 và là bảo tàng cho công cộng đầu tiên của nước Anh), và bảo tàng khoa học tự nhiên.
Hầu như mọi sinh viên học tiếng Anh đều có hoặc đã từng một lần sử dụng quyển từ điển
Oxford cho riêng mình. Đây là từ điển tiêu chuẩn tiếng Anh được sản xuất bởi Nhà xuất bản
Đại học Oxford (Nhà xuất bản đại học lớn nhất thế giới) và là quyển sách gối đầu giường cho
tất cả những người học ngôn ngữ này. Thư viện trung tâm của Oxford là thư viện Bodleian,
một trong ba thư viện lớn nhất của Vương Quốc Anh. Tất cả sách xuất bản trong toàn quốc
đều phải nộp vào đây một bản in để lưu trữ.
Đại học Oxford cũng nổi tiếng với các môn thể thao. Môn được ưa chuộng nhất có lẽ là
đua thuyền. Đội tuyển đua thuyền của Oxford, gọi là The Dark Blue (Màu xanh sẫm) có nhiều
vận động viên đoạt giải Olympic thế giới đến từ nhiều quốc gia khác nhau. Cuộc đua thuyền
hàng năm giữa Đại học Oxford và Đại học Cambridge bắt đầu từ năm 1829 là một trong những
sự kiện thể thao có nhiều người xem nhất thế giới, với hơn nửa tỉ người xem truyền hình trực
tiếp năm 2004.
Mỗi sinh viên của Anh chỉ có thể nộp đơn vào Oxford hoặc Cambridge
Oxford - cũng như Cambridge - thường được nghĩ là nơi dành riêng cho các sinh viên
giàu có, mặc dù hai trường luôn phản đối điều này. Do số lượng nộp đơn quá lớn nên mỗi sinh
viên của Anh chỉ có thể nộp vào một trong hai trường mà thôi. Được vào Oxford luôn là một
niềm tự hào rất lớn của một sinh viên ở bất kỳ nước nào trên thế giới.
• Đại học Tokyo (Nhật Bản)
Ở châu Á, Nhật Bản là quốc gia có 2 trường nằm trong 100 trường đại học đứng đầu thế
giới, đó là đại học Tokyo (đứng thứ 14) và đại học Kyoto (đứng thứ 25) theo xếp hạng của tạp
chí Newsweek.
Trường Tokyo được thành lập bởi chính phủ Minh Trị vào năm 1877 với tên như hiện
nay bằng cách hợp nhất các trường Tây y cũ của chính phủ. Trường đã được đổi tên thành Đại
học Đế quốc (Teikoku daigaku) năm 1886, và sau đó là Đại học Đế quốc Tokyo (Tōkyō
teikoku daigaku) năm 1887 khi hệ thống đại học đế quốc của Nhật được hình thành. Đây là
trường đại học quốc gia đầu tiên tại Nhật. Trường giảng dạy tất cả các môn học chủ yếu cho cả
bậc dưới đại học và trên đại học và cung cấp phương tiện nghiên cứu cho các môn học này.
Trường có 2.800 giáo sư, phó giáo sư và giảng viên, và khoảng 28.000 sinh viên theo học.
Năm 2003, trường có 2.100 sinh viên quốc tế, 2.200 nhà nghiên cứu nước ngoài đến tham
quan, khảo sát trong thời gian ngắn.
Năm 1947, sau khi Nhật thất bại ở Chiến tranh thế giới thứ hai, trường lấy lại tên ban
đầu. Với sự bắt đầu của hệ thống đại học mới năm 1949, Todai sáp nhập trường trước đó là
Trường trung học đệ nhất (ngày nay là Khu đại học Komaba) và cựu Trường trung học Tokyo,
là trường mà từ đó chịu trách nhiệm giảng dạy sinh viên đại học năm đầu và năm hai, trong khi
các khoa của campus Hông chính chịu trách nhiệm các sinh viên năm thứ 3 và thứ 4. Từ năm
2004, Đại học Tokyo đã được hợp nhất vào Liên đoàn đại học quốc gia theo sắc luật áp dụng
cho các trường đại học quốc gia. Trường hiện chịu quản lý một phần của Bộ Giáo dục, Văn
hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ Nhật Bản.
Trong các chuyên ngành học hàn lâm được dạy ở trường, có lẽ trường này nổi danh
nhất về các khoa khoa học và công nghệ. Ngoài ra, trường còn là nơi đã đào tạo nhiều chính
khách nổi tiếng của Nhật Bản. Đại học Tokyo được xem là một trong những trường danh tiếng
nhất, so với các trường đại học khác của Nhật như Đại học Hoàng gia , Đại học Kyoto
Đại học Tokyo bao gồm Trường Nghệ thuật và Khoa học, 9 phân khoa và 15 trường cao
học. Chín Khoa là: Luật, Y, Công nghệ, Văn học, Khoa học, Nông nghiệp, Kinh tế, Giáo dục
và Dược. 11 trường cao học truyền thống là: Luật và Chính trị, Y khoa, Công nghệ, Nhân văn
16
và Xã hội, Khoa học, Nông nghiệp và Khoa học đời sống, Kinh tế, Nghệ thuật và Khoa học,
Giáo dục, Khoa học Dược, Khoa học Toán. 4 trường cao học mới thành lập trong thập niên
vừa qua là: Khoa học biên giới, Nghiên cứu Thông tin giữa các ngành học thuật, Kỹ thuật và
Khoa học thông tin, và Chính sách Cộng đồng.
Trường có 11 viện nghiên cứu: Viện Khoa học Y, Viện Nghiên cứu động đất, Viện Văn
hóa Phương Đông, Viện Khoa học Xã hội, Viện Khoa học Kỹ thuật, Viện Sử học, Viện Phân
tử và Tế bào sinh học, Viện nghiên cứu Tia vũ trụ, Viện Vật lý Chất rắn, Viện Nghiên cứu Đại
dương, và Trung tâm Nghiên cứu về Khoa học Kỹ thuật Tiên tiến.
Đại học Tokyo có hai loại khoa hoặc trường, chia sẻ kiến thức nhằm tạo thuận lợi cho
nghiên cứu và giảng dạy. Một loại dành cho các học giả của trường gồm 18 khoa, trường. Một
loại tập trung vào những mục tiêu đặc biệt dành cho học giả của cả nước Nhật gồm 4 khoa,
trường. Có nhiều cơ sở nghiên cứu gắn với nhiều khoa khác nhau của trường. Tất cả các cơ sở
nghiên cứu của các viện đều phối hợp chặt chẽ với các khoa hoặc trường liên hệ trong giảng
dạy và giám sát hoạt động của các nghiên cứu sinh.
Trường có một hệ thống thư viện, tập trung tại Tổng thư viện, được nối mạng liên kết với
55 thư viện của các khoa, trường, viện. Có khoảng 8,1 triệu quyển sách và tạp chí trong đó có
nhiều ấn bản quý hiếm. Trường có một viện Bảo tàng độc đáo, đó là một hệ thống bảo tàng đặc
biệt bao gồm nhiều lĩnh vực, từ cổ sinh vật học đến nhân chủng học.
Trường có 3 địa điểm trường sở : Hongo, Komaba và Kashiwa, ngoài ra còn có những cơ
sở khác tại Tokyo và nơi khác trong nước. Địa điểm chính là Hongo Bunkyoku tại Tokyo,
rộng 56 hecta, nơi đây được chính phủ Nhật xem là tài sản văn hóa quan trọng của đất nước,
phần lớn khoa, trường, viện đều nằm ở đây. Khu Komaba rộng 35 ha, tọa lạc tại địa khu
Meguro-ku cũng tại Tokyo. Khu Kashiwa rộng 24 ha nằm ở quận Chiba, ngoại ô Tokyo.
Thành tích nổi bật của trường: Giáo sư Emeritus Masatoshi Koshiba của trường đã đoạt
giải Nobel Vật lý năm 2002.
• Đại học Thanh Hoa (Trung Quốc)
Đại học Thanh Hoa (Peking University) là một viện khoa học và kỹ thuật tổng hợp, được
thành lập năm 1911 bằng tiền bồi thường của Mỹ. Trường đại học này được xây dựng tại
Thanh Hoa lâm viên - một khu nghỉ mát thời Minh, Thanh. Hiện nay trường nằm trong số 10
trường đại học hàng đấu thế giới.
Tọa lạc tại thủ đô Bắc Kinh, trên một khung cảnh tuyệt đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại với
12 học viện với 48 khoa khác nhau đào tạo 51 chuyên ngành như Học viện kỹ thuật, học viện
kiến trúc, Học viện Pháp luật, Học viện mỹ thuật, Học quản lý hành chính công, Học viện
quản lý kinh tế, nhiều trung tâm nghiên cứu, khoảng 87 phòng thí nghiệm và 9 nhà máy được
sử dụng để phục vụ công tác giảng dạy, nghiên cứu. Thư viện tại đại học Thanh Hoa có 2 triệu
bản sách và 3.000 tạp chí chuyên ngành nhờ có sự trao đổi hợp tác với 200 trường đại học và
viện nghiên cứu nước ngoài.
Hiện tại Đại học Thanh Hoa có hơn 1300 lưu học sinh đến từ 70 quốc gia khác nhau trên
thế giới.
Thanh Hoa không chỉ nổi tiếng là một trường đại học hàng đầu Trung Quốc vì một bề
dầy lịch sử đào tạo chất lượng cao mà còn nổi tiếng với những cống hiến khoa học và xã hội
được cả thế giới công nhận. Hướng của trường là đào tạo sinh viên một cách toàn diện về Đức
- Thức - Thể - Mỹ nên cả về cơ sở vật chất đào tạo cũng như chất lượng đào tạo đều được
trang bị và chuẩn bị rất chu đáo. Các ngành được lựa chọn nhiều nhất hiện nay là Khoa học
công nghệ, Xây dựng, Nhân văn, Nghệ thuật, Tin học, Quản lý kinh tế và Pháp luật.
Đại học Thanh Hoa đang phát triển thành một trường tổng hợp với tốc độ đáng kinh ngạc
và hiện đứng đầu trong bảng xếp hạng các trường đại học của nước này. Với truyền thống
đáng tự hào trong 90 năm qua, Đại học Thanh Hoa vẫn giữ được danh tiếng và sức hấp dẫn
thông qua việc thúc đẩy mạnh mẽ nghiên cứu học thuật, đảm bảo uy tín ở trong và ngoài nước.
Hiện trường có trên 7.100 nhân viên, gồm trên 900 giáo sư và 1.200 phó giáo sư. Trong số đó, có
17
24 người là thành viên của Viện Hàn lâm khoa học Trung Quốc và 24 thành viên của Viện kỹ
thuật Trung Quốc.
Triết lý giáo dục của đại học Thanh Hoa là ''đào tạo sinh viên toàn diện''. Trong số trên
100.000 sinh viên đã tốt nghiệp từ đại học Thanh Hoa kể từ khi thành lập, có nhiều người trở
thành các học giả nổi tiếng, thương gia tài giỏi và các chính khách vĩ đại (Chu Dung Cơ, Hồ
Cẩm Đào ) được người dân Trung Quốc ghi nhớ và kính trọng. Do vậy, được nghiên cứu tại
đại học Thanh Hoa là mơ ước của nhiều bạn trẻ Trung Quốc. Hiện nay, Thanh Hoa có trên
20.000 sinh viên theo học, bao gồm 12.000 sinh viên chưa tốt nghiệp, 9.000 sinh viên sau đại
học.
Các chương trình đào tạo tại đại học Thanh Hoa tập trung vào việc phát triển khả năng
sáng tạo, nghiên cứu và học tập cũng như thực tiễn xã hội cho sinh viên. Để mở rộng phạm vi
hiểu biết cho sinh viên và tăng cường chất lượng giáo dục, đại học Thanh Hoa đã khởi động dự
án đào tạo sinh viên nghiên cứu (STR). Tính tới cuối năm 2004, đã có trên 7.000 sinh viên
tham gia vào hơn 3.000 dự án STR. Nhờ vậy mà khả năng sáng tạo của sinh viên đã được tăng
cường đáng kể. Hàng năm đại học Thanh Hoa cũng tổ chức trại hè tiếng Anh cho sinh viên
năm thứ nhất nhằm tăng cường kỹ năng nghe, nói, đọc, viết.
Với sự ủng hộ mạnh mẽ từ nhà nước và đứng trước những cơ hội mới, đại học Thanh Hoa
đang nỗ lực trở thành một trường đại học tầm cỡ thế giới trong thế kỷ 21.
• Đại học quốc gia Australia
Được thành lập năm 1946, Đại học quốc gia Australia (ANU) là một trong 8 đại học lớn
nhất của Australia. Tọa lạc trên một khu đất rộng 145 hecta ở thủ đô Canberra, trước đây ANU
chỉ là một trường phục vụ công tác nghiên cứu của quốc gia. Trải qua một quá trình dài với sự
nỗ lực của các giáo viên và các nhà quản lý, ANU ngày nay là một địa điểm lý tưởng thu hút
sinh viên quốc tế đến từ nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới với điều kiện học tập lý tưởng,
môi trường sống trong lành và an toàn. Với 3.600 cán bộ giảng viên, trường có hơn 13.487
sinh viên đến từ 94 quốc gia trên thế giới theo học.
Khu học xá chính của trường bao gồm hơn 200 toà nhà và nhiều khu học xá nhỏ hơn ở
các vùng lân cận như khu học xá Mt Stromlo Observatory, Siding Spring Observatory, North
Australia Research Unit, Kioloa.
ANU đào tạo các chuyên ngành: Nghệ thuật và Khoa học xã hội, Y tế và Khoa học sức
khoẻ, Châu Á Thái Bình Dương, Kinh tế, Khoa học Kỹ thuật và Luật.
Đại học Australia xếp hạng thứ 57 trong 100 trường đại học hàng đầu thế giới.
• Đại học Sydney
Sydney University Được thành lập vào năm 1850, Đại học Sydney là trường đại học
đầu tiên của Úc và dẫn đầu trong lĩnh vực nghiên cứu. Đại học Sydney là thành viên của
“Group of Eight key Australian teaching and research universities” - Nhóm tám trường đại học
hàng đầu của Úc về nghiên cứu và giảng dạy, và được xếp hạng trong các trường đại học hàng
đầu của Úc và Châu Á Thái Bình Dương. Đại học Sydney cung cấp các khóa học đa dạng và
đào tạo hầu hết các ngành học của bất kỳ trường đại học nào ở Úc. Hiện trường có hơn 47.000
sinh viên, trong đó có khoảng 9.000 sinh viên quốc tế.
- Nổi tiếng trên thế giới về giảng dạy và nghiên cứu có chất lượng cao
- Những sinh viên tốt nghiệp thu hút các nhà tuyển dụng với mức lương cao
- Những người nổi tiếng đã từng học tại Đại học Sydney gồm có 4 Thủ tướng Chính
phủ, 3 người đoạt giải Nobel và các nhà lãnh đạo trong lĩnh vực giáo dục, chính trị, thương
mại và nghệ thuật.
- Đứng hàng đầu trên thế giới về dạy học mang tính hàn lâm và nghiên cứu bậc cao
- Tỷ lệ giữa số lượng sinh viên và giáo viên ở trường đạt mức xuất sắc 1/5, tốt hơn các
trường đại học khác ở bang New South Wales, Victoria và Queensland
- Có số lượng sinh viên nghiên cứu lớn nhất Úc
- Liên tục đứng đầu trong bảng xếp hạng của Hội đồng Nghiên cứu Úc
18
Trường đào tạo hơn 430 ngành học ở bậc đại học và sau đại học bao gồm 17 khoa:
Quản lý Nông nghiệp và Nguồn Tài nguyên Thiên nhiên, Kiến trúc, Nghệ thuật và Nhân văn,
Nha khoa, Kinh tế và Thương mại, Giáo dục và Công tác Xã hội, Kỹ sư, Hệ thống trường
công, Khoa học Sức khỏe, Luật, Y khoa, Âm nhạc, Điều dưỡng và Sản khoa, Dược, Khoa học,
Thú y, Thiết kế Đồ họa.
Đại học Sydney xếp thứ 79 trong 100 trường đại học hàng đầu thế giới.
2. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển giáo dục đại học Việt Nam
2.1. Giáo dục đại học Việt Nam thời kỳ phong kiến
2.1.1. Cội nguồn văn hoá - giáo dục Việt Nam
Dân tộc ta đã có một nền văn hoá tiền sử hàng chục vạn năm. Tài liệu khảo cổ học đã
khẳng định đó là một nền văn minh rực rỡ ở Đông Nam Á này. Những công cụ lao động từ
thời núi Đọ cho đến Phùng Nguyên, ĐôngSơn ngày một tinh vi, chứng tỏ người Việt Nam lúc
bấy giờ, cùng với thời gian, đã tích luỹ được những tri thức phong phú trong lao động, biết
trồng trọt chăn nuôi cách đây hàng vạn năm, biết đến hợp kim đồng thau cách đây ba, bốn
nghìn năm. Sự hiểu biết ấy nếu không có giáo dục thì làm sao phổ biến, truyền thụ được từ thế
hệ này sang thế hệ khác cho đến hôm nay và mãi mãi về sau. Lẽ tất nhiên trong thời kỳ chưa
thể có một nền giáo dục có hệ thống, có tổ chức. Thầy dạy không ai khác đó là những người
lao động lớn tuổi có kinh nghiệm của thị tộc, bộ tộc hay công xã. Nội dung giáo dục chắc chắn
là những kinh nghiệm lao động sản xuất, tập quán, tín ngưỡng tôn giáo, tinh thần cộng đồng,
v.v… Kết quả của sự giáo dục dân gian triền miên, bền bỉ, thầm lặng hàng vạn , ngàn năm đó đã
hun đúc nên bản lĩnh, cá tính, lối sống Việt Nam, làm nền tảng, cội nguồn văn hoá - giáo dục
cho sự sinh tồn và phát triển quốc gia, dân tộc.
2.1.2. Quá trình phát triển giáo dục Việt Nam thời kỳ phong kiến
Gần mười thế kỷ đầu công nuyên nước ta bị các thế lực phong kiến phương Bắc đô hộ
(thời kỳ 1000 năm Bắc thuộc) giáo dục đã được chúng sử dụng làm lợi khí thực hiện âm mưu
đồng hoá dân tộc từ những ngày đầu đặt nền thống trị. Những viên thái thú như Tích Quang,
Nhâm Diên (thế kỷ I) Sĩ Nhiếp, Ngu Phiên (thế kỷIII) đã mở trường, tổ chức các học hiệu để
dạy chữ Hán, truyền bá đạo Nho. Nhân dân ta phải chấp nhận văn tự Hán làm văn tự chính
thức. Nhưng dân tộc ta vốn có một bản sắc văn hoá từ ngàn năm trước và sức mạnh tinh thần
từ thời đại Hùng Vương, khớ phách quật khởi của bà Trưng, Bà Triệu, Mai Hắc Đế, Phùng
Hưng,v.v… luôn luôn đấu tranh để không bị đồng hoá. Chữ nôm được sáng tạo nhưng không
lấn át được chữ Hán, nhưng đó là một bằng chứng hùng hồn về tinh thần tự lực, tự cường về ý
thức dân tộc bản địa của nhân dân ta.
2.1.3. Chấm dứt một ngàn năm Bắc thuộc, giáo dục đại học Việt Nam ra đời
Đầu thế kỷ X, ý thức dân tộc của nhân dân ta ngày một lên cao đã tạo ra những cuộc
khởi nghĩa giành độc lập. Chiến thắng của Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên Sông
Bạch đằng (938) mở ra kỷ nguyên độc lập của quốc gia phong kiến Việt Nam. Nhưng trải qua
ba triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê ngắn ngủi, nên giáo dục của đất nước chưa có điều kiện phát
triển. Năm 1009 Lê Long Đỉnh chết, triều đình suy tôn Lý Công Uẩn lên làm vua, lập ra nhà
Lý và dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long (2010). Năm 1070 Lý Thánh Tông xây dựng văn miếu
thờ Khổng Tử (Vạn thế sư biểu), và 72 vị thánh hiền (thất thập nhị hiền) môn sinh giỏi của
Khổng Tử và lấy Nho giáo làm Quốc giáo. Năm 1075 lý Nhân Tông cho xây dựng Quốc Tử
Giám. Đây được coi là trường đại học đầu tiên của Việt Nam.
Cả khu quần thể Văn Miếu - Quốc Tử Giám được xây dựng từ thế kỷ XI (1070). Đây là
biểu trưng cho trí tuệ và nền văn hoá Việt Nam dưới chế độ phong kiến. Năm 1804 Vua Gia
Long chuyển Kinh Đô và Quốc Tử Giám vào Huế.
* Mục tiêu của nhà trường đại học Quốc Tử Giám
Rèn luyện sĩ tử, phát triển nhân tài để tham gia vào bộ máy quản lý nhà nước phong
kiến.
19
* Tổ chức nhà trường: Người đứng đầu là quan Tễ Tửu (như hiệu trưởng), quan Tư
Nghiệp (như hiệu phó). Đội ngũ quan văn đảm nhiệm trọng trách giảng dạy gồm có học chánh,
giáo thụ, trợ giáo (trình độ tối thiểu là đã đỗ cử nhân, đã trở thành quan chức của triều đình).
* Tuyển chọn học trò: Gồm có tôn sĩ thuộc giòng dõi tôn thất, ấm sinh là con quan
triều đình và con quan đứng đầu hàng tỉnh, giám sinh là con quan lại nhỏ ở địa phương hoặc
những thanh niên xuất sắc, tuấn tú, có phẩm hạnh dù là con của thường dân nhưng nếu đốc học
tỉnh giới thiệu cũng được vào dự tập văn.
* Chế độ học tập: Việc học tập được thực hiện rất nghiêm túc. Căn cứ vào kết quả
khảo hạch các kỳ, nhà trường phân học trò ra làm ba loại: ưu, bình, thứ mà được hưởng học
bổng bằng tiền và hiện vật khác nhau:
Loại ưu: được 4 quan tiền , 3 phương gạo, 5 cân dầu/1tháng.
Loại bình: được 3 quan tiền, 2 phương gạo, 4 cân dầu/ 1 tháng.
Loại thứ: được 2 quan tiền, 2 phương gạo, 3 cân dầu/ 1 tháng.
* Tài liệu học tập
Gồm những sách kinh điển của Nho giáo, đó là bộ Tứ thư và Ngũ kinh được coi là “bộ
giáo trình” chủ yếu ở bậc đại học suốt hàng ngàn năm của chế độ phong kiến Việt Nam.
Tứ thư là bốn cuốn: Đại học, Trung dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử.
- Sách đại học do Tăng tử viết giải thích những lời nói của Khổng Tử về nội dung Tu
thân, Tề gia, Trị quốc, Bình thiên hạ.
- Sách Trung Dung do Tử Tư chép lại những lời của Khổng tử giảng dạy theo đạo trung
thứ để đạt được ba đức lớn: Nhân, Trí, dũng.
- Sách Luận Ngữ có nhiều nội dung luân lý, chính trị, lễ, nhạc, học thuật giáo dục…do
học sinh chép khi Khổng Tử giảng dạy.
- Sách Mạnh Tử do học trò chép lại những lời của Mạnh Tử đối đáp với các bậc chư
hầu theo quan điểm của Khổng Tử và phê phán các học thuyết khác.
Ngũ kinh: gồm năm cuốn: Kinh thi, Kinh thư, Kịch Dịch, Kinh lễ, Kinh Xuân thu.
- Kinh Thi: Tuyển tập thi ca dân gian được lưu truyền từ xa xưa cho đến giữa thời kỳ
Xuân Thu.
- Kinh thư có nội dung bàn luận về chính trị, bang giao, triều chính từ thời Nghiêu
Thuấn cho đến Xuân Thu.
- Kinh Dịch: Sách triết học trọng yếu của nho học đề cập đến trời đất, âm dương, quy
luật chuyển dịch, thông biến của vũ trụ.
- Kinh Xuân Thu: Do Khổng Tử biên chép những sự kiện xảy ra ở nước Lỗ và một số
nước khác. Kinh xuân Thu cũng được coi là bộ sử lấy gốc của lễ và nghĩa để bàn luận.
Ngoài bộ “giáo trình” chủ yếu trên thì học trò trường Quốc Tử Giám còn nghiên cứu
bách gia chữ tử mà trong “Giáo huấn diễn ca” của Nguyễn Trãi đã viết.
Quốc Tử Giảm được tôn vinh là trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Đây là trung
tâm đào tạo, bồi dưỡng trình độ cao nhất của Nho học suốt hàng ngàn năm trong xã hội phong
kiến, đã sản sinh ra nhiều nhân tài xuất chúng của nước Việt Nam ngàn năm văn hiến. Những
tấm bia ghi danh trạng nguyên, tiến sĩ đã đỗ đạt, vinh hiển vẫn còn nguyên giá trị lịch sử của
Nho học đến ngày nay và mãi mãi về sau, nói lên vị trí lớn lao của nhà trường Quốc Tử Giám
trong lịch sử giáo dục dân tộc ta.
2.2. Giáo dục đại học Việt Nam thời kỳ pháp thuộc
Thực dân Pháp nổ súng xâm lược tấn công Đà Nẵng vào ngày 1/9/1858, và phải mất 40
năm (1898) mới hoàn toàn bình định được Việt Nam. Song song với chính sách bóc lột tàn
khốc, trấn áp dã man, thực dân Pháp đã thi hành một chính sách văn hoá, giao dục nô dịch, ngu
dân nhằm đồng hoá lâu dài dân tộc ta. Chủ trương này đã được toàn quyền Merlin nói trắng ra
trong bài diễn văn tại phiên họp thường kỳ của hội đồng cai trị toàn Đụng Dương năm 1923 là
“chỉ cung cấp cho nhân dân Việt Nam một sự giáo dục nhỏ giọt phát triển theo chiều nằm chứ
không theo chiều đứng”(1). Trong tạp chí giáo dục số tháng 4 - 1943 ông Tabonlet cũng thống
20
kê cho biết: nếu lấy số học xong sơ học toàn Việt Nam năm 1941 -1942 là 100% thì tỷ lệ học
sinh của các bậc học cùng năm ấy như sau: sơ học: 100%; tiểu học 15 %, cao đẳng tiểu học
2%, trung học 0,4%. Rõ ràng thực dân Pháp đã kiên trì chính sách kìm hãm giáo dục, đặc biệt
là nhà trường cao đẳng và đại học ở nước ta trong nhiều thập niên.
Tuy nhiên để phục vụ cho mục đích khai thác và cai trị, thực dân Pháp đã mở một số
trường nhằm đào tạo công nhân chuyên nghiệp, thợ lành nghề và nhân viên làm tay sai trung
thành, đắc lực trong bộ máy cai trị của chúng …. Chẳng hạn.
- 1862 mở trường đào tạo thông ngôn tuyển chọn những tên Việt gian hoặc ngụy quân
vào học.
- 1871 mở trường sư phạm Bá Đa Lộc đào tạo giáo viên tiểu học phục vụ cho việc phổ
biến văn hoá nô dịch của mẫu quốc Pháp.
- 1898 : mở hai trường đào tạo thợ mỏ ở Hà Nội và Sài Gòn.
- 1899: Xây dựng trường đào tạo công nhân thợ điện, thợi đúc, thợ rèn, thợ cơ khí, làm đồ
thủ công mĩ nghệ ở Huế.
- Trong chiến tranh thế giời lần thứ Nhất, do cần gạo để phục vụ chiến tranh, thực dân
Pháp đã mở trường “Thực nghiệm nông nghiệp ở Biến Cát (Nam kỳ) và Tuyên Quang (Bắc
kỳ).
- Chiến tranh thế giời kết thúc, chúng mở thêm các trường kỹ nghệ thực hành ở Sài Gòn,
Hải Phòng, Huế, trường kỹ thuật ở Hà Nội, Gia Định.
Trong suốt 80 năm thống trị Đông Dương thực dân Pháp mở duy nhất một trường đại
học (cho cả Việt Nam, Lào, Campuchia) và chỉ có ba ngành: luật học, y học, khoa học. Số sinh
viờn trong khoá đông nhất khoảng 800 người.
* Về nội dung giáo dục
- Từ bậc sơ học cho đến đại học từng bước sử dụng chữ quốc ngữ và tiếng Pháp thay thế
dần chữ Hán. Cho đến năm 1918 thì chấm dứt việc thi cử bằng chữ Hán.
- Nội dung chương trình có chú ý đến khoa học tự nhiên như Toán, Lý, Hoá, Sinh…
Nhưng nặng về lý thuyết, thiếu thực hành, chưa gắn với thực tiễn Việt Nam.
- Các môn học xã hội như Văn Học, Lịch sử, Địa lý, Công dân đều phỏng theo chương
trình của nước Pháp hoặc biên soạn lại để tăng cường tính chất nô dịch, thậm chí phản khoa
học, xuyên tạc lịch sử Việt Nam nhằm ca ngợi thần phục nước “Đại Pháp - mẫu Quốc” để
chúng dễ bề cai trị.
- Từ bậc sơ học thực dân Pháp không những đã huỷ bỏ chữ Hán để gạt bỏ những ảnh
hưởng tích cực của nền giáo dục bản địa mà chữ quốc ngữ cũng bị coi là thứ yếu, nhưng coi
trọng chữ Pháp để thực hiện âm mưu đồng hoá đối với thế hệ trẻ Việt Nam. Tất nhiên thực dân
Pháp không dễ dàng thực hiện âm mưu với một dân tộc có truyền thống yêu nước, kiên cường,
quật khởi như dân tộc ta. Vì vậy nhiều sĩ phu yêu nước như cụ Phan Bội Châu đã khởi xướng
phong trào yêu nước Đông Du “Nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí” để giải phóng dân tộc.
Cụ Phan Chu Trinh chủ trương đấu tranh chống nền giáo dục nô dịch của thực dân Pháp bằng
con đường cải lương, đã mở ra được 48 trường học kiểu mới, 3 trường lớn nổi tiếng là Diên
phong, Phúc Bình và Phúc Lâm. Các trường này dạy chữ quốc ngữ theo nền tân học, bàn luận
các vấn đề văn học, xã hội, khoa học, tuyên truyền xây dựng nếp sống văn minh. Phong trào
Đông Kinh nghĩa thục của Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Đào Nguyên Phổ cũng dấy lên
một nền giáo dục yêu nước, truyền bá nền học thuật mới và các tư tưởng dân chủ tư sản tiến
bộ. Đặc biệt là phong trào đấu tranh chống nền văn hoá giáo dục nô dịch của thực dân Pháp do
Nguyễn Ái Quốc lãnh đạo trước khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời. Nguyễn Ái Quốc đã
đứng vững trên lập trường của giai cấp vô sản, của một dân tộc bị áp bức tàn bạo để tố cáo, lên
án mạnh mẽ chính sách ngu dân của thực dân Pháp trong hai tác phẩm “Bản án chế độ thực
dân Pháp”( viết năm 1921), “Đây công lý của thực dân Pháp” (viết năm 1921 - 1926) đã lật
tẩy bộ mặt giả dối, nham hiểm của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam với thế giới.
2.3. Giáo dục đại học Việt Nam Từ năm 1954 đến 1975
21
2.3.1. Giáo dục đại học ở Miền Bắc Việt Nam
- Giai đoạn từ năm 1945 -1954
Cách mạng tháng Tám thành công, mặc dù hoàn cảnh cả nước gặp muôn vàn khó
khăn, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn quan tâm đến giáo dục, phát động chiến dịch “diệt đói” và
“diệt dốt” ngày 3/9/1945. Bộ Quốc gia Giáo dục cũng chủ trương phục hồi ngay các trường đại
học, cao đẳng và ấn định từ ngày 15/11.1945 sẽ khai giảng tại Hà Nội các trường Y khoa,
Dược khoa, Nha Khoa, đại học và cao đẳng Mỹ Thuật, Công chính, Canh nông, Thú y. Với đội
ngũ giảng viên người việt tài năng như : Hồ Đắc Di, Tôn Thất Tùng, Tạ Quang Bửu, Nguyễn
Thúc Hào, Tô Ngọc Vân, Nguỵ Như Kon Tum.v.v Nhưng chưa được bao lâu thực dân Pháp
quay lại xâm lược. Tháng 12/1946 toàn quốc kháng chiến bùng nổ kéo dài đến 9 năm, giáo dục
đại học gặp muôn vàn gian khổ, thiếu thốn, phải chuyển hướng phục vụ kháng chiến và kiến
quốc nhưng vẫn duy trì trưởng thành cho đến ngày chiến thắng.
* Giai đoạn từ (1954 – 1965) : Chỉ hai tháng sau khi tiếp quản thủ đô các trường đại
học và cao đẳng đã khai giảng trở lại. Ban đầu tạm ghép các trường trong vùng kháng chiến
vào các trường ở Hà Nội trong thời kỳ tạm chiếm đó là: Đại học Y Khoa; Đại học sư phạm
Văn Khoa & Đại học Văn Khoa; Đại học sư phạm Khoa Học & Đại học Khoa Học; Trong Đại
học sư phạm Văn Khoa & Đại học sư phạm Khoa Học đều có các lớp dự bị đại học.
Đầu năm 1956 với sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô, hệ thống nhà trường Đại
học và Cao đẳng XHCN được xây dựng theo mô hình phát triển của nước bạn đã có các trường
lớn.
- Đại học Tổng Hợp do ông Nguỵ Như Kon Tum làm hiệu trưởng
- Đại học Sư phạm do ông Phạm Huy Thông làm hiệu trưởng
- Đại học Y Dược do ông Hồ Đắc Di làm hiệu trưởng
- Đại học Bách Khoa do ông Trần Đại Nghĩa làm hiệu trưởng
- Đại học Nông Lâm do ông Bùi Huy Đáp làm hiệu trưởng
Từ kinh nghiệm xây dựng 5 trường Đại học đầu tiên, sau 3 năm (1958-1960) cải tạo
XHCN ở miền Bắc đã có tất cả 9 trường Đại học với 46 ngành học.
- Trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) do yêu cầu tăng cường đội ngũ cán
bộ khoa học kỹ thuật có trình độ CĐ-ĐH, giáo dục Đại học đã mở rộng quy mô tăng thêm
trường lớp, số lượng sinh viên, phát triển ngành học. Cho đến năm học 1964-1965 trên Miền
Bắc đã có 17 trường Đại học với 97 ngành. Ngoài ra, Bộ Giáo Dục đã tăng cường nguồn cử
sinh viên, cán bộ đi học tập, bồi dưỡng nghiên cứu sinh, thực tập sinh ở các nước thuộc phe
XHCN, nhất là ở Liên Xô.
*Giai đoạn từ (1965-1975)
- Từ năm 1964 -1965 đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra Miền Bắc, làm cho
chiến tranh lan ra cả nước. Ngày 5/8/1965 Thủ tướng Chính phủ ra chỉ thị số 88TTg-VG về
chuyển hướng công tác giáo dục trước tình hình và nhiệm vụ mới. Chỉ thị có đoạn: “gắn chặt
hơn nữa việc giảng dạy và mọi hoạt động của nhà trường với đời sống, với sản xuất và chiến
đấu, bảo đảm an toàn, bảo đảm sức khoẻ cho học sinh, sinh viên”. Tháng 5/1966 ngành ĐH &
THCN mở “hội thi đua chống Mỹ cứu nước” với khí thế “sẽ vượt qua muôn vàn khó khăn,
gian khổ, tiếp tục nhiệm vụ đào tạo cán bộ với quy mô ngày càng lớn hơn và chất lượng ngày
càng cao hơn”. Cũng từ năm học1964 -1965 Bộ ĐH & THCN có cách tuyển sinh mới là các
tỉnh thành lập Ban tuyển sinh để lựa chọn học sinh vào các trường ĐH & THCN. Cách tuyển
chọn này được tiếp tục thực hiện cho đến năm học 1969-1970.
Mặc dù phải đối phó với chiến tranh phá hoại ác liệt, điên cuồng của đế quốc Mỹ ở
Miền Bắc và phải chi viện đắc lực cho cách mạng giải phóng Miền Nam, nhưng sự nghiệp giáo
dục nói chung, giáo dục Đại học và THCN nói riêng đã không ngừng phát triển về số lượng &
chất lượng trong suốt 10 năm “chiến tranh huỷ diệt” như đế quốc Mỹ đã từng tuyên bố “đưa
miền Bắc Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá cũ”. Nhưng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã giải
22
phóng hoàn toàn Miền Nam, đất nước thống nhất hân hoan chào đón những kỳ tích của nhiều
lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực giáo dục Đại học & THCN của Miền Bắc.
Năm học Tổng số SV Hình thức đào tạo
Dài hạn
tập trung
Chuyên tu Tại chức
1964-1965
1965-1966
1966-1967
1967-1968
1968-1969
29.337
34.213
48.402
58.159
71.414
22.374
23.858
32.541
42.909
51.848
1.263
2.389
5.118
5.586
6.009
5.700
7.966
10.473
9.664
13.497
1970-1971
1971-1972
1972-1973
1973-1974
1974-1975
69.902
61.978
53.700
54.150
55.701
53.593
48.150
39.563
41.371
43.014
5.293
4.078
4.128
3.443
3.212
11.016
9.744
10.117
9.336
9.475
Nguồn tư liệu : Niên giám thống kê của Bộ ĐH& THCN 1955-1975. Năm học 1974-
1975 số cán bộ giảng dạy đã lên đến 8658 người công tác trong 41 trường ĐH&THCN.
*Giai đoạn từ 1975-1986
Ngày 30/4/1975 chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, miền Nam hoàn toàn giải
phóng, nước nhà thống nhất. Hội nghị lần thứ 24 ban chấp hành Trung ương khoá 3 họp đề
ra nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới “đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững
chắc lên XHCN”. Sự nghiệp giáo dục cũng đứng trước những yêu cầu lớn lao, mới mẻ
trong giai đoạn quá độ tiến lên XHCN của cả đất nước thống nhất.
Trước ngày giải phóng, Miền Nam có 7 Viện ĐH công như Viện ĐH Sài Gòn, Viện
ĐH Huế, Viện ĐH Cần Thơ… và 11 Viện ĐH tư như: Viện ĐH Vạn Hạnh, Viện ĐH Đà
Lạt, ĐH Minh Đức, Cao Đài v.v…việc tổ chức nhà trường, quy trình đào tạo, hệ thống văn
bằng v.v…theo mô hình giáo dục của Pháp đến những năm đầu thập kỷ 70 thì theo mô hình
của Mỹ.
- Sau khi tiếp quản, chính quyền cách mạng đã tiến hành giải thể các trường Tư Thục &
trường ĐH Cộng Đồng, tổ chức lại thành 5 trường ĐH theo mô hình nhà trường XHCN đó là:
- Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh
- Đại học Bách Khoa thành phố Hồ Chí Minh
- Đại học Kinh Tế thành phố Hồ Chí Minh
- Đại học Kỹ Thuật thành phố Hồ Chí Minh
- Đại học Nông Nghiệp thành phố Hồ Chí Minh
- Đại học Kiến Trúc thành phố Hồ Chí Minh
- Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh
- Đại học Tổng hợp Huế
- Đại học Cần Thơ
- Đại học Bách Khoa Đà Nẵng
- Đại học Đà Lạt
- Đại học sư phạm Huế
- Đại học Y Huế
- Đại học Thuỷ Sản Nha Trang
- Đại học Tây Nguyên
Từ năm 1976-1986 các trường Đại học được xác định có vai trò rất quan trọng trong
3 cuộc cách mạng: cách mạng quan hệ sản xuất, khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng văn
hóa, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt. Năm 1976 lần đầu tiên luận án phó
23
tiến sĩ đã được bảo vệ thành công trong nước đánh dấu bước phát triển mới của hệ giáo dục đại
học. Đến tháng 12-1980 nước ta đã có 42 trường Đại học và Viện NCKH được quyết định là
cơ sở đào tạo sau đại học (có trình độ thạc sĩ & phó tiến sĩ).
Vài số liệu về phát triển quy mô giáo dục CĐ & ĐH
Năm học
Số
trường
Cán bộ
giảng dạy
Tổng số
SV
Dài hạn
tập trung
Chuyên tu Tại chức
1975-1976
1979-1980
1984-1985
59
79
93
9.642
16.386
18.717
92.097
152.327
124.120
78.637
124.971
88.921
3.493
5.831
7.940
9.967
51.525
27.259
(nguồn số liệu thống kê của Bộ GDĐT 1995)
*Giai đoạn từ 1986 đến nay
Tháng 12-1986 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã
mở đầu công cuộc đổi mới xây dựng đất nước theo cơ chế thị trường định hướng XHCN. Giáo
dục được xác định là quốc sách hàng đầu nhằm mục đích nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài thực hiện sự nghiệp cách mạng CNH & HĐH đất nước.
Đường lối đổi mới toàn diện KT-XH của đại hội Đảng lần thứ 6 đã làm xuât hiện 4 tiền
đề đổi mới giáo dục ĐH Việt Nam đó là:
+ Giáo dục Đại hoc không chỉ đáp ứng nhu cầu kinh tế nhà nước, kinh tế quốc doanh
mà còn phải đáp ứng yêu cầu của các thành phần kinh tế khác và nhu cầu học tập của toàn dân.
+ Giáo dục Đại học không chỉ dựa vào nguồn kinh phí nhà nước mà còn dựa vào các
nguồn kinh phí khác của các tổ chức xã hội trong nước hoặc do quốc tế tài trợ.
+ Giáo dục Đại học không chỉ theo chỉ tiêu kế hoạch tập trung như một bộ phận của kế
hoạch nhà nước mà còn phải làm kế hoạch theo những đơn đặt hàng, những xu thế dự báo,
những yêu cầu học tập từ nhiều phía trong xã hội.
+ Giáo dục Đại học không cần phải gắn chặt với việc phân phối người tác nghiệp theo
cơ chế hành chính bao cấp, người tác nghiệp có trách nhiệm tự lo việc làm cho mình theo cơ
chế tuyển chọn theo yêu cầu của thị trường lao động.
Quyết tâm thực hiện chủ trương đổi mới, ngành giáo dục Đại học đã đề ra 3 chương
trình hành động trong 3 năm học (1987-1990) được cụ thể hoá các nội dung:
+ Cải cách, đổi mới công tác tuyển sinh, giao quyền chủ động rộng hơn cho nhà trường
Đại học và quyền được lựa chọn dự thi vào nhà trường cho thí sinh.
+ Mở rộng hệ đào tạo không chính quy có đóng học phí.
+ Tổ chức thực hiện quy trình đào tạo 2 giai đoạn.
+ Đẩy mạnh cuộc vận động dân chủ bầu cử lựa chọn cán bộ quản lý các trường Đại
học.
+ Tổ chức, sắp xếp chức danh cho cán bộ giảng dạy Đại học: Giáo sư, phó giáo sư,
giảng viên chính, giảng viên, trợ giảng.
+ Đẩy mạnh công tác NCKH gắn với lao động sản xuất, khoa học công nghệ tiếp cận
với nền kinh tế tri thức.
Từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX, giáo dục Đại học Việt Nam đã có những chuyển
biến rất căn bản, song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu tăng tốc phát triển kinh tế - xã hội.
Tháng 4/1990 chính phủ ra quyết định thành lập Bộ GD&ĐT để quản lý thống nhất hệ thống
giáo dục quốc dân từ bậc mầm non cho đến giáo dục Đại học và sau Đại học.
Tháng 7/1991 đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam khoa VII thông qua “cương lĩnh xây
dựng CNXH trong thời kỳ quá độ”, ngành giáo dục Đại học đã thực hiện 5 chương trình
mục tiêu, đó là:
Chương trình 1: Các mục tiêu, nội dung, phương pháp đào tạo
Chương trình 2: Đẩy mạnh NCKH- LĐSX gắn nhà trường với xã hội
24
Chương trình 3: Đổi mới công tác tổ chức và quản lý GDĐH
Chương trình 4: Xây dựng và bồi dưỡng cán bộ giảng dạy & cán bộ quản lý GDĐH
Chương trình 5: Đào tạo, bồi dưỡng nhân tài và phát triển đội ngũ cán bộ cho một số
ngành mũi nhọn
Căn cứ thực tiễn và tham khảo kinh nghiệm xây dựng, phát triển hệ thống trường ĐH&
CĐ trên thế giới từ năm 1993-1994 hệ thống ĐH & CĐ đã được tổ chức, sắp xếp như sau:
1. Thành lập 2 ĐH Quốc Gia
ĐH Quốc Gia Hà Nội (1994)
ĐH Quốc Gia thành phố Hồ Chí Minh (1995)
2. Thành lập ĐH Vùng (4/4/1994)
ĐH Thái Nguyên
ĐH Huế
ĐH Đà Nẵng
Các trường ĐH trên đều là trường ĐH đa ngành
Có một số trường khác cũng là ĐH đa ngành nhưng không gọi là ĐH Quốc Gia hay
ĐH Vùng nhưng cũng mang tính chất vùng như ĐH Cần Thơ (vùng đồng bằng sông Cửu
Long) ĐH Đà Lạt, ĐH Vinh, ĐH Tây Bắc, ĐH Quy Nhơn.
3. Các trường ĐH chuyên ngành
Đây là các trường đào tạo một ngành hay một nhóm ngành như kỹ thuật, nông nghiệp,
thuỷ sản,…các trường này phần lớn tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội đó là: Đại học
Bách Khoa, ĐH Thương Mại, ĐH Ngoại Thương, ĐH Kiến Trúc, ĐH Kinh Tế Quốc Dân,
v.v…,ở thành phố Hồ Chí Minh có nhiều trường như: ĐH Kinh Tế, ĐH Xây Dựng, ĐH Sư
Phạm, ĐH Kỹ Thuật, v.v…Một số trường ĐH chuyên ngành đặt ở các tỉnh như: ĐH Lâm
Nghiệp (Hà Tây) ĐH Hàng Hải (Hải Phòng) ĐH Y (Thái Bình).v.v…
4. Trường ĐH thuộc tỉnh
Gần đây chính phủ cho phép thành lập trường ĐH công lập thuộc tỉnh như: ĐH Hồng
Đức (Thanh Hoá), ĐH Hùng Vương (Phú Thọ), ĐH An Giang.
5. Các loại trường ĐH khác
- ĐH Mở ở các thành phố Hà Nội và Thành Phố Hồ Chí Minh. Hình Thức các trường
này gần như trường Bán Công (cơ sở trường học của nhà nước, kinh tế tự quản).
- ĐH dân lập là loại hỡnh trường do một tổ chức xã hội đỡ đầu đứng ra thành lập, cơ sở
vật chất tự lo, tài chính tự quản, nhà trường quyết định mức học phí và trả lương cho cán bộ
giảng dạy. Hiện nay đã có hơn 20 trường ĐH dân lập như ĐH Đông Đô, ĐH Phương Đông, ĐH
Thăng Long (Hà Nội), ĐH Văn Lang, ĐH Ngoại Ngữ- Tin Học (thành phố Hồ Chí Minh), ĐH
Duy Tân (Đà Nẵng) ĐH Bình Dương, ĐH Vĩnh Long.v.v…
+ Các trường dự bị ĐH thu nạp học sinh tốt nghiệp THPT con em các dân tộc ít
người, con em nông dân vùng sâu vùng xa, các gia đình thuộc diện chính sách. Hiện nay có
một số trường học được xây dựng khang trang như: Dự bị ĐH Sầm Sơn (Thanh Hoá), Nha
Trang, Phú Thọ, thành phố Hồ Chí Minh.
+ Trung tâm hay cơ sở ĐH cũng là một loại trường ĐH nhưng chưa hoàn chỉnh, do
thủ trưởng một ngành hay một tỉnh hoặc hiệu trưởng của một trường ĐH thành lập. Hiện nay
có hai trung tâm: một của ngành ngân hàng, một của thành phố Hồ Chí Minh và ba cơ sở: một
của trường ĐH Giao Thông, một của trường ĐH Ngoại Thương và một của trường ĐH Văn
Hoá. Nhiều tỉnh có trung tâm Giáo Dục Thường xuyên mở các lớp ĐH tại chức, từ xa, thu nạp
cả cán bộ, công nhân viên vừa học vừa làm, cả học sinh không thi đậu vào các trường khác.
6. Các trường CĐ
Hiện nay có hơn 100 trường Cao Đẳng, trong đó có 65 trường CĐ sư phạm - nếu tổng
các trường ĐHSP & các khoa sư phạm trong các trường ĐH (khoa sư phạm- trường ĐH Đà
Lạt, khoa sư phạm- trường ĐH An Giang, khoa sư pham- ĐH Quốc Gia Hà Nội.v.v…) thì có
đến 110 đơn vị đào tạo chuyên ngành sư phạm- đội ngũ giáo viên từ mầm non cho đến ĐH và
25