Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế trong cách mạng Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.87 KB, 16 trang )

T tởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế
trong cách mạng Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh tụ vĩ đại của Đảng và của dân tộc ta, nhà
hoạt động quốc tế lỗi lạc. Ngời suốt đời hy sinh phấn đấu không chỉ cho
độc lập tự do và hạnh phúc của nhân dân Việt Nam mà còn đấu tranh
không mệt mỏi cho đoàn kết hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới. Với
những cống hiến to lớn của Ngời đối với dân tộc và thế giới nên tổ chức
UNESCO (1987) đã đánh giá: Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu tợng
kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc đã cống hiến trọn đời mình cho
sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc
đấu tranh chung của các dân tộc vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội và những t tởng của Ngời là hiện thân của những khát
vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và
tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau (Hội thảo quốc tế Chủ
tịch Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hoá lớn. Nxb
KHXH - HN 1990).
Cách mạng Việt Nam dới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện đã liên tiếp giành hết thắng lợi này
đến thắng lợi khác. Một trong những nhân tố tạo nên thắng lợi là nhờ có đ -
ờng lối quốc tế đúng đắn mà cốt lõi là chiến lợc đoàn kết quốc tế của Hồ
Chí Minh. Chiến lợc đoàn kết quốc tế là một nội dung quan trọng trong hệ
thống t tởng Hồ Chí Minh.
Có đợc t tởng về chiến lợc đoàn kết quốc tế đúng đắn là do Hồ Chí
Minh đã kế thừa và tiếp thu truyền thống đoàn kết của dân tộc cùng với
những hoạt động thực tiễn phong phú và sự mẫn cảm chính trị của mình,
Nguyễn ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin thông qua Sơ thảo
bản luận cơng về dân tộc và thuộc địa của Lênin. Bản luận cơng đã đề
cập đến những vấn đề có tính cấp thiết và toàn diện và nhờ có bản luận c-
1
ơng mà Nguyễn ái Quốc có sự thay đổi hẳn về chất. Ngời đã tìm ra con đ-
ờng cứu nớc đúng đắn cho cách mạng Việt Nam và trở thành ngời chiến sĩ


cộng sản chân chính hoạt động trên trờng quốc tế.
Nh vậy từ chủ nghĩa yêu nớc Nguyễn ái Quốc đã đến với chủ nghĩa
Mác - Lênin, từ đó t tởng của Ngời hình thành, phát triển và giành thắng
lợi.
T tởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế đợc thể hiện ở những quan
điểm cơ bản sau:
1- Đoàn kết trên cơ sở chủ nghĩa Mác Lênin và chủ nghĩa
quốc tế vô sản có lý có tình.
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng mời Nga năm 1917 đã mở ra
một thời đại mới, thời đại quá độ từ Chủ nghĩa t bản lên CNXH trên phạm
vi toàn thế giới. Cách mạng Tháng mời Nga là một thực tế khẳng định chủ
nghĩa Mác - Lênin từ lý thuyết đã trở thành hiện thực trên trái đất. Cùng
với việc ra đời Quốc tế cộng sản từ đây giai cấp vô sản toàn thế giới và các
dân tộc bị áp bức gần gũi nhau trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa t
bản, chủ nghĩa đế quốc nhằm giải phóng giai cấp giải phóng dân tộc. Bởi
vì chỉ có sự gần gũi ấy mới đảm bảo việc chiến thắng chủ nghĩa t bản. Nếu
không có chiến thắng đó thì không thể thủ tiêu đợc ách áp bức dân tộc và
tình trạng bất bình đẳng. Lênin coi sự đoàn kết của những ngời vô sản
cách mạng ở các nớc t bản và sự đoàn kết của các dân tộc bị áp bức ở các
nớc thuộc địa là hết sức cần thiết để giành thắng lợi của cách mạng vô sản
thế giới. Trong điều kiện ấy Lênin phát triển khẩu hiệu của C.Mác thành
Vô sản tất cả các nớc và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại. Nh vậy lý
luận Mác - Lênin đề cập đến cách mạng vô sản và coi đoàn kết quốc tế là
vấn đè chiến lợc cách mạng. Nhận thức trên đây là nhân tố quyết định con
đờng cách mạng và chiến lợc cách mạng của cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc thuộc đia trong thời đại mới
2
Quá trình tìm đờng cứu nớc của Nguyễn ái Quốc cũng là quá trình
ngời thanh niên yêu nớc Nguyễn ái Quốc trở thành ngời chiến sĩ cộng
sản, ngời chiến sĩ quốc tế. Bằng những hoạt động sôi nổi trong các cơng vị

khác nhau, Nguyễn ái Quốc đã thực hiện đúng t tởng của Lênin về đoàn
kết các dân tộc bị áp bức và đoàn kết họ với vô sản ở tất cả các nớc. Với
nhiều hình thức nhiều con đờng Nguyễn ái Quốc đã tích cực truyền bá
chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu n ớc ở
Việt Nam và các nớc trên thế giới.
Tuyệt đối trung thành với lý tởng cộng sản chủ nghĩa, quan tâm đến
sự phát triển và thắng lợi của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Hồ Chí Minh đã phấn đấu không mệt mỏi vì sự nghiệp cách mạng vô sản
trên thế giới. Bởi vì lý tởng cộng sản chủ nghĩa, phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế, gắn bó mật thiết, góp phần to lớn vào thắng lợi của
cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của nhân dân Việt
Nam. Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc rằng muốn chiến thắng kẻ thù chung
của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức toàn thế giới thì cần thiết phải
xay dung đoàn kết quốc tế vững mạnh. Ngời nhấn mạnh: Đoàn kết nhất
trí trên nền tảng chủ nghĩa Mác Lênin giữa các Đảng anh em, nhất là
giữa Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng Cộng sản Trung Quốc là điều kiện
quan trọng nhất để đảm bảo cho phong trào cộng sản và công nhân toàn
thắng trong cuộc đấu tranh vĩ đại cho tơng lai tơi sáng của toàn thể loài
ngời (Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 10, tr. 235. Nxb CTQG - H.1996).
Tình đoàn kết quốc tế nói chung và đoàn kết gắn bó giữa các nớc
XHCN trên tinh thần quốc tế vô sản nói riêng luôn là điều chiếm nhiều
tâm huyết trong suy nghĩ của Hồ Chí Minh, vì vậy trớc lúc đi xa, việc bất
hoà giữa các nớc XHCN là điều day dứt trong tâm can Ngời, trong bản di
chúc Ngời tỏ rõ sự lo âu của mình: Là một ngời suốt đời phục vụ cách
mạng, tôi càng tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi lại càng đau lòng bấy nhiêu về sự bất đồng
3
hiện nay giữa các Đảng anh em. Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt
động góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các Đảng
anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản

có lý, có tình. (HCM Toàn tập - Tập 12, tr. 499 - Sđd).
Trong quan hệ giữa các Đảng cộng sản, giữa các nhà nớc XHCN,
Hồ Chí Minh đề ra phơng châm: không vi phạm những nguyên tắc cơ bản
của chủ nghĩa Mác - Lênin, phải xây dựng tình đoàn kết gắn bó dựa trên nền
tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản có lý, có tình.
Có lý trớc hết là tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa
Mác Lênin, xuất phát từ lợi ích chung của cách mạng thế giới. Tuy
nhiên việc trung thành với chủ nghĩa Mác Lênin đòi hỏi phải vận dụng
sáng tạo có hiệu quả vào hoạt động thực tế của mỗi nớc mỗi Đảng. Có
tình là sự thông cảm, bình đẳng, tông trọng nhau trên tinh thần tình cảm
của ngời chung lý trí, lý tởng cao đẹp, cùng chung mục tiêu đấu tranh cho
độc lập dân tộc và CNXH. Luôn củng cố tình đoàn kết, hữu nghị hợp tác
giữa các nớc, các Đảng trên tinh thần quốc tế vô sản.
Đoàn kết quốc tế trên tinh thần có lý, có tình của Hồ Chí Minh
là vừa thể hiện tính nguyên tắc vừa mang nội dung của tính nhân văn cao
đẹp, nhân văn cộng sản chủ nghĩa. Nó có tác dụng rất lớn tới việc củng cố
khối đại đoàn kết quốc tế của giai cấp công nhân và nhân dân ld toàn thế giới.
Nắm vững nguyên lý chủ nghĩa Mác Lênin và chủ nghĩa quốc tế
vô sản Hồ Chí Minh đã hoạt động không mệt mỏi cho sự đoàn kết quốc tế
cao cả nhằm mục tiêu giải phóng các dân tộc bị áp bức. Ng ời đã tham gia
sáng lập các tổ chức đoàn kết quốc tế nh Đảng Cộng sản Pháp, Hội liên
hiệp thuộc địa, Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức á Đông, tham dự
các đại hội V, VII của Quốc tế cộng sản, các đại hội quốc tế nông dân,
quốc tế thanh niên, quốc tế cứu te do, các hội nghị chống chiến tranh đế
quốc, các hội nghị của các Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế và có
nhiều đóng góp quan trọng cho phong trào cách mạng thế giới, trở thành
4
ngời chiến sĩ quốc tế lỗi lạc đấu tranh cho độc lập, tự do của các dân tộc
trên thế giới.
2. Độc lập, tự do - mục tiêu động lực và cơ sở của chiến lợc đoàn

kết quốc tế.
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, coi đoàn kết
quốc tế của giai cấp vô sản là vấn đề chiến lợc của cách mạng, từ khi trở
thành ngời cộng sản, Hồ Chí Minh phấn đấu cho sự đoàn kết quốc tế rộng
lớn nhằm mục tiêu giành độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam. Độc lập, tự
do là quan điểm nhất quán, xuyên suốt, là mục tiêu, động lực và cơ sở tạo
dựng chiến lợc đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh.
Quan điểm dó kết hợp hài hoà biện chứng giữa dân tộc và giai cấp, quốc
gia và quốc tế, dộc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Trên hành trình tìm đờng cứu nớc, khi bắt gặp thắng lợi của cách
mạng Tháng mời Nga và đợc lý luận Mác - Lênin soi sáng, Hồ Chí Minh
đã xác định đợc con đờng cứu nớc đúng đắn: Muốn cứu nớc, giải phóng
dân tộc không có con đờng nào khác con đờng cách mạng vô sản. Nội
dung cốt lõi của con đờng cách mạng vô sản là độc lập dân tộc gắn với
CNXH. Từ đó mục tiêu độc lập, tự do của dân tộc luôn là t tởng cơ bản,
cốt lõi, nhất quán, xuyên suốt trong t tởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải
phóng dân tộc.
Để giành độc lập tự do cho dân tộc trong điều kiện chủ nghĩa đế
quốc thống trị nhiều nớc trên thế giới, Hồ Chí Minh hiểu rằng không thể
chiến thắng đợc kẻ thù nếu không có sự đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế
để tạo sức mạnh tổng hợp to lớn. Với nhận thức đó, Hồ Chí Minh là ngời
đầu tiên đã gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng
thế giới, xác định rõ các mối quan hệ mới của cách mạng Việt Nam: quan
hệ với cách mạng vô sản, quan hệ với phong trào giải phóng dân tộc ở các
nớc thuộc địa, phụ thuộc.
Theo Hồ Chí Minh muốn thực hiện đợc đoàn kết quốc tế điều đầu
tiên là phải xác lập vị trí của Việt Nam trên trờng quốc tế. Mỗi quốc gia,
5
mỗi một dân tộc không thể phát triển đợc nếu nh không mở rộng quan hệ
với thế giới bên ngoài. Hồ Chí Minh sớm nhận rõ một trong nguyên nhân

dẫn đến thất bại của phong trào cách mạng Việt Nam khi Đảng ch a ra đời
là nhân dân ta không hiểu tình hình thế giới. Ngời còn chỉ rõ tình hình
biệt lập, khép kín không chỉ xảy ra ở Việt Nam mà còn là tình trạng chung
của các nớc phơng Đông. Năm 1924 trong th gửi quốc tế cộng sản Hồ
Chí Minh viết: Tôi đã ngẫm nghĩ từ lâu về nguyên nhân đầu tiên đã dẫn
tới sự suy yếu của các dân tộc phơng Đông đó là sự biệt lập. Ngoài nhận
thức trên Ngời đã sớm xác định: Cuộc đấu tranh của chúng ta là bộ phận
của cách mạng thế giới. Từ đó về sau Ngời luôn khẳng định cuộc cách
mạng của các dân tộc bị áp bức có quan hệ gắn bó với nhau và bản thân
Ngời đã hoạt động tích cực xây dựng tình đoàn kết giai cấp vô sản, đoàn
kết các dân tộc bị áp bức và các nớc XHCN trên thế giới.
Nhằm thực hiện mục tiêu độc lập tự do trong xây dựng đờng lối
chiến lợc, sách lợc cho cách mạng giải phóng dân tộc Hồ Chí Minh đã
quan tâm đến xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa cách mạng giải phóng
dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản thế giới. Bằng luận điểm con đĩa
2 vòi, Hai cánh của con chim mà Hồ Chí Minh đa ra đã giúp cho phong
trào giải phóng dân tộc ở nớc thuộc địa và phong trào cách mạng vô sản
thế giới thấy đợc sự cần thiết phải đoàn kết, kết hợp chặt chẽ với nhau. Sự
ủng hộ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chính quốc đối với sự
nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do ở thuộc địa và ảnh hởng trở lại của cách
mạng giải phóng dân tộc thuộc địa đối với sự nghiệp giải phóng giai cấp
công nhân chính quốc là sự phối hợp tất yếu để chiến thắng chủ nghĩa đế
quốc thực dân.
Khi đặt cách mạng thuộc địa trong mối quan hệ mật thiết với cách
mạng vô sản chính quốc, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh tính chủ động
và khả năng thắng lợi trớc của cách mạng thuộc địa, ủng hộ to lớn đối với
cách mạng vô sản chính quốc. Theo Ngời, tuy cách mạng thuộc địa liên hệ
mật thiết với cách mạng vô sản chính quốc song không phụ thuộc hoàn
6
toàn vào cách mạng vô sản ở chính quốc, mà phải nêu cao tính độc lập tự

chủ, không ỷ lại, trông chờ, phải tự mình giải phóng cho mình. Đây là
quan điểm rất sáng tạo của Hồ Chí Minh, dựa trên cơ sở thực tiễn ở các n-
ớc thuộc địa, tiềm ẩn sức mạnh to lớn. Điều này đợc Hồ Chí Minh nói tới
từ năm 1921 trong Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ: Đằng sau
sự phục tùng tiêu cực ngời Đông Dơng đang giấu một cái gì đang sôi sục,
đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến. Thực tiễn
lịch sử Việt Nam và các nớc thuộc địa giành độc lập trong thế kỷ XX
chứng minh luận điểm của Ngời là đúng. Đây là cống hiến quan trọng của
Hồ Chí Minh đối với cách mạng thế giới trên lĩnh vực chiến lợc cách
mạng.
Để giành độc lập, tự do thực sự, Hồ Chí Minh xác định rõ: cách
mạng thuộc địa phải phát triển theo phơng hớng XHCN thì mới giành đợc
thắng lợi triệt để. Nắm vững lý luận Mác - Lênin về bản chất đặc tr ng của
CNXH, CNCS, Hồ Chí Minh cho rằng: Chỉ có CNCS mới cứu nhân loại,
đem lại cho mọi ngời không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do,
bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi ngời và
vì mọi ngời, niềm vui, hoà bình, hạnh phúc. (HCM Toàn tập - Tập 1- tr.
461 - Nxb CTQG - H 1995). Bằng lý luận và thực tiễn Hồ Chí Minh đã
làm ch o các dân tộc thuộc địa nhận thức rõ CNXH là phơng hớng, mục
tiêu của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, là con đờng tiến lên của
các dân tộc thuộc địa sau khi giành đợc độc lập. Vì vậy đấu tranh cho độc
lập tự do của dân tộc cũng nhằm đấu tranh cho thắng lợi của CNXH.
Độc lập cho tổ quốc, tự do cho đồng bào đợc Hồ Chí Minh đặt thành
nhiệm vụ hàng đầu nhng lại nhà nhiệm vụ khó khăn nhất và Ngời kiên trì
t tởng này, đấu tranh với những quan điểm tả khuynh chỉ nhấn mạnh
một chiều đấu tranh giai cấp và Ngời còn đấu tranh với những quan điểm
đánh giá thấp cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của các dân tộc thuộc địa.
Từ thực tiễn đấu tranh cách mạng, quan điểm giơng cao ngọn cờ độc
lập, tự do của Hồ Chí Minh đợc Đảng ta tiếp thu trong quá trình lãnh đạo
7

thực tiễn cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Để tạo ra sức
mạnh tổng hợp to lớn chiến thắng kẻ thù mang lại độc lập, tự do cho dân
tộc. Đảng ta đã có chính sách xây dựng đoàn kết dân tộc, đoàn kết 3 n ớc
Đông Dơng và đoàn kết quốc tế đúng đắn theo t tởng Hồ Chí Minh vì vậy
cách mạng Việt Nam đã đánh thắng những đế quốc lớn giành độc lập, tự
do cho dân tộc và xây dựng đất nớc theo con đờng XHCN.
Độc lập tự do là động lực và mục tiêu, lý tởng, là cơ sở của chiến l-
ợc kết hợp đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh. Gi ơng
cao ngọn cờ độc lập, tự do là t tởng cách mạng, là mục tiêu, là lẽ sống của
Hồ Chí Minh, của dân tộc Việt Nam và của nhân dân tiến bộ trên thế giới.
Đây là nội dụng cốt lõi trong chiến lợc đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh.
3. Đoàn kết quốc tế trên tinh thần
Độc lập tự chủ, tự lực, tự cờng, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế.
Dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu nớc, đoàn kết, có ý chí độc
lập tự chủ, tự lực tự cờng đợc hun đúc qua hàng ngàn năm l ịch sử. Truyền
thống tốt đẹp đó đợc Hồ Chí Minh tiếp thu và thể hiện trong t tởng cách
mạng của mình.
Ra di tìm đờng cứu nớc từ một nớc thuộc địa nửa phong kiến, Hồ
Chí Minh quan tâm nghiên cứu các cuộc cách mạng lớn trên thế giới. Bằng
sự mẫn cảm của t duy độc lập Ngời đã nhận xét: chỉ có cách mạng Nga là
đã thành công và thành công đến nơi. Khi bắt gặp chủ nghĩa Mác - Lênin,
điều kỳ diệu đã đến với Ngời, nh Ngời nói: Đây là cái cần thiết cho
chúng ta, đây là con đờng giải phóng chúng ta. Đến đây Ngời có đủ căn
cứ lý luận và thực tiễn để khẳng định con đờng giải phóng dân tộc thuộc
địa là con đờng của chủ nghĩa Mác Lênin Muốn cứu nớc, giải phóng
dân tộc không có con đờng nào khác con đờng cách mạng vô sản. Đó là
mốc đánh dấu bớc phát triển t tởng cách mạng của Hồ Chí Minh và thể
hiện t duy độc lập của Ngời.
Khi bắt gặp chủ nghĩa Mác - Lênin, xác định đợc con đờng cứu nớc
đúng đắn, Nguyễn ái Quốc đã trở thành ngời chiến sĩ cộng sản chân chính

8
hoạt động tích cực trong phong trào cộng sản công nhân quốc tế. Trong
khi hoạt động không mệt mỏi cho sự đoàn kết quốc tế rộng lớn, trong khi
khẳng định sự cần thiết của doàn kết quốc tế, Hồ Chí Minh đã xác định
vai trò quyết định nhất vẫn là sự nỗ lực chủ quan của cách mạng mỗi nớc,
phải nêu cao ý chí độc lập tự chủ, tự lực tự cờng của cách mạng nớc mình.
Quan điểm này của Ngời xuất hiện rất sớm. Ngay từ sau sự kiện gửi Bản
yêu sách của nhân dân An Nam đến Hội nghị hoà bình Véc xây năm
1919 đòi tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam nhng không đợc trả lời.
Thực tế đó cho Ngời rút ra kết luận quan trọng: Muốn đợc giải phóng,
các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực l ợng của bản
thân mình.
Hoạt động trong phong trào cộng sản công nhân quốc tế, Nguyễn ái
Quốc thấy đợc tình trạng thờ ơ của giai cấp vô sản chính quốc đối với
phong trào giải phóng ở nớc thuộc địa, và đã nhiều lần Ngời phê phán
Đảng Cộng sản Pháp là cha quan tâm đến nớc thuộc địa. Tình hình ấy
Nguyễn ái Quốc nhận thấy không thể trông cậy vào sự giúp đỡ của cách
mạng chính quốc, mà cách mạng thuộc địa phải chủ động, phải tự lực,
đứng lên tự giải phóng. Trong tuyên ngôn của Hội liên hiệp thuộc địa do
Ngời khởi thảo viết: Anh em phải làm thế nào để giải phóng? Vận dụng
công thức của C.Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng: công cuộc giải
phóng anh em chỉ có thể thực hiện đợc bằng sự nỗ lực của chính bản thân
anh em. Từ đó Nguyễn ái Quốc luôn ý thức đợc phải nêu cao t tởng độc
lập tự chủ, tự lực tự cờng. Trong bức th gửi từ Liên Xô cho các đồng chí
trong Hội liên hiệp thuộc địa (1923) Ngời nói rõ: Chúng ta phải làm gì,
chúng ta không thể đặt vấn đề ấy một cách máy móc. Điều đó tuỳ hoàn
cảnh của mỗi dân tộc chúng ta. Đối với tôi câu trả lời đã rõ ràng: trở về n-
ớc, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện
họ, đa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập (HCM Toàn tập Tập 1, tr.
192 NXBCTQG HN 1995)

9
Trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đầu thế kỷ XX tồn
tại quan điểm: cách mạng ở các nớc thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng
vô sản ở chính quốc và chỉ có thể thành công khi cách mạng vô sản ở
chính quốc giành thắng lợi. Quan điểm đó làm giảm tính chủ động của
phong trào giải phóng dân tộc ở nớc thuộc địa, làm nảy sinh t tởng ỷ lại,
trông chờ. Từ sự phân tích sâu sắc bản chất của chủ nghĩa thực dân, và
thấy rõ sức mạnh tiềm ẩn to lớn ở các nớc thuộc địa Hồ Chí Minh nêu luận
điểm: Cách mạng thuộc địa có khả năng giành thắng lợi trớc cách mạng vô
sản ở chính quốc. Ngời còn có niềm tin mãnh liệt vào tinh thần độc lập tự
chủ, tự lực tự cờng của cách mạng thuộc địa: Sự tàn bạo của chủ nghĩa t
bản đã chuẩn bị rồi, chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc gieo hạt
giống của công cuộc giải phóng nữa thôi. Đó là kết luận táo bạo thể hiện
t duy độc lập, sáng tạo của Hồ Chí Minh là đóng góp quan trọng bổ sung
vào kho tàng lý luận Mác Lênin trên lĩnh vực chiến lợc cách mạng.
Để chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho việc thành lập Đảng cộng
sản ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác
Lênin và đờng lối chiến lợc, sách lợc của cách mạng Việt Nam thông qua
tác phẩm Đờng cách mệnh do Ngời soạn thảo. T tởng nổi bật của tác
phẩm này là tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cờng: Muốn sống phải làm
cách mạng, thà chết tự do hơn sống làm nô lệ muốn ngời ta giúp cho
trớc hết phải tự giúp mình đã Nh vậy t tởng độc lập tự chủ, tự lực tự c-
ờng đã gắn liền với đoàn kết quốc tế, độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội nó góp phần chuẩn bị về chính trị, t tởng cho việc thành lập
Đảng và đặt nền tảng cho Cơng lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời không chỉ là sản phẩm của chủ
nghĩa Mác Lênin kết hợp với phong trào công nhân và còn kết hợp với
phong trào yêu nớc Việt Nam. Từ đó Ngời có chủ trơng đúng trong việc
lấy tên Đảng, xác định lực lợng của cách mạng C ơng lĩnh cách mạng
của Hồ Chí Minh là hoàn toàn đúng đắn, có giá trị lý luận và thực tiễn to

10
lớn đối với tiến trình cách mạng Việt Nam, thể hiện tinh thần độc lập tự
chủ, sáng tạo của Ngời.
Với cơng lĩnh chính trị đúng đắn, Hồ Chí Minh cùng với Đảng ta đã
lãnh đạo phong trào cách mạng giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc Hồ Chí Minh nêu cao t t-
ởng đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên hàng đầu: Trong lúc này nếu không
giải quyết đợc vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi đợc độc lập, tự do cho
toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi
kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không
đòi lại đợc (NQTW8 - 5/1941). Ngời đã chủ trơng thành lập Mặt trận
Việt Minh, đoàn kết với Lào và Cămpuchia, hớng về Liên Xô, đứng về
phía đồng minh chống phát xít. Trong thời gian này Ngời còn tranh thủ cả
Mỹ, Tởng, thêm bạn cho cách mạng Việt Nam chống phát xít Nhật. Khi
chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ và bớc vào giai đoạn quyết liệt,
chớp thời cơ ngàn năm có một Ngời kêu gọi toàn dân ta nêu cao ý chí
độc lập tự chủ, tự lực tự cờng: Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy, đem
sức ta mà giải phóng cho ta, việc giải phóng của ta phải do ta làm lấy,
dù phải đốt cháy cả dãy Trờng Sơn cũng phải giành cho đợc độc lập.
Cách mạng Tháng Tám thành công nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời,
trong bản tuyên ngôn bất hủ Hồ Chí Minh công bố ngày 2/9/1945 thể hiện
quyết tâm: Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lợng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập. Cách
mạng Tháng Tám thắng lợi đã chứng minh sức sống mãnh liệt của nhân
dân ta, là thắng lợi của t tởng độc lập dân tộc tự chủ, tự lực tự cờng của Hồ
Chí Minh.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lợc, t tởng độc
lập tự chủ, tự lực tự cờng của Hồ Chí Minh lại đợc phát huy cao độ, Hồ
Chí Minh cùng Đảng ta chủ trơng tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân,
toàn diện, trờng kỳ, dựa vào sức mình là chính với tinh thần thà hy sinh

tất cả chứ nhất định không chịu mất nớc, nhất định không chịu làm nô lệ
11
đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng, giải phóng toàn miền Bắc,
cách mạng Việt Nam chuyển sang một thời kỳ mới.
Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cờng, không chịu sức ép
từ bên ngoài, Hồ Chí Minh cùng Đảng ta xác định đờng lối tiến hành đồng
thời hai chiến lợc cách mạng: Cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Với đờng lối cách mạng
đúng đắn đó đã phát huy đợc sức mạnh tổng hợp to lớn của cả dân tộc làm
nên thắng lợi huy hoàng của cách mạng Việt Nam.
Tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cờng luôn đợc Hồ Chí Minh đề
cao và phát huy trong cách mạng Việt Nam, song Hồ Chí Minh không
đồng tình với t tởng ỷ lại, trông chờ vào sự giúp đỡ quốc tế. T tởng của
Ngời là trong khi các dân tộc đoàn kết nhau lại, hợp sức cùng đánh đổ kẻ
thù chung thì lại càng phải nêu cao tinh thần nỗ lực của bản thân mỗi n ớc.
Ngời triệt để bài trừ t tởng ỷ lại: Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà
cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng đợc độc lập.
Nh vậy theo Hồ Chí Minh cách mạng muốn giành thắng lợi cần thiết
phải đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời
đại song phải luôn nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự c ờng. Đó là
t tởng đúng đắn đợc Đảng ta vận dụng vào cách mạng Việt Nam giành hết
thắng lợi này đến thắng lợi khác. Thấm nhuần t tởng Hồ Chí Minh, chúng
ta trớc sau nh một luôn luôn chủ trơng độc lập tự chủ, tự lực tự cờng, phải
gắn liền với đoàn kết hợp tác quốc tế, coi đó là chiến lợc phát triển của
cách mạng Việt Nam.
4. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới.
Khi khẳng định đoàn kết quốc tế là vấn đề có ý nghĩa chiến lợc, đảm
bảo cho cách mạng thắng lợi, trong tác phẩm Đờng Kách mệnh (1927) Hồ
Chí Minh đã xác định: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách
mạng thế giới, cho nên phải đi theo đờng lối của quốc tế cộng sản. Cách

mạng Việt Nam có quan hệ mật thiết với cách mạng Nga, giai cấp vô sản
12
Pháp và phong trào giải phóng dân tộc ở các nớc thuộc địa. T tởng ấy đợc
Hồ Chí Minh khẳng định lại lần nữa trong Cơng lĩnh đầu tiên của Đảng
(1930): Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô sản thế
giới, đứng về phía Mặt trận cách mạng gồm các dân tộc thuộc địa bị áp
bức và giai cấp công nhân bị bóc lột trên thế giới mà trụ cột của mặt trận
này Liên Xô. Trong lời kêu gọi nhân ngày thành lập Đảng (1930) Nguyễn
ái Quốc viết: Từ nay cách mạng Việt Nam không đơn độc nữa mà có sự
ủng hộ của cách mạng thế giới.
Nh vậy khẳng định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách
mạng thế giới là Hồ Chí Minh đã chỉ ra sự cần thiết phải đoàn kết quốc tế
đồng thời cách mạng Việt Nam phải có nghĩa vụ, trách nhiệm với cách
mạng thế giới. Vì vậy mà trong những ngày đầu của phong trào cách mạng
Việt Nam dới sự lãnh đạo của Đảng, Hồ Chí Minh đã nói: Trên thế giới
hễ ai làm cách mạng vô sản thì đều là bầu bạn của nhân dân An Nam và
coi giúp bạn nh chính giúp mình. Với t tởng đúng đắn trong hoạt động
cách mạng của mình Hồ Chí Minh cùng Đảng ta luôn nêu cao tinh thần
đoàn kết quốc tế, mà trớc hết là đoàn kết với các nớc XHCN anh em, đặc
biệt là đoàn kết với các nớc Liên Xô và Trung Quốc mà hiệu quả sau này
cách mạng Việt Nam nhận đợc sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của nhân dân
Liên Xô, Trung Quốc trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do và xây
dựng đất nớc.
Hoạt động xây dựng đoàn kết quốc tế, Hồ Chí Minh ý thức đợc tính
chất nghiêm trọng của sự chia rẽ trong phong trào cộng sản quốc tế, đặc
biệt là sự bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc, Ngời đã có nhiều hoạt
động tích cực để khắc phục tình trạng đó. Tháng 11/1960 tại Hội nghị 81
Đảng cộng sản họp tại Mátxcơva, Hồ Chí Minh đã tích cực góp phần giải
quyết những bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc, trong bài phát biểu
Ngời nói: Chúng ta đều là anh em ruột thịt trong đại gia đình cộng sản

quốc tế, cùng nhau cung sức phấn đấu cho tơng lai tơi sáng của loài ngời.
Trớc mắt chúng ta đang có kẻ thù cực kỳ ác là chủ nghĩa đế quốc. Dù nội
13
bộ chúng đầy mâu thuẫn, chúng vẫn nhất trí để chống lại phong trào cộng
sản quốc tế của chúng ta. Để đánh thắng kẻ thù chung, chúng ta nhất định
phải đoàn kết chặt chẽ. Đoàn kết là sức mạnh vô định của chúng ta
(HCM Toàn tập - Nxb CTQG 1996 - Tập 8 - tr.577).
Đoàn kết với Liên Xô, Trung Quốc, với các nớc XHCN Hồ Chí
Minh thờng xuyên giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta nêu cao
tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng. Ngời thờng nói: ta chiến đấu hy
sinh chẳng những vì tự do, độc lập của riêng mình mà còn vì tự do, độc lập
chung của các dân tộc vì hoà bình trên thế giới, phải làm tròn nghĩa vụ
quốc tế của mình, giúp bạn là tự giúp mình Đặc biệt với các n ớc
Đông Dơng, là nớc có cùng chung kẻ thù, cùng có mọi điều kiện nh nhau,
cùng có khát vọng tự do, độc lập do vậy càng cần có mối quan hệ hợp
tác toàn diện.
Mối tình gắn bó keo sơn của 3 nớc Đông Dơng luôn đợc vun đắp,
xây dựng trên tinh thần quốc tế vô sản. Sự gắn bó keo sơn ấy ngày càng
chặt chẽ hơn trong hoàn cảnh có vấn đề, biểu hiện là trong thời kỳ chống
thực dân Pháp, t tởng Hồ Chí Minh là tập trung lực lợng cách mạng toàn
cõi Đông Dơng vào sự nghiệp độc lập dân tộc, làm cho 3 nớc Đông Dơng
đoàn kết, dựa vào nhau, thúc đẩy nhau giành thắng lợi. Sau khi cách mạng
giành thắng lợi thì thực hiện quyền dân tộc tự quyết. T tởng đúng đắn đó
của Hồ Chí Minh đã góp phần bác bỏ những luận điệu xuyên tạc của kẻ
thù ve Liên bang Đông Dơng về Việt Nam muốn thôn tính các dân tộc
trên bán đảo Đông Dơng.
Tinh thần đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện
bằng những tình cảm, hay cử chỉ hành động của Ngời mà còn thể hiện
trong đờng lối đối ngoại của Đảng ta là Việt Nam sẵn sàng làm bạn với
các nớc trên thế giới nhằm củng cố thêm tính đoàn kết hữu nghị giữa

nhân dân ta và nhân dân các nớc phát triển thêm sự hợp tác về chính trị,
kinh tế, văn hoá giữa các nớc bạn với nớc ta. Mục đích ấy đã hoàn toàn đạt
đợc.
14
Những hoạt động quốc tế của Hồ Chí Minh không chỉ vì lợi ích của
dân tộc, đất nớc mà còn góp phần không nhỏ vào củng cố tình đoàn kết, sự
lớn mạnh của hệ thống XHCN. T tởng về đoàn kết quốc tế của Ngời tính
đúng đắn của lý luận: Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để
tạo ra sức mạnh tổng hợp phục vụ cho sự thành công của cách mạng.
*
* *
Xuất phát từ truyền thống đoàn kết cao đẹp của dân tộc, từ tinh hoa
nhân loại, từ lý luận chủ nghĩa Mác Lênin, t tởng đoàn kết quốc tế của
Hồ Chí Minh đợc hình thành và phát triển không ngừng trong suốt cuộc
đời hoạt động cách mạng của Ngời. Những năm tháng hoạt động trong
phong trào công nhân, phong trào cộng sản và phong trào giải phóng dân
tộc Ngời đã tích luỹ đợc những kiến thức và thực tiễn kinh nghiệm phong
phú, hình thành dần đờng lối cứu nớc đúng đắn. ở Hồ Chí Minh cuộc đấu
tranh cho độc lập dân tộc và thắng lợi của cách mạng thế giới gắn liền với
nhau.
Đó là cơ sở, điều kiện để cách mạng Việt Nam có đợc sức mạnh
tổng hợp và sự giúp đỡ tận tình to lớn chiến thắng kẻ thù giành độc lập
dân tộc.
Những hoạt động quốc tế không mệt mỏi của Hồ Chí Minh đã nâng
cao tầm vóc Việt Nam từ một dân tộc nô lệ lên ngang tầm với các dân tộc
khác trên thế giới. Ngời đã đặt nền móng cho sự hợp tác, hữu nghị giữa
Việt Nam với các nớc XHCN, với các nớc trong khu vực và nhân dân yêu
chuộng hoà bình trên toàn thế giới.
T tởng đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh đợc phát huy cao độ trong
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc ta. Ngời phân biệt

rõ nhân dân lao động Pháp với thực dân Pháp, nhân dân Mỹ với đế quốc
Mỹ. T tởng của Ngời là đoàn kết với nhân dân Pháp để chống đế quốc
Pháp và đoàn kết với nhân dân Mỹ để kháng chiến chống đế quốc Mỹ,
đoàn kết với nhân dân tiến bộ trên thế giới đấu tranh cho hoà bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Mọi thành kiến chia rẽ đoàn kết giữa
15
các dân tộc trên thế giới bất kì hình thức nào đều xa lạ với Ng ời. Hồ Chí
Minh đã đóng góp cho sự phát triển của phong trào cộng sản và nhân dân
thế giới, cho việc giữ gìn hoà bình ở Đông Nam á và thế giới. Nền tảng
tạo nên những thắng lợi ấy là nguyên lý chủ nghĩa Mác Lênin về quyền
dân tộc tự quyết, là t tởng không có gì quí hơn độc lập tự do; đoàn kết,
đoàn kết, đại đoàn kết thành công, thành công, đại thành công; đoàn
kết dân tộc, đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh, nó trở thành phơng pháp
ngoại giao độc đáo, đầy hiệu quả của Ngời, làm cho nhân dân Việt Nam
và thế giới tin tởng, kính trọng Ngời.
Những bài học về đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh để lại cho
chúng ta trong quan hệ quốc tế ngày càng vô cùng quý báu. Để khai thác
những thuận lợi, thời cơ tốt khắc phục những nguy cơ, thách thức trong xu
hớng toàn cầu hoá hiện nay mà vẫn giữ đợc bản sắc văn hoá dân tộc, con
đờng XHCN ngày càng đợc khẳng định và kiên trì thực hiện.
Khẳng định và phát triển t tởng đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh
chính là chúng ta đã phát triển một bớc lý luận của chủ nghĩa Mác
Lênin, thúc đẩy phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng
thế giới đi đến thắng lợi vẻ vang.
Dới ánh sáng t tởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh cần
nghiên cứu, xem xét và đa ra nhiều giải pháp đúng đắn, thiết thực nhằm
phát huy cao nhất nội lực của dân tộc đa đất nớc ta nhanh chóng thoát
khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tiến lên giàu mạnh, văn minh.
16

×