TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HỆ
ĐÀO
TẠO SAU ĐẠI
HỌC
TIỂU LUẬN: MÔN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
Đề tài:
TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NHÀ ĐẦU TƯ TRÊN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
THEO ĐỀ ÁN 1826
GVHD: PGS. TS Bùi Kim Yến
Khóa 22 – Lớp NH Đêm 1 – Nhóm 5
TP.HCM, Tháng 10, năm 2013
Danh sách nhóm
1. Nguyễn Thị Dung
2. Nguyễn Thị Hoài Thương
3. Bùi Thị Thu Thủy
4. Nguyễn Mạnh Toàn
5. Nguyễn Phạm Nhã Trúc
6.Lê Thị Kim Tuyên
7.Đinh Hoàng Sơn
NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN
TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 2
MỤC LỤC
I. Thực trạng nhà đầu tư Việt Nam hiện nay 6
1.1. Tổng quan về tình hình chứng khoán 6
1.1.1. Khái niệm và bản chất của thị trường chứng khoán 6
1.1.2. Vị trí và cấu trúc của thị trường chứng khoán: 6
1.1.3. Vai trò và chức năng của thị trường chứng khoán 7
1.2. Tình hình chung về thị trường chứng khoán ở Việt Nam 8
1.3. Tổng quan nhà đầu tư ở Việt Nam 11
1.3.1. Thành tựu 11
1.3.2. Hạn chế 11
II. Phân tích vấn đề tái cấu trúc cơ sở nhà đầu tư trong đề án 1826: 14
2.1. Mục tiêu của việc tái cấu trúc cơ sở nhà đầu tư: 14
2.2. Các giải pháp thực hiện tái cấu trúc cơ sở nhà đầu tư: 14
2.2.1. Hoàn thiện khung pháp lý 14
2.2.2. Xây dựng các cơ chế, chính sách 16
2.2.3. Nâng cấp hạ tầng kỹ thuật thị trường 24
2.2.4. Vấn đề công bố, minh bạch thông tin 26
2.2.5. Đẩy mạnh công tác đào tạo tấp huấn 27
2.2.6. Đẩy mạnh công tác thanh tra, giám sát 32
2.2.7. Điều chỉnh tỉ lệ tham gia của các nhà đầu tư 34
2.2.8. Phân định rõ hoạt động đầu tư và áp dụng các giải pháp kỹ thuật thu hút
dòng vốn đầu tư 36
NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN
TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 3
III. Lộ trình thực hiện tái cấu trúc cơ sở nhà đầu tư trong đề án 1826 và thực
trạng 37
3.1. Lộ trình thực hiện 37
3.2. Thực trạng 37
NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN
TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 4
LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam được thành lập từ tháng 7/2000. Qua
hơn 12 năm hoạt động, tuy còn non trẻ nhưng nó đã từng bước trở thành kênh dẫn vốn
trung và dài hạn của nền kinh tế, hỗ trợ tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước,
đồng thời góp phần huy động vốn cho ngân sách nhà nước, và cho quá trình thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.Tuy nhiên trong những năm gần đây cùng với sự
đi xuống theo chu kỳ của nền kinh tế thế giới, thị trường chứng khoán Việt Nam đã
bộc lộ các điểm yếu kém cố hữu của mình. Đó là sự nghèo nàn của cơ sở hàng hoá,
nhà đầu tư chưa chuyên nghiệp, các công ty chứng khoán ồ ạt mở ra nhưng hoạt động
không hiệu quả … Để thị trường chứng khoán Việt Nam có thể tiếp tục tồn tại và đóng
góp cho nền kinh tế, việc tái cấu trúc nó là tất yếu. Đứng trước tình hình đó, ngày 6 tháng
12 năm 2012, chính phủ đã ra quyết định số 1826/QĐ-TTg phê duyệt đề án tái cấu
trúc thị trường chứng khoán và doạnh nghiệp bảo hiểm. Theo đó, sẽ tập trung trên các
giải pháp nhằm thực hiện các mục tiêu:
Tái cấu trúc cơ sở hàng hóa trên thị trường chứng khoán.
Tái cấu trúc thị trường trái phiếu Chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp
Tái cấu trúc cơ sở nhà đầu tư.
Tái cấu trúc tổ chức kinh doanh chứng khoán.
Tái cấu trúc các doanh nghiệp bảo hiểm.
Tái cấu trúc các Sở Giao dịch chứng khoán và Trung tâm Lưu ký Chứng khoán
Việc thực hiện thành công đề án tái cấu trúc thị trường chứng khoán sẽ có vai trò
lớn, đóng góp vào chuỗi giải pháp tái cấu trúc nền kinh tế Viêt Nam bao gồm: (1) Tái cấu
trúc đầu tư công, (2) tái cấu trúc hệ thông ngân hàng thương mại và (3) tái cấu trúc doanh
nghiệp nhà nước. Thực vậy, thị trường chứng khoán phát triển bền vững thì mới phát
huy kênh dẫn vốn trung và dài hạn để thay thế dần cho đầu tư công, giảm áp lực cho tín
NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN
TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 5
dụng ngân hàng và rủi ro hệ thống của các ngân hàng; mặt khác, việc tái cấu trúc doanh
nghiệp Nhà nước chỉ thành công khi thị trường chứng khoán đủ hấp dẫn để tạo thuận lợi
cho tiến trình cổ phần hóa, huy động vốn và tổ chức lại các doanh nghiệp nhà nước.
Với sự tinh thần ham học hỏi tìm tòi nghiên cứu của các thành viên thực hiện đề
tài cùng sự phân công hướng dẫn của PGS.TS Bùi Kim Yến, nhóm chúng tôi đã thực
hiện đề tài nghiên cứu “VẤN ĐỀ TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NHÀ ĐẦU TƯ TRÊN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826”. Cấu trúc chính của bài nghiên
cứu được chia thành 3 chương.
- Chương 1: Thực trạng nhà đầu tư Việt Nam hiện nay.
- Chương 2: Phân tích vấn đề tái cấu trúc cơ sở nhà đầu tư trong đề án 1826
- Chương 3: Lộ trình thực hiện tái cấu trúc cơ sở nhà đầu tư trong đề án 1826 và
thực trạng
NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN
TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 6
I. Thực trạng nhà đầu tư Việt Nam hiện nay
1.1. Tổng quan về tình hình chứng khoán
1.1.1. Khái niệm và bản chất của thị trường chứng khoán
Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về TTCK, nhưng thị trường chứng
khoán trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, được quan niệm là nơi diễn ra các hoạt
động giao dịch mua bán chứng khoán trung và dài hạn. Chứng khoán được hiểu là các
loại giấy tờ có giá hoặc bút toán ghi sổ. Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ
cấp khi người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành, và ở những
thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị
trường sơ cấp.
Như vậy, xét về mặt hình thức, thị trường chứng khoán chỉ là nơi diễn ra các hoạt
động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi chủ thể
nắm giữ chứng khoán. Bản chất của thị trường chứng khoán là thị trường thể hiện mối
quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư mà ở đó, giá cả của chứng khoán chứa đựng
thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư.
1.1.2. Vị trí và cấu trúc của thị trường chứng khoán:
1.1.2.1. Vị trí của thị trường chứng khoán trong thị trường tài chính:
Thị trường chứng khoán là một bộ phận của thị trường tài chính. Vị trí của thị
trường chứng khoán trong thị trường tài chính thể hiện:
- Thị trường chứng khoán là hình ảnh đặc trưng của thị trường vốn.
- Thị trường chứng khoán là hạt nhân trung tâm của thị trường tài chính, nơi diễn
ra quá trình phát hành, mua bán các công cụ nợ và các công cụ vốn (các công cụ
sở hữu).
1.1.2.2. Cấu trúc của thị trường chứng khoán:
NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN
TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 7
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch, mua bán những sản phẩm tài
chính (cổ phiếu, trái phiếu, các khoản vay ngân hàng có kỳ hạn trên 1 năm). Sau đây là
một số cách phân loại TTCK cơ bản.
a. Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn
Thị trường chứng khoán được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
Thị trường sơ cấp: Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát
hành. Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông
qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành.
Thị trường thứ cấp: Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát
hành trên thị trường sơ cấp, đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành.
b. Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường
Thị trường chứng khoán được phân thành thị trường tập trung (Sở giao dịch chứng
khoán) và phi tập trung (thị trường OTC).
c. Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường
Thị trường chứng khoán cũng có thể được phân thành các thị trường: thị trường cổ
phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh.
Thị trường cổ phiếu: thị trường cổ phiếu là thị trường giao dịch và mua bán các loại
cổ phiếu, bao gồm cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi.
Thị trường trái phiếu: thị trường trái phiếu là thị trường giao dịch và mua bán các trái
phiếu đã được phát hành, các trái phiếu này bao gồm các trái phiếu công ty, trái phiếu đô
thị và trái phiếu chính phủ.
Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh: Thị trường các chứng khoán phái sinh
là thị trường phát hành và mua đi bán lại các chứng từ tài chính khác như: quyền mua cổ
phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn
1.1.3. Vai trò và chức năng của thị trường chứng khoán
NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN
TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 8
Thứ nhất, thị trường chứng khoán, với việc tạo ra các công cụ có tính thanh khoản
cao, có thể tích tụ, tập trung và phân phối vốn, chuyển thời hạn của vốn phù hợp với yêu
cầu phát triển kinh tế.
Thứ hai, thị trường cứng khoán góp phần thực hiện tái phân phối công bằng hơn,
thông qua việc buộc các tập đoàn gia đình trị phát hành chứng khoán ra công chúng.
Thứ ba, thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho việc giữa sở hữu và quản lý.
Thứ tư, hiệu quả của quốc tế hóa thị trường chứng khoán . Việc mở của thị trường
chứng khoán làm tăng tính thanh khoản và cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Thứ năm, thị trường cứng khoán tạo cơ hội cho Chính Phủ huy động các nguồn tài
chính mà không tạo áp lực về lạm phát, đồng thời tạo các công cụ cho việc thực hiện
chính sách tài chính tiền tệ của Chính Phủ.
1.2 Thị trường chứng khoán Việt Nam
Việt Nam đã quyết đinh thành lập thị trường chứng khoán Việt Nam với những
đặc thù riêng biệt: thành lập 2 trung tâm giao dịch chứng khoán ở thành phố Hồ Chí
Minh và Hà Nội, sau khi thị trường phát triển thì chuyển sang thành Sở giao dịch chứng
khoán.
.Các chủ thể trên thị trường chứng khoán Việt Nam gồm:
- Chủ thể phát hành
- Nhà đầu tư
- Các tổ chức quản lý và giám sát thị trường chứng khoán- Các tổ chức khác
1.2.1 Thành tựu thị trường chứng khoán việt nam.
TTCK VN bắt đầu hoạt động từ năm 2000, khởi thủy là sự kiện thành lập trung
tâm chứng khoán TPHCM ngày 11 tháng 7 năm 1998 theo quyết định số 127/1998/QĐ-
TTg. Tiếp theo đó, trung tâm chứng khoán Hà Nội thành lập vào ngày 08 tháng 03 năm
2005. Và sau này là các sự kiện thành lập Sở giao dịch chứng khoán TPHCM ngày 11
NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN
TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 9
tháng 05 năm 2007 theo quyết định số 599/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính Phủ và Sở
giao dịch Hà Nội thuộc UBCK Nhà Nước nâng cấp hai trung tâm giao dịch.
Ban đầu, TTCK VN chỉ có 2 mã cổ phiếu niêm yết là SAM và REE, đến năm
2005, số công ty niêm yết đã lên đến 32, cho đến nay, số lượng đã vượt qua con số 700,
gồm các loại chứng khoán và chứng chỉ quỹ tổng trên cả 2 sàn niêm yết, với giá trị lên
đến hàng nghìn tỷ đồng.
Kết quả hoạt động thị trường chứng khoán được thể hiện trên các
phương diện chủ yếu sau:
a) Thị trường chứng khoán đã tạo điều kiện cho Chính phủ, các doanh nghiệp
huy động vốn cho đầu tư phát triển và mở rộng sản xuất kinh doanh
b) Quy mô và tính thanh khoản của thị trường chứng khoán ngày một cải thiện, góp
phần thu hẹp thị trường tự do, thu hút đông đảo các nhà đầu tư trong nước,
nước ngoài. Cho đến cuối năm 2010 đã có 647 công ty niêm yết, 05 loại
chứng chỉ quỹ đầu tư và 500 loại trái phiếu niêm yết trên các Sở giao dịch
chứng khoán (GDCK) với giá trị vốn hoá thị trường đạt 36,5% GDP năm
2010. Trong năm 2011, tổng số công ty niêm yết lên 699 công ty và 450
loại trái phiếu niêm yết. Tổng giá trị giao dịch giai đoạn 2006 – 2010 đạt 2.315
nghìn tỷ đồng, gấp 45 lần so với giai đoạn trước đó. Và năm 2012, số công ty
niêm yết là 702 công ty.
NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN
TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 10
c) Thị trường chứng khoán đã thu hút đông đảo các nhà đầu tư trong nước và
nước ngoài. Việc tham gia của các nhà đầu tư đã làm tăng khả năng luân
chuyển vốn trong nước, đồng thời đã huy động một lượng vốn đầu tư nước ngoài
đáng kể. Tính đến cuối năm 2011, giá trị danh mục đầu tư nước ngoài đạt 7 tỷ
USD.
d) Khung pháp luật về TTCK ngày càng được hoàn thiện góp phần hoàn chỉnh thể
chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Luật Chứng khoán đã được ban
hành năm 2006 và được bổ sung sửa đổi năm 2010, trên cơ sở đó Chính phủ, Bộ
Tài chính đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn Nghị định, thông tư, tạo
ra hành lang pháp lý tương đối đầy đủ cho thị trường hoạt động
Như vậy, hoạt động thị trường chứng khoán trong thời gian qua đã
có bước phát triển quan trọng, khẳng định vị trí và vai trò trong nền kinh tế
và từng bước trở thành kênh huy động, đầu tư vốn trong dài hạn, góp
phần thúc đẩy tăng trưởng và đảm bảo an sinh xã hội.
1.2.2 Hạn thị trường chứng khoán việt nam.
a) Về hàng hoá của thị trường:
Sản phẩm nghèo nàn: Số lượng chứng khoán nhiều nhưng chất lượng còn thấp,
sản phẩm thị trường nghèo nàn không đa dạng, chưa đáp ứng được yêu cầu của các nhà
đầu tư. Ngoài cổ phiếu và một số loại trái phiếu doanh nghiệp và chứng chỉ quỹ,
NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN
TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 11
chưa có các sản phẩm phái sinh và các công cụ đầu tư khác, vì vậy cơ sở hàng
hoá thị trường còn khiếm khuyết, không có công cụ phòng ngừa rủi ro cho nhà đầu
tư.
Đa số các công ty niêm yết, đăng ký giao dịch là những công ty vừa và
nhỏ, chất lượng quản trị kém. Nguồn nhân lực cho hoạt động của thị trường còn hạn
chế cả về số lượng lẫn chất lượng.
b) Về cơ sở các nhà đầu tư:
Cơ sở nhà đầu tư chưa vững chắc do thiếu vắng nhà đầu tư có tổ chức làm nền
tảng. Số lượng các nhà đầu tư tham gia thị trường chứng khoán nhiều song chủ
yếu là các nhà đầu tư cá nhân, các nhà đầu tư có tổ chức chỉ chiếm 4% số lượng tài
khoản giao dịch và tập trung vào các tổ chức tín dụng, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư.
Các loại hình công ty đầu tư chứng khoán, quỹ mở, quỹ hưu trí tự nguyện…
chưa được phát triển.
c) Về các tổ chức kinh doanh chứng khoán:
Các tổ chức kinh doanh chứng khoán nhiều nhưng quy mô và năng lực tài
chính thấp, không đảm bảo hiệu quả hoạt động, tiềm ẩn rủi ro hệ thống. Đặc biệt
có một số công ty chứng khoán có hạn chế về năng lực nghiệp vụ, kiểm soát nội
bộ và quản trị rủi ro dẫn đến tình trạng không hiệu quả (đặc biệt là hoạt động tự
doanh) dẫn đến tình trạng thua lỗ
Các công ty quản lý quỹ hoạt động không đồng đều, ngoại trừ các công ty
quản lý quỹ thuộc tổ chức tín dụng, công ty bảo hiểm, các công ty quản lý quỹ
khác rất khó khăn trong việc huy động vốn
1.3 Tổng quan nhà đầu tư ở Việt Nam
1.3.1 Thành tựu
Tính đến cuối năm 2012, thị trường chứng khoán đã thu hút đông đảo các nhà đầu tư
trong và ngoài nước. Cho đến nay, tổng số lượng tài khoản giao dịch hiện có của các nhà
NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN
TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 12
đầu tư lên tới 1,262 triệu tài khoản, trong đó có hơn 5000 nhà đầu tư có tổ chức (chiếm
khoảng 4%). Việc tham gia của các nhà đầu tư đã làm tăng khả năng luân chuyển vốn
trong nước, đồng thời đã huy động một lượng vốn đầu tư nước ngoài đáng kể. Tính đến
cuối năm 2011, giá trị danh mục đầu tư nước ngoài đạt 7 tỷ USD. Vào năm 2012, dòng
vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào thuần đạt 300 triệu USD, tăng 25% so với năm 2011.
Trong 6 tháng đầu năm 2013, tổng lượng vốn đầu tư gián tiếp ước đạt 160 triệu USD,
tăng 30% so với cùng kỳ năm ngoái.
1.3.2 Hạn chế
Mặc dù TTCK Việt Nam đã phát triển nhanh chóng trong 12 năm qua và đạt được
nhiều thành tựu đáng khích lệ như trên, nhưng vẫn còn tồn tài một vài hạn chế về cơ sở
nhà đầu tư:
- Cơ sở nhà đầu tư thiếu vắng các nhà đầu tư có tổ chức làm nền tảng cho sự phát
triển bền vững của TTCK, chủ yếu là các nhà đầu tư cá nhân, các nhà đầu tư có tổ chức.
Một phần nguyên nhân là do bị ảnh hưởng bởi những khó khăn chung của nền kinh tế thế
giới, một phần là vì Việt Nam chưa có cơ chế phát triển các nhà đầu tư có tổ chức. Theo
đó, quy mô giao dịch trên thị trường của các nhà đầu tư có tổ chức chưa cao. Trên thực
tế, những sản phẩm quỹ đầu tư, quỹ hưu trí mà gần đây chúng ta đề cập đã xuất hiện từ
lâu và thậm chí một số sản phẩm đã có mặt tại Việt Nam nhưng hầu như đều huy động
dòng tiền từ nước ngoài. Lý giải điều này là do Việt Nam chưa ban hành những quy định
cụ thể về việc thành lập, quản lý quỹ, cũng như các quy định về tài sản đầu tư và các
quyền liên quan đến tài sản (quyền sở hữu, quyền chuyển nhượng ) cũng như những
thuật ngữ về sản phẩm đó cũng chưa hề xuất hiện trong các văn bản pháp luật của Việt
Nam. Nhưng sau khi bắt đầu đưa ra đề án 1826 thì một loạt các thông tư hướng dẫn triển
khai các sản phẩm quỹ đầu tư mới như quỹ đầu tư bất động sản, quỹ hoán đổi danh
mục, được ban hành nhằm khuyến khích tạo lập nên các nhà đầu tư có tổ chức. Nhưng
những thông tư đó hầu như dựa vào kinh nghiệm trong việc hình thành quỹ của các nước
trên thế giới
- Các tổ chức tín dụng tham gia vào lĩnh vực chứng khoán với các hình thức khác
nhau như đầu tư vào trái phiếu, góp vốn thành lập công ty chứng khoán, công ty quản lý
NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN
TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 13
quỹ và uỷ thác đầu tư Sự liên kết giữa tổ chức tín dụng với TTCK là cần thiết, tuy
nhiên cũng có rủi ro tiềm ẩn. Mặt khác, do lạm phát và lãi suất ngân hàng cao, làm cho
đầu tư chứng khoán trở nên không cạnh tranh dẫn đến khả năng thu hút vốn đầu tư trên
thị trường đã bị hạn chế rất nhiều.
- Các nhà đầu tư cá nhân nhỏ lẻ dễ bị tổn thương trước những tin đồn, đầu tư theo tâm
lý bầy đàn, cảm tính một cách ngẫu nhiên.
- Thông tin công bố không minh bạch. Xuất hiện nhiều hành vi thao túng thị trường,
giao dịch nội gián nhất là trong giai đoạn nền kinh tế gặp nhiều khó khăn như trong thời
gian qua đã làm giảm niềm tin của nhà đầu tư vào thị trường.
NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN
TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 14
II. Phân tích vấn đề tái cấu trúc cơ sở nhà đầu tư trong đề án
1826:
2.1. Mục tiêu của việc tái cấu trúc cơ sở nhà đầu tư:
o Đa dạng hóa cơ sở nhà đầu tư, tập trung phát triển nhà đầu tư tổ chức, chuyên
nghiệp, nhằm tạo sức cầu ổn định, giúp thị trường phát triển lành mạnh, bền vững; củng
cố lòng tin và khuyến khích nhà đầu tư cá nhân tích cực tham gia thị trường, tăng thanh
khoản cho thị trường.
o Thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài trung và dài hạn, góp phần phát triển
TTCK, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, bổ sung nguồn vốn đầu tư cho sự nghiệp
hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước; nâng cao năng lực, khả năng cạnh tranh và quản
trị rủi ro của hệ thống tài chính ngân hàng và nền kinh tế, tăng cường công tác quản lý,
giám sát và có giải pháp phù hợp, kịp thời để chủ động đối phó với biến động của dòng
vốn này.
2.2. Các giải pháp thực hiện tái cấu trúc cơ sở nhà đầu tư:
2.2.1. Hoàn thiện khung pháp lý
Việt Nam hiện có 47 Công ty quản lý quỹ (QLQ) được Ủy ban Chứng khoán Nhà
nước (UBCKNN) cấp phép hoạt động, với tổng vốn điều lệ khoảng trên 3.000 tỷ đồng.
Các công ty QLQ có chức năng và nhiệm vụ chính là quản lý 23 Quỹ đầu tư chứng
khoán, với tổng vốn điều lệ tại thời điểm phát hành khoảng 13.500 tỷ đồng.
Phần lớn các Quỹ đầu tư chứng khoán được thành lập dưới dạng quỹ thành viên và
chỉ có 6 trong số đó là Quỹ đại chúng dạng đóng (dành cho nhà đầu tư cá nhân) niêm yết
trên Sở Giao dịch Chứng khoán (SGDCK) TP. Hồ Chí Minh (HOSE). Trong năm 2012 -
2013, một số Quỹ thành viên đã giải thể, các Quỹ đại chúng đang hoàn tất thủ tục chuyển
đổi sang mô hình Quỹ mở. Còn một số công ty QLQ có công ty mẹ là công ty Bảo hiểm
và Ngân hàng mới có được nguồn tài sản ủy thác lớn. Điều đó cho thấy, việc huy động
quỹ từ nhà đầu tư đại chúng đang là một thách thức rất lớn đối với công ty QLQ, đòi hỏi
công ty QLQ phải có hệ thống đối tác phân phối chứng chỉ quỹ mở một cách hiệu quả.
NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN
TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 15
Mặt khác, vai trò của ngành Quản lý quỹ đối với thị trường vốn và thị trường tài
chính ở Việt Nam chưa thực sự rõ nét trong thời gian vừa qua. Bản thân các công ty QLQ
đang gặp nhiều khó khăn, thách thức để tồn tại và phát triển do thị trường chứng khoán
(TTCK) cơ sở vẫn còn đang trong giai đoạn phát triển sơ khai cả về quy mô và chất
lượng; (ii) Sản phẩm (quỹ) và dịch vụ còn nghèo nàn vì khung pháp lý chưa đầy đủ và
đồng bộ.
Gần đây, Bộ Tài chính và UBCKNN ban hành các Thông tư hướng dẫn thành lập
và quản lý các loại hình Quỹ mới như Quỹ mở, Quỹ đầu tư bết động sản - REIT (có hiệu
lực từ tháng 7/2013), Quỹ hoán đổi danh mục ETF (có hiệu lực từ tháng 9/2013), Quỹ
Bảo hiểm hưu trí tự nguyện (đang trong quá trình Dự thảo) và nhiều dự thảo đang lấy ý
kiến đóng góp của các thành viên thị trường về sản phẩm phái sinh Bên cạnh đó là việc
ban hành các quy chế để giám sát và kiểm soát tốt hơn hoạt động và sự minh bạch của
các thành viên tham gia thị trường. Việc ban hành các văn bản hướng dẫn thành lập các
loại quỹ đầu tư mới như vậy nhằm khuyến khích tạo lập nên các nhà đầu tư có tổ chức.
Những thông tư đó hầu như dựa vào kinh nghiệm trong việc hình thành quỹ ở các nước
trên thế giới nhưng sau cuộc khủng hoảng tài chính 2008, thị trường tài chính quốc tế đã
có nhiều biến động khác biệt so với trước. Do vậy, ngay cả khi hình thành các văn bản
pháp luật về các sản phẩm quỹ mới này thì chúng ta cũng cần xem xét lại nó có còn phù
hợp với những biến động quốc tế trong giai đoạn hiện tại và thực trạng nền kinh tế Việt
Nam hay không. Ngoài ra còn có những sản phẩm quỹ đầu tư mới khác như quỹ thị
trường tiền tệ chúng ta cũng cần ban hành các quy định để tiếp tục tăng cường việc tạo
lập cơ sở nhà đầu tư vững chắc.
Việc hình thành nên nhiều loại quỹ mới với 2 mục đích:
- Thứ nhất, các quỹ đầu tư có thể thực hiện đầu tư không những chỉ trên TTCK mà
còn thực hiện đầu tư trên một mảng riêng biệt như thị trường bảo hiểm, thị trường
trái phiếu, thị trường tiền tệ, thị trường bất động sản Việc này đã làm không
những phát triển TTCK mà còn tác động tích cực đến sự phát triển của các thị
NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN
TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 16
trường khác làm vực dậy cả nền kinh tế. Tuy nhiên, cũng chính sự liên thông giữa
các khối thị trường với nhau cũng tiềm ẩn nguy cơ an toàn trong toàn bộ hệ thống
tài chính.
- Thứ hai, nó khuyến khích sự tham gia của các nhà đầu tư có tổ chức và các nhà
đầu tư cá nhân có sự ưa thích rủi ro khác nhau tham gia vào các loại hình khác
nhau, theo các mức độ khác nhau. Từ đó gia tăng huy động nguồn vốn trung và dài
hạn, đa dạng hóa rủi ro, tăng thanh khoản cho TTCK, vừa bảo vệ nhà đầu tư vừa
tạo cơ hội kinh doanh cho các thành viên trên thị trường và cuối cùng là làm giảm
những biến động của thị trường.
Hoàn thiện khung pháp lý hướng dẫn đồng bộ các sản phẩm quỹ đầu tư chứng khoán
dành cho các loại hình nhà đầu tư khác nhau, các quỹ đầu tư đa mục tiêu kết nối với
thị trường trái phiếu, thị trường tiền tệ, thị trường bất động sản.
2.2.2. Xây dựng các cơ chế, chính sách
2.2.2.1. Nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách để triển khai thí điểm quỹ hưu trí
tự nguyện, quỹ hưu trí bổ sung
Các Quỹ hưu trí là một phần quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội của các
quốc gia. Đối với người sử dụng lao động và người lao động thì các Quỹ hưu trí cho phép
các cá nhân tích lũy các khoản tiết kiệm của mình trong suốt thời gian làm việc nhằm
đảm bảo cho những nhu cầu tiêu dùng khi về hưu dưới dạng chi trả một khoản tiền trọn
gói, hoặc những khoản tiền cố định hàng tháng. Đối với chính bản thân Quỹ thì nó được
xem là một dạng nhà đầu tư có tổ chức, thông qua việc tiến hành tập hợp các khoản đóng
góp và thực hiện đầu tư. Do các khoản đóng góp vào Quỹ thường không được phép rút ra
sớm nên Quỹ hưu trí luôn có nguồn tài sản dài hạn để đầu tư vào các tài sản tài chính, kể
cả những tài sản có độ rủi ro cao nhằm đạt tỷ suất sinh lợi cao. Thông thường, tài sản của
các Quỹ hưu trí được dùng để đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu chính phủ, bất động sản, tài
sản nước ngoài, các công cụ trên thị trường tiền tệ và các khoản tiền gửi.
Vai trò của Quỹ hưu trí đối với TTCK:
NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN
TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 17
- Lợi thế về đa dạng hóa đầu tư bằng cách nắm giữ nhiều loại tài sản khác nhau cả
trong và ngoài nước. Tại Mỹ và Pháp, công cụ tài chính mà các Quỹ hưu trí nắm
giữ chủ yếu là trái phiếu chính phủ (khoảng 30%), và cổphiếu của các doanh
nghiệp trong nước (khoảng 40%). Ngoài ra, Quỹ hưu trí còn nắm giữ cổ phiếu của
các doanh nghiệp nước ngoài, trái phiếu nước ngoài, bất động sản và tiền mặt, tuy
nhiên, tỷ lệ không cao.
- Khả năng thu nhận và xử lý thông tin tốt hơn so với các nhà đầu tư cá nhân nhỏ lẻ
trên thị trường.
- Góp phần thúc đẩy tính hiệu quả của thị trường bằng cách tác động vào cấu trúc
của TTCK do Quỹ luôn có nhu cầu về thanh khoản thông qua các hoạt động giao
dịch thường xuyên và quy mô lớn. Với việc tích lũy tài sản dài hạn, các Quỹ hưu
trí có xu hướng đầu tư vào các tài sản dài hạn để có lợi nhuận cao hơn, do đó, góp
phần tăng nguồn cung vốn dài hạn cho thị trường.
- Do đặc tính tập hợp vốn từ nhiều cá nhân trong thời gian dài, tài sản của các Quỹ
hưu trí trên phạm vi toàn cầu đã gia tăng đáng kể trong những năm gần đây. Theo
thống kê của IMF, tài sản các Quỹ hưu trí toàn cầu đã tăng hơn 4 lần.
Hệ thống hưu trí đa trụ cột
Năm 1994, ngân hàng thế giới đã giới thiệu hệ thống hưu trí gồm 3 trụ cột (I, II và
III). Tuy nhiên, đến năm 2005, ngân hàng thế giới bổ sung thêm hai trụ cột là 0 và IV. Hệ
thống hưu trí đa trụ cột được áp dụng rộng rãi tại các nền kinh tế lớn ở phương Tây và
châu Á. Mục đích của hệ thống đa trụ cột là tách bạch các mục tiêu chính của chương
trình hưu trí, cụ thể:
- Trụ cột 0 (Zero Pillar - Base or social pension): bao gồm các Quỹ trợ cấp xã hội.
Các Quỹ này chủ yếu hình thành từ ngân sách nhà nước, tập trung vào việc xóa
đói, giảm nghèo và các mục tiêu tái phân phối, nhằm đảm bảo cho người già có
mức trợ cấp tối thiểu.
NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN
TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 18
- Trụ cột I - Quỹ hưu trí bắt buộc do nhà nước quản lý (Quỹ hưu trí bắt buộc). Quỹ
này hình thành chủ yếu từ nguồn đóng góp của người sử dụng lao động, người lao
động và có thể được bổ sung thêm từ ngân sách nhà nước. Quỹ hưu trí bắt buộc
được triển khai thông qua một tổ chức riêng và thường vận hành theo cơ chế thực
thu thực chi. Theo đó, nguồn thanh toán lương hưu được trích từ các khoản đóng
góp của những người đang lao động. Tại Việt Nam, Bảo hiểm Xã hội có thể coi là
trụ cột số 1. Quỹ này luôn tiềm ẩn rủi ro mất cân đối tài chính, đặc biệt khi dân số
già hóa, số lượng người đóng bảo hiểm ít hơn số người hưởng lương hưu.
- Trụ cột II - Quỹ hưu trí bắt buộc do tư nhân quản lý (Quỹ hưu trí bổ sung): Quỹ
được hình thành chủ yếu từ nguồn đóng góp của người sử dụng lao động và người
lao động. Tuy nhiên, Quỹ này do khu vực tư nhân tự quản lý (thông qua các công
ty quản lý quỹ), và chịu sự điều chỉnh, quản lý, giám sát chặt chẽ bởi cơ quan quản
lý nhà nước. Số tiền nhận được của người tham gia quỹ này phụ thuộc vào mức
đóng góp và lợi nhuận đầu tư. Vì vậy, trợ cấp hưu trí từ Quỹ này rất có thể không
bảo đảm mức sống đối với những người có thu nhập thấp và mức đóng góp thấp,
hoặc do lợi nhuận đầu tư thấp vì các nguyên nhân như khủng hoảng kinh tế kéo
dài, khủng hoảng tài chính làm thất thoát các khoản đầu tư. Nhìn chung, Quỹ hưu
trí bắt buộc do tư nhân quản lý có thể được coi như một dạng tiết kiệm bắt buộc
mà Nhà nước yêu cầu người hưởng lương hưu phải thực hiện trong quá trình lao
động. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, các Quỹ hưu trí bắt buộc do tư nhân quản lý chỉ
là nguồn tài chính hỗ trợ thêm cho người hưởng lương hưu bên cạnh khoản lương
nhận thanh toán từ các Quỹ hưu trí bắt buộc tại trụ cột I. Điểm đặc biệt của trụ cột
II là người tham gia hệ thống này sẽ được hưởng lợi tức và nhận thanh toán từ
chính các khoản tiền đóng góp của mình, chứ không phải của những người đang
lao động. Các khoản đóng góp được đầu tư vào thị trường vốn cho đến khi người
lao động đến tuổi nghỉ hưu. Các khoản đóng góp và thu nhập, lợi tức đầu tư đều
được hạch toán riêng biệt vào tài khoản lương hưu của từng người tham gia.
- Trụ cột III - Quỹ hưu trí tự nguyện: Quỹ này chủ yếu do người lao động đóng góp,
tuy nhiên cũng có thể có đóng góp thêm từ người sử dụng lao động. Quỹ này hoàn
NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN
TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 19
toàn do người lao động quyết định về mức đóng góp, và được quản lý bởi các công
ty quản lý quỹ. Hoạt động của Quỹ này chịu sự điều chỉnh bởi hệ thống các quy
định pháp luật giống như các Quỹ đầu tư. Bản chất của Quỹ này gần như dạng đầu
tư tài chính thông thường, nhưng được khuyến khích bởi chính sách ưu đãi về thuế
của Nhà nước do Quỹ hưu trí tự nguyện sẽ góp phần làm giảm gánh nặng của Nhà
nước trong việc bảo đảm an sinh xã hội.
- Trụ cột IV - Các khoản đóng góp tự nguyện không hình thành Quỹ hưu trí như các
hình thức viện trợ, Quỹ từ thiện
Một hệ thống an sinh xã hội được coi là hoàn chỉnh khi nó dựa trên tất cả các trụ
cột này, và các trụ cột này có tác dụng hỗ trợ, bổ sung cho nhau, góp phần nâng cao mức
sống của người hưởng lương hưu, giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Vì vậy, ngân
hàng thế giới đã và đang nỗ lực hỗ trợ nhiều quốc gia cải cách hệ thống an sinh xã hội,
theo hướng dựa trên tối thiểu ba trụ cột căn bản: Quỹ hưu trí bắt buộc (trụ cột I), Quỹ hưu
trí bổ sung (trụ cột II) và Quỹ hưu trí tự nguyện (trụ cột III).
Xu hướng hiện nay cho thấy, hầu hết các nước đều tiến hành cải cách hệ thống hưu trí từ
chỗ dựa vào một trụ cột thành hệ thống đa trụ cột. Điều này là do:
- Thứ nhất, khi dân số trẻ, hệ thống thường đòi hỏi mức đóng góp thấp bởi số thành
viên đóng góp nhiều hơn số thành viên hưởng lợi. Tuy nhiên, khi dân số già hóa và
số thành viên đóng góp bị giảm sút, do Quỹ đã ấn định mức chi trả cho người
hưởng lương hưu, vì vậy để đảm bảo lợi ích hưu trí, thì hoặc là hệ thống đòi hỏi
một tỷ lệ đóng góp cao hơn, hoặc là Chính phủ phải gánh vác một phần trách
nhiệm trợ cấp do Quỹ bị thâm hụt. Việc tăng mức đóng góp hoặc tăng thuế để hỗ
trợ Quỹ hưu trí có thể sẽ gây những phản ứng xã hội tiêu cực.
- Thứ hai, hệ thống Quỹ hưu trí bắt buộc do Nhà nước quản lý dựa trên cơ chế thực
thu thực chi sẽ không hỗ trợ nhiều cho sự phát triển của thị trường vốn. Các khoản
đóng góp của người lao động hiện tại được dùng để trả trực tiếp lương hưu cho
những người về hưu, do đó, sẽ không có cơ hội và thời gian để tái đầu tư sinh lợi.
Tuy nhiên, nếu hệ thống an sinh xã hội chỉ dựa trên trụ cột là các Quỹ hưu trí bổ
sung, Quỹ hưu trí tự nguyện cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro, đặc biệt khi chúng gây
NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN
TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 20
phân hóa xã hội, khoảng cách giàu nghèo và không bảo đảm được thu nhập sau khi
nghỉ hưu.
Theo nghiên cứu của Bộ LĐTB&XH và Tổ chức Lao động quốc tế, do mất cân
đối nghiêm trọng giữa thu và chi của hệ thống bảo hiểm xã hội (BHXH) Việt Nam, nên
quỹ lương hưu BHXH dự kiến thâm hụt vào năm 2020 và đến năm 2033 sẽ hết nguồn chi
trả cho người hưởng lương hưu. Do vậy, nếu không định hình giải pháp khắc phục tình
trạng này, thì không chỉ tăng áp lực cho ngân sách Nhà nước, bởi ngân sách phải tăng chi
liên tục từ năm 2008 tới nay (năm 2011 phải chi thêm xấp xỉ 3.900 tỷ đồng) do tăng
lương hưu khi tiến hành tăng lương cơ bản, mà còn tác động tiêu cực đến hệ thống an
sinh xã hội.
Theo Ngân hàng Thế giới (WB), hệ thống BHXH Việt Nam là trụ cột thứ nhất
trong các loại hình hưu trí. Trụ cột này là chế độ hưu trí bắt buộc, do Nhà nước quản lý,
nhằm đảm bảo mức thu nhập tối thiểu cho người lao động (NLĐ) sau khi nghỉ hưu.
Trong bối cảnh trụ cột thứ nhất này đang mất cân đối thu - chi, việc triển khai các trụ cột
khác, nhất là trụ cột thứ ba (theo phân loại của WB) là chính sách BHHTBS là lựa chọn
tất yếu để giảm tải cho trụ cột thứ nhất, tạo tiền đề cho cải thiện hệ thống an sinh xã hội.
Kinh nghiệm này được áp dụng thành công tại nhiều nước trên thế giới, trong đó có
Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia
Nghiên cứu của CTCP Quản lý quỹ Đầu tư Việt Nam (VFM) cho thấy, xu hướng
tại hầu hết các nước là thu nhập của người nghỉ hưu từ chính sách hưu trí cơ bản giảm
dần, trong khi thu nhập từ BHHTBS tăng lên. Lương từ chính sách hưu trí cơ bản chiếm
60% tổng thu nhập của người nghỉ hưu ở Thái Lan, chiếm 20 - 25% ở Pháp và 58% ở
Mỹ, còn thu nhập từ BHHTBS chiếm 20% tổng thu nhập của người nghỉ hưu ở Thái Lan,
chiếm 55 - 60% ở Pháp và 30% ở Mỹ. Theo Bộ LĐTB&XH, có 80 nước đã triển khai
chính sách BHHTBS. Trong khối APEC, chỉ còn Việt Nam là chưa triển khai chính sách
này, nên đang ngày một gia tăng áp lực cho hệ thống hưu trí đơn tầng hiện tại.
Vì vậy cần phải hình thành một hệ thống quỹ hưu trí đa trụ cột. Gần đây, nhà nước
đang tích cực xây dựng, thí điểm, hoàn thiện và triển khai các văn bản pháp luật chi phối
các quỹ hưu trí này theo lộ trình sau: Giai đoạn 1 (2012-2015): Hình thành khung pháp
NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN
TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 21
lý, tổ chức thí điểm đối với một số tập đoàn, doanh nghiệp trong nước và nước ngoài.
Giám sát quá trình hoạt động và thực hiện các cải tiến cần thiết để hoàn thiện hệ thống;
Giai đoạn 2 (2015-2020): Hoàn thiện khung pháp lý và mở rộng đối tượng tham gia đóng
góp vào quỹ hưu trí bổ sung; Giai đoạn 3 (sau 2020): Nghiên cứu chuyển đổi mô hình
Quỹ Hưu trí bổ sung từ hình thức tự nguyện sang hình thức bắt buộc. Trước khi triển khai
thí điểm chúng ta cần có một khung pháp lý tương đối hoàn chỉnh, đủ chặt để quản lý.
Theo đó đến đầu năm 2015 chúng ta phải hình thành nên khung pháp lý và tổ chức thí
điểm tại một số doanh nghiệp. Nhưng đến nay vẫn chưa hình thành nên khung pháp lý
mà chỉ mới có dự thảo hoặc đang xây dựng dự thảo. Mục đích cuối cùng vẫn là phải hoàn
thiện được một khung pháp lý phù hợp về quỹ hưu trí, chứ chúng ta không nên chỉ quan
tâm về triển khai thí điểm như thế nào trong khi quy định vẫn chưa hoàn thiện.
Nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách để triển khai thí điểm quỹ hưu trí tự nguyện,
quỹ hưu trí bổ sung => Ban hành và hoàn thiện khung pháp lý về việc triển khai quỹ
hưu trí tự nguyện và quỹ hưu trí bổ sung.
2.2.2.2. Nghiên cứu cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích hoạt động của các loại
hình quỹ đầu tư, khuyến khích đầu tư vào các sản phẩm quỹ mới; nghiên
cứu chính sách về thuế thu nhập từ hoạt động đầu tư chứng khoán căn cứ
trên thời hạn đầu tư, hình thức đầu tư và sản phẩm đầu tư.
Theo các nhà đầu tư, các loại thuế đang đánh vào lĩnh vực chứng khoán là thuế giá
trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân đều đang bộc lộ những
bất hợp lý. Việc áp dụng hình thức thuế khoán, tức là đánh thuế 0,1% trên phần chênh
lệch giữa giá mua và giá bán là hợp lý, nhưng thực tế lại đánh 25% trên thu nhập chịu
thuế. Nhà đầu tư không được trừ nhiều loại chi phí thực tế phát sinh trong quá trình đầu
tư, nên mức thuế mà họ phải đóng có khi lên đến 50 - 60%. Ngoài những bất cập như
chưa có chính sách ưu đãi thuế cho các sản phẩm mới như: quỹ mở, quỹ ETF, quỹ bất
động sản sự bất hợp lý và bức xúc nhất phải kể tới các quỹ đầu tư nước ngoài có văn
NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN
TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 22
phòng đại diện tại Việt Nam bị đưa vào diện tính thuế thu nhập doanh nghiệp, thay vì nộp
thuế khoán.
Bởi vậy, việc xây dựng chính sách thuế đối với lĩnh vực chứng khoán cần được
cân nhắc theo hướng tạo ra cơ chế ưu đãi về thuế hợp lý nhằm khuyến khích thị trường
chứng khoán phát triển hiệu quả và lành mạnh hơn để đảm đương tốt hơn vai trò huy
động vốn cho nền kinh tế. Thực tế, dòng tiền luân chuyển trên thị trường vốn quốc tế rất
linh hoạt giữa các nước, nên nếu không có chính sách thu hút đầu tư đủ hấp dẫn, trong
đó, có cơ chế thuế, thì sẽ khó thu hút được dòng vốn tham gia thị trường chứng khoán
trong giai đoạn tới. Theo nhiều nhà đầu tư, việc đánh thuế, Ủy ban chứng khoán Nhà
nước và Cục thuế nên phối hợp với nhau giao cho các công ty chứng khoán những mã
nào giảm, những mã nào bị lỗ trừ, những mã nào tăng để tính thuế phù hợp.
Khoảng 4 năm trở về trước, khi sự bất hợp lý này chưa xuất hiện rõ nét, có khá
nhiều quỹ đầu tư nước ngoài đầu tư vào các công ty chưa đại chúng, thường là các doanh
nghiệp nhỏ và vừa, với tổng giá trị ước khoảng 2 tỷ USD. Nhưng nay, khoản vốn đầu tư
này đã sụt giảm, đồng thời các khoản đầu tư mới gần như không phát sinh. Điều này
khiến các doanh nghiệp nhỏ và vừa nói riêng, nền kinh tế Việt Nam nói chung đang khó
thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài. Mặt khác, khi các doanh nghiệp khó tiếp cận được
vốn (là một trong những khó khăn lớn nhất trong hoạt động), thì họ sẽ gặp khó trong kinh
doanh, làm giảm doanh thu và lợi nhuận đóng thuế. Ở một góc độ nào đó, thực tế này làm
giảm hiệu quả của các chính sách ưu đãi thuế đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Theo các
chuyên gia tài chính, chứng khoán không phải là cuộc chơi cho giới nhà giàu, mà là thị
trường huy động vốn hiệu quả.
Những tháng cuối năm 2012, các nhà đầu tư chứng khoán đã được giảm 50% thuế
thu nhập cá nhân và họ mong muốn rằng năm nay sẽ tiếp tục được giảm thuế vì nền kinh
tế khó khăn, đa phần nhà đầu tư bị thua lỗ, mà thua lỗ vẫn phải nộp thuế thì sẽ không
khuyến khích nhà đầu tư tham gia vào thị trường. Trưởng phòng phân tích và nghiên cứu
công ty chứng khoán Vietcombank Tống Minh Tuấn kiến nghị, với khó khăn hiện tại của
thị trường, các nhà quản lý, các cơ quan quản lý nên xem xét một đợt hỗ trợ mới về thuế
NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN
TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 23
đối với các nhà đầu tư bán chứng khoán, hỗ trợ các nhà đầu tư thúc đẩy giao dịch mua
vào để cải thiện tình hình hiện tại, cũng như lôi cuốn các nhà đầu tư nước ngoài tham gia
thị trường giao dịch, làm tăng lượng tiền lưu thông trong thị trường và các luồng vốn mới
vào thị trường.
Các chính sách thuế là một công cụ tác động đến các hoạt động của các loại hình
quỹ đầu tư đặc biệt là các quỹ đầu tư mới. Với một chính sách thuế hợp lý có thể khuyến
khích việc hình thành các quỹ này nhiều hơn, thu hút sự tham gia của nhà đầu tư có tổ
chức và nhà đầu tư cá nhân. Những văn bản pháp luật về các quỹ này đã được đưa ra
trong khi các chính sách thuế dành cho nó vẫn còn rất mơ hồ hoặc chưa được đề cập đến.
Điều này không thể tạo ra một động lực đủ hấp dẫn để hình thành và tham gia vào các
quỹ đầu tư, quỹ hưu trí mới. Đồng thời với mục tiêu thu hút hút một lượng lớn nguồn vốn
trung dài hạn vào TTCK thì việc đánh thuế thu nhập từ các hoạt động đầu tư chứng
khoán với một mức thuế suất giống nhau, không phân biệt theo kỳ hạn đầu tư, sản phẩm
dầu tư và hình thức đầu tư thì không thể nào khuyến khích sự tham gia của những nhà
đầu tư muốn đầu tư vào thị trường chứng khoán
2.2.2.3. Xây dựng cơ chế, chính sách, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo
điều kiện cho nhà dầu tư nước ngoài dễ tiếp cận thị trường chứng khoán
Việt Nam.
Khi đầu tư tại Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài thường gặp phải 3 rủi ro lớn nhất:
bất ổn kinh tế vĩ mô, rủi ro hợp đồng, tiếp theo là các rủi ro về chính sách, lao động làm
sụt giảm đi lòng tin của nhà ĐTNN tại Việt Nam. Trong rất nhiều nguyên nhân làm sụt
giảm lòng tin của doanh nghiệp nước ngoài, đại diện các hiệp hội đều lên tiếng kêu ca về
gánh nặng thủ tục hành chính.
Ông Preben Hiorlund, chủ tịch Phòng Thương mại và công nghiệp Châu Âu
(Eurocham) than phiền: "Các cơ quan chính quyền yêu cầu các doanh nghiệp thành viên
của chúng tôi phải nộp các tài liệu bổ sung ngày càng nhiều, mặc dù các tài liệu và văn
bản này không có trong yêu cầu pháp luật (Sở Kế hoạch Đầu tư coi những tài liệu này là
NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN
TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 24
tiền đề để xem xét các hồ sơ đăng ký) và kết quả là tỷ lệ các doanh nghiệp phải mất hơn 3
tháng để hoàn tất toàn bộ thủ tục cần thiết để bắt đầu kinh doanh hoặc cấp phép cho một
dự án đã tăng lên đáng kể". Quá trình phê duyệt cấp phép vẫn quá dài ngày, bị trì hoãn,
các thủ tục rườm rà, phức tạp yêu cầu doanh nghiệp phải trao đổi nhiều lần với chính
quyền địa phương.
Một dẫn chứng khác được ông Seck Yee Chung, Phó Chủ tịch Hiệp hội doanh
nghiệp Singapore nêu là việc tra cứu thông tin. “Một số thông tin hoàn toàn không có,
hoặc rất khó để tìm kiếm được như thông tin về sở hữu đất, quyền sử dụng đất, về quy
hoạch, về các vụ phá sản, kiện tụng”, khi thông quan hàng hóa vào Việt Nam, có những
đòi hỏi về các khoản tiền không hợp pháp để được tạo điều kiện thuận lợi và nếu không
chấp thuận, doanh nghiệp sẽ phải chịu sự chậm trễ, ách tắc. Vì sự kèm minh bạch này nên
nhiều nhà doanh nghiệp Singapore đã ngần ngại đưa ra các quyết định đầu tư vào Việt
Nam. Họ e ngại những rủi ro không thể dự báo trước. Thậm chí, họ không đủ cơ sở để
xác định về đối tác làm việc với mình tại đây.
Mặc dù dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vẫn tăng qua các năm nhưng giai
đoạn hiện nay cần nhiều hơn nữa dòng vốn đầu tư nước ngoài vào TTCK để phát triển.
Do vậy, việc thu hút sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài là một vấn đề lớn cần phải
đặc biệt quan tâm. Các thủ tục hành chính cũng cần phải được cải cách theo hướng đơn
giản hóa các bước, theo tiêu chuẩn quốc tế để các nhà đầu tư nước ngoài dễ dàng hơn
trong việc tiếp cận TTCK
2.2.3. Nâng cấp hạ tầng kỹ thuật thị trường
Nâng cấp hạ tầng kỹ thuật thị trường bao gồm hệ thống giao dịch, hệ thống đăng
ký lưu ký, thanh toán bù trừ, hệ thống công bố thông tin, hệ thống giám sát tạo sự tiện lợi
trong hoạt động giao dịch, thanh toán của nhà đấu tư.
a) Tăng cường hoạt động, nâng cấp công nghệ các Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm
lưu ký và phát triển các thị trường chứng khoán:
NHÓM 5 – CHNH ĐÊM 1 – K22 GVHD: PGS.TS BÙI KIM YẾN
TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NĐT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐỀ ÁN 1826 Page 25
- Đưa hoạt động của thị trường giao dịch cổ phiếu của công ty đại chúng chưa niêm
yết, thị trường trái phiếu Chính phủ chuyên biệt vào hoạt động.
- Triển khai đấu thầu thiết kế, cung cấp, lắp đặt, chuyển giao hệ thống công nghệ
thông tin của các Sở giao dịch và Trung tâm lưu ký để đáp ứng sự phát triển của thị
trường. Ban hành tiêu chuẩn hoá của hệ thống công nghệ thông tin cho thị trường nhằm
giảm chi phí đầu tư cho các tổ chức tham gia, tăng cường bảo mật.
- Tiếp tục hoàn thiện đề án giao dịch trực tuyến tại Sở giao dịch chứng khoán HCM và
giao dịch không sàn tại Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội.
- Tăng cường vai trò của Hiệp hội kinh doanh chứng khoán, Hội kiểm toán viên hành
nghề, Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính về việc là đầu mối phối hợp với Uỷ ban Chứng
khoán Nhà nước, Sở giao dịch, Trung tâm lưu ký chứng khoán để xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật, hệ thống công nghệ thông tin cho ngành chứng khoán.
b) Cần hoàn thiện hệ thống thanh toán bù trừ, tái cấu trúc hệ thống đăng ký, lưu ký chứng
khoán
- Nếu hệ thống thanh toán bù trừ không được thiết ké tốt, và không có khả năng quản
lỳ rủi ro phát sinh từ việc mất khả năng thanh toán của các thành viên, hoặc từ các nhiễu
loạn trong hoạt động thì các vấn đề thanh khoản, tín dụng sẽ xảy ra. Vì vậy cần phải hoàn
thiện hệ thống thanh toán bù trừ vì suy cho cùng sự thành công của bất kỳ thị trường tài
chính nào cũng cần dựa trên sự vận hành hiệu quả, an toàn của hệ thống bù trừ và thanh
toán.
- Về phía TTLKCK, thủ tục lưu ký chứng khoán còn chậm, làm ảnh hưởng tới quyền
và lợi ích hợp pháp của NĐT. Hoặc tình trạng việc cấp mã số giao dịch, cho NĐT nước
ngoài thì thủ tục xin traning code vô cùng phức tạp và chậm trễ, khiến không ít NĐT nản
lòng, Ngoài ra, việc công bố thông tin chưa được TTLKCK thực hiện 1 cách chính xác,
chưa đáp ứng được yêu cần của NĐT, vì vậy cần nâng cáp hệ thống lưu ký, đắng ký
chứng khoán cho cả NĐT trong nước lẫn nước ngoài.