Tải bản đầy đủ (.pdf) (49 trang)

Nghiên cứu gian lận báo cáo tài chính của doanh nghiệp trong thẩm định tín dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (532.12 KB, 49 trang )

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Đề tài:
Nghiên cứu gian lận báo cáo tài chính của doanh nghiệp
trong thẩm định tín dụng

Môn học: Nghiệp vụ ngân hàng thương mại
Lớp: Ngân hàng Đêm 1 – Khóa 22
GVHD: PGS. TS. Trầm Thị Xuân Hương
Danh sách thành viên:
 Nguyễn Thị Nhật Vy
 Phạm Thành Đạt
 Vương Thị Thùy Linh
 Triệu Quốc Phú
2

MỤC LỤC

MỤC LỤC 2
MỞ BÀI 4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGHIÊN CỨU GIAN LẬN BÁO CÁO TÀI CHÍNH TRONG THẨM
ĐỊNH TÍN DỤNG 5
1.1 Gian lận là gì? 5
1.2 Báo cáo tài chính: 5
1.2.1 Báo cáo tài chính là gì? 5
1.2.2 Hệ thống báo cáo tài chính: 6
1.2.3 Nguyên nhân gian lận BCTC: 8
1.2.4 Các dạng gian lận tài chính thường gặp: 10
CHƯƠNG 2: NGHIÊN CỨU GIAN LẬN BÁO CÁO TÀI CHÍNH TRONG THẨM ĐỊNH TÍNH DỤNG 11


2.1 Mục tiêu của việc phân tích BCTC: 11
2.2 Các bước phân tích báo cáo tài chính: 12
2.2.1 Phân tích tình hình hoạt động 12
2.2.2 Phân tích và đánh giá các chỉ số tài chính 15
2.2.3 Phân tích dòng tiền doanh nghiệp 27
2.2.4 Phân tích so sánh 32
2.3 Các dấu hiệu gian lận báo cáo tài chính 33
2.4 Các thủ thuật gian lận trong BCTC: 34
2.4.1 Che dấu công nợ và chi phí 34
2.4.2 Bóp méo doanh thu trong kỳ 35
2.4.3 Ghi nhận sai niên độ 36
2.4.4 Không khai báo đầy đủ thông tin 37
2.4.5 Giao dịch với công ty con 37
2.4.6 Ghi nhầm chỗ 38
2.4.7 Che giấu giao dịch 39
2.4.8 Thay đổi chính sách kế toán 39
2.4.9 Thực hiện các ước tính kế toán không phù hợp 40
2.5 Một số phương pháp- kỹ thuật phát hiện gian lận báo cáo tài chính 40
3

2.6 Xử lý khi phát hiện gian lận trong BCTC khi TĐTD: 43
2.7 Phân tích ví dụ thực tiến nhằm phát hiện gian lận và các dấu hiệu nhận biết: 43
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP KHUYẾN NGHỊ KIỂM SOÁT GIAN LẬN VỀ BÁO CÁO TÀI CHÍNH TRONG
CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÍN DỤNG 46
3.1 Ngân hàng, tổ chức tín dụng 46
3.2 Chính phủ 46
3.3 Doanh nghiệp 47
3.4 Công ty kiểm toán 47
KẾT LUẬN 49



4

MỞ BÀI
Tín dụng là hoạt động kinh doanh chiếm tỷ trọng cao nhất, cũng là hoạt động mang lại
nguồn thu lớn nhất của ngân hàng. Vấn đề lo ngại nhất của ngân hàng thương mại khi cho vay là
rủi ro nợ xấu luôn có khả năng xảy ra, nhất là trong thời kỳ mà nợ xấu của các ngân hàng đang ở
mức báo động. Rủi ro này có rất nhiều nguyên nhân, đều có thể gây ra tổn thất làm giảm thu
nhập, gây thiệt hại về tài chính cũng như uy tín của cả ngân hàng cũng như doanh nghiệp. Chính
vì vậy, vấn đề chất lượng thẩm định tín dụng luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của các ngân
hàng.
Trước khi tiến hành thẩm định tài chính doanh nghiệp, ngân hàng phải tiến hành thẩm
định mức độ tin cậy của báo cáo tài chính do doanh nghiệp cung cấp. Đây là yếu tố quyết định
đến chất lượng thẩm định tín dụng. Một báo cáo tài chính sẽ trở nên vô nghĩa với ngân hàng khi
nó được “làm đẹp” và phản ánh không chính xác tình hình tài chính thực tế của doanh nghiệp.
Vấn đề đặt ra chính là các gian lận đó là gì và làm sao để phát hiện ra những gian lận đó
trong báo cáo tài chính của doanh nghiệp? Các mánh khóe gian lận có thể không dễ bị phát hiện,
vì đó là gian lận các con số và không có sự mất mát tài sản hữu hình. Thậm chí, trong nhiều
trường hợp, khó có thể đánh giá cách hạch toán đó là đúng hay sai. Vì vậy, Nhóm 2 xin trình
bày đề tài “Nghiên cứu gian lận báo cáo tài chính của doanh nghiệp trong thẩm định tín
dụng” để phần nào làm rõ hơn về điều này.
5

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGHIÊN CỨU GIAN LẬN BÁO CÁO TÀI
CHÍNH TRONG THẨM ĐỊNH TÍN DỤNG
1.1 Gian lận là gì?
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 240 (VAS 240), gian lận là những hành vi cố ý
là sai lệch thông tin kinh tế, tài chính do một hay nhiều người trong Hội đồng quản trị, Ban
Giám đốc, các nhân viên hoặc bên thứ ba thực hiện, làm ảnh hưởng đến Báo cáo tài chính.
Thông thường, gian lận phát sinh khi hội đủ các yếu tố sau:

- Một cá nhân hay một tổ chức cố ý trình bày sai một yếu tố hay sự kiện quan trọng.
- Việc trình bày sai này sẽ làm cho người bị hại tin vào đó (người bị hại có thể là cá nhân
hay tổ chức).
- Người bị hại dựa vào và ra các quyết định trên cơ sở sự trình bày sai này.
- Người bị hại chịu các khoản lỗ về tiền, tài sản… do việc dựa trên sự trình bày sai này.
Gian lận có thể mang lại lợi ích cho cá nhân hay tổ chức. Khi cá nhân thực hiện gian lận,
lợi ích có thể là trực tiếp (như nhận tiền hay tài sản), hay gián tiếp (có ảnh hưởng nào đó, tăng
quyền lực, sự đền ơn, tiền thưởng…). Khi tổ chức (thường là nhân viên hành động trên tư cách
tổ chức) thực hiện gian lận thì lợi ích thu được thường là trực tiếp dưới hình thức thu nhập của
công ty tăng lên.
1.2 Báo cáo tài chính:
1.2.1 Báo cáo tài chính là gì?
Báo cáo tài chính là các báo cáo kế toán cung cấp các thông tin về tình hình tài chính,
tình hình kinh doanh và các luồng tiền của doanh nghiệp đáp ứng các cầu cho những người sử
dụng chúng trong việc đưa ra các quyết định về kinh tế.
Báo cáo tài chính được lập theo chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán dùng để tổng hợp
và thuyết minh về tình hình kinh tế, tài chính của đơn vị kế toán.
6

1.2.2 Hệ thống báo cáo tài chính:
1.2.2.1 Hệ thống BCTCcủa đơn vị kế toán thuộc hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước, cơ
quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, tổ chức có sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước và đơn vị
sự nghiệp, tổ chức không sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước gồm:
- Bảng cân đối tài khoản;
- Báo cáo thu, chi;
- Bản thuyết minh báo cáo tài chính;
- Các báo cáo khác theo quy định tại pháp luật.
1.2.2.2 Hệ thống BCTC của đơn vị kế toán thuộc hoạt động kinh doanh gồm:
- Bảng cân đối kế toán;
- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh;

- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ;
- Bản thuyết minh báo cáo tài chính
1.2.2.3Vai trò, chức năng của từng loại báo cáo trong nghiên cứu BCTC:
 Bảng cân đối kế toán (balance sheet - BS):
Là báo cáo tổng hợp cho biết tình hình tài chính của đơn vị tại những thời điểm nhất định
dưới hình thái tiền tệ. Đây là một báo cáo tài chính có ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi đối
tượng có quan hệ sở hữu, quan hệ kinh doanh với doanh nghiệp.
Bảng cân đối kế toán phản ánh hai nội dung cơ bản là nguồn vốn tài sản. Nguồn vốn phản
ánh nguồn vốn được huy động vào sản xuất kinh doanh. Về mặt pháp lý, nguồn vốn cho thấy
trách nhiệm của doanh nghiệp về tổng số vốn đã đăng ký kinh doanh với Nhà nước, số tài sản đã
hình thành bằng nguồn vốn vay ngân hàng, vay đối tượng khác, cũng như trách nhiệm phải
thanh toán với người người lao động, cổ đông, nhà cung cấp, trái chủ, ngân sách Phần tài sản
phản ánh quy mô và cơ cấu các lọai tài sản hiện có đến thời điểm lập báo cáo thuộc quyền quản
lý, sử dụng của doanh nghiệp, năng lực và trình độ sử dụng tài sản. Về mặt pháp lý, phần tài sản
thể hiện tiềm lực mà doanh nghiệp có quyền quản lý, sử dụng lâu dài, gắn với mục đích thu
được các khoản lợi nhuận.
7

Bảng cân đối kế toán là tài liệu quan trọng bậc nhất giúp cho nhà phân tích nghiên cứu
đánh giá một cách khái quát tình hình và kết quả kinh doanh, khả năng cân bằng tài chính, trình
độ sử dụng vốn và những triển vọng kinh tế, tài chính của doanh nghiệp.
 Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (Profit & Loss – PL):
Là báo cáo tài chính tổng hợp cho biết tình hình tài chính của doanh nghiệp trong từng
thời kỳ nhất định, phản ánh tóm lược các khoản doanh thu, chi phí, kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của toàn doanh nghiệp, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh theo từng hoạt động
kinh doanh: sản xuất kinh doanh, đầu tư tài chính, hoạt động bất thường. Bên cạnh đó, báo cáo
kết quả hoạt động kinh doanh còn cho biết tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước của doanh
nghiệp trong thời kỳ đó.
Dựa vào số liệu trên báo cáo kết quả kinh doanh, người sử dụng thông tin có thể kiểm tra,
phân tích, đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ, so sánh với kỳ

trước và với doanh nghiệp khác để nhận biết khái quát hoạt đọng trong kỳ và xu hướng vận
động.
Đối với các trường hợp doanh nghiệp đã đi vào giai đoạn phát triển ổn định, báo cáo kết
quả hoạt động kinh doanh là một yếu tố quan trọng cho người xử dụng biết được tình hình hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp một cách rõ ràng nhất, cung cấp nhiều nhất các thông tin về
hướng phát triển trong quá khứ nhằm đưa ra được dự báo tăng trưởng cho tương lai. Do vậy khi
phân tích báo cáo tài chính, đây là phần nên được phân tích thận trọng và cẩn thận nhất.
 Báo cáo lưu chuyển tiền tệ:
Được lập để trả lời những câu hỏi liên quan đến luồng tiền ra vào trong doanh nghiệp,
tình hình trả nợ, đầu tư bằng tiền của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cung cấp những thông tin về những luồng vào, ra của tiền và
tương đương tiền, những khoản đầu tư ngắn hạn có tính lưu động cao, có thể nhanh chóng và
sẵn sàng chuyển đổi thành một khoản tiền biết trước ít chịu rủi ro lỗ về giá trị do những sự thay
đổi về lãi suất. Những luồng vào ra của tiền và những khoản coi như tiền được tổng hợp thành
ba nhóm: lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động kinh doanh, lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động đầu tư, lưu
chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính và lập theo phương pháp trực tiếp, gián tiếp. Dựa vào báo
8

cáo lưu chuyển tiền tệ, ta có thể phân tích được tính thanh khoản thực tế của doanh nghiệp tại
thời điểm lập báo cáo, cũng như những nguồn tiền đóng góp cho sự thanh khoản đó và những
dòng chi phí mà doanh nghiệp cần chú ý để khống chế tính thanh khoản của doanh nghiệp mình.
 Thuyết minh báo cáo tài chính:
Nhằm cung cấp các thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh chưa có trong hệ thống
các báo cáo tài chính, đồng thời giải thích một số chỉ tiêu mà trong các báo cáo tài chính chưa
được trình bày, giải thích thêm một cách cụ thể, rõ ràng.
Trong quá trình phân tích báo cáo tài chính, thuyết minh báo cáo tài chính là phần dễ bị
bỏ qua, nhưng lại mang nhiều thông tin quan trọng cho từng hoạt động cụ thể của doanh nghiệp
trong kỳ.
Các báo cáo tài chính trong doanh nghiệp có mối quan hệ mật thiết với nhau, mỗi sự thay
đổi của một chỉ tiêu trong báo cáo này trực tiếp hay gián tiếp ảnh hưởng đến các báo cáo kia,

trình tự đọc hiểu được các báo cáo tài chính, qua đó họ nhận biết được và tập trung vào các chỉ
tiêu tài chính liên quan trực tiếp tới mục tiêu phân tích của họ.
1.2.3 Nguyên nhân gian lận BCTC:
Gian lận là các hành vi bất thường và phi pháp mang chủ ý lừa dối, hay đưa
thông tin thiếu chính xác mà cá nhân đó biết rõ là sai hoặc tin là không đúng. Người có hành vi
gian lận biết rõ hành vi đó có thể đem lại lợi ích bất hợp pháp cho cá nhân hoặc tổ chức nào đó.
Gian lận có thể do người bên trong hoặc bên ngoài tổ chức thực hiện.
Trên góc độ kiểm toán báo cáo tài chính, gian lận là những hành vi cố ý làm sai lệch
thông tin kinh tế, tài chính do một hay nhiều người trong Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc, các
nhân viên hoặc bên thứ ba thực hiện, làm ảnh hưởng đến báo cáo tài chính.
Mục đích chính của việc gian lận báo cáo tài chính là che dấu tình hình tài chính thực
(thể hiện tình hình kinh doanh tốt hơn thực tế hoặc cho dấu lợi nhuận thực tế), một số hoạt động
của công ty đối với những người sử dụng báo cáo tài chính (các giao dịch nội bộ, giao dịch
ngầm với các đối tác )
Áp lực hoặc lợi ích là lý do để một cá nhân hay doanh nghiệp thực hiện hành vi gian lận.
9

 Một số nguyên nhân dẫn đến hành vi gian lận BCTC thường gặp:
- Áp lực mất các lợi ích kinh tế, hoàn thành các chỉ tiêu đặt ra cũng như duy trì xu hướng
phát triển tốt của công ty trước các cổ đông, chủ sở hữu cũng như công chúng. Đây cũng là
nguyên nhân có thể gây ra thiệt hại lớn đến chủ sở hữu công ty, do những hoạt động kinh doanh
không thành công, gây thiệt hại lớn đã được giấu đi và thay vào những thành tích tốt.
Lợi ích có thể là khoản tiền thưởng hoặc phần thưởng về tài chính dựa trên mức độ hoàn
thành chỉ tiêu tài chính của công ty hoặc bộ phận (ví dụ: tăng trưởng doanh thu, giá cổ
phiếu) hay là giảm gánh nặng thuế, tăng lợi nhuận; Phân chia phí dịch vụ hoặc chia hoa hồng…
Việc một công ty gian lận tài chính nhằm thu hút đầu tư bên ngoài và chuyển những lợi ích cho
một số cá nhân của công ty cũng là một hành vi thường thấy trong các vụ cố ý gian lận nhầm lừa
đảo.
- Làm giảm gánh nặng thuế của doanh nghiệp. Thực chất nguyên nhân này nhằm đem lại
nhiều lợi ích hơn cho người sở hữu công ty cùng các cá nhân liên quan đến công ty chứ không

nhằm mục đích gây thiệt hại cho những cá nhân này. Nhưng việc qua mặt này có thể gây ra hậu
quả lớn hơn nhiều khi bị phát hiện bởi các cơ quan nhà nước, về cả phương diện kinh tế lẫn lợi
ích của công ty.
- “Làm đẹp” tình hình sản xuất kinh doanh, mở ra một triển vọng đạt kết quả hoạt động
tốt… nhằm mục đích vay vốn từ các chủ nợ (ngân hàng, cá nhân cho vay).
- Ngoài những mục đích có ảnh hưởng xấu nói trên, đôi khi nhà quản trị công ty cũng
thực hiện một số gian lận trên báo cáo tài chính nhằm đem lại kết quả tốt cho công ty mình.
Đứng về góc độ tác động tích cực, những bản Báo cáo tài chính bị làm thay đổi với động cơ tích
cực, thực sự phát huy tác dụng của mình cho doanh nghiệp khi nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của công ty, nâng cao lợi nhuận theo kế hoạch, đảm bảo một số hệ tài chính mà công ty đặt
ra. Như vậy, việc phù phép tài chính lúc này trở thành công cụ can thiệp hữu hiệu vào các số
liệu tài chính không chỉ cho các nhà lãnh đạo và các NĐT. Ngoài ra, việc công bố rõ ràng và đầy
đủ các thông tin về tình hình tài chính cũng như hoạt động của công ty nhiều khi lại tạo điều
kiện cho các đối thủ cạnh tranh nắm được hoạt động của công ty. Điều này gây bất lợi cho dự án
đầu tư và có thể gây thua lỗ cho dự án. Còn nếu chỉ khai báo chung chung thì sẽ không tạo ra
niềm tin đối với các NĐT, như vậy, cũng bất lợi về nguồn vốn đầu tư cho công ty. Phương án
10

này sẽ làm cho công ty bị mất một khoản lợi nhuận tương đối, tưc chi phí cơ hội của lựa chọn
này khá cao. Do vậy, lựa chọn phương án phù phép Báo cáo tài chính là lựa chọn tối ưu.
Từ những nguyên nhân đã trình bày ở trên, có thể thấy được việc gian lận báo cáo tài
chính có thể gây ra những thiệt hại lớn cho các cá nhân sở hữu công ty cũng như những người
đầu tư vào sự phát triển của công ty. Nhưng việc vận dụng sự thay đổi một số thông tin trên báo
cáo tài chính một các phù hợp cũng sẽ mang lại lợi ích cho công ty và các cá nhân liên quan.
1.2.4 Các dạng gian lận tài chính thường gặp:
- Đối với doanh nghiệp nhà nước: gian lận thường tập trung ở mảng chi phí. Các công
chức lợi dụng chức quyền, để tham ô tiền của nhà nước hay để sử dụng cho cá nhân nên gian lận
thường thông qua hình thức khai khống chi phí hay hợp thức hoá các chứng từ giả mạo để đưa
vào chi phí hợp lý hợp lệ.
- Trong ngành xây dựng cơ bản: Gian lận tiến hành phổ biến thông qua các việc cố ý

không tuân thủ̉ thiết kế ban đầu nhằm giảm bớt chi phí thi công; các bên thông đồng trong công
tác khảo sát thiết kế - nghiệm thu công trình để phân chia khoản chênh lệch thu được.
- Với các công ty cổ phần có niêm yết trên thị trường chứng khoán: gian lận thường xảy
ra theo chiều hướng khai khống doanh thu và thu nhập, ghi giảm chi phí và công nợ nhằm khai
khống lợi nhuận, làm đẹp tình hình kinh doanh của công ty và thu hút nhà đầu tư trong việc mua
cổ phiếu; hay tăng giá cổ phiếu.
- Các doanh nghiệp tư nhân hay công ty trách nhiệm hữu hạn: Gian lận thường xuất hiện
trong việc khai báo thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp, khai khống chi phí và
giấu doanh thu nhằm giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp. Gian lận còn được thực hiện
qua việc thông đồng với đối tác nước ngoài lập hồ sơ xuất khẩu hàng giả mạo theo đường tiểu
ngạch nhằm chiếm đoạt tiền hoàn thuế giá trị gia tăng của nhà nước.
- Các công ty có vốn đầu tư nước ngoài: Gian lận thường là khai thiếu chi phí và công nợ
hay chuyển chi phí - công nợ của thời kỳ này sang kỳ kế toán kế tiếp hoặc khai khống doanh thu
để đạt được mục tiêu mà công ty mẹ đặt ra. Ngược lại, nếu công ty tập trung vào vấn đề giảm
thiểu thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp thì khai khống chi phí, công nợ và ghi giảm doanh
thu.
11


CHƯƠNG 2: NGHIÊN CỨU GIAN LẬN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
TRONG THẨM ĐỊNH TÍNH DỤNG
2.1 Mục tiêu của việc phân tích BCTC:
Báo cáo tài chính (BCTC) rất hữu ích đối với việc quản trị doanh nghiệp, đồng thời là
nguồn thông tin tài chính chủ yếu đối với những người ngoài doanh nghiệp. BCTC không những
cho biết tình hình tài chính của doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo mà còn cho thấy những
kết quả hoạt động mà doanh nghiệp đạt được trong hoàn cảnh đó.
Có hai mục tiêu chính trong phân tích BCTC:
- Thứ nhất, mục tiêu ban đầu của việc phân tích báo cáo tài chính là nhằm để "hiểu được
các con số" hoặc để "nắm chắc các con số", tức là kiểm tra, xem xét, đối chiếu, so sánh các số
liệu về tài sản, công nợ, nguồn vốn và tình hình tài chính của doanh nghiệp.

- Thứ hai, do sự định hướng của công tác phân tích tài chính nhằm vào việc ra quyết
định, một mục tiêu quan trọng khác là nhằm đưa ra một cơ sở hợp lý cho việc dự đoán tương lai.
Trên thực tế, tất cả các công việc ra quyết định, phân tích tài chính hay tất cả những việc tương
tự đều nhằm hướng vào tương lai. Do đó, người ta sử dụng các công cụ và kĩ thuật phân tích báo
cáo tài chính nhằm cố gắng đưa ra đánh giá có căn cứ về tình hình tài chính tương lai của công
ty, dựa trên phân tích tình hình tài chính trong quá khứ và hiện tại, và đưa ra ước tính tốt nhất về
khả năng của những sự cố kinh tế trong tương lai.
Phân tích BCTC là quá trình BCTC của doanh nghiệp được nhiều đối tượng quan tâm
như chủ doanh nghiệp, các nhà đầu tư, người cho vay, người cung cấp. Khách hàng, hội đồng
quản trị, các cổ đông, người lao động v.v Mỗi đối tượng quan tâm đến BCTC ở một góc độ
khác nhau.
- Đối với chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp: mối quan tâm hàng đầu
của họ là tìm kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ để đảm bảo sự tồn tại và phát triển doanh
nghiệp. Ngoài ra, các nhà quản trị doanh nghiệp còn quan tâm đến các mục tiêu khác như tạo
công ăn việc làm nâng cao chất lượng sản phẩm, đóng góp phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường
v.v Điều đó chỉ thực hiện được khi kinh doanh có lãi và thanh toán được nợ nần.
12

Đối với các chủ ngân hàng, những người cho vay, mối quan tâm của họ chủ yếu hướng
vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Vì vậy, quan tâm đến báo cáo tài chính của doanh nghiệp
họ đặc biệt chú ý đến số lượng tiền tạo ra và các tài sản có thể chuyển đối nhanh thành tiền.
Ngoài ra, họ còn quan tâm đến số lượng vốn của chủ sở hữu để đảm bảo chắc chắn rằng các
khoản vay có thể và sẽ được thanh toán khi đến hạn.
- Đối với các nhà đầu tư, sự quan tâm của họ hướng vào các yếu tố như rủi ro, thời gian
hoàn vốn, mức tăng trưởng, khả năng thanh toán vốn v.v Vì vậy họ để ý đến báo cáo tài chính
là để tìm hiểu những thông tin về điều kiện tài chính, tình hình hoạt động, kết quả kinh doanh,
khả năng sinh lời hiện tại và tương lai
- Đối với nhà cung cấp họ phải quyết định xem có cho phép doanh nghiệp sắp tới có
được mua hàng chịu hay không. Vì vậy họ phải biết được khả năng thanh toán của doanh nghiệp
hiện tại và thời gian sắp tới.

- Đối với các cơ quan quản lý chức năng của nhà nước, các cổ đông, người lao động
mối quan tâm cũng giống như các đối tượng kể trên ở góc độ này hay góc độ khác.
2.2 Các bước phân tích báo cáo tài chính:
2.2.1 Phân tích tình hình hoạt động
Nội dung phân tích:Xem xét đánh giá sự thay đổi giữa đầu kỳ so với cuối kỳ, đầu năm so
với cuối năm, năm này so với năm khác để xác định tình hình tăng giảm vốn trong doanh
nghiệp. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào sự tăng giảm của tổng tài sản và tổng nguồn vốn của doanh
nghiệp thì chưa thể thấy rõ tình hình tài chính của doanh nghiệp. Vì vậy, cần phải phân tích mối
quan hệ giữa các khoản mục của bảng cân đối kế toán dựa trên quan điểm luân chuyển vốn trong
doanh nghiệp. Cụ thể, chúng ta có thể phân tích thông qua các tiêu chí sau:
 Phân tích cơ cấu tài sản: Xem xét từng khoản mục tài sản của doanh nghiệp trong tổng
số để thấy được mức độ đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuỳ từng
loại hình kinh doanh để xem xét tỷ trọng của từng tài sản chiếm trong tổng số là cao hay thấp.
Đồng thời với việc phân tích cơ cấu tài sản, cần xem xét tình hình biến động của các khoản mục
tài sản cụ thể. Qua đó, đánh giá sự hợp lý của sự biến động.
 Phân tích cơ cấu vốn – chi phí vốn:
13

Cơ cấu vốn là thuật ngữ phản ánh việc doanh nghiệp sử dụng các nguồn vốn khác nhau
với một tỷ lệ nào đó cuả mỗi nguồn tài trợ cho tổng số tài sản.
Chi phí vốn là chi phí trả cho việc huy động và sử dụng vốn. Nói cách khác, chi phí vốn
là giá của việc sử dụng vốn.
Đánh giá khả năng tự tài trợ về mặt tài chính của doanh nghiệp, cũng như mức độ tự chủ,
chủ động trong kinh doanh hay những khó khăn mà doanh nghiệp phải đương đầu.
Đối với nguồn hình thành tài sản, cần xem xét tỷ trọng từng loại chiếm trong tổng số
cũng như xu hướng biến động của chúng. Nếu nguồn vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng cao trong
tổng số nguồn vốn thì doanh nghiệp có đủ khả năng tự bảo đảm về mặt tài chính và mức độ độc
lập của doanh nghiệp đối với chủ nợ (ngân hàng, nhà cung cấp ) cao. Ngược lại, nếu công nợ
phải trả chiếm chủ yếu trong tổng nguồn vốn (kể cả về số tương đối và số tuyệt đối) thì khả năng
đảm bảo về mặt tài chính sẽ thấp .

 Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh:
Để đảm bảo có đủ tài sản cho hoạt động sản xuất kinh doanh, DN cần phải tập hợp các
biện pháp tài chính cần thiết cho việc huy động nguồn vốn. Nhu cầu vốn của DN tại bất cứ thời
điểm nào cũng chính bằng tổng số tài sản DN cần phải có để đảm bảo cho hoạt động sản xuất
kinh doanh. Có thể phân nguồn vốn (nguồn tài trợ) thành hai loại:
Nguồn tài trợ thường xuyên (nguồn tài trợ dài hạn): là nguồn mà DN được sử dụng
thường xuyên, lâu dài vào hoạt động kinh doanh. Bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn
vay-nợ dài hạn, trung hạn (trừ nợ quá hạn).
Nguồn tài trợ tạm thời (nguồn vốn ngắn hạn): là nguồn mà DN tạm thời được sử dụng
vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong một khoảng thời gian ngắn. Thuộc nguồn tài trợ tạm
thời bao gồm các khoản vay ngắn hạn, nợ ngắn hạn, các khoản vay-nợ quá hạn (kể cả vay- nợ
dài hạn), các khoản chiếm dụng bất hợp pháp của người mua, người bán và cán bộ công nhân
viên chức.
Phân tích tình hình đảm bảo vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, cần tính ra và so
sánh tổng nhu cầu về tài sản (TSLĐ,TSCĐ) với nguồn vốn chủ sở hữu iện có và nguồn vốn vay-
nợ dài hạn. Nếu tổng số nguồn có đủ hoặc lớn hơn tổng số nhu cầu về tài sản thì DN cần sử
dụng số thừa này một cách hợp lý, tránh bị chiếm dụng. Ngược lại, khi nguồn vốn không đáp
14

ứng đủ nhu cầu về tài sản thì DN cần phải có biện pháp để huy động và sử dụng phù hợp, tránh
bị chiếm dụng bất hợp pháp.
 Phân tích tình hình lợi nhuận của doanh nghiệp:
Trong phân tích tình hình lợi nhuận của DN, ta có thể thực hiện thành hai phần: phân tích
xu hướng tăng trưởng của lợi nhuận và tính ổn định của tăng trưởng; phân tích cơ cấu lợi nhuận
qua các thời kỳ
o Phân tích xu hướng tăng trưởng lợi nhuận:
Để thực hiện phần phân tích này, ta cần báo cáo kết quả kinh doanh của DN trong nhiều
kỳ, thời gian cách nhau giữa các kỳ báo cáo càng nhỏ càng tốt (báo cáo hàng năm, hàng quý,
hàng tháng). Việc có chi tiết các báo cáo lợi nhuận qua từng kỳ có thể cho người phân tích một
cái nhìn bao quát và chi tiết hơn về mức độ phát triển lợi nhuận, chu kỳ lợi nhuận cũng như các

vấn đề liên quan của DN.
o Phân tích cơ cấu lợi nhuận:
Đây là phần có ý nghĩa quan trọng nhưng thường hay bị bỏ qua. Việc DN kiếm được lợi
nhuận tốt trong kỳ báo cáo không có nghĩa là công việc kinh doanh của doanh nghiệp đang thực
sự tốt. Để đảm bảo được xu hướng phát triển lâu dài của doanh nghiệp, nguồn lợi nhuận chính
nên có từ các hoạt động kinh doanh chủ yếu của DN, chứ không phải các hoạt động phụ bên
ngoài. Việc phân tích này cũng cho ta thấy được những dấu hiệu về các hoạt động tác động đến
báo cáo tài chính của DN.
- Lợi nhuận từ hoạt động bán hàng và cung cấp dịch vụ: Là lợi nhuận thu được từ hoạt
động kinh doanh hàng hóa dịch vụ được hình thành từ việc thực hiện chức năng và nhiệm vụ
chủ yếu của doanh nghiệp. Những nhiệm vụ này được ghi trong quyết định thành lập DN. Bộ
phận lợi nhuận này thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng lợi nhuận của DN.
- Lợi nhuận từ hoạt động tài chính: Ngoài lĩnh vực hoạt động bán hàng và cung cấp dịch
vụ, các DN còn có thể tham gia vào hoạt động đầu tư tài chính, hoạt động tài chính là hoạt
động đầu tư vốn ra bên ngoài DN.
- Thu nhập từ các hoạt động đầu tư khác: được hình thành từ những nguồn bất thường
khác ngoài các hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động đầu tư tài chính, là số chênh lệch
15

giữa các khoản thu nhập khác và các khoản chi phí khác ngoài dự tính của DN. Những khoản lãi
này phát sinh không thường xuyên, DN không dự kiến trước được nhưng ít có khả năng thực
hiện.
2.2.2 Phân tích và đánh giá các chỉ số tài chính
2.2.2.1 Nhóm các chỉ số phản ánh khả năng thanh toán
 Khả năng thanh toán hiện hành:

Theo một số tài liệu nước ngoài, khả năng thanh toán hiện hành sẽ trong khoảng từ 1-> 2.
Tỷ số thanh toán hiện hành >1 tức là tài sản lưu động > Nợ ngắn hạn, lúc này các tài sản
ngắn hạn sẵn có lớn hơn những nhu cầu ngắn hạn, vì thế tình hình tài chính của doanh nghiệp là
lành mạnh ít nhất trong thời gian ngắn.

Thêm nữa, do tài sản lưu động > Nợ ngắn hạn nên tài sản cố định < Nợ dài hạn + Vốn
chủ sở hữu, và như vậy các nguồn vốn dài hạn của doanh nghiệp không những đủ tài trợ cho tài
sản cố định mà còn được dùng để tài trợ cho lưu động.
Trường hợp tỷ số thanh toán hiện hành < 1 tức là tài sản lưu động < Nợ ngắn hạn, lúc này
các tài sản ngắn hạn sẵn có nhỏ hơn nhu cầu ngắn hạn, vì thế doanh nghiệp có khả năng không
trả hết các khoản nợ ngắn hạn đúng hạn.
Thêm nữa, do tài sản lưu động < Nợ ngắn hạn nên tài sản cố định > Nợ dài hạn + Vốn
chủ sở hữu, và như vậy doanh nghiệp đang phải dùng các nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ tài sản
dài hạn, đang bị mất cân đối tài chính.
Tuy nhiên phân tích tỷ số chỉ mang tính thời điểm, không phản ánh được cả một thời kỳ,
một giai đoạn hoạt động của doanh nghiệp, vì thế các tỷ số này phải được xem xét liên tục và
phải xác định nguyên nhân gây ra kết quả đó như từ hoạt động kinh doanh, môi trường kinh tế,
yếu kém trong tổ chức, quản lý của doanh nghiệp, các nguyên nhân, yếu tố trên mang tính tạm
thời hay dài hạn, khả năng khắc phục của doanh nghiệp, biện pháp khắc phục có khả thi hay
không?
Một vấn đề nữa khi đánh giá khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp qua phân tích tỷ
số là phải loại bỏ các khoản phải thu khó đòi, các khoản tồn kho chậm luân chuyển trong tài sản
T


s


thanh toán hi

n hành = Tài s

n
lưu đ


ng/n


ng

n h

n

16

lưu động của doanh nghiệp. Và như vậy, hệ số thanh toán nhanh tăng không có nghĩa là khả
năng thanh toán của doanh nghiệp được cải thiện nếu chúng ta chưa loại bỏ các khoản phải thu
khó đòi, tồn kho chậm luân chuyển khi tính toán.
 Khả năng thanh toán nhanh:

Tỷ số này thường > 0,5 là chấp nhận được
Việc loại bỏ hàng tồn kho khi tính toán khả năng thanh toán nhanh là do hàng tồn kho sẽ
phải mất thời gian hơn để chuyển chúng thành tiền mặt hơn các khoản mục tài sản lưu động
khác.
Tương tự như tỷ số thanh toán hiện hành, việc xem xét tỷ số thanh toán nhanh cũng phải
xem xét đến các khoản phải thu khó đòi để đảm bảo đánh giá khả năng thanh toán nợ của doanh
nghiệp một cách chính xác nhất.
 Khả năng thanh toán tức thời:


Tỷ lệ đo lường khả năng thanh toán của doanh nghiệp một cách hữu hiệu nhất phải nói
đến là hệ số thanh toán tức thời, nó cho biết khả năng thanh toán các khoản nợ bằng tiền và
chứng khoán dễ bán của doanh nghiệp. Đây là chỉ tiêu ưu tiên hàng đầu cần đánh giá khi xem
xét cung cấp các khoản tín dụng ngắn hạn cho doanh nghiệp. Việc đánh giá tỷ lệ thanh toán tức

thời này là khác nhau dựa trên đặc trừng từng doanh nghiệp, nhưng thấp nhất thì tỷ số này cũng
không nên nhỏ hơn 0,1.
 Khả năng thanh toán dài hạn:
Để đánh giá khả năng này ta cần dựa trên năng lực tài sản cố định hình thành từ vốn vay
và mức trích khấu hao cơ bản hàng năm, xem xét xem mức trích khấu hao cơ bản hàng năm có
đủ trả nợ các khoản vay dài hạn đến hạn trả không.

T


s


thanh toán nhanh = (Ti

n m

t + TSLĐ khác + Ph

i thu)/N


ng

n h

n

H



s


thanh toán n


dài h

n =
Dòng ti

n thu

n sau thu
ế
/(
V

n vay đ

u tư đ
ế
n
hạn trong năm tới)
T


s



thanh toán
t

c th

i

= (Ti

n
và các kho

n tương đương ti

n
)/N


ng

n h

n

17

Hệ số này < 1 chứng tỏ dòng tiền hàng năm tại thời điểm hiện tại của doanh nghiệp
không đủ trích trả nợ các khoản vay trung dài hạn đến hạn trả và doanh nghiệp có khả năng
không trả nợ đúng hạn và phải sử dụng các nguồn bổ sung khác để trả nợ.

2.2.2.2 Nhóm các chỉ số phản ánh hiệu quả hoạt động:
 Vòng quay các khoản phải thu khách hàng và kỳ thu tiền bình quân:



Tỷ số này cho biết thời gian chậm trả trung bình các khoản phải thu hoặc thời gian trung
bình để chuyển các khoản phải thu thành tiền mặt
Thời gian thu hồi công nợ ngắn có thể cung cấp những thông tin sau:
o Chính sách tín dụng bán trả chậm cho khách hàng của doanh nghiệp quá khắt khe:
Điều này sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, đặc biệt khi mà doanh nghiệp
không phải là doanh nghiệp lớn, hoạt động lâu dài, có thị phần lớn.
o Việc thu hồi công nợ của doanh nghiêp rất hiệu quả: tìm hiểu thêm về cách thức thu
hồi công nợ của công ty.
o Khả năng sinh lời và điều kiện tài chính của khách hàng tốt: Liên hệ với tỷ suất sinh
lời, tốc độ tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận để kết luận.
o Doanh nghiệp chỉ hoặc thường bán hàng trả ngay bằng tiền mặt: xem xét loại hình kinh
doanh và phương thức bán hàng, mạng lưới phân phối của công ty.
Thời gian thu hồi công nợ dài có thể cung cấp những thông tin sau:
o Chính sách bán hàng trả chậm của doanh nghiệp là dễ dàng: xem xét cụ thể thị trường
của hàng hoá doanh nghiệp đang kinh doanh, nếu doanh nghiệp mới thâm nhập thị trường thì
chính sách bán hàng linh hoạt là hợp lý. Tuy nhiên nếu doanh nghiệp đang có thị phần vững
chắc, khi thay đổi về chính sách bán hàng phải xem xét cụ thể khả năng cạnh tranh của khách
hàng, các biến động về giá cả, chất lượng của hàng hoá khách hàng đang kinh doanh, tốc độ
tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận, khả năng bán hàng, tình hình tài chính và định hướng kinh
doanh của doanh nghiệp cũng như xem xét tình hình tài chính của bạn hàng, các phát sinh phải
Vòng quay các kho

n ph

i thu = Doanh thu/(ph


i thu khách hàng bình quân
đ

u
kỳ + cuối kỳ)
K


thu ti

n bình quân = 12 tháng/ vòng quay các kho

n ph

i thu

18

thu chi tiết, tuổi nợ các khoản phải thu để xác định lý do thực chất của việc thay đổi chính sách
bán hàng.
o Việc thu hồi công nợ của doanh nghiệp không hiệu quả: tìm hiểu về cách thức thu hồi
công nợ của công ty để có hướng tư vấn kịp thời.
 Vòng quay hàng tồn kho và thời gian tồn kho bình quân:


Tỷ số này cho biết doanh nghiệp lưu hàng tồn kho, gồm có nguyên vật liệu và hàng hoá
trong bao nhiêu tháng. Để duy trì hoạt động kinh doanh thì hàng hoá cần phải trữ ở một số
lượng cần thiết nào đó. Tuy nhiên, lưu giữ quá nhiều hàng tồn kho đồng nghĩa với việc vốn sử
dụng kém hiệu quả (dòng tiền sẽ giảm đi do vốn kém hoạt động và như vậy lãi vay sẽ tăng lên).

Điều này làm tăng chi phí lưu giữ hàng tồn kho và tăng rủi ro khó tiêu thụ hàng tồn kho này do
có thể không hợp nhu cầu tiêu dùng cũng như thị trường kém đi. Do vậy tỷ số này cần xem xét
để xác định thời gian tồn kho có hợp lý theo chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và
mức độ bình quân chung của ngành cũng như mức tồn kho hợp lý đảm bảo cung cấp được bình
thường.
 Vòng quay vốn lưu động và số ngày hoàn thành chu kỳ kinh doanh:

Vòng quay vốn lưu động xác định số ngày hoàn thành 1 chu kỳ kinh doanh của doanh
nghiệp.
Vòng quay vốn lưu động quá thấp chứng tỏ khả năng thu hồi tiền hàng, khả năng luân
chuyển hàng hoá thấp, luân chuyển vốn chậm nên chi phí về vốn tăng lên làm giảm hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp.
Vòng quay vốn lưu động khác nhau đối với các doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh
vực khác nhau, ví dụ vòng quay vốn lưu động của các doanh nghiệp kinh doanh thương mại bao
giờ cũng phải cao hơn vòng quay vốn lưu động của các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực
sản xuất, xây dựng cơ bản.
Vòng quay hàng t

n kho = Giá v

n/Hàng t

n kho bình quân

Th

i gian

t


n kho bình quân = 12 tháng/vòng quay hàng t

n kho

Vòng quay
v

n lưu đ

ng

= Doanh thu/
V

n lưu đ

ng

bình quân

19

Khi xem xét vòng quay vốn lưu động của 1 doanh nghiệp, cần so sánh với mức bình quân
chung của ngành cũng như các chính sách bán hàng, tiêu thụ hàng của doanh nghiệp để kết luận
chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp là ở mức bình thường, tốt hay không tốt.
Đặc biệt, đối với mặt hàng kinh doanh có tính thời điểm, mùa vụ cao thì việc xác định
vòng quay vốn lưu động thực chất khi tính toán hạn mức tín dụng cho khách hàng còn cần phải
dựa vào các hợp đồng mua bán hàng hoá, thời gian tồn kho thực tế của khách hàng
 Vòng quay khoản phải trả và kỳ trả nợ bình quân:



Vòng quay phải trả và số ngày phải hoàn trả nợ là chỉ tiêu vừa phản ánh uy tín của doanh
nghiệp đối với bạn hàng vừa phản ánh khả năng trả nợ của doanh nghiệp.
Đối lập với vòng quay phải thu và hàng tồn kho có xu hướng càng tăng càng tốt thì đối
với các doanh nghiệp càng được chậm trả nợ càng tốt nên họ rất muốn kéo dài thời gian hoàn trả
nợ dẫn đến vòng quay phải trả thấp. Vòng quay phải trả thấp, số ngày hoàn trả nợ kéo dài có thể
là dấu hiệu cho thấy công ty rất có uy tín và là khách hàng tốt của nhà cung cấp nên được cho
chậm trả, nhưng cũng có thể là dấu hiệu cho thấy khách hàng đang khó trả các khoản nợ đến
hạn. Để khẳng định được khả năng thanh toán nợ của khách hàng cần phân tích chi tiết các
khoản phải trả, các khách hàng cho nợ, doanh số phát sinh nợ có và tuổi nợ các khoản phải trả,
đối chiếu với hợp đồng mua hàng, xem xét tốc độ tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận, khả năng
thu hổi công nợ … để có kết luận về việc vòng quay phải trả thấp là do khách hàng được cho
chậm trả hay do khách hàng kinh doanh yếu kém mất khả năng thanh toán các khoản nợ.
 Chỉ số phản ánh hiệu quả tài sản cố định:
Hiệu quả tài sản cố định được đánh giá qua 2 chỉ tiêu sau:
o Hiệu suất sử dụng tài sản cố định: Doanh thu/Giá trị xuất tài sản cố định
o Suất sinh lợi xuất tài sản cố định: Lợi nhuận sau thuế/giá trị xuất tài sản cố định
Về nguyên tắc, các tỷ số càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng càng tốt. Tuy nhiên việc
phân tích các tỷ số hiệu quả tài sản cố định không chỉ dừng lại ở 2 kết quả trên mà vấn đề là phải
xác định được cấu trúc của các tỷ số đó.
Vòng quay kho

n ph

i tr


= giá v

n/kho


n ph

i tr


bình quân

S


ngày ph

i hoàn tr


n


= 12 tháng/vòng quay kho

n ph

i tr


20

Đối với doanh nghiệp vừa kinh doanh thương mại vừa sản xuất công nghiệp, hoạt động
thương mại sẽ cho kết quả cao hơn, trong khi đó hoạt động sản xuất sẽ thấp hơn. Việc lấy số liệu

từ bảng cân đối sẽ tổng hợp cả 2 lĩnh vực trên và đưa ra kết quả không phản ánh chính xác thực
tế kinh doanh của Công ty. Vì vậy đối với những trường hợp này nếu có thể được sẽ tách 2
mảng kinh doanh để phân tích riêng rẽ.
Các kết quả từ tỷ số trên cũng có thể không chính xác trong các trường hợp như: tài sản
cố định mới được đưa vào sản xuất, công suất huy động còn thấp hoặc tài sản đã được sử dụng
lâu năm, sắp thanh lý không còn sử dụng.
2.2.2.3 Nhóm các chỉ số phản ánh về cơ cấu
 Hệ số nợ / Tổng tài sản : (Tổng nợ phải trả) / (Tổng tài sản)
Tổng số nợ bao gồm toàn bộ các khoản nợ ngắn hạn, dài hạn tại thời điểm lập báo cáo tài
chính. Các khoản nợ ngắn hạn bao gồm tất cả các khoản phải trả, các hoá đơn mua hàng phải
thanh toán, các khoản nợ lương, nợ thuế Các khoản nợ dài hạn là các khoản nợ có thời hạn dài
hơn một năm như nợ vay dài hạn, trái phiếu, tài sản thuê mua
Tổng tài sản bao gồm tài sản lưu động và tài sản cố định.
Hệ số này được sử dụng để xác định nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp với các chủ nợ trong
việc góp vốn. Thông thường các chủ nợ thích một hệ số nợ vừa phải vì hệ số này càng thấp thì
khoản nợ càng được bảo đảm trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản. Trong khi đó các chủ
sở hữu doanh nghiệp lại ưa thích một hệ số nợ cao vì họ muốn lợi nhuận gia tăng nhanh mà vẫn
toàn quyền kiểm soát doanh nghiệp. Song, nếu tỷ lệ nợ quá cao thì doanh nghiệp dễ rơi vào tình
trạng mất khả năng thanh toán.
 Hệ số nợ/ Vốn chủ sở hữu: (Tổng nợ phải trả) / (VCSH)
Hệ số này cho ta nhận xét về mối quan hệ giữa nợ phải trả và vốn chủ sở hữu
 Hệ số cơ cấu nguồn vốn: (Tổng VCSH) / (Tổng nguồn vốn)
21

Chỉ tiêu này cho thấy mức độ độc lập hay phụ thuộc của doanh nghiệp đối với chủ nợ,
mức độ tự tài trợ của DN đối với tổng số vốn kinh doanh của mình. Hệ số này càng lớn thể hiện
doanh nghiệp có nhiều vốn tự có, tính độclập cao với chủ nợ, khả năng an toàn về trả nợ cao.
2.2.2.4 Nhóm các hệ số phản ánh khả năng sinh lời
 Tỷ suất sinh lời doanh thu thuần
Nếu doanh thu thuần được coi là 100% thì giá vốn hàng bán, chi phí tài chính, chi phí bán

hàng, lợi nhuận là bộ phận cấu thành nên doanh thu. Thông thường, việc phân tích lợi
nhuận/doanh thu không chỉ dừng lại ở việc phân tích tỷ lệ lợi nhuận ròng chiếm bao nhiêu %
doanh thu mà quan trọng hơn là phân tích cả lợi nhuận gộp, các yếu tố chi phí khác trên doanh
thu để xem xét tình hình lợi nhuận của Công ty đang bị ảnh hưởng bởi chi phí nguyên vật liệu,
khấu hao hay do chi phí tài chính hay do chi phí quản lý doanh nghiệp quá cồng kềnh….
Khi một doanh nghiệp mới hoạt động hay có một sản phẩm mới thì tỷ số lợi nhuận/doanh
thu thường thấp (hoặc thua lỗ) do công suất huy động máy móc thiết bị thấp, sản phẩm đang
thâm nhập thị trường, nhu cầu chưa cao, giá bán thấp để chiếm lĩnh thị phần dẫn đến doanh thu
đạt thấp trong khi chi phí cố định: khấu hao, lãi vay ở mức cao. Nhưng nếu sản phẩm đã có chỗ
đứng trên thị trường, và nếu kiểm soát tốt các yếu tố chi phí gián tiếp thì tỷ số sẽ có xu hướng
tăng.
Nếu một công ty có nhiều sản phẩm hoặc kinh doanh trên nhiều lĩnh vực và mỗi lĩnh vực
có sổ sách kế toán riêng đầy đủ thì việc phân tích tỷ số của mỗi sản phẩm, lĩnh vực sẽ cho một
cái nhìn tổng thể về các lĩnh vực nào cho kết quả kinh doanh tốt cần phát triển mạnh, các lĩnh
vực nào kết quả kinh doanh chưa tốt cần hạn chế hoặc chuyển hướng đầu tư.
Không phải việc tăng tỷ suất lợi nhuận/doanh thu lúc nào cũng phản ánh doanh nghiệp
đang kinh doanh tốt và việc giảm tỷ suất lợi nhuận/doanh thu lúc nào cũng phản ánh doanh
nghiệp đang kinh doanh kèm hiệu quả mà việc xem xét tăng/giảm tỷ suất sinh lời doanh thu là
tốt hay xấu cũng cần phân tích rõ lý do của việc tăng/giảm tỷ số.
o Việc tăng tỷ suất lợi nhuận doanh thu là tốt nếu:
- Lợi nhuận và doanh thu cùng tăng
22

- Doanh thu giảm do doanh nghiệp không tiếp tục vào lĩnh vực đầu tư không hiệu quả.
Lợi nhuận trong trường hợp này có thể giảm nhưng giảm ít hơn doanh thu. Hoặc lợi nhuận lại
tăng lên do giảm lĩnh vực đầu tư không hiệu quả lên quản lý chi phí tốt hơn.
o Việc tăng tỷ suất lợi nhuận/doanh thu là xấu nếu: việc tăng là do lợi nhuận và doanh
thu cùng giảm nhưng lợi nhuận giảm chậm hơn doanh thu với các lý do giảm như sau:
- Doanh nghiệp bị giảm năng lực cạnh tranh, năng lực sản xuất
- Hàng hoá bán ra tiêu thụ kém

- Doanh nghiệp phải giảm giá bán để chiếm lĩnh lại thị phần
o Việc giảm tỷ suất lợi nhuận/doanh thu không phải là một dấu hiệu chứng tỏ hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp bị giảm sút nếu:
- Lợi nhuận và doanh thu đều tăng nhưng lợi nhuận tăng chậm hơn doanh thu do hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được mở rộng nhưng do vay nợ nhiều hơn nên chi
phí lãi vay nhiều hơn, hay do mới mỏ rộng quy mô hoạt động nên công suất sản xuất chưa cao,
chi phí quản lý, chi phí khấu hao còn lớn.
- Trong trường hợp doanh thu tăng nhưng lợi nhuận không tăng thì cũng không phải là
dấu hiệu doanh nghiệp kinh doanh không hiệu quả. Để kết luận phải xem xét cơ cấu chi phí và
bản chất việc giảm lợi nhuận là do giá vốn tăng hay do doanh nghiệp quản lý tài chính, quản lý
hoạt động không tốt dẫn đến các chi phí hoạt động quá cao so với quy mô tăng trưởng doanh
thu.
- Ngay cả khi doanh thu và lợi nhuận đều giảm cũng không phải là dấu hiệu kinh doanh
của công ty đang xấu nếu do doanh nghiệp đang thu hẹp hoạt động, chuyển hướng đầu tư vào
các lĩnh vực hiệu quả, dừng hoạt động những lĩnh vực, mặt hàng kém hiệu quả.
o Việc giảm tỷ suất lợi nhuận/doanh thu là một dấu hiệu chứng tỏ hoạt động kinh doanh
của đơn vị đang có chiều hướng xấu nếu:
- Doanh thu và lợi nhuận đều giảm do công ty kinh doanh không tốt, sản phẩm không
bán được, khả năng cạnh tranh giảm sút
23

- Lợi nhuận giảm thì dù doanh thu tăng cũng không phải là dấu hiệu tốt mà ngược lại nó
còn cho thấy công ty đang đầu tư vào những mảng kinh doanh kém hiệu quả.
 Tỷ suất sinh lời tổng tài sản (ROA): Lợi nhuận sau thuế/tổng tài sản
Khi xem xét chỉ tiêu này cần chú ý rằng: đối với doanh nghiệp có quy mô tài sản lưu
động quá lớn, hoặc tỷ trọng vốn vay cao thì tỷ số này thường rất thấp do chi phí lãi vay cao làm
lợi nhuận thấp.
o Tỷ suất sinh lời tổng tài sản tăng là tốt nếu: doanh nghiệp tăng vốn chủ sở hữu, giảm
nợ vay làm giảm chi phí lãi vay nên lợi nhuận đạt được cao hơn.
o Tỷ suất sinh lời tổng tài sản tăng là dấu hiệu thể hiện doanh nghiệp làm ăn không hiệu

quả nếu: doanh nghiệp giảm nợ vay do hoạt động kinh doanh bị thu hẹp, doanh thu lợi nhuận
giảm nhưng giảm thấp hơn tốc độ giảm tổng tài sản.
o Tỷ suất sinh lời tổng tài sản giảm không phải là dấu hiệu tồi nếu: việc giảm là do công
ty tăng VCSH nên tổng nguồn vốn tăng tương ứng tổng tài sản tăng, nhưng mức lợi nhuận tăng
chậm hơn tăng tổng tài sản.
o Tỷ suất sinh lời tổng tài sản giảm là dấu hiệu tồi nếu: doanh nghiệp tăng nợ vay,
VCSH giảm do kinh doanh lỗ vốn, hoặc hoạt động kinh doanh mở rộng những đầu tư vào những
lĩnh vực không hiệu quả nên lợi nhuận không tăng, thậm chí còn giảm so với trước.
 Tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu (ROE): (Lợi nhuận sau thuế)/(VCSH)
Đây là chỉ số được các nhà đầu tư, cổ đông của doanh nghiệp quan tâm nhất vì nó phản
ánh những gì mà họ sẽ được hưởng. Nếu Công ty đạt được một tỷ lệ lợi nhuận trên vốn hợp lý,
nó có thể:
o Duy trì trả cổ tức đều đặn cho các cổ đông
o Duy trì tỷ lệ lợi nhuận để lại hợp lý cho sự phát triển của doanh nghiệp
o Tránh việc tìm kiếm các nguồn bổ sung từ bên ngoài có chi phí vốn cao
o Đưa ra một hình ảnh lành mạnh để thu hút đối tác, nhân viên và giới tài chính
Kết quả tính toán tỷ suất này càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn tự có càng cao. Ta
thường dùng chi phí cơ hội của việc cho vay trên thị trường tiền tệ (trái phiếu kho bạc, tiền gửi
24

tiết kiệm …) làm mốc so sánh với chỉ số trên để xác định hiệu quả vốn tự có. Một doanh nghiệp
phải có tỷ số cao hơn lãi suất tiết kiệm thì mới được coi là đạt hiệu quả.
Việc xem xét chỉ tiêu này có một ý nghĩa quan trọng là xác định mục tiêu kinh doanh của
ban lãnh đạo doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận hay tối đa hoá quy mô. Nếu doanh nghiệp có
tỷ số này càng cao, lợi nhuận để lại càng lớn thì quy mô vốn tự có sẽ ngày càng tăng kết hợp với
hoạt động đầu tư thận trọng, thì tỷ lệ VCSH/tổng nguồn vốn sẽ tăng dần, mức độ rủi ro cho vay
của doanh nghiệp giảm. Ngược lại nếu doanh nghiệp có tỷ số này thấp, khả năng tích luỹ hạn
chế, trong khi đó quy mô đầu tư mở rộng thì Doanh nghiệp sẽ dùng nguồn vốn vay bên ngoài
nhiều hơn sẽ làm cho tỷ trọng vốn CSH/tổng nguồn vốn giảm, kinh doanh không bền vững làm
tăng rủi ro khi cho vay

Tuy nhiên tỷ số này sẽ không phản ánh đúng thực chất doanh nghiệp nếu doanh nghiệp
hoạt động bằng vốn vay là chủ yếu, vốn chủ sở hữu quá thấp.
Ngoài ra khi phân tích cần so sánh với tỷ số này năm trước.
Tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu tăng hay giảm chưa thể hiện hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp tốt hay không mà quan trọng là xác định lý do làm tỷ số này tăng hay giảm để từ
đó có kết luận phù hợp.
o ROE tăng là tốt nếu lợi nhuận tăng, vốn chủ sở hữu không bị giảm đi, thậm chí còn
tăng lên.
o ROE tăng là xấu nếu công ty kinh doanh thua lỗ, phải thu hẹp hoạt động, doanh thu
giảm, lỗ vốn nên vốn chủ sở hữu giảm và vốn chủ sở hữu giảm nhiều hơn lợi nhuận.
o ROE giảm là tốt nếu cả lợi nhuận và vốn chủ sở hữu đều tăng nhưng vốn chủ sở hữu
tăng nhanh hơn tốc độ tăng lợi nhuận.
o ROE giảm là xấu nếu cả lợi nhuận và vốn chủ sở hữu đều giảm do kinh doanh thua lỗ,
thu hẹp quy mô …
2.2.2.5 Hiệu quả hoạt động kinh doanh
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn nhân
tài, vật lực của doanh nghiệp để đạt kết quả cao nhất trong quá trình kinh doanh với chi phí thấp
nhất.
25

Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là một vấn đề phức tạp, có quan hệ với tất cả các
quan hệ với tất cả các yếu tố trong quá trình kinh doanh (lao động, tư liệu lao động, đối tượng
lao động) nên doanh nghiệp chỉ đạt được hiệu quả kinh doanh khi việc sử dụng các yếu tố cơ
bản của quá trình kinh doanh có hiệu quả.
Để đánh giá chính xác, có cơ sở khoa học hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, cần
phải xây dựng hệ thống chỉ tiêu phù hợp bao gồm các chỉ tiêu tổng quát và các chỉ tiêu cụ thể.
Các chỉ tiêu phải phản ánh được sức sản xuất, sinh lợi và suất hao phí của từng yếu tố, từng loại
vốn và phải thống nhất với công thức tính hiệu quả chung.
Hiệu quả kinh doanh = (Kết quả đầu ra) / (Kết quả đầu vào) (1)
Kết quả đầu ra được xác định bằng các chỉ tiêu như: Tổng sản lượng, doanh thu thuần, lãi

gộp, thu nhập thuần Còn các yếu tố đầu vào bao gồm lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao
động, vốn vay, vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu (1) phản ánh sức sản xuất, sức sinh lợi của các chỉ tiêu phản ánh đầu vào.
Hiệu quả kinh doanh còn được đo bằng cách nghịch đảo.
Hiệu quả kinh doanh = (Kết quả đầu vào) / (Kết quả đầu ra) (2)
Chỉ tiêu (2) phản ánh suất hao phí của các chỉ tiêu đầu vào, nghĩa là để có một đơn vị kết
quả đầu ra thì hao phí hết mấy đơn vị chi phí đầu vào.
 Phương pháp phân tích: Tính ra các chỉ tiêu phục vụ cho quá trình phân tích, sau đó so
sánh giữa kỳ phân tích với kỳ gốc (kỳ kế hoạch hoặc thực tế kỳ trước). Nếu các chỉ tiêu phản
ánh hiệu quả tăng lên chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản tăng lên và ngược lại. Bên cạnh đó cần
so sánh với số liệu của các doanh nghiệp khác hoặc chỉ số trung bình ngành (nếu có) để đưa ra
các kết luận khách quan nhất.
2.2.2.6 Các chỉ số giá trị thị trường (Market Value Ratios)
Có thể rút ra nhiều kết luận có ý nghĩa từ việc phân tích kỹ bảng cân đối kế toán và kết
quả kinh doanh. Tuy nhiên, có một đặc tính rất quan trọng của doanh nghiệp lại không thể tìm
thấy trong các báo cáo kế toán: giá trị thị trường của doanh nghiệp.

×