Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.16 KB, 11 trang )

Chương 2:
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA ĐẠI
ĐOÀN KẾT TRONG SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG.
1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định
thành công của cách mạng.
1.1. Đại đoàn kết là một quá trình cách mạng có tính sống còn, lâu
dài của cả dân tộc.
Thực tiễn lịch sử từ trước đến nay đã chứng minh tổ chức cách mạng
nào muốn thắng lợi, muốn giành được mục tiêu cuối cùng cũng phải đoàn
kết toàn dân, đoàn kết lâu dài. Nhưng mục tiêu đó, mong muốn đó có thực
hiện được hay không còn tuỳ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể, sự lãnh đạo
và tài đức của Đảng, của lãnh tụ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: Đại đoàn kết dân tộc là một chiến
lược cách mạng có tính lâu dài, nhất quán, có ý nghĩa sống còn đối với mọi
cuộc cách mạng. Nó quyết định sự thành bại của cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc, giành lại chủ quyền đất nước cũng như công cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Với Người, đại đoàn kết dân tộc không phải xuất phát từ ý
muốn chủ quan của lý luận mà đó là sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của
quá trình cách mạng. Người nói: “Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng
lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt. Chúng ta quyết góp
chung lực lượng lại để giữ vững quyền tự do, độc lập của chúng ta”
1
Vì Người rất coi trọng vấn đề đại đoàn kết dân tộc, coi đoàn kết là lẽ
sinh tồn của dân tộc nên Hồ Chí Minh luôn xác định đoàn kết là một vấn đề
có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Người nhận thức và giải quyết vấn đề chiến
lược đại đoàn kết trong suốt triến trình cách mạng, từ cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân cho đến cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm thực hiện mục đích
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H, 2000, t.4, tr.21


chính trị, kinh tế, quân sự… Cách giải quyết đó của Hồ Chí Minh có tính
chất toàn cục. Hồ Chí Minh cho rằng phải tìm ra được quy luật, phương
pháp, phương châm của đại đoàn kết. Dù mỗi giai đoạn và chặng đường
cách mạng có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính sách và phương pháp
tập hợp lực lượng sao cho phù hợp với những đối tượng khác nahu, nhưng
đại đoàn kết luôn luôn được Hồ Chí Minh xác định là vấn đề sống còn, lâu
dài của cách mạng, không một phút, một giây nào được lơi là sự đoàn kết.
Người nói: “Đoàn kết là sức mạnh. Đồng bào miền núi, trước hết là chị em
phụ nữ, cần phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. Đoàn kết
giữa dân tộc mình, đoàn kết các dân tộc. Đoàn kết giữa đồng bào miền xuôi
lên phát triển kinh tế miền núi. Tất cả các dân tộc miền núi và miền xuôi
phỉa đoàn kết như anh em một nhà, cùng nhau ra sức xây dựng miền Bắc
giàu mạnh và ủng hộ đồng bào miền Nam ruột thịt đánh thắng đế quốc Mỹ
xâm lược và bè lũ Việt gian”
1
.
Chiến lược đại đoàn kết của Hồ Chí Minh là tập hợp toàn thể nhân
dân, miễn là yêu nước là được. Bởi lẽ theo Người, đoàn kết làm ra sức mạnh
mà không có sức mạnh nào có thể đánh thắng nổi, đoàn kết là then chốt của
thành công: “Đoàn kết là điểm mẹ. Điều này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con
cháu đều tốt”. Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng có thể điều
chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp cho phù hợp với những đối tượng
khác nhau. Nhưng đại đoàn kết dân tộc luôn luôn được nhận thức là vấn đề
sống còn của cách mạng. Hồ Chí Minh đã nêu ra luận điểm có tính chân lý:
“Đoàn kết làm ra sức mạnh, đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”
2
.
Hồ Chí Minh khẳng định, giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác là cách mạng vô sản, cách mạng bạo lực. Trong cuộc cách mạng bạo
lực ấy phải có lực lượng. Sức mạnh của lực lượng ấy Hồ Chí Minh chỉ rõ

phải tìm ngay trong quảng đại quần chúng nhân dân, Người cho rằng, sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc có thể làm thay đổi tất cả, dời non,
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, tr.215
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, tr.392
lấp biển. Người đã dùng những hình ảnh hết sức cụ thể để tuyên truyền, giác
ngộ nhân dân hiểu về sự cần thiết và sức mạnh của đại đoàn kết dân tộc như:
Bài ca sợi chỉ, Ca hòn đá… Người đã phân tích cho nhân dân hiểu sự liên
kết của những sợi chỉ mỏng manh đã tạo nên sự bền chắc khó có thể tách
rời; cũng như việc di chuyển những hòn đá to và nặng nếu làm nhiều người,
đồng lòng, đồng sức tất yếu sẽ làm được, điều đó cũng giống như đoàn kết
một dân tộc nhỏ sẽ tạo ra sức mạnh to lớn chống đế quốc to, mạnh. Người
luôn tin tưởng mọi người dân Việt Nam đều là con cháu Hồng Bàng, luôn
đoàn kết, gia nhập vào Hội Việt Minh cùng nhau đánh giặc thì sự nghiệp
đánh giặc khó mấy cũng làm được. Bởi lẽ, đoàn kết là yếu tố quan trọng
quyết định mọi thành bại của cách mạng cho nên Hồ Chí Minh luôn chú ý
giáo dục ý thức cán bộ đảng viên và quần chúng nhân dân phải xem đại đoàn
kết dân tộc là một chiến lược mang tính sống còn, lâu dài, nó quyết định mọi
thành bại của cách mạng. Người chỉ rõ: “Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc
thành bức thành xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức
nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại”
1
.
Mùa xuân năm 1956, tiếng gọi của Bác vang lên, kêu gọi đồng bào cả
nước cùng nhau đoàn kết xây dựng nước nhà:
“Toàn dân đoàn kết một lòng
Miền Bắc thi đua xây dựng
Miền Nam giữ vững thành đồng
Quyết chí bền gan phấn đấu

Hoà bình, thống nhất, thành công”
Từ lúc ra đi tìm đường cứu nước cho đến cuối đời, Hồ Chí Minh luôn
nhất quán vấn đề đại đoàn kết. Trên cơ sở truyền thống đoàn kết của dân tộc
kết hợp với học thuyết khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, Người đã xây
dựng cả một hệ thống quan điểm lý luận, vạch ra được quy luật đoàn kết ở
Việt Nam. Ở đây vấn đề đại đoàn kết được nhìn nhận là mức độ thắng lợi,
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, tr.378
thành công tỷ lệ thuận với mở rộng lực lượng, địa bàn đoàn kết dân tộc.
Người đã từng nói một câu nói nổi tiếng về đoàn kết:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”
Theo Hồ Chí Minh, càng đoàn kết thì càng thành công. Đồng thời, với
tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Bác, đoàn kết được xem xét và giải quyết
ở một phạm vi rộng, từ đoàn kết trong Đảng đến đoàn kết toàn dân tộc và
đoàn kết quốc tế. Vì Hồ Chí Minh luôn cho rằng đoàn kết có tính lâu dài
quyết định thành bại của cách mạng nên những khía cạnh liên quan đến đại
đoàn kết được Người phản ánh đậm nét trong các bài viết, chiếm trên 40%
tổng số các bài viết của Người. Điều quan trọng hơn là quá trình chỉ đạo
thực tiễn để cho chiến lược đại đoàn kết được vận hành trong suốt quá trình
cách mạng, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới các tổ chức quần chúng từ rất
sớm, trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Từ năm 1930 trở đi, dưới sự
lãnh đạo của Đảng quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh đã lấy liên minh công
nông làm nòng cốt và xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất.
Tuỳ vào từng thời kỳ và những nhiệm vụ cụ thể khác nhau của phong
trào cách mạng mà cần có phương pháp tổ chức, bố trí lực lượng tương ứng
với những yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể trong từng thời kỳ. Hồ Chí Minh coi
đại đoàn kết dân tộc là chiến lược lâu dài, quyết định thành công của sự
nghiệp cách mạng bởi sự nghiệp cách mạng là vô cùng to lớn, những người
cách mạng phải đoàn kết với nhau để thực hiện sự nghiệp đó. Theo Người,

mình đã làm cách mạng nhiều mà chưa thành công trước hết là vì thiếu đoàn
kết với nhau. Khi xâm lược nước ta, thực dân Pháp đã dùng chính sách chia
để trị hòng phá tan khối đại đoàn kết của dân tộc ta để bóc lột nhân dân ta.
Vì vậy, rõ ràng chỉ có đoàn kết dân tộc lại thành một khối thống nhất mới
đánh bại lại âm mưu chia rẽ của kẻ thù, chỉ có đoàn kết thì mới giành được
độc lập. Đó là tư tưởng chỉ đạo việc xây dựng, củng cố, mở rộng và phát
triển khối đại đoàn kết dân tộc trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của
mình.
1.2. Đại đoàn kết là chiến lược tập hợp mọi lực lượng có thể tập
hợp được.
Đi từ thực tiễn đất nước có mấy ngàn năm lịch sử, Hồ Chí Minh đã
thấm sâu những truyền thống tốt đẹp của dân tộc qua nhiều kênh khác nhau.
Từ đó Người nhận thức được rằng cội nguồn đại đoàn kết ở nước ta là cùng
chung một dòng dõi con cháu Lạc Hồng. Bác đã chỉ rõ: “Năm ngón tay cũng
có ngón ngắn, ngón dài. Nhưng ngắn dài đều hợp với nhau lại nơi bàn tay…
phải nhận ra rằng đã là con cháu Lạc Hồng thì ai ít nhiều cũng có lòng ái
quốc”. Bên cạnh đó, Người còn nhấn mạnh: “Mỗi một người dân phải hiểu:
có tự lập mới độc lập, có tự cường mới tự do”. Đây chính là tư tưởng mà Hồ
Chí Minh có thể tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân trong cả nước.
Người đặt ra mức phấn đấu cho khối đại đoàn kết:
Giành độc lập cho dân tộc
Thực hiện dân quyền tự do
Thực sự dân sinh hạnh phúc
Đó là mục tiêu đoàn kết thiết thực, lâu dài của đồng bào ta. Với mục
tiêu này ta có thể đoàn kết được đại đa số nhân dân. Bác cho rằng đoàn kết
phải rộng rãi, lâu dài, vững chắc. Đoàn kết là một chính sách dân tộc và đó
không phải là một thủ đoạn chính trị. Hồ Chí Minh phân tích cội nguồn của
sức mạnh đoàn kết dân tộc là ý chí thống nhất đất nước:
Nước Việt Nam ta là một
Dân tộc Việt Nam ta là một

Dù cho sông cạn đá mòn
Nhân dân Nam, Bắc là con một nhà
Từ đó Hồ Chí Minh lập luận đã là anh em một nhà thì phải thương
yêu lẫn nhau. Do đó Người đưa ra chân lý đương nhiên rằng nước ta là một,
giang sơn đất nước ta là một, cho nên không có gì mà lại không đoàn kết gắn
bó với nhau. Người nhấn mạnh đoàn kết tất cả mọi người dân yêu nước,
đoàn kết mọi lực lượng có thể tập hợp được và đoàn kết trên lập trường giai
cấp công nhân vì lợi ích của toàn dân tộc. Đoàn kết cả dân tộc theo tư tưởng
Hồ Chí Minh thể hiện rất rõ trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Người chỉ rõ:
Việt Nam độc lập đồng minh hội là liên minh vì nền độc lập của nước Việt
Nam. Mặt trận bao gồm tất cả những người yêu nước, không phân biệt
khuynh hướng chính trị, tín ngưỡng, tôn giáo, giai cấp xã hội, nam, nữ và
tuổi tác. Muốn thực hiện đại đoàn kết toàn dân trong một tổ chức mặt trận
dân tộc thống nhất rộng rãi, phải xây dựng được khối liên minh công nông
trí do Đảng lãnh đạo, lấy đó làm nền gốc. Sự phát triển và thắng lợi của khối
đại đoàn kết này sẽ tác động tích cực đến các lực lượng và cá nhân yêu nước
thuộc mọi tầng lớp nhân dân vì những lý do khác nhau chưa tham gia vào
mặt trận do Đảng trực tiếp lãnh đạo. Từ đó họ được đoàn kết lại, thành lập
liên minh yêu nước của mình, rồi thừa nhận quyền lãnh đạo của Đảng, tham
gia mặt trận dân tộc thống nhất. Lịch sử dân tộc đã chứng minh mặt trận
Việt Minh và thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945 do Việt Minh
đem lại đã dẫn đến sự ra đời của Hội Liên Việt. Sau tổng tiến công và nổi
dậy mùa xuân năm 1968 của quân và dân miền Nam do mặt trận dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam tổ chức lãnh đạo, liên minh các lực lượng trong
dân tộc, dân chủ và hoà bình của Việt Nam ra đời. Đó là những dẫn chứng
rất cụ thể điển hình về thiên tài thực hiện đại đoàn kết toàn dân, tổ chức mặt
trận dân tộc thống nhất, tập hợp lực lượng toàn dân của Hồ Chí Minh. Bác
cho rằng muốn đoàn kết được toàn dân, xây dựng được mặt trận dân tộc
thống nhất thì phải theo lập trường của giai cấp công nhân. Trên cơ sở khối
liên minh công nông trí thức trong mặt trận thống nhất do Đảng cộng sản

trực tiếp lãnh đạo. Gạt bỏ thành kiến, thật sự đoàn kết với tất cả các lực
lượng, cá nhân muốn phụng sự Tổ quốc và nhân dân, tán thành một nước
Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Bác xác định đại đoàn kết là
đem lại quyền lợi cho toàn thể dân tộc, đất nước nên Bác sẵn sàng gạt bỏ
thành kiến, mặc cảm với các lực lượng, cá nhân yêu nước đã từng làm trong
bộ máy chính quyền của thực dân phong kiến trước đây. Bác chủ trương sử
dụng họ sau chiến thắng Cách mạng tháng Tám 1945 và trong cuộc kháng
chiến chống Pháp. Sau đó vì độc lập, tự do và hạnh phúc trọng vẹn dân tộc,
thống nhất đất nước, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, Bác đã tiếp tục thực
hiện chủ trương này. Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết thống nhất toàn dân tộc là
không có sự phân biệt đối xử. Người đã từng cho rằng: Từ Nam tới Bắc, ai
là người tán thành hoà bình, thống nhất, dân chủ thì chúng ta hoàn toàn có
thể sẵn sàng đoàn kết với họ, thật thà hợp tác với họ, thật sự đoàn kết với họ
dù trước nay họ đã theo phe phái nào.
2. Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách
mạng, của dân tộc.
2.1. Đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách
mạng, của dân tộc.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết là
sức mạnh, là mạch nguồn của mọi thắng lợi. Do đó, đại đoàn kết dân tộc
phải được xác định là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, phải được quán triệt
trong tất cả mọi lĩnh vực, từ đường lối, chủ trương, chính sách, tới hoạt động
thực tiễn của Đảng. Trong Lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt
Nam ngày 3/3/1951, Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể
dân tộc: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là:
Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”
1
. Để thực hiện mục tiêu này, Người
thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần quan điểm quần

chúng, phải gần gũi quần chúng, lắng nghe quần chúng; vận động, tổ chức
và giáo dục quần chúng, coi sức mạnh của cách mạng là ở nơi quần chúng;
phải thấm nhuần lời dạy “dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân
liệu cũng xong”.
Đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, đồng thời cũng
là nhiệm vụ hàng đầu của mọi giai đoạn cách mạng. Nhấn mạnh vấn đề này
là nhấn mạnh tới vai trò của thực lực cách mạng. Bởi cách mạng muốn thành
công nếu chỉ có đường lối đúng chưa đủ mà trên cơ sở của đường lối đúng,
Đảng phải cụ thể hoá thành những mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp cách
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t6, tr.183
mạng phù hợp với từng giai đoạn lịch sử để lôi kéo, tập hợp quần chúng, tạo
thực lực cho cách mạng. Thực lực đó chính là khối đại đoàn kết dân tộc.
Năm 1963, khi nói chuyện với cán bộ tuyên truyền và huấn luyện miền núi
về cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trước Cách mạng
tháng Tám và trong kháng chiến thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm cho đồng
bào các dân tộc hiểu được mấy việc: Một là đoàn kết. Hai là làm cách mạng
hay kháng chiến để đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ mục đích của
tuyên truyền huấn luyện là: Một là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Ba là đấu tranh thống nhất nước nhà”
1
Hồ Chí Minh còn chỉ ra rằng, đại đoàn kết dân tộc không phải chỉ là
mục tiêu của Đảng, mà còn là nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Bởi vì cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng, phải do quần chúng, vì quần chúng. Từ
trong phong trào đấu tranh để tự giải phóng và xây dựng xã hội mới tốt đẹp,
quần chúng nảy sinh nhu cầu đoàn kết và sự hợp tác. Đảng Cộng sản phải có
sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn quần chúng, chuyển những nhu cầu,
những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành những đòi hỏi tự
giác, thành hiện thực có tổ chức trong khối đại đoàn kết, tạo thành sức mạnh
tổng hợp trong cuộc đấu tranh vì độc lập của dân tộc, tự do cho nhân dân và

hạnh phúc cho con người.
2.2. Đại đoàn kết là một bộ phận hữu cơ của đường lối cách mạng.
Hồ Chí Minh luôn khẳng định vai trò quan trọng của đại đoàn kết toàn
dân tộc đối với sự nghiệp cách mạng. Với Hồ Chí Minh đoàn kết là một
trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, một
chiến lược cách mạng, chiến lược huy động, tập hợp mọi lực lượng có thể
tập hợp được, hình thành sức mạnh to lớn toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh
chống lại kẻ thù của toàn dân tộc, giai cấp. Bên cạnh đó, theo Hồ Chí Minh
đại đoàn kết còn là một bộ phận hữu cơ hết sức quan trọng của đường lối
cách mạng. Đây là một mặt không thể thiếu và là một bộ phận quyết định
thắng lợi của cách mạng.
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập t11, tr.130
Người đã từng dạy rằng: “… Một dân tộc dù nhỏ yếu, nhưng đoàn kết
chặt chẽ dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và Đảng của nó, đi đúng
đường lối của chủ nghĩa Mác - Lênin, thì nhất định thắng lợi đế quốc xâm
lược”
Đường lối cách mạng cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam là
giành lại cho được độc lập dân tộc và xây dựng đất nước tiến lên xã hội xã
hội chủ nghĩa. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là mục tiêu
xuyên suốt và cơ bản trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên,
trong từng thời kỳ có những đặc điểm lịch sử cách mạng khác nhau, nhiệm
vụ khác nhau cho nên nó sẽ có những sách lược tiến hành khác nhau để thực
hiện được mục tiêu chiến lược đề ra. Người nhắc lại truyền thống đoàn kết là
sức mạnh của cả dân tộc, dù đường lối cách mạng có như thế nào đi chăng
nữa thì trong chiến lược lâu dài của cách mạng không thể thiếu vấn đề đại
đoàn kết toàn dân tộc, đây là truyền thống có bao đời nay của dân tộc ta:
“Nhân dân Việt Nam có truyền thống yêu nước nồng nàn. Lịch sử ngàn năm
của dân tộc Việt Nam đã ghi những trang oanh liệt của nhân dân đấu tranh
để xây dựng nước nhà và bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc mình”.

Trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đã vạch
ra những âm mưu “chia để trị” của chủ nghĩa thực dân Pháp và khẳng định
yêu cầu khách quan của đại đoàn kết dân tộc là để chiến thắng kẻ thù: “Chủ
nghĩa thực dân không hề thay đổi châm ngôn “chia để trị” của nó”. Chính vì
thế mà nước An Nam, một nước có chung một dân tộc, chung một dòng
máu, chung một phong tục, chung lịch sử, chung một truyền thống, chung
một tiếng nói đã bị chia năm xẻ bảy. Lợi dụng một cách xảo trá sự chia cắt
ấy, người ta hy vọng làm nguội được tình đoàn kết, nghĩa đồng bào trong
lòng người An Nam và tạo ra mối xung khắc giữa anh em ruột thịt đối với
nhau”. Đến tác phẩm Đường cách mệnh, Hồ Chí Minh đã phân tích vai trò
của các tổ chức quần chúng. Từ tác phẩm này chúng ta thấy Bác đã vạch ra
chiến lược đại đoàn kết lâu dài của dân tộc trong suốt quá trình cách mạng.
Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh ở đây được thể hiện trong việc thành
lập mặt trận dân tộc thống nhất. Thật ra, đây cũng là một bộ phận nằm trong
đường lối của cách mạng Việt Nam. Đoàn kết toàn dân, cùng nhau đấu tranh
chống lại bọn thực dân, đế quốc xâm lược, giành độc lập chủ quyền toàn vẹn
lãnh thổ và đoàn kết để thực hiện mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội
chủ nghĩa mà Hồ Chí Minh đã xác định từ rất sớm cho con đường cách
mạng Việt Nam.
Đến các văn kiện hợp nhất đầu năm 1930, tư tưởng này của Nguyễn
Ái Quốc được thể hiện một cách hoàn chỉnh và rõ ràng: “Đảng là đội tiên
phong của vô sản giai cấp… phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân
chúng. Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, thanh
niên, Tân Việt,… để kéo họ vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú
nông, trung tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng
thì phải lợi dụng, ít ra cũng làm cho họ đứng trung lập…” Tư tưởng đại đoàn
kết dân tộc của Hồ Chí Minh đã được Người kiên trì và giữ vững, mềm dẻo
thuyết phục và đấu tranh, trải qua kiểm nghiệm và xác nhận của thực tiễn
cách mạng Việt Nam. Người nhận thấy rõ vai trò to lớn của đại đoàn kết dân
tộc trong đường lối của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh từng nói: “…

Bất kỳ khó khăn gì, bất kỳ công việc to mấy ta đoàn kết đều làm được hết
cả. Ví dụ: Lật đổ chế độ thực dân phong kiến có khó không? Khó. Thế
nhưng ta đoàn kết nên lật đổ được. Lúc bắt đầu, kháng chiến ta ở trong hoàn
cảnh rất khó khăn, Pháp có hải quân, không quân, xe tăng, có những tên
tướng có kinh nghiệm mấy chục năm, có khí giới Mỹ giúp. Lúc đó cơ đồ ta
chỉ có tay không mà phải đánh một kẻ địch mạnh hơn. Nhưng chúng ta đã
thắng. Vì sao? Vì đoàn kết”.
Không chỉ trong những năm đầu đặt nền móng cho đường lối cách
mạng Việt Nam mà suốt cả quá trình quanh cho, phức tạp của cách mạng
Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc bản chất, âm mưu, thủ đoạn,
khả năng, thực lực của chúng mà dự báo, phát hiện kịp thời những chuyển
biến trong hàng ngũ của kẻ thù. Từ đó có những chiến lược, sách lược kịp
thời, đúng đắn nhằm phân hoá kẻ thù. Người đã lãnh đạo đề ra chiến lược
đại đoàn kết dân tộc một cách đúng đắn, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh
cụ thể của cách mạng Việt Nam và linh hoạt sao cho phù hợp với đường lối
cách mạng mà Đảng đã đề ra. Đây cũng là một nguyên nhân quan trọng đưa
đến thắng lợi của cách mạng Tháng Tám, của kháng chiến chống Pháp, Mỹ,
giành độc lập dân tộc, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc ngày
nay.
II. NHỮNG NGUYÊN TẮC VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐẠI ĐOÀN KẾT
HỒ CHÍ MINH

×