Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

Phát triển bền vững công nghiệp trên địa bàn tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (533.8 KB, 119 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đối với Việt Nam công nghiệp chiếm vị trí hết sức quan trọng trong
quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bởi lẽ, tốc độ
tăng trưởng của công nghiệp có ý nghĩa quyết định đối với tốc độ tăng trưởng
kinh tế và tăng thu nhập bình quân trên đầu người, đưa nước ta thoát khỏi đói
nghèo, hướng tới mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh và bảo vệ môi trường.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước đến năm 2020, chúng
ta đã đặt ra mục tiêu phấn đấu để Việt Nam cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Định hướng chiến lược phát triển bền vững
Việt Nam đã ban hành và đang từng bước được thực hiện. Do vậy phát
triển bền vững công nghiệp Việt Nam là xu thế tất yếu trong thời kỳ mới.
Công nghiệp của Hải Dương là cấu thành của công nghiệp Việt Nam.
Vì vậy, phát triển bền vững công nghiệp Hải Dương là đòi hỏi khách quan
trong những năm tới. Nhiều năm qua, công nghiệp của tỉnh Hải Dương đã
dành được sự quan tâm đặc biệt của các cấp uỷ đảng và đông đảo cộng đồng
doanh nghiệp. Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ XIV, Ban chấp hành Đảng
bộ tỉnh Hải Dương đã đặt mục tiêu đến năm 2015, Hải Dương sẽ cơ bản trở
thành một tỉnh công nghiệp. Với những chính sách ưu tiên dành cho phát triển
công nghiệp hơn 10 năm trở lại đây - kể từ ngày tái lập tỉnh, Hải Dương đã
thu hút được khá đông các nhà đầu tư trong và ngoài nước triển khai nhiều dự
án lớn vào các ngành công nghiệp. Nhờ đó, công nghiệp của địa phương đã
đạt được kết quả cao: giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh duy trì
được tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 19,82%/năm; giá trị tăng thêm của
khu vực công nghiệp thường xuyên cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP từ 2-3
%/năm.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển công nghiệp ở Hải Dương đã và
đang làm nảy sinh nhiều vấn đề kinh tế - xã hội và môi trường bức xúc. Đó là,
1
tình trạng thu hẹp đất đai nông nghiệp do phát triển các khu công nghiệp,


nhưng lao động nông nghiệp chưa được thu hút đáng kể vào sản xuất công
nghiệp. Do vậy, tình trạng lao động dư thừa ở khu vực nông thôn ngày càng
cao, lợi ích lan tỏa của công nghiệp đối với người dân trong tỉnh còn thấp.
Đặc biệt, cùng với sự phát triển của công nghiệp những tổn thất đối với môi
trường ngày càng gia tăng. Ô nhiễm môi trường nước, môi trường đất và
không khí khá cao ở các khu, cụm công nghiệp trong tỉnh. Tình trạng vi phạm
các quy định bảo vệ môi trường của các cơ sở công nghiệp và các làng nghề
xảy ra phổ biến.
Với thực trạng phát triển công nghiệp đã nêu trên, việc nghiên cứu
“Phát triển bền vững công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương” có ý nghĩa
cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan
đến đề tài đã được công bố. Có thể chia các công trình loại này thành 2 nhóm
sau đây.
Một là, các công trình nghiên cứu về phát triển bền vững công
nghiệp.
Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này có thể kể đến:
- Hội nghị toàn quốc về phát triển bền vững lần thứ nhất (2004). Dự án
VIE/01/021 hỗ trợ xây dựng và thực hiện chương trình nghị sự 21 quốc gia
của Việt Nam.
- Hoàn thiện chiến lược phát công nghiệp Việt Nam. GS,TS Kennichi
OHNO; GS,TS Nguyễn Văn Thường, NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội - 2005.
- PGS.TS Ngô Doãn Vịnh Nghiên cứu chiến lược và quy hoạch phát
triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam - Học hỏi và sáng tạo; NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội - 2003.
2
- TS. Nguyễn Xuân Dũng Một số định hướng đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010; NXB Khoa học Xã hội,
Hà Nội - 2002.

- Lê Quang Tám Công nghiệp Việt Nam thành tựu và triển vọng; Tạp
chí Thương mại - 2003, số 3,4,5.
- Luận văn Th.S của Đinh Hoàng Dũng Phát triển khu công nghiệp
Tỉnh Bắc Ninh theo hướng bền vững, năm 2008, bảo vệ tại Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Luận văn Th.S của Hà Huy Bắc Phát triển công nghiệp gắn với bảo
vệ môi trường ở Vĩnh Phúc, năm 2006, bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh.
Hai là, các công trình nghiên cứu chính sách phát triển bền vững
công nghiệp.
Một số công trình đại diện cho nhóm này bao gồm:
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2006), Ảnh hưởng của chính sách phát
triển các khu công nghiệp tới phát triển bền vững ở Việt Nam; Dự án “ Hỗ trợ
xây dựng và thực hiện Chương trình nghị sự 21 Quốc gia của Việt Nam”
VIE/01/021.
- Phan Đăng Tuyết - Lê Minh Đức (2005), Chính sách công nghiệp
theo định hướng phát triển bền vững, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Dự án “ Hỗ trợ
xây dựng và thực hiện Chương trình nghị sự 21 Quốc gia của Việt Nam”
VIE/01/021.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2006), Chính sách phát triển bền vững ở
Việt Nam; Dự án “Hỗ trợ xây dựng và thực hiện Chương trình nghị sự 21
Quốc gia của Việt Nam” VIE/02/021.
- Bộ Thương mại - Viện Nghiên cứu thương mại - Trung tâm tư vấn
và đào tạo kinh tế thương mại (1998), Thương mại - môi trường và phát triển
bền vững ở Việt Nam.
3
- Đề tài cấp Bộ của T.S Nguyễn Thị Hường Chính sách thương mại
và công nghiệp nhằm phát triển bền vững công nghiệp Việt Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu :

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn phát triển bền vững công
nghiệp để đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển bền vững công nghiệp ở
tỉnh Hải Dương .
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu :
- Hệ thống hoá và làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về phát triển bền
vững công nghiệp.
- Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển bền vững công nghiệp của một
số địa phương.
- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển bền vững công nghiệp ở
Hải Dương.
- Đề xuất phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
bền vững công nghiệp Hải Dương.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu phát triển bền vững công nghiệp trên địa bàn tỉnh
Hải Dương bao gồm cả công nghiệp Trung ương, công nghiệp Địa phương và
công nghiệp FDI.
4.2. Phạm vi nghiên cứu :
- Về không gian : Trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
- Về thời gian : Từ năm 2000 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận :
4
Để thực hiện những mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đã nêu trên,
Luận văn sử dụng cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong các Văn kiện Đại
hội Đảng, Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Dương, Định hướng chiến lược
phát triển bền vững của Việt Nam, định hướng chiến lược phát triển của các
ngành và địa phương, định hướng chiến lược xây dựng và phát triển công
nghiệp Việt Nam, các lý thuyết về kinh tế học, kinh tế học phát triển làm cơ

sở lý luận cho đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu :
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử,
vận dụng những quan điểm của Đảng, Nhà nước về phát triển bền vững
Sử dụng phương pháp cụ thể như hệ thống hóa thống kê, so sánh, phân
tích tổng hợp dựa trên các báo cáo đánh giá có sẵn của địa phương. Đồng
thời, kế thừa và sử dụng có chọn lọc các kết quả nghiên cứu trong các công
trình đã công bố để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn.
6. Một số đóng góp của luận văn
- Làm rõ hơn một số vấn đề lý luận cơ bản về phát triển bền vững công
nghiệp.
- Đánh giá thực trạng phát triển bền vững công nghiệp tại tỉnh Hải
Dương và đề xuất quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm phát triển bền vững
công nghiệp Hải Dương.
- Luận văn là tài liệu tham khảo cho các cơ quan chức năng hoạch định
chính sách phát triển bền vững công nghiệp ở tỉnh Hải Dương và phục vụ
công tác nghiên cứu, giảng dạy trong lĩnh vực trên.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CÔNG NGHIỆP HẢI DƯƠNG
1.1. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG VÀ TIÊU CHÍ CỦA PHÁT TRIỂN BỀN
VỮNG CÔNG NGHIỆP
1.1.1. Đặc trưng và tính chất của sản xuất công nghiệp
Công nghiệp là một ngành kinh tế chủ lực của nền kinh tế quốc dân,
thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất. Công nghiệp và nông nghiệp là hai ngành
sản xuất ra tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng cho xã hội. Tuy nhiên, công

nghiệp có những đặc trưng khác so với nông nghiệp cả về đối tượng lao động,
công nghệ sản xuất và đặc điểm của các sản phẩm do công nghiệp sản xuất ra.
Đối tượng lao động trong sản xuất công nghiệp rất đa dạng. Các mỏ
khoáng sản nằm sâu trong lòng đất hay dưới đáy đại dương là đối tượng của
ngành công nghiệp khai mỏ; các loại nguyên liệu, nhiên liệu từ công nghiệp
khai khoáng, các loại nguyên liệu động thực vật từ các ngành nông, lâm, thuỷ
sản là đối tượng của công nghiệp chế biến; năng lượng mặt trời, sức gió, sức
nước, thuỷ triều cung cấp năng lượng cho sản xuất điện năng. Các chất phế
thải từ công nghiệp, từ sinh hoạt của con người và từ hoạt động y tế cũng là
đối tượng của sản xuất công nghiệp.
Công nghệ sản xuất được sử dụng trong công nghiệp chủ yếu là quá
trình tác động trực tiếp bằng phương pháp cơ lý hóa, để biến đổi các nguyên
liệu ban đầu thành các sản phẩm trung gian cho đến các sản phẩm cuối cùng
khác nhau về chất so với đặc tính ban đầu của chúng. Đặc biệt là quy trình sản
xuất công nghiệp có thể phân chia thành các công đoạn khác nhau để thực
hiện chuyên môn hóa sản xuất.
Sản phẩm công nghiệp do con người sáng tạo ra có khả năng đáp ứng
nhiều loại nhu cầu của sản xuất và đời sống.
6
Mặt khác, chu kỳ sống của sản phẩm công nghiệp thường ngắn hơn so
với sản phẩm nông nghiệp.
Với những tính chất trên đã đem đến cho quá trình sản xuất và tiêu
dùng các sản phẩm công nghiệp có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Một là, sản xuất công nghiệp có khả năng thực hiện tập trung hoá,
chuyên môn hóa và hợp tác hoá cao.
Tập trung hoá sản xuất giúp cho công nghiệp có điều kiện phát huy
hiệu quả kinh tế theo quy mô, nhờ đó giảm được chi phí cố định trên một đơn
vị sản phẩm. Chuyên môn hoá và việc mở rộng quan hệ hợp tác trong công
nghiệp nhằm phát huy mạnh mẽ hơn hiệu quả của quá trình sản xuất, nhờ đó
năng suất lao động ngày càng tăng. Trong xu thế toàn cầu hiện nay, nhờ khả

năng chuyên môn hóa cao của công nghiệp mà mỗi quốc gia có thể lựa chọn
một số loại sản phẩm hay một số công đoạn nhất định trong chuỗi sản xuất
toàn cầu dựa vào lợi thế so sánh của mỗi nước.
Hai là, công nghiệp có mức tiêu thụ các nguồn lực đầu vào lớn.
Tuỳ theo trình độ công nghệ, đặc điểm của mỗi ngành mà mức độ sử
dụng các nguồn lực đầu vào của các ngành công nghiệp là rất khác nhau.
Nhưng với đặc điểm là các ngành sản xuất có mức độ tập trung hóa cao nên
hầu hết các ngành công nghiệp đều có nhu cầu tiêu thụ một lượng đầu vào rất
lớn. Tuy nhiên, khi quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp cần tính đến
mức độ dồi dào của các yếu tố nguồn lực ở mỗi vùng, miền.
Ba là, công nghiệp có khả năng đổi mới công nghệ tương đối nhanh.
Do khả năng đổi mới công nghệ khá nhanh của công nghiệp, nên phát
triển bền vững công nghiệp cần tính đến các điều kiện về giao thông liên lạc
để đáp ứng yêu cầu vận tải hàng hóa. Bên cạnh đó, vòng đời sản phẩm của
công nghiệp ngắn và nhu cầu đối với công nghiệp rất đa dạng, do đó, mức độ
cạnh tranh của công nghiệp rất mạnh mẽ, kể cả cạnh tranh trong nội bộ của
mỗi ngành công nghiệp.
7
Vì vậy, đổi mới công nghệ trong các ngành công nghiệp trở thành nhu
cầu thiết yếu và thường xuyên. Nếu đáp ứng được nhu cầu này, các ngành
công nghiệp không chỉ có khả năng cạnh tranh ngày càng cao mà còn có khả
năng giảm thiểu các tác động tiêu cực đối với môi trường.
Bốn là, công nghiệp có khả năng phân bố trên mọi vùng lãnh thổ.
Phát triển các ngành công nghiệp ít phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên,
nên địa bàn phân bố công nghiệp có thể thực hiện trên mọi vùng không gian
lãnh thổ. Đây là điều kiện thuận lợi để quy hoạch phát công nghiệp, đồng
thời, có thể giải bài toán phát triển công nghiệp gắn với yêu cầu về hiệu quả
kinh tế - xã hội và môi trường.
Việc quy hoạch không gian lãnh thổ trong sản xuất công nghiệp nếu
chỉ tập trung vào các trung tâm đô thị, tất yếu sẽ không tận dụng được không

gian một cách hiệu quả nhằm giải quyết nhu cầu đa dạng và lâu dài cho phát
triển công nghiệp, trong khi lại làm gia tăng khoảng cách kinh tế - xã hội
trong phát triển vùng. Mặt khác, sai lệch trong phân bổ công nghiệp theo
vùng có ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề ô nhiễm môi trường. Những nơi tập
trung công nghiệp và dân cư quá nhiều sẽ tạo ra áp lực rất lớn trong vấn đề
giải quyết môi trường và hàng loạt vấn đề xã hội nảy sinh.
Năm là, sản xuất công nghiệp đi liền với phát thải lớn.
Kết quả của sản xuất công nghiệp luôn mang tính hai mặt: một mặt, đó
là các sản phẩm đáp ứng nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng; mặt khác, nó tạo
ra phát thải rất lớn, có tác động bất lợi đối với phát triển bền vững.
Quy mô và tính chất nguy hại của các loại rác thải phụ thuộc vào:
- Trình độ tập trung hoá của sản xuất công nghiệp. Khi công nghiệp có
quy mô sản xuất càng lớn, thì quy mô của phát thải cũng càng lớn.
- Đặc điểm của các ngành công nghiệp chuyên môn hoá trong việc khai
thác, sử dụng và chế biến các loại tài nguyên thiên nhiên. Những ngành sản
8
xuất công nghiệp thiên về sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên, nhất là
những ngành công nghiệp sản xuất các sản phẩm thô xuất khẩu sẽ có quy mô
phát thải lớn hơn các ngành công nghiệp có độ chế biến sâu hơn. Tính chất
gây hại cho môi trường cũng khác nhau, điều này tuỳ thuộc vào các loại tài
nguyên thiên nhiên mà ngành công nghiệp đó sử dụng.
- Trình độ công nghệ trong sản xuất công nghiệp có ảnh hưởng rất lớn
đến việc tiêu thụ nguyên, nhiên vật liệu năng lượng, cũng như khả năng phát
thải của sản xuất công nghiệp. Nếu khai thác và sử dụng khối lượng tài
nguyên thiên nhiên lớn trong khi công nghệ khai thác và chế biến lạc hậu sẽ
dẫn đến hậu quả kép: vừa tiêu hao tài nguyên thiên nhiên trong một đơn vị
sản phẩm lớn làm tăng chi phí sản xuất, vừa gây lãng phí tài nguyên thiên
nhiên và phát thải lớn.
- Quá trình tiêu dùng các sản phẩm công nghiệp cũng tạo ra một lượng
chất thải lớn về bao bì, về hoá chất, nhiên liệu và các loại phế liệu khi các sản

phẩm công nghiệp (máy móc, thiết bị và các tiện nghi, đồ dùng gia đình ) bị
loại bỏ khi đã hết thời hạn sử dụng.
- Năng lực xử lý các chất thải và kiểm soát môi trường của các cơ sở
sản xuất công nghiệp. Nếu các cơ sở đó không quan tâm đến xử lý các chất
thải công nghiệp do chính mình là tác nhân gây ra, sẽ làm cho quy mô và tính
nguy hại của rác thải ngày một lớn đối với môi trường, nhất là khi nó đã vượt
qua giới hạn cho phép.
Sáu là, sản xuất công nghiệp là nơi nảy sinh nhiều vấn đề trực tiếp liên
quan đến kinh tế - xã hội - môi truờng; đến lợi ích kinh tế của nhiều bên: Chủ
doanh nghiệp - Người lao động - Dân địa phương sống gần nơi doanh nghiệp
đóng - Nhà nuớc.
Doanh nghiệp sản xuất công nghiệp vừa là đơn vị kinh tế, vừa là đơn vị
xã hội tập trung một lực lượng lao động tương đối lớn (tuỳ theo quy mô
doanh nghiệp), đồng thời, còn là nơi sử dụng tài nguyên thiên nhiên và phát
9
thải. Mục tiêu tối đa hoá lợi ích của chủ doanh nghiệp có thể gây ra cách nhìn
nhận vấn đề và cách giải quyết phiến diện không đúng với trách nhiệm pháp
lý của mình đối với người lao động (những vấn đề liên quan đến tiền lương và
bảo hiểm xã hội, chế độ làm việc, điều kiện vệ sinh, sức khoẻ và an toàn lao
động, chế độ nhà ở và các lợi ích chính đáng khác ); thiếu trách nhiệm xã hội
trong vấn đề bảo vệ môi trường ảnh hưởng đến thu nhập và điều kiện sống
của nhân dân địa phương, đến giữ gìn và bảo tồn các giá trị văn hoá lịch sử
của địa phương; thiếu trách nhiệm trong việc thực thi nghĩa vụ với nhà nước.
Tất cả những vấn đề nêu trên đều gây ra sự tổn hại nghiêm trọng đến PTBV.
1.1.2. Khái niệm phát triển bền vững công nghiệp
Khi nghiên cứu khái niệm phát triển bền vững công nghiệp không thể
tách rời nó với khái niệm phát triển bền vững nói chung. Vì vậy, việc đưa ra
khái niệm phát triển bền vững công nghiệp gắn liền với quá trình nhận thức
về phát triển bền vững. Từ quá trình phân tích các đặc trưng của sản xuất
công nghiệp ở trên cho thấy, phát triển bền vững công nghiệp có ảnh hưởng

rất lớn đến PTBV. Vấn đề đó đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của
nhiều tổ chức, cá nhân trong nước và quốc tế.
Phát triển bền vững được định nghĩa là “Sự phát triển đáp ứng các nhu
cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng của các thế hệ tương lai
trong việc đáp ứng như cầu của họ”. Tuy nhiên, khi chuyển sang lĩnh vực
công nghiệp để hiểu thế nào là phát triển bền vững cũng không phải dễ dàng.
Tổ chức Phát triển Liên hợp quốc (UNIDO) trong nhiều năm đã cố
gắng đưa ra cách giải thích làm rõ nghĩa hơn khái niệm này nhằm giúp định
hướng cho các hành động. Định nghĩa đầu tiên được đưa ra vào những năm
80 cho rằng “phát triển bền vững công nghiệp” - Ecologically Sustainable
Industrial Development ESID là:
10
Phát triển bền vững công nghiệp là một cách tiếp cận đối với phát triển
công nghiệp, cho phép giải hoà giữa tăng dân số, tăng trưởng công nghiệp và
bảo vệ môi trường.
Trong sự cố gắng đầu tiên này, khái niệm dường như bỏ qua tính hình
thức mà đề cập thẳng đến vấn đề cốt lõi nhất của phát triển công nghiệp là
tăng trưởng công nghiệp, tăng dân số và bảo vệ môi trường. Phát triển công
nghiệp tất yếu sinh ra phát thải ô nhiễm, phát triển cũng đồng nghĩa với
những hy sinh nhất định về môi trường, đó là hai nội dung không thể tách rời,
hết sức mâu thuẫn nhưng luôn tồn tại trong bất kỳ sự phát triển nào. Bên cạnh
đó, công nghiệp góp phần giải quyết vấn đề dân số bằng cách thoả mãn ngày
càng cao các nhu cầu của họ. Song chính những nhu cầu thái quá về tiêu dùng
buộc sản xuất công nghiệp phải tạo ra nhiều sản phẩm hơn và hệ quả là làm
gia tăng quá trình khai thác tài nguyên và tác động xấu tới môi trường không
thể tránh khỏi. Làm thế nào để hài hoà giữa các vấn đề hết sức mâu thuẫn
nhưng thông nhất và đâu là giới hạn của sự bền vững cần phải tìm kiếm đó là
mấu chốt của tiếp cận phát triển bền vững.
Nhưng liệu như vậy đã đủ chưa cho việc hướng dẫn các hành động đáp
ứng của công nghiệp. Rõ ràng, vẫn còn những khái niệm hết sức trừu tượng

và hoàn toàn không dễ hiểu đối với công nghiệp với tư cách là một phân
ngành kinh tế có những quan tâm và lợi ích riêng cụ thể. Hơn nữa bảo vệ môi
trường có nội dung rất rộng, vậy đâu là những tác động môi trường đặc trưng
của công nghiệp cần phải ưu tiên. Những vấn đề được đặt ra ngày càng nhiều
trong tiến trình tiếp cận với bản chất của khái niệm.
Khắc phục những nhược điểm trên, tại Hội nghị Copenhagen, tháng
10/1991 một khái niệm mới được đưa ra với những nội dung cụ thể hơn và
bám sát hơn các khái niệm gốc. Khái niệm “Phát triển bền vững công nghiệp”
được UNIDO tiếp tục phát triển như là:
11
Những mô hình (pattern) công nghiệp hoá hướng vào các lợi ích về
kinh tế và xã hội của thế hệ hiện tại và các thế hệ sau mà không làm tổn hại
tới quá trình sinh thái nền.
Tại Hội nghị này, đã có một bước tiến quan trọng trong việc làm rõ các
nội dung của khái niệm trên. Trong định nghĩa này đã mở hướng tiếp cận
thông qua những mô hình công nghiệp hoá có cân nhắc. Đó là mô hình hướng
vào các lợi ích kinh tế và xã hội của thế hệ hiện tại và các thế hệ sau mà
không để lại những hậu quả về môi trường sinh thái. Ở đây, những lợi ích
tương lai được nhấn mạnh song song với lợi ích trước mắt, một sự phát triển
trong tổng hoà các lợi ích và tư duy cân bằng hơn. Những vấn đề đặt ra ngày
càng cụ thể hơn với công nghiệp như sử dụng hiệu quả các nguồn lực con
người, nguyên vật liệu và năng luợng, công bằng trong chia sẻ về môi trường
và xã hội.
Trong trường hợp của Việt Nam, phát triển công nghiệp được xem như
là tập hợp các sự lựa chọn, và phụ thuộc vào đó có thể tạo ra những hiệu ứng
bền vững khác nhau. Rõ ràng một sự phát triển cân đối hợp quy luật sẽ có
những bảo đảm lâu dài hơn là sự phát triển thái quá chỉ nhằm đến mục tiêu
trước mắt. Xét về lý thuyết, các chuẩn mực hay thước đo cũng có thể thay đổi
ứng với mỗi giai đoạn phát triển. Và không chỉ những vấn đề kinh tế - xã hội -
môi trường, mà còn có cả những tác động đan xen của các khía cạnh chính trị

và an ninh. Từ trong các phân tích chiến lược của Viện nghiên cứu chiến
lược, chính sách công nghiệp đã phác thảo ra 5 tiêu chí định hướng cho “Phát
triển bền vững công nghiệp Việt Nam” (Chính sách công nghiệp theo định
hướng phát triển bền vững. Dự án hỗ trợ và xây dựng Chương trình nghị sự
21 Quốc gia Việt Nam. 2005. Bộ Kế hoạch và Đầu tư) như sau:
Tiêu chí 1: Tăng trưởng bền vững.
Tiêu chí 2: Tạo vị thế trong phân công quốc tế.
Tiêu chí 3: Tiêu dùng bền vững công nghiệp.
12
Tiêu chí 4: Doanh nghiệp bền vững.
Tiêu chí 5: Chia sẻ cơ hội thực hiện công bằng xã hội, phù hợp thể chế
chính trị và an ninh.
Trong nội dung thứ nhất đề cập đến “Tăng trưởng bền vững” bao hàm
cùng lúc các đảm bảo tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng. Chất lượng tăng
trưởng thể hiện ở 3 yếu tố chính: Giá trị gia tăng (VA), năng lực cạnh tranh và
cơ cấu công nghiệp.
- Giá trị gia tăng: là chỉ tiêu quan trọng bậc nhất phản ánh chất lượng
tăng trưởng. Giá trị gia tăng thấp có thể là một biểu hiện đặc trưng cho thời kỳ
đầu phát triển công nghiệp hoá dựa vào gia công, song nếu không nhận
diện và điều chỉnh kịp thời sẽ tạo ra các mầm mống không bền vững trong
tương lai.
- Năng lực cạnh tranh: phản ánh những giá trị lợi thế vô hình và hữu
hình, những cơ hội tạo ra lợi nhuận của toàn bộ nền công nghiệp.
- Cơ cấu công nghiệp: là một trong 3 nội dung tạo nên chất lượng tăng
trưởng. Cơ cấu công nghiệp bền vững là cơ cấu phản ánh được xu thế phát
triển chung (sản phẩm/công nghệ), đảm bảo các cân đối nội tại thượng - hạ
nguồn, công nghệ phụ trợ và xuất/nhập khẩu. Đó là cơ cấu đa dạng nhưng
thống nhất và có khả năng hỗ trợ tốt cho nhau cho phép tạo ra các giá trị gia
tăng lớn nhất. Trong đó, hàm lượng công nghệ và chế biến sâu trở thành động
lực chính của tăng trưởng, quyết định nội dung về chất của cơ cấu.

Tiêu chí thứ 2 Tạo vị thế trong phân công quốc tế được đặt ra trong bối
cảnh hội nhập và tự do hoá thương mại. Công nghiệp Việt Nam mặc dù nhỏ
bé nhưng phải có chỗ đứng trong không gian chung, cân bằng được các quan
hệ nhiều chiều trở thành một mắt xích trong mạng lưới phân công quốc tế.
Tiêu chí thứ 3 đề cập đến Tiêu dùng bền vững công nghiệp. Nguyên tắc
quan trọng nhất của phát triển bền vững là hài hoà giữa phát triển và bảo vệ
13
môi trường. Trong công nghiệp, phát triển phải đi đôi với giảm thiểu ô nhiễm
và phát thải, bởi tiêu dùng công nghiệp là nguyên nhân cơ bản tạo ra chất thải và
các tác động tới môi trường và cả xã hội. Có 2 nội dung “tiêu dùng công nghiệp”
quan trọng đó là: tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng sản phẩm công nghiệp.
Tiêu dùng sản xuất bao hàm cả việc khai thác tài nguyên phục vụ sản
xuất cần phải sử dụng tiết kiệm và hiệu quả, giảm thấp nhất chi phí tài nguyên
trên đơn vị sản phẩm hay giá trị công nghiệp tạo ra.
Tiêu dùng sản phẩm công nghiệp đang tạo ra lượng chất thải rất lớn
như: hàng tiêu dùng, bao gói, hoá chất v.v…nếu không được xử lý sẽ gây ra ô
nhiễm rất lớn nhưng nếu xử lý sẽ rất tốn kém. Tiêu dùng bền vững vì vậy
hướng tới các sản phẩm thân thiện môi trường, sản phẩm không chất thải, các
mô hình công nghiệp sinh thái trong đó các sản phẩm và chất thải được quay
vòng, tái sử dụng.
Tiêu chí thứ 4 cho rằng doanh nghiệp là cấu thành quan trọng nhất
của công nghiệp, mỗi doanh nghiệp phải thực sự bền vững mới tạo ra nền
công nghiệp bền vững. Khái niệm Doanh nghiệp bền vững phản ánh năng lực
tự điều chỉnh và thích nghi trong môi trường luôn biến động (bền vững động),
hàm chứ không chỉ các nội dung về kinh tế mà còn Trách nhiệm xã hội đầy
đủ (Corporate Social Responsibiliti - CSR) của doanh nghiệp. Trách nhiệm
xã hội đầy đủ (CSR) chính là trách nhiệm của doanh nghiệp đối với môi
trường và xã hội, song lớn hơn xu hướng mới mong muốn tạo ra các sắc thái
Văn hoá doanh nghiệp. Các sắc thái mới chứa đựng các nội dung đầy đủ hơn
không chỉ kinh tế, tạo ra giá trị riêng của doanh nghiệp và làm cho thương

hiệu trở nên bền vững. Bền vững trước hết phải bắt nguồn từ trong ý thức,
quyết định hành động và ứng xử của mỗi doanh nghiệp và chính văn hoá
doanh nghiệp tạo ra các giá trị gia tăng vô hình của doanh nghiệp trong nhiều
trường hợp lớn hơn giá trị hữu hình mà doanh nghiệp tạo ra. Đó chính là cách
tiếp cận cạnh tranh mới trong một thế giới hội nhập và theo các chuẩn mực
giá trị mới.
14
Tiêu chí cuối cùng gắn với Chia sẻ cơ hội thực hiện công bằng xã hội
đối với các nhóm lợi ích, sao cho mọi người đều có quyền bình đẳng tiếp cận
và chia sẻ các thành quả công nghiệp hoá. Trong tiêu chí này có thể thấy rằng
lợi ích mà công nghiệp có được là sự hy sinh những lợi ích khác cả về môi
trường và xã hội. Chính vì vậy, công nghiệp cần phải tạo ra cơ hội nhằm lập
lại công bằng đối với các nhóm lợi ích. Công nghiệp trước hết có thể góp
phần xoá đói, giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách vùng miền, chênh lệch giữa
nông thôn và thành thị để tạo cơ hội giải quyết các bất bình đẳng giới. Xét
đến cùng, phát triển bền vững chính là nhằm đến con người và đạt được mức
độ công bằng hơn trong chia sẻ phúc lợi xã hội đối với con người. Công
nghiệp trong các lựa chọn của mình phải hướng đến hay tạo ra các cơ hội để
thực hiện công bằng xã hội đang đặt ra.
Các vấn đề chính trị và an ninh được xem xét ở đây như là yếu tố
không thể thiếu của bền vững công nghiệp. Xuất phát từ nhận thức rằng
những thành tựu phát triển đạt được hôm nay chính là nhờ sự ổn định chính
trị và những giá trị lịch sử được thiết lập. Ở Việt Nam, nhờ đạt được sự chấp
thuận về chính trị mà nền kinh tế mới hoà đồng được với thế giới và có chỗ
đứng nhất đinh trên thị trường. Chính vì vậy, công nghiệp bên cạnh mục tiêu
phát triển phải góp phần vào ổn định chính trị, duy trì sự đoàn kết và tự do tín
ngưỡng, bảo tồn bản sắc văn hoá và các giá trị lịch sử. Đó là tiêu chí cần phải
cân nhắc để đạt được độ bền vững trong cộng đồng và phù hợp với thể chế
chính trị đặt ra.
Tiếp thu có chọn lọc khái niệm phát triển bền vững nói chung và các

khái niệm đã có, tác giả đưa ra khái niệm phát triển bền vững công nghiệp
như sau:
Phát triển bền vững công nghiệp là sự phát triển của công nghiệp
nhằm đáp ứng các nhu cầu hiện tại nhưng không làm ảnh hưởng đến khả
năng phát triển công nghiệp trong tương lai, là sự phát triển kết hợp hài hoà
giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường trong quá trình
sản xuất công nghiệp.
15
1.1.3. Nội dung và các chỉ tiêu phát triển bền vững công nghiệp
Hải Dương
1.1.3.1. Nội dung và các chỉ tiêu phát triển bền vững công nghiệp về
kinh tế
* Nội dung PTBV công nghiệp về kinh tế.
Phát triển bền vững công nghiệp về kinh tế là quá trình phát triển công
nghiệp đạt được tốc độ tăng trưởng cao, liên tục và dài hạn của công nghiệp,
đồng thời thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH.
Đương nhiên, sự tăng trưởng cao như vậy phải là tăng trưởng của giá
trị gia tăng (VA) chứ không phải là tăng trưởng nhanh giá trị sản xuất công
nghiệp (GO).
Tăng trưởng cao, liên tục và dài hạn của công nghiệp chỉ có thể thực
hiện được khi công nghiệp đạt được hiệu quả kinh tế cao và có năng lực cạnh
tranh cao. Hiệu quả sản xuất công nghiệp thể hiện ở phương thức tăng trưởng
phải chủ yếu dựa vào hiệu quả sử dụng các yếu tố nguồn lực và được thể hiện
qua năng suất tổng hợp các nhân tố TFP (Total Factor Produtivity).
Do vậy, các nội dung của phát triển bền vững công nghiệp về kinh tế phải
tập trung vào các giải pháp, vừa huy động được các lợi thế sẵn có của nguồn
lực, vừa có khả năng nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực và tạo ra sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng hiệu quả và tiến bộ hơn.
Thứ nhất, huy động được các nguồn lực sẵn có vào phát triển công
nghiệp.

Cần thu hút đầu tư nước ngoài và các thành phần kinh tế khác ngoài
nhà nước vào phát triển công nghiệp. Muốn vậy, phải tạo ra môi trường kinh
doanh thuận lợi và bình đẳng cho các chủ thể tham gia phát triển công nghiệp,
cụ thể là:
16
- Thực hiện nghiêm luật doanh nghiệp trong phát triển công nghiệp.
- Uỷ ban nhân dân tỉnh cùng các sở, ban, ngành quan tâm và tháo gỡ
những khó khăn, vướng mắc của cộng đồng doanh nghiệp.
- Ổn định kinh tế vĩ mô.
- Phát triển đồng bộ các thị trường quan trọng nhằm phát triển công
nghiệp như: thị trường KH&CN, thị trường sức lao động, thị trường tài
chính…
Thứ hai, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực.
Cần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, lao động và tài nguyên. Để thực
hiện nội dung này phải có các giải pháp để nâng cao trình độ công nghệ trong
sản xuất công nghiệp, bao gồm một số giải pháp cơ bản sau:
- Tạo điều kiện các doanh nghiệp, chủ thể sản xuất được tiếp cận với
các nguồn vốn để đổi mới công nghệ.
- Cung cấp thông tin thị trường công nghệ và phát triển các dịch vụ tư
vấn công nghệ trong các ngành công nghiệp.
- Hỗ trợ doanh nghiệp đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững công nghiệp.
Thứ ba, phát triển công nghiệp phải thực sự thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH.
Cơ cấu công nghiệp bền vững được thể hiện ở cơ cấu đa dạng nhưng
thống nhất, có khả năng hỗ trợ tốt cho nhau nhằm khai thác được tiềm năng
và lợi thế của Địa phương để nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả kinh
tế. Nghĩa là, cơ cấu công nghiệp hiện đại phải là sự phát triển của các ngành
công nghiệp có hàm lượng cao và độ chế biến sâu, được hỗ trợ bởi hệ thống
đổi mới và nghiên cứu phát triển có năng lực trở thành động lực chính của

tăng trưởng. Đối với Hải Dương, nội dung này thể hiện ở các ngành công
nghiệp có tác dụng thúc đẩy cho các ngành khác cùng phát triển đặc biệt là
17
ngành nông nghiệp (tiêu thụ các nguyên liệu đầu vào từ nông nghiệp). Nói
cách khác, chuyển dịch cơ cấu công nghiệp phải tạo điều kiện thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và dịch vụ theo hướng CNH, HĐH.
* Các chỉ tiêu của PTBV công nghiệp về kinh tế.
Từ những phân tích nội dung của PTBV công nghiệp về kinh tế ở trên,
có thể đưa ra một số chỉ tiêu của PTBV công nghiệp về kinh tế của Hải
Dương như sau:
- Tốc độ tăng trưởng của công nghiệp cao trong dài hạn.
- Hiệu quả sản xuất thể hiện ở chỉ số VA (giá trị gia tăng)/GO (giá trị
sản xuất công nghiệp) và hệ số năng suất tổng hợp các nhân tố(TFP) của công
nghiệp ngày càng cao.
- Tỷ trọng đóng góp của công nghiệp vào cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng
trưởng công nghiệp và đóng góp của nó vào tốc độ tăng trưởng kinh tế qua
các năm, các thời kỳ ngày càng cao.
- Sự biến đổi của tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu kinh tế chung và tỷ
trọng công nghiệp ở khu vực nông nghiệp và nông thôn ngày càng tăng.
- Tỷ trọng đóng góp của công nghiệp vào xuất khẩu.
- Năng suất lao động (thể hiện qua tiền lương trong ngành công nghiệp)
ngày càng tăng.
- Tỷ trọng công nghiệp chế biến ngày càng tăng trong tổng giá trị sản
xuất công nghiệp.
- Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và các sản phẩm công nghiệp
phải ngày càng được nâng lên.
1.1.3.2. Nội dung và các chỉ tiêu phát triển bền vững công nghiệp về
xã hội
* Nội dung phát triển bền vững công nghiệp về xã hội.
18

Phát triển bền vững công nghiệp về xã hội là sự phát triển của công
nghiệp gắn liền với giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu
nhập cho người dân, giảm khoảng cách thu nhập và trình độ phát triển giữa
các vùng miền và không làm ảnh hưởng đến lợi ích của nông dân trong quá
trình CNH, HĐH.
Với đặc trưng của lĩnh vực sản xuất có quy mô lớn, mức độ tập trung
và trình độ chuyên môn hóa cao, sản xuất công nghiệp hoàn toàn có khả năng
đáp ứng được đòi hỏi trên.
Tuy nhiên, đi liền với lợi thế đó, phát triển công nghiệp ở Việt Nam đã
và đang lấy đi từ nông nghiệp một diện tích đất canh tác không nhỏ. Thực
trạng trên đã dẫn đến một bộ phận lớn dân cư ở nông thôn rơi vào tình trạng
không có việc làm. Chỉ tính riêng ở tỉnh Hải Dương, giai đoạn 2001 - 2005
đã có hàng ngàn ha đất canh tác được chuyển đổi mục đích sử dụng sang xây
dựng các khu đô thị mới, KCN…làm cho gần 12 ngàn lao động bị thất nghiệp
và thiếu việc làm [27, tr.66].
Mặt khác, nhờ áp dụng hệ thống máy móc và những tiến bộ kỹ thuật
trong nông nghiệp làm cho năng suất lao động trong nông nghiệp tăng lên,
thu nhập của người lao động kể cả trong lĩnh vực nông nghiệp cũng ngày
càng cao hơn. Tuy vậy, sự thay thế lao động bằng máy móc khiến cho việc
làm ở khu vực nông thôn giảm xuống. Vì thế, lực lượng lao động nông nghiệp
của nước ta nói chung, của tỉnh Hải Dương nói riêng đang ở tình trạng dư
thừa tuyệt đối, chứ không đơn thuần là dư thừa lúc “nông nhàn”.
Trong bối cảnh như vậy, phát triển công nghiệp bền vững là sự cần
thiết phải đặt mục tiêu thu hút lao động, đặc biệt là lao động dôi dư trong
nông nghiệp bởi vì điều đó vừa có ý nghĩa nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn
lực lao động cho tăng trưởng, vừa góp phần giải quyết vấn đề xã hội cấp bách
là tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động và tích cực tham gia vào
xoá đói giảm nghèo.
19
Bên cạnh đó, hoạt động sản xuất công nghiệp ít phụ thuộc vào điều

kiện tự nhiên, nhờ đó phân bổ công nghiệp có thể thực hiện ở những địa điểm
ít thuận lợi đối với sản xuất nông nghiệp. Đây chính là lợi thế, mà nhờ đó
phát triển công nghiệp có khả năng làm giảm khoảng cách chênh lệch về thu
nhập và phát triển các vùng, miền.
Trong những năm qua, công nghiệp Việt Nam thường tập trung phát
triển trên những địa bàn có vị trí địa lý, khả năng cung ứng các nguồn lực và
hệ thống kết cấu hạ tầng thuận lợi, những địa bàn nói trên thường là các đô
thị. Hệ quả tất yếu là tạo ra sự phát triển kinh tế không đồng đều giữa các
vùng kinh tế, cũng như chênh lệch thu nhập giữa các vùng, chủ yếu là chênh
lệch giữa thành thị và nông thôn. Phát triển công nghiệp như vậy xét về lâu
dài vừa không bền vững về kinh tế, vừa không bền vững về xã hội, bởi lẽ,
những đô thị tập trung vừa đắt đỏ, tốn kém, vừa quá tải trong các hoạt động
kinh tế, xã hội, môi trường. Trong khi đó, ở khu vực nông thôn, nhất là ở
những vùng sâu, vùng xa người dân thiếu việc làm, thu nhập thấp, không
được thụ hưởng các điều kiện thuận lợi về kết cấu hạ tầng nghĩa là, ngày
càng bị cách biệt lớn cả về điều kiện, cũng như sự thụ hưởng thành quả của
phát triển.
Mặt khác, công nghiệp phát triển đồng thời phải bảo đảm không làm
tổn thất đến sản xuất nông nghiệp và lợi ích của người nông dân. Do đó, công
nghiệp không thể coi là PTBV nếu trong quá trình phát triển công nghiệp
không những không tạo ra được những điều kiện thuận lợi cho phát triển nông
nghiệp, mà còn gây ra những xung đột đối với lĩnh vực này. Đó là thực trạng
đang diễn ra ở Việt Nam trong thời gian qua, hệ thống kết cấu hạ tầng quy mô
lớn được đầu tư mạnh mẽ cho công nghiệp, trong khi hệ thống kết cấu hạ tầng
trong nông nghiệp vừa xuống cấp vừa lỗi thời; những vùng đất nông nghiệp
màu mỡ bị lấy không thương tiếc cho công nghiệp và những người nông dân
canh tác trên những mảnh ruộng đó được “đền bù” với giá rẻ mạt để rồi sau
đó họ làm gì để kiếm sống cũng không ai quan tâm. KCN được xây dựng ra
20
đến đâu, ô nhiễm lan ra đến đó và tất cả lại là người nông dân phải hứng chịu.

Mặc dù, phát triển công nghiệp nhưng người nông dân dù với tư cách là
người bán nguyên liệu nông, lâm, thuỷ sản cho các nhà máy công nghiệp chế
biến, hay với tư cách là người mua các vật tư phục vụ nông nghiệp thì họ đều
bị chèn ép. Đó là kiểu phát triển công nghiệp trên cơ sở công nghiệp thôn tính
nông nghiệp. Phát triển dựa trên nền tảng ấy sẽ làm cho công nghiệp không
thể tiến xa được, ở chỗ, an ninh lương thực không đảm bảo, đời sống nông
dân không được cải thiện, chênh lệch về thu nhập quá lớn giữa nông thôn và
thành thị ngày càng khoét sâu, lòng dân không yên sẽ gây ra sự bất ổn định.
Như vậy, để phát triển bền vững công nghiệp về xã hội cần tập trung
vào những nội dung sau đây:
- Hoàn thiện quy hoạch phát triển công nghiệp theo vùng lãnh thổ và
quy hoạch ngành công nghiệp dựa trên lợi thế các nguồn lực của Địa phương
bao gồm:
+ Tiếp tục quy hoạch phát triển công nghiệp ở những vị trí ít có điều
kiện để phát triển nông nghiệp, bên cạnh đó có tính đến các điều kiện về giao
thông và cơ sở hạ tầng.
+ Tiếp tục phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế về nguồn nguyên
liệu và nguồn lao động của Địa phương.
+ Khi quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng cho công nghiệp cần tính đến
củng cố hạ tầng cho phát triển nông nghiệp ở các vùng lân cận, trong đó có
quy hoạch xử lý các chất thải ra môi trường làm ảnh hưởng trực tiếp đến sản
xuất nông nghiệp.
- Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính trong chuyển đổi mục đích sử
dụng đất và hoàn thiện chính sách đền bù đất nông nghiệp cho nông dân.
- Thực hiện đồng bộ các giải pháp tạo việc làm, tăng thu nhập cho
người lao động trong quá trình phát triển công nghiệp, cụ thể như sau:
21
+ Đào tạo nghề cho người lao động, đặc biệt ưu tiên cho những người
nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp dành cho phát triển công nghiệp.
+ Đào tạo cho những người chuyển đổi nghề, đồng thời có chính sách

hỗ trợ cho những lao động có nhu cầu nâng cao tay nghề.
+ Phát triển thị trường lao động trong tỉnh để đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững công nghịêp.
- Khi xây dựng các KCN, CCN cần tính đến quy hoạch tiết kiệm đất
đai cho nông nghiệp, cũng như công tác thuỷ lợi ở những diện tích đất còn lại,
để những diện tích đó có thể canh tác được và chủ động được tưới tiêu.
* Chỉ tiêu phát triển bền vững công nghiệp về xã hội.
Dựa trên cơ sở những phân tích đã nêu, có thể đưa ra một số chỉ tiêu
phát triển bền vững công nghiệp về xã hội như sau:
- Đóng góp của công nghiệp vào tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập
cho người lao động, đặc biệt là khu vực bị thu hồi đất nông nghiệp trong quá
trình phát triển công nghiệp.
- Đóng góp của công nghiệp trong rút ngắn khoảng cách thu nhập giữa
thành thị và nông thôn.
- Trình độ hiện đại hóa đối với nông nghiệp dưới tác động của công
nghiệp.
1.1.3.3. Nội dung và các chỉ tiêu phát triển bền vững công nghiệp về
môi trường
* Nội dung phát triển bền vững công nghiệp về môi trường.
Phát triển bền vững công nghiệp về môi trường là sự phát triển của
công nghiệp vừa đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, vừa bảo
đảm được các yêu cầu bảo vệ môi trường xung quanh trong quá trình sản
xuất công nghiệp.
22
Để thực hiện phát triển bền vững công nghiệp về môi trường cần tập
trung vào những nội dung sau đây:
- Khai thác, sử dụng có hiệu quả và tiết kiệm tài nguyên, đặc biệt là tài
nguyên đất.
Công nghiệp là ngành khai thác và chế biến tài nguyên, song nó lại
phát thải một bộ phận tài nguyên chưa được sử dụng vào sản xuất. Do đó, nếu

sử dụng có hiệu quả và tiết kiệm tài nguyên không chỉ nâng cao hiệu quả kinh
tế của sản xuất công nghiệp mà còn làm hạn chế tình trạng cạn kiệt tài nguyên
và giảm chất thải thải ra môi trường. Điều này liên quan trước hết đến lựa
chọn các ngành công nghiệp chuyên môn hoá. Nếu như các ngành công
nghiệp khai mỏ chỉ dừng ở đẩy mạnh khai thác để xuất khẩu thô, hay các
ngành công nghiệp chế biến dừng lại quá lâu ở chế biến thô hoặc gia công ở
những công đoạn sản xuất có giá trị gia tăng thấp thì hậu quả sẽ là khó mà
duy trì được tốc độ tăng trưởng cao của công nghiệp trong dài hạn. Trong khi
đó, hậu quả của cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường lại diễn ra nhanh
chóng.
- Sản xuất công nghiệp phải đáp ứng giảm thiểu phát thải và ô nhiễm
môi trường từ các chất thải công nghiệp, kiểm soát được ô nhiễm cũng như
đảm bảo không làm ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp.
+ Phát triển công nghiệp thân thiện với môi trường, khuyến khích phát
triển các mô hình sản xuất sạch. Dù đã lựa chọn các ngành công nghiệp và
công nghệ sử dụng tiết kiệm tài nguyên, thì việc phát thải trong quá trình hoạt
động của công nghiệp vẫn là điều không thể tránh khỏi. Để phát triển công
nghiệp bền vững và đóng góp vào sự PTBV của nền kinh tế, phát triển công
nghiệp cần phải lưu ý về mặt công nghệ, không chỉ là công nghệ tiết kiệm tài
nguyên trong việc sản xuất ra các sản phẩm công nghiệp để phát thải ra môi
trường, mà còn là công nghệ “thân thiện” với môi trường, nghĩa là không chỉ
tiết kiệm tài nguyên để giảm phát thải, mà còn phải đảm bảo giảm các yếu tố
23
độc hại của chất thải trong quá trình sản xuất và trong quá trình sử dụng các
sản phẩm công nghiệp, cũng như khả năng tái chế chúng.
+ Khi quy hoạch các KCN, CCN phải tính đến xử lý chất thải ra môi
trường (đặc biệt là môi trường nước, CTR nguy hại công nghiệp…) ảnh
hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp của các vùng xung quanh KCN,
CCN.
+ Cần phát triển công nghệ xử lý chất thải rắn để đáp ứng cho yêu cầu

phát triển bền vững công nghiệp.
- Nâng cao hiệu quả và hiệu lực của các cơ quan quản lý nhà nước về
môi trường.
Để phát triển bền vững công nghiệp về môi trường, thì trước hết trách
nhiệm thuộc về các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường, đồng thời, cần
duy trì hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường, ngăn chặn và phòng ngừa
những tác động tiêu cực tới môi trường do phát triển công nghiệp gây ra.
Để kiểm soát ô nhiễm môi trường trong phát triển công nghiệp, hiện
nay thường sử dụng Tiêu chuẩn môi trường và Đánh giá tác động môi trường
(ĐTM).
Tiêu chuẩn môi trường là bộ phận quan trọng trong hệ thống pháp luật
về bảo vệ môi trường. Nó được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu tác động của
các chất độc hại và yếu tố an toàn đối với sinh vật, con người trong môi
trường xung quanh.
Trên cơ sở Tiêu chuẩn môi trường, phải thường xuyên đánh giá, giám
sát chặt chẽ mức độ và tác động các chất phát thải của các cơ sở công nghiệp.
Công việc này được thực hiện qua hai giai đoạn: trước khi dự án đi vào hoạt
động phải thực hiện Đánh giá tác động môi trường (trong thời gian thẩm định
dự án) và sau khi dự án đi vào hoạt động là giám sát môi trường.
24
* Các chỉ tiêu phát triển bền vững công nghiệp về môi trường.
Từ những phân tích ở trên có thể đưa ra những chỉ tiêu PTBV công
nghiệp về môi trường như sau:
- Mức tiêu hao nguyên, nhiên liệu trên một đơn vị sản xuất công
nghiệp.
- Mức tổn thất trong các hoạt động khai thác tài nguyên.
- Trình độ công nghệ của các ngành sản xuất công nghiệp.
- Số lượng các doanh nghiệp áp dụng ISO 14.000 (hệ thống quản lý
chất lượng môi trường), ISO 14.020 (nhãn sinh thái) và áp dụng mô hình sản
xuất sạch hơn.

- Số lượng các khu công nghiệp và các doanh nghiệp trong lĩnh vực
công nghiệp xử lý chất thải và công nghiệp tái chế.
- Mức độ đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường ở các khu vực.
- Hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước về môi trường.
Tóm lại, việc tách ra PTBV công nghiệp về kinh tế - xã hội - môi
trường chỉ là tương đối. Trên thực tế có nhiều yếu tố của PTBV về kinh tế -
xã hội - môi trường lồng ghép nhau. PTBV công nghiệp về xã hội - môi
trường định ra những yêu cầu phải tính đến trong xây dựng chiến lược, qui
hoạch (ngành và vùng), kế hoạch và các chính sách kinh tế trong phát triển
công nghiệp. Ngược lại, không có PTBV công nghiệp về kinh tế thì không thể
có điều kiện để giải quyết những vấn đề của xã hội và môi trường đặt ra.
1.2. VAI TRÒ, CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG CÔNG NGHIỆP
1.2.1. Vai trò của phát triển công nghiệp trong định hướng phát
triển bền vững của Việt Nam
Đối với những nước đang phát triển như Việt Nam, quá trình tăng
trưởng kinh tế đồng thời là quá trình chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế theo
25

×