Lời nói đầu
Nền kinh tế thế giới đang vận động phát triển không ngừng đòi hỏi từng
quốc gia phải từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới, để giảm khoảng cách
của sự nghèo nàn với các nước tư bản phát triển. Đặc biệt trong những năm gần
đây khu vực Châu á - Thái Bình Dương là khu vực kinh tế có thể nói là năng
động nhất trên thế giới. Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu vực này và
cũng chịu ảnh hưởng của quy luật phát phát triển.
Trong mỗi một quốc gia thì vốn là không thể thiếu được, nó thúc đẩy nền
kinh tế của quốc gia đó phát triển. Đối với các nước phát triển thì có lượng vốn
vô cùng lớn và rất muốn đầu tư ra nước ngoài bằng cách có thể là đầu tư trực
tiếp và gián tiếp. Còn đối với các nước đang phát triển và các nước kém phát
triển là điêù kiện vô cùng thuận lợi để thu hút vốn đầu tư trong đó có Việt Nam.
Đầu tư là động lực quan trọng để tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội. Trong
đó vốn đầu tư trực tiếp có tầm quan trọng đặc biệt, bởi muốn công nghiệp hoá
hiện đại hoá đất nước cần có giải pháp để thu hút vốn.
Thấy rõ tầm quan trọng của vấn đề này, Đảng và nhà nước ta đã ban
hành luật đầu tư nước ngoài vào năm 1987 và qua 3 lần sửa đổi vào các năm
1990, 1992 và gần đây nhất là năm 1999. Để thực hiện ổn định kinh tế xã hội
tăng GDP, tạo công ăn việc làm cho người lao động và nhiều mục tiêu khác thì
nguồn vốn trong nườc mới chỉ đáp ứng được một nửa, cho nên cần phải huy
động vốn từ nước ngoài mà chủ yếu là vốn đầu tư trực tiếp.
Tuy nhiên từ khi ban hành và thực hiện luật đầu tư đến nay tuy không
phảI là thời gian dài song chúng ta đã thu được một số kết quả khả quan. Những
kết quả ban đầu thể hiện là kết quả đúng đắn phù hợp với việc tiếp nhận đầu tư
nước ngoài. Cho đến nay đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam vẫn còn vấn
đề mới cần phải được xem xét giải quyết. Do đó việc tìm hiểu nghiên cứu để có
được sự đánh giá về những kết quả đã đạt được tìm ra những hạn chế khắc phục
nhằm tăng cường hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong thời
gian tới là thực sự cần thiết nhất là sau cuộc khủng hoảng tài chính Châu á, bên
cạnh những mặt được còn có những hạn chế, bất cập chưa thu hút có hiệu quả
điều đó có thể thấy số vốn xin vào đầu tư đã giảm. Trong bài viết này để có thể
thấy rõ và có những phương hướng giải quyết vấn đề này, em chọn đề tài :
"Phương hướng và giải pháp chủ yếu đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài theo vùng kinh tế ở Việt Nam"
Bài viết này bao gồm ba phần :
phần I:
Tổng quan về đầu tư trực tiếp với nước ngoài (FDI).
phầnII:
Thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các vùng
kinh tế thời gian qua.
phầnIII:
Phương hướng và các giải pháp nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư
vào phát triển các vùng kinh tế ở Việt Nam.
Phần I
Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài
I. Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế, hoạt động đầu tư nước ngoài nói
chung và hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng đang diễn ra hết sức
mạnh mẽ. Nhưng đối với Việt Nam, đầu tư nước ngoài vẫn còn là một vấn đề
hết sức mới mẻ . Do vậy để có một cái nhìn tổng thể, khai thác được những
mặt tích cực và hạn chế được những mặt tiêu cực của đầu tư nước ngoài nhằm
thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH-HĐH),
đòi hỏi phải nghiên cứu vấn đề này một cách thấu đáo.
1. Đầu tư và đặc điểm của đầu tư
Đầu tư là hoạt động sử dụng tiền vốn, tài nguyên trong một thời gian
tương đối dài nhằm thu được lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế- xã hội.
Đầu tư là hoạt động sử dụng tiền vốn, tài nguyên trong một thời gian
tương đối dài nhằm thu được lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế- xã hội.
Vốn đầu tư bao gồm:
- Tiền tệ các loại: nội tệ, ngoại tệ, vàng bạc, đá quý
- Hiệnvật hữu hình: tư liệu sản xuất, tài nguyên, hàng hoá, nhà xưởng
- Hàng hoá vô hình: Sức lao động, công nghệ, thông tin, bằng phát
minh, quyền sở hữu công nghiệp, bí quyết kỹ thuật, dịch vụ, uy tín hàng hoá
- Các phương tiện đặc biệt khác: cổ phiếu, hối phiếu, trái phiếu, các
chứng từ có giá khác.
Đặc điểm của đầu tư:
- Tính sinh lợi: Đầu tư là hoạt động tài chính ( đó là việc sử dụng tiền
vốn nhằm mục đích thu lại một khoản tiền có giá trị lớn hơn khoản tiền đã bỏ
ra ban đầu ).
- Thời gian đầu tư thường tương đối dài.
Những hoạt động kinh tế ngắn hạn trong vòng một năm thường không gọi là
đầu tư.
- Đầu tư mang tính rủi ro cao: Hoạt động đầu tư là hoạt động bỏ vốn
trong hiện tại nhằm thu được lợi ích trong tương lai. Mức độ rủi ro càng cao
khi nhà đầu tư bỏ vốn ra nước ngoài.
2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment- FDI).
a. Khái niệm.
FDI đối với nước ta vẫn còn khá mới mẻ bởi hình thức này mới xuất
hiện ở Việt Nam sau thời kỳ đổi mới. Do vậy, việc đưa ra một khái niệm tổng
quát về FDI không phải là dễ. Xuất phát từ nhiều khía cạnh, góc độ, quan
điểm khác nhau trên thế giới đã có rất nhiều khái niệm khác nhau về FDI.
- Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) (1977):
"Đầu tư trực tiếp ám chỉ số đầu tư được thực hiện để thu được lợi ích
lâu dài trong một hãng hoạt động ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của
nhà đầu tư, mục đích của nhà đầu tư là giành được tiếng nói có hiệu quả trong
công việc quản lý hãng đó".
- Theo luật Đầu tư nước ngoài của Liên Bang Nga (04/07/1991"Đầu tư
trực tiếp nước ngoài là tất cả các hình thức giá trị tài sản và những giá trị tinh
thần mà nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các đối tượng sản xuất kinh doanh
và các hoạt động khác nhằm mục đích thu lợi nhuận"
- Theo Hiệp hội Luật quốc tế Henxitiky (1996 )
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự di chuyển vốn từ nước của người đầu
tư sang nước của người sử dụng nhằm xây dựng ở đó những xí nghiệp kinh
doanh hay dịch vụ.
- Theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam sửa đổi, ban hành
12/11/1996, tại Điều 2 Chương 1:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt
Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành hoạt động đầu tư theo
quy định của luật này.
Như vậy, mặc dù có rất nhiều quan điểm khác nhau khi đưa ra khái
niệm về FDI, song ta có thể đưa ra một khái niệm tổng quát nhất, đó là:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức mà nhà đầu tư bỏ vốn để
tạo lập cơ sở sản xuất kinh doanh ở nước tiếp nhận đầu tư. Trong đó nhà
đầu tư nước ngoài có thể thiết lập quyền sở hữu từng phần hay toàn bộ vốn
đầu tư và giữ quyền quản lý, điều hành trực tiếp đối tượng mà họ bỏ vốn
nhằm mục đích thu được lợi nhuận từ các hoạt động đầu tư đó trên cơ sở
tuân theo quy định của Luật Đầu tư nước ngoài của nước sở tại.
b. Phân loại đầu tư.
- Theo phạm vi quốc gia:
+ Đầu tư trong nước.
+ Đầu tư ngoài nước.
- Theo thời gian sử dụng:
+ Đầu tư ngắn hạn.
+ Đầu tư trung hạn.
+ Đầu tư dài hạn.
- Theo lĩnh vực kinh tế:
+ Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng.
+ Đầu tư vào sản xuất công nghiệp.
+ Đầu tư vào sản xuất nông nghiệp.
+ Đầu tư khai khoáng, khai thác tài nguyên.
+ Đầu tư vào lĩnh vực thương mại - du lịch - dịch vụ.
+ Đầu tư vào lĩnh vực tài chính.
- Theo mức độ tham gia của chủ thể quản lý đầu tư vào đối tượng mà
mình bỏ vốn:
+ Đầu tư trực tiếp.
+ Đầu tư gián tiếp.
Trên thực tế, người ta thường phân biệt hai loại đầu tư chính: Đầu tư
trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Cách phân loại này liên quan đến việc tiếp nhận,
quản lý và sử dụng vốn đầu tư.
* Đầu tư gián tiếp: là hình thức mà người bỏ vốn và người sử dụng vốn
không phải là một. Người bỏ vốn không đòi hỏi thu hồi lại vốn ( viện trợ
không hoàn lại ) hoặc không trực tiếp điều hành hoạt động sản xuất kinh
doanh, họ được hưởng lợi tức thông qua phần vốn đầu tư. Đầu tư gián tiếp
bao gồm:
+ Nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (official Development
assistance - ODA). Đây là nguồn vốn viện trợ song phương hoặc đa phương
với một tỷ lệ viện trợ không hoàn lại, phần còn lại chịu mức lãi xuất thấp còn
thời gian dài hay ngắn tuỳ thuộc vào từng dự án. Vốn ODA có thể đi kèm
hoặc không đi kèm điều kiện chính trị.
+ Viện trợ của các tổ chức phi chính phủ (Non Government
organization- NGO): Tương tự như nguồn vốn ODA nhưng do các tổ chức
phi chính phủ viện trợ cho các nước đang thiếu vốn. Đó là các tổ chức như:
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển
Châu á (ADB)
+ Tín dụng thương mại: là nguồn vốn chủ yếu nhằm hỗ trợ cho hoạt
động thương mại, xuất nhập khẩu giữa các quốc gia.
+ Nguồn vốn từ việc bán tín phiếu, trái phiếu, cố phiếu Đây là nguồn
vốn thu được thông qua hoạt động bán các chứng từ có giá cho người nước
ngoài. Có quốc gia coi việc mua chứng khoán là hoạt động đầu tư trực tiếp.
- Đầu tư trực tiếp: là hình thức đầu tư mà người bỏ vốn đồng thời là
người sử dụng vốn. Nhà đầu tư đưa vốn ra nước ngoài để thiết lập cơ sở sản
xuất kinh doanh, làm chủ sở hữu, tự quản lý, điều hành hoặc thuê người quản
lý, hoặc hợp tác liên doanh với đối tác nước sở tại để thành lập cơ sở sản xuất
kinh doanh nhằm mục đích thu được lợi nhuận.
Như vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những nguồn vốn tài
chính đưa vào một nước trong hoạt động đầu tư nước ngoài.
3. Đặc điểm và môi trường của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
a. Đặc điểm FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có những đặc điểm cơ bản sau:
- Hoạt động FDI không chỉ đưa vốn vào nước tiếp nhận đầu tư mà còn
có cả công nghệ, kỹ thuật, bí quyết kinh doanh, sản xuất, năng lực Marketing,
trình độ quản lý Hình thức đầu tư này mang tính hoàn chỉnh bởi khi vốn đưa
vào đầu tư thì hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hành và sản phẩm
được tiêu thụ trên thị trường nước chủ nhà hoặc xuất khẩu. Do vậy, đầu tư kỹ
thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm là một trong những nhân tố làm tăng
sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Đây là đặc điểm để phân biệt với
các hình thức đầu tư khác, đặc biệt là với hình thức ODA (hình thức này chỉ
cung cấp vốn đầu tư cho nước sở tại mà không kèm theo kỹ thuật và công
nghệ).
- Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một lượng vốn tối thiểu vào
vốn pháp định tuỳ theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài ở từng nước, để
họ có quyền trực tiếp tham gia điều hành, quản lý đối tượng mà họ bỏ vốn đầu
tư. Chẳng hạn, ở Việt Nam theo điều 8 của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam quy định: ”Số vốn đóng góp tối thiểu của phía nước ngoài phải bằng
30% vốn pháp định của dự án” (Trừ những trường hợp do chính phủ quy
định).
- Quyền quản lý, điều hành doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài phụ thuộc vào vốn góp. Tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài càng cao thì
quyền quảnlý, ra quyết định càng lớn. Đặc điểm này giúp ta phân định được
các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nếu nhà đầu tư nước ngoài góp
100% vốn thì doanh nghiệp đó hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài điều hành.
- Quyền lợi của các nhà ĐTNN gắn chặt với dự án đầu tư: Kết quả hoạt
động sản xuất kinh của doanh nghiệp quyết định mức lợi nhuận của nhà đầu
tư. Sau khi trừ đi thuế lợi tức và các khoản đóng góp cho nước chủ nhà, nhà
ĐTNN nhận được phần lợi nhuận theo tỷ lệ vốn góp trong vốn pháp định.
- Chủ thể của đầu tư trực tiếp nước ngoài thường là các công ty xuyên
quốc gia và đa quốc gia ( chiếm 90% nguồn vốn FDI đang vận động trên thế
giới ). Thông thường các chủ đầu tư này trực tiếp kiểm soát hoạt động của
doanh nghiệp ( vì họ có mức vốn góp cao) và đưa ra những quyết định có lợi
nhất cho họ.
- Nguồn vốn FDI được sử dụng theo mục đích của chủ thể ĐTNN trong
khuôn khổ luật Đầu tư nước ngoài của nước sở tại. Nước tiếp nhận đầu tư chỉ
có thể định hướng một cách gián tiếp việc sử dụng vốn đó vào những mục
đích mong muốn thông qua các công cụ như: thuế, giá thuê đất, các quy định
để khuyến khích hay hạn chế đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một lĩnh vực,
một ngành nào đó.
- Mặc dù FDI vẫn chịu sự chi phối của Chính Phủ song có phần ít lệ
thuộc vào quan hệ chính trị giữa các bên tham gia hơn so với ODA.
- Việc tiếp nhận FDI không gây nên tình trạng nợ nước ngoài cho nước
chủ nhà, bởi nhà ĐTNN chịu trách nhiệm trực tiếp trước hoạt động sản xuất
kinh doanh của họ. Trong khi đó, hoạt động ODA và ODF ( official
Development Foreign) thường dẫn đến tình trạng nợ nước ngoài do hiệu quả
sử dụng vốn thấp.
b. Môi trường đầu tư FDI tại Việt Nam.
Nước ta mở cửa thu hút vốn đầu tư nước ngoài muộn hơn các nước trong
khu vực, hệ thống luật đầu tư nước ngoài ra đời muộn hơn. Nhưng tương đối
đầy đủ và không kém phần hấp dẫn so với các nước trong khu vực. Luật đầu
tư nước ngoài của Việt Nam được ban hành từ năm 1987, đây là một mốc
quan trọng đánh dấu quá trình mở cửa nền kinh tế, đa dạng hoá đa phương
hoá quan hệ đối ngoại của nước ta. Trước đó năm 1977 Chính phủ ban hành
một nghị định về đâu tư trực tiếp nước ngoài. Song quá trình thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài chỉ thực sự kể từ khi luật đầu tư nước ngoài được ban
hành. Luật đầu tư nước ngoài được ban hành dựa trên kinh nghiệm và luật
pháp của một số nước phát triển cùng với các điều kiện và đặc điểm từng
vùng của Việt Nam. Từ khi ra đời đến nay luôn được sự quan tâm nghiên cứu,
sửa đổi hoàn thiện đảm bảo tính linh họat phù hợp với bối cảnh thực tiễn. Đã
sửa đổi bổ xung vào các năm 1990, 1992, 1996 và lần mới nhất là tháng 6
năm 2000 vừa qua. Cùng với luật đầu tư cho tới nay có tới trên 1100 văn bản
dưới luật quy định và hướng dẫn thưc hiện luật đầu tư nước ngoài, trong đó có
nghị định 24\2000 NĐ-CP ngày 31-7-2000 mới nhất quy định về luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam. Đã chi tiết hoá các vấn đề trong luật đầu tư nước
ngoài, đã giải quyết dứt điểm các vấn đề cơ bản của đầu tư nước ngoài như:
hình thức đầu tư tổ chức kinh doanh, vấn đề thuế, tài chính, quản lý ngoại hối,
xuất nhập khẩu chuyển giao công nghệ, bảo vệ môi trường sinh thái, quan hệ
lao động, bảo đảm đầu tư, về hồi hương vốn và khen thưởng luật đầu tư
nước ngoài của ta được đánh giá là đạo luật thông thoáng, cởi mở bảo đảm
cho nhà đầu tư nước ngoài an toàn về đầu tư và tự do kinh doanh. Đồng thời
bảo đảm nguyên tắc bảo đảm độc lập tự chủ tôn trọng chủ quyền, tôn trọng
pháp luật của Việt Nam bình đẳng hợp tác cùng có lợi. Luật vừa phù hợp với
tình hình nước ta và thích ứng với hệ thống thông lệ quốc tế. Do đó đã có sức
hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó các bộ các ngành liên
quan đã có những thông tư hướng dẫn nhằm cải thiện môi trường đầu tư và đã
có những thay đổi hợp lý làm tăng tính hấp dẫn đầu tư như: Sắc lệnh ngân
hàng ban hành của bộ tài chính cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài được mở tài khoản bất kì ở ngân hàng nước ngoài đã giải quyết được
nhu cầu vốn của nhà đầu tư nước ngoài khi các ngân hàng trong nước không
có khả năng cung cấp. Các thay đổi về quy định, ưu đãi đối với nhà đầu tư
nước ngoài, người lao động người nước ngoài như được ưu tiên về các thủ tục
xuất nhập cảnh các quy định cư trú, người lao động nước ngoài được phép cư
trú phù hợp với hợp đồng lao động và sẽ được gia hạn cư trú nếu hợp đồng
lao động được gia hạn đặc biệt là việc bãi bỏ chế độ hai giá đối với người
nước ngoài đã làm mất đi cảm giác bị phân biệt đối xử của người nước ngoài.
Vấn đề tiền lương và quan hệ lao động cũng có những thay đổi tích cực như:
Các doanh nghiệp nước ngoài được phép tuyển dụng lao động nếu sau 20
ngày kể từ ngày yêu cầu tuyển dụng mà các cơ quan tuyển dụng không đáp
ứng được nhu cầu lao động. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được
phép trả lương cho người Việt Nam bằng tiền Việt Nam thay vì bắt buộc phải
trả bằng USD bên cạnh đó Việt Nam có sự ổn định chính trị xã hội cao ít
nước trong và ngoài khu vực đạt được cũng là một nhân tố làm tăng tính hấp
dẫn của môi trường đầu tư. Quan hệ ngoại giao nước ta luôn được chú trọng
phát triển kể từ khi thực hiện đổi mới phát triển nền kinh tế mở. Đã thiết lập
và củng cố mối quan hệ với nhiều nước trên thế giới, Việt Nam ngày càng hội
nhập hơn vào nền kinh tế thế giới tích cực tham gia vào các tổ chức khu vực
như :ASEAN, APTA cũng như diễn đàn châu á Thái Bình Dương đã tạo
điều kiện thuận lợi thu hút FDI vào Việt Nam. Việt Nam nằm trong khu vực
phát triển năng động nhất thế giới, có tốc độ tăng trưởng cao gấp nhiều lần so
với mức trung bình của thế giới (2,4%), cùng với nguồn tài nguyên phong phú
đa dạng và nguồn nhân lực dồi dào với bản tính cần cù chịu khó ham học
hỏi
II.sự cần thiết phải thu hút FDI vào phát triển các vùng kinh tế ở Việt Nam
Trước hết FDI là ngồn bổ xung vốn đầu tư. Giải quyết tình trạng thiếu
vốn ở các nước đang phát triển. Các nước đang phát triển thường trong vòng
luẩn quẩn như sau:
SX không hiệu quả
Thu nhập thấp
Tích luỹ thấp
Đầu tư
h
ấ
Khi có FDI ⇒ Đầu tư tăng ⇒ Quy mô XS, hiệu quả XS tăng ⇒ Thu
nhập tăng ⇒ Tích luỹ tăng ⇒ Tạo đà phát triển cho giai đoạn sau.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ góp phần tạo công ăn việc làm, nâng cao
thu nhập, ổn định đời sống dân cư:
+ Khi chưa có FDI : Đầu tư thấp ⇒ quy mô SX nhỏ ⇒ Sử dụng ít lao
động ⇒ thất nghiệp
+ Khi có FDI : Đầu tư tăng ⇒ quy mô SX tăng ⇒ Sử dụng nhiều lao
động, tạo nhiều việc làm ⇒ Giảm thất nghiệp
Tăng thu nhập dân cư.
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ kích thích quá trình SX: FDI ⇒ đầu tư
tăng ⇒ SX tăng
Cầu đầu vào tăng(NVL) Tăng SX cung cấp đầu vào
(NVL)
Đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ cải thiện cán cân thanh toán, do khoản
mục vốn tăng thêm, mặt khác đầu tư truc tiếp nước ngoài thường hoạt động
trong các lĩnh vực sản xuất khẩu do đó gảm chi ngoại tệ và tăng thu ngoại tệ
từ hoạt động của DNCVĐTNN. Do vậy sẽ làm cán cân thanh toán dịch
chuyển theo chiều thăng dư. Hầu hết các nước đang phát triển ở trong tình
trạng thâm hụt cán cân thanh toán.
Đầu tư trưc tiếp nước ngoài đẩy nhanh quá trình tiếp nhận công nghệ ở
các nước tiếp nhận đầu tư : Các nước đi đầu tư thường có tiềm lực về vốn, có
điều kiện để nghiên cứu triển khai công nghệ kỹ thuật cao, luôn xuất hện
công nghệ mới dẫn tới xuất hiện công nghệ hạng hai, công nghệ hạng ba. Đã
dẫn tới nhu cầu chuyển giao công nghệ. Trong khi nước sở tại khan hiếm vốn
không có điều kiện nghiên cứu nên mặt bằng công nghệ thưòng thấp hơn,
luôn có nhu cầu tiếp nhận công nghệ song cũng rất hạn chế việc tiếp nhận
công nghệ thông qua con đường quan hệ thương mại vì không có vốn. Nên
thông qua con đường FDI để tiếp nhận công nghệ là chủ yếu. Với hình thức
này nước tiếp nhận có điều kiện tiếp nhận công nghệ mới và tận dụng được
các công nghệ hạng hai đã lỗi thời ở nước đối tác nhưng còn tiên tiến hơn so
với công nghệ trong nước với chi phí thấp, tiết kiệm được thời gian nghiên
cứu, có điêù kiện đi tắt đón đầu rút ngắn khoảng cách về mặt bằng công nghệ
kỹ thuật.
Thông qua FDI các nước nhận đầu tư có thể tiếp cận với thị trường thể
giới. Bởi vì hầu hết các hoạt động FDI đều do các công ty đa quốc gia thực
hiện mà các công ty có lợi thể về việc tiếp cận với khách hàng bằng những
hợp đồng dài hạn dựa trên cơ sở những thanh thế và uy tín của họ về chất
lượng, kiểu dáng của sản phẩm và việc giữ đúng thời hạn
Thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài học hoi được kinh
ngiệm kinh doanh, nâng cao hiêu quả quản lý, và tác phong lao động của các
nhà đầu tư nước ngoài có kinh nghiệm kinh doanh, có khả năng quản lý hiệu
quả. Trong quá trình hơp tác :cùng kinhdoanh, cùng quản lý. Sẽ nâng cao
hiệu quả quản lý, kinh nghệm kinh doanh cho nứoc tiếp nhận. Ngoài ra đầu tư
trưc tiếp còn góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.Các nước đang phát thiển
thường có cơ cấu kinh tế bất hợp lý, chủ yếu phát triển khu vực một do không
có nhiều vốn. Vi vây FDI sẽ cung cấp vốn để đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh
tế hợp lý hơn,dần dần mang tính chất của một nền kinh tế phát triển.
III. Các nhân tố ảnh hưởng tới việc thu hút FDI vào các vung kinh tế.
1. Môi trường chính trị- xã hội.
Sự ổn định chính trị - xã hội có ý nghĩa quyết định đến việc huy động
và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài. Tình hình
chính trị không ổn định, đặc biệt là thể chế chính trị (đi liền với nó là sự thay
đổi luật pháp) thì mục tiêu và phương thức thực hiện mục tiêu cũng thay đổi.
Hậu quả là lợi ích của các nhà ĐTNN bị giảm (họ phải gánh chịu một phần
hay toàn bộ các thiệt hại đó) nên lòng tin của các nhà đầu tư bị giảm sút. Mặc
khác, khi tình hình chính trị - xã hội không ổn định, Nhà nước không đủ khả
năng kiểm soát hoạt động của các nhà ĐTNN, hậu quả là các nhà đầu tư hoạt
động theo mục đích riêng, không theo định hướng chiến lược phát triển kinh
tế -xã hội của nước nhận đầu tư. Do đó hiệu quả sử dụng vốn FDI rất thấp.
Kinh nghiệm cho thấy, khi tình hình chính trị -xã hội bất ổn thì các nhà
đầu tư sẽ ngừng đầu tư hoặc không đầu tư nữa. Chẳng hạn, sự lộn xộn ở Nga
trong thời gian qua đã làm nản lòng các nhà đầu tư mặc dù Nga là một thị
trường rộng lớn, có nhiều tiềm năng Tuy nhiên, nếu chính phủ thực hiện
chính sách cởi mở hơn nữa thì chỉ làm giảm khả năng thu hút các nhà ĐTNN,
cá biệt có trường hợp trong chiến tranh vẫn thu hút được FDI song đó chỉ là
trường hợp ngoại lệ ddối với các công ty thuộc tổ hợp công nghiệp quân sự
muốn tìm kiếm cơ hội buôn bán các phương tiện chiến tranh hoặc là sự đầu tư
của chính phủ thông qua hình thức đa phương hoặc song phương nhằmthực
hiện mục đích riêng. Rõ ràng, trong trường hợp này, việc sử dụng FDI không
đem lại hiệu kinh tế - xã hội cho nước tiếp nhận đầu tư.
2. Sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô.
Đây là điều kiện tiên quyết của mọi ý định và hành vi đầu tư. Điều này
đặc biệt quan trọng đối với việc huy động và sử dụng vốn nước ngoài. Để thu
hút được FDI, nền kinh tế địa phương phải là nơi an toàn cho sự vận động của
vốn đầu tư, và là nơi có khả năng sinh lợi cao hơn các nơi khác. Sự an toàn
đòi hỏi môi trường vĩ mô ổn định, hơn nữa phải giữ được môi trường kinh tế
vĩ mô ổn định thì mới có điều kiện sử dụng tốt FDI.
Mức độ ổn định kinh tế vĩ mô được đánh giá thông qua tiêu chí: chống
lạm phát và ổn định tiền tệ. Tiêu chí này được thực hiện thông qua các công
cụ của chính sách tài chính tiền tệ như lãi suất, tỷ giá hối đoái, tỷ lệ dự trữ bắt
buộc, các công cụ thị trường mở đồng thời phải kiểm soát được mức thâm hụt
ngân sách hoặc giữ cho ngân sách cân bằng.
3. Hệ thống pháp luật đồng bộ và hoàn thiện, bộ máy quản lý nhà nước
có hiệu quả.
Môi trường pháp luật là bộ phận không thể thiếu đối với hoạt động
FDI. Một hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn thiện và vận hành hữu hiệu là một
trong những yếu tố tạo nên môi trường kinh doanh thuận lợi, định hướng và
hỗ trrợ chocác nhà ĐTNN. Vấn đề mà các nhà ĐTNN quan tâm là:
- Môi trường cạnh tranh lành mạnh, quyền sở hữu tài sản tư nhân được
pháp luật bảo đảm.
- Quy chế pháp lý của việc phân chia lợi nhuận, quyền hồi hương lợi
nhuận đối với các hình thức vận động cụ thể của vốn nước ngoài.
- Quy định về thuế, giá, thời hạn thuê đất Bởi yếu tố này tác động trực
tiếp đến giá thành sản phẩm và tỷ suất lợi nhuận. Nếu các quy định pháp lý
bảo đảm an toàn về vốn của nhà đầu tư không bị quốc hữu hoá khi hoạt động
đầu tư không phương hại đến an ninh quốc gia, bảo đảm mức lợi nhuận cao
và việc di chuyển lợi nhuận về nước thuận tiện thì khả năng thu hút FDI càng
cao.
Do vậy, hệ thống pháp luật phải thể hiện được nội dung cơ bản của
nguyên tắc: Tôn trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi và theo
thông lệ quốc tế. Đồng thời phải thiết lập và hoàn thiện định chế pháp lý tạo
niềm tin cho các nhà ĐTNN.
Bên cạnh hệ thống văn bản pháp luật thì nhân tố quyết định pháp luật
có hiệu lực là bộ máy quản lý nhà nước. Nhà nước phải mạnh với bộ máy
quản lý gọn nhẹ, cán bộ quản lý có năng lực, năng động,có phẩm chất đạo
đức. Việc quản lý các dự án FDI phải chặt chẽ theo hướng tạo thuận lợi cho
các nhà đầu tư song không ảnh hưởng đến sự phát triển chung của nền kinh tế
và xã hội.
4 Hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật.
Kết cấu hạ tầng kỹ thuật là cơ sở để thu hút FDI và cũng là nhân tố thúc
đẩy hoạt động FDI diễn ra nhanh chóng, có ảnh hưởng quyết định đến hiệu
quả sản xuất kinh doanh. Đây là mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư
trước khi ra quyết định. Quốc gia có hệ thống thông tin liên lạc, mạng lưới
giao thông, năng lượng, hệ thống cấp thoát nước, các cơ sở dịch vụ tài chính
ngân hàng tạo điều kiện cho các dự án FDI phát triển thuận lợi. Mức độ ảnh
hưởng của mỗi nhân tố này phản ánh trình độ phát triển của mỗi quốc gia và
tạo môi trường đầu tư hấp dẫn.Trong quá trình thực hiện dự án, các nhà đầu
tư chỉ tập trung vào sản xuất kinh doanh, thời gian thực hiện các dự án được
rút ngắn, bên cạnh đó việc giảm chi phí cho các khâu vận chuyển, thông
tin sẽ làm tăng hiệu quả đầu tư.
5. Hệ thống thị trường đồng bộ, chiến lược phát triển hướng ngoại.
Hoạt động kinh doanh muốn đem lại hiệu quả cao thì phải diễn ra trong
môi trường thuận lợi, có đầy đủ các thị trường: thị trường lao động, thị trường
tài chính, thị trường hàng hoá - dịch vụ Các nhà ĐTNN tiến hành sản xuất
kinh doanh ở nước chủ nhà nên đòi hỏi ở nước này phải có một hệ thống thị
trường đồng bộ, đảm bảo cho hoạt động của nhà đầu tư được tồn tại và đem
lại hiệu quả. Thị trường lao động là nơi cung cấp lao động cho nhà đầu tư. Thị
trường tài chính là nơi cho nhà đầu tư vay vốn để tiến hành sản xuất kinh
doanh và thị trường hàng hoá - dịch vụ là nơi tiêu thụ sản phẩm, lưu thông
hàng hoá, đem lại lợi nhuận cho nhà đầu tư. Hệ thống thị trường này sẽ đảm
bảo cho toàn bộ quá trìng hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra thuận lợi - từ
nguồn đầu vào đến việc tiêu thụ sản phẩm đầu ra.
Chiến lược phát triển kinh tế hướng ngoại là thực hiện chiến lược
hướng về xuất khẩu. Mở rộng thị trường xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh
tranh với các quốc gia khác tạo điều kiện cải thiện cán cân thương mai, chiếm
được lòng tin của các nhà đầu tư.
6 Trình độ quản lý và năng lực của người lao động.
Nguồn lao động vừa là nhân tố để thu hút vừa là nhân tố sử dụng có
hiệu quả FDI. Bởi con người có khả năng hợp tác kinh doanh cao, trình độ lao
động phù hợp với yêu cầu, năng lực quản lý cao thì sẽ tạo ra năng xuất cao.
Bên cạnh đó, các nhà ĐTNN sẽ giảm một phần chi phí đào tạo và bớt được
thời gian đào tạo nên tiến độ và hiệu quả của các dự án sẽ đạt đúng theo mục
tiêu đề ra. Trình độ thấp kém sẽ làm cho nước chủ nhà thua thiệt, đặc biệt là ở
các khâu của quá trình quản lý hoạt động FDI. Sai lầm của các cán bộ quản lý
nhà nước có thể làm thiệt hại về thời gian, tài chính cho nhà ĐTNN và cho
nước chủ nhà. Vì vậy, nước chủ nhà phải tích cực nâng cao trình độ dân trí
của người lao động để không chỉ có nâng cao khả năng tiếp cận công nghệ, kỹ
thuật tiên tiến mà còn nâng cao kỹ thuật quảnlý kinh tế.
7 Tình hình kinh tế - chính trị trong khu vực và trên thế giới.
Tình hình này tác động đến không chỉ các nhà đầu tư đang tìm kiếm
đối tác, mà còn tới cả các dự án đang triển khai. Khi môi trường kinh tế chính
trị trong khu vực và thế giới ổn định, không có sự biến động khủng hoảng thì
các nhà dầu tư sẽ tập trung nguồn lực để đầu tư ra bên ngoài và các nước tiếp
nhận đầu tư có thể thu hút được nhiều vốn FDI. Ngược lại, khi có biến động
thì các nguồn đầu vào và đầu ra của các dự án thường thay đổi, các nhà đầu tư
gặp khó khăn rất nhiều về kinh tế nên ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả FDI.
Sự thay đổi về các chính sách của nước chủ nhà để phù hợp với tình hình thực
tế, đòi hỏi các nhà ĐTNN phải có thời gian tìm hiểu và thích nghi với sự thay
đổi đó. Hơn nữa, tình hình của nước đầu tư cũng bị ảnh hưởng nên họ phải
tìm hướng đầu tư mới dẫn đến thay đổi chiến lược ĐTNN của họ. Chẳng hạn,
cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu á trong thời gian qua dã làm giảm
tốc độ đầu tư FDI vào khu vực này. Hàng loạt các nhà đầu tư rút vốn hoặc
không đầu tư nữa vì sợ rủi ro cao.
IV. Các quan điểm và yêu cầu thu hút FDI theo vùng kinh tế tại Việt Nam.
1. Các quan điểm về thu hút FDI.
Trên nhiều vấn đề cụ thể liên quan tới FDI còn sự khác nhau về đánh
giá và cách xử lý dẫn đến các quan điểm:
- Tạo lập môi trường chính trị trong nước và quốc tế ổn định.
ổn định chính trị là mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư. Do vậy,
cần quan tâm đến kết cấu hạ tầng xã hội, chia sẻ thành quả tăng trưởng cho
mọi tầng lớp xã hội tạo điều kiện ổn định chính trị trong nước - là tiền đề cho
mọi sự thành công khác, hạn chế mức độ rủi ro cho các nhà ĐTNN.
Bên cạnh đó, các quốc gia đều xúc tiến hoạt động ngoại giao, chính trị
hình thành nên khu vực ổn định chính trị, an ninh thông qua việc ký kết các
hiệp định thân thiện, hợp tác theo xu hướng thống nhất trong đa dạng. Vì vậy,
nâng cao năng lực của hệ thống chính trị với hạt nhân là sự lãnh đạo của Đảng
cầm quyền, tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo hướng vừa mềm
dẻo, vừa cương quyết, bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư cũng như lợi ích của xã
hội.
- Quan điểm về môi trường pháp lý.
Môi trường pháp lý đầy đủ, đòng bộ và vận hành có hiệu quả sẽ tạo ra
môi trường kinh doanh hoàn thiện. Có nhiều ưu đãi cho các nhà ĐTNN: Miễn
giảm thuế, cải cách thủ tục hành chính, giải quyết mềm dẻo các tranh chấp
xảy ra trong hoạt động đầu tư; không quốc hữu hoá, thực hiện chính sách
"không hồi tố", sử dụng danh mục hạn chế đầu tư tạo ra hành lang pháp lý
rõ ràng.
- Quan điểm về xây dựng chiến lược kinh tế hướng ngoại đúng đắn.
Phát triển công nghiệp hướng về xuất khẩu, định hướng cho hệ thống
các chính sách kinh tế vĩ mô: tăng cường sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới,
phát huy nội lực để giải quyết những khó khăn cho nền kinh tế. Kiềm chế lạm
phát, ttạo nguồn vốn đối ứng trong nước đủ để đáp ứng nhu cầu đầu tư, tiếp
nhận công nghệ hợp lý tuỳ thuộc vào từng giai đoạn phát triển để có thể phát
huy lợi thế so sánh khi trao đổi quốc tế.
- Quan điểm về xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội.
Chỉ có xây dựng một kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phù hợp, thuận lợi
cho hoạt động sản xuất kinh doanh thì mới có thể thu hút vốn đầu tư nói
chung và hấp dẫn dòng FDI đổ vào trong nước, tạo nền móng cho việc thực
hiện nhanh chóng, có hiệu quả các dự án đầu tư. Xây dựng các khu công
nghiệp tập trung, khu chế xuất, khu công nghệ cao, hệ thống điện, nước, bưu
chính viễn thông đầy đủ, thuận tiện cho các vùng kinh tế trọng điểm.
- Quan điểm về lựa chọn đối tác nước ngoài và xây dựng đối tác trong
nước để chủ động tiếp nhận đầu tư.
Thực hiện nguyên tắc: Đa dạng hoá, đa phương hoá các mối quan hệ
kinh tế quốc tế. Đa dạng hoá để tận dụng lợi thế so sánh của mỗi quốc gia
trong mỗi dự án cụ thể. Từ đó lựa chọn được chủ đầu tư thực sự có năng lực
tài chính, uy tín kinh doanh, tiềm lực kỹ thuật- công nghệ hiện đại. Đa
phương hoá sẽ tránh được sự phụ thuộc vào một luồng vốn từ một trung tâm,
tránh được rủi ro và tạo sự cạnh tranh giữa các nhà ĐTNN, nhờ đó tăng thế
thương lượng của nước chủ nhà đối với các nhà ĐTNN. Xây dựng các đối tác
trong nước có năng lực, cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp có vốn
ĐTNN, bảo vệ và năng cao quyền lợi của các đối tác trong nước.
- Quan điểm về chiến lược quy hoạch tổng thể FDI.
Đây là nhân tố quyết định đến hiệu quả kinh tế- xã hội của đất nước,
thiếu vắng chiến lược và quy hoạch tổng thể và cụ thể tại các vùng kinh tế sẽ
gây tác hại lâu dài, khó khắc phục được hậu quả. Do vậy phải tăng cường vai
trò quản lý của nhà nước, xây dựng mục tiêu cho từng thời kỳ bố trí cơ cấu
đầu tư tại các vùng hợp lý
2. Các yêu cầu thu hút FDI.
+ Chủ chương chính sách của nhà nước trong từng giai đoạn. Việc nhà
nước khuyến khích hoặc hạn chế sự phát triển lĩnh vực sản xuất nào, vùng
nào sẽ là cơ hội đầu tư thuận lợi hay khó khăn đối với lĩnh vực đó hoặc
vùng đó.
+ Tài nguyên thiên nhiên của vùng đó, khả năng khai thác chế biến tài
nguyên đó. Đây là yêu cầu quan trọng để vùng đó coa cơ hội lớn trong việc
thu hút vốn đầu tư (FDI)
+ Trình độ phát triển của nông, lâm, ngư nghiệp. Điều kiện tự nhiên
ảnh hởng đối với sự phat triển của các ngành. Nếu điều kiện tự nhiên cho
phép phát triển nông, lâm, ngư nghiệp thì sẽ tạo cơ hội lớn cho việc thu hút
vốn đầu tư. Cũng như sự phát triển của bản thân nông, lâm ,nghư nghiệp phát
triển thì nó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các ngành cung cấp
sản phẩm tiêu dùng cho nông, lâm, ngư nghiệp (phân bón, thuốc trừ sâu )
+ Khả năng đầu tư hiện đại hoá, mở rộng các cơ sở công nghiệp hiện
có tại vùng đó.
+ Mối liên hệ sản xuất giữa các ngành công nghiệp trong vùng và nước
ngoài. Mối liên hệ này được thể hiện qua việc cung ứng vật tư và tiêu thụ sản
phẩm của nhau. Mối liên hệ này càng phát triển thì cơ hội thu hút vốn đầu tư
càng thuận lợi.
Phần II
Thực trạng thu hút FDI vào các vùng kinh tế ở Việt Nam trong
thời gian qua.
I. Giới thiệu về sự hình thành các vùng kinh tế ở Việt Nam.
Nguồn lực là tiền đề vật chất quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội
của một quốc gia. Quy mô và tốc độ phát triển - xã hội của một nước, ở mức
độ lớn, phục thuộc vào việc khai thác hợp lý, sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực bên trong và bên ngoài, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển như
nước ta hiện nay.
Tài nguyên thiên nhiên là tài sản của một quốc gia, là một trong những
nguồn lực để xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội. Tài nguyên thiên nhiên
tuy không có tác dụng quyết định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, song
đó là điều kiện thường xuyên, cần thiết cho mọi hoạt động sản xuất, là yếu tố
cơ bản của quá trình sản xuất. Tài nguyên thiên nhiên là một trong những yếu
tố tạo vùng quan trọng, có ý nghĩa to lớn đối với việc hình thành các ngành
sản xuất chuyên môn hoá, các ngành mũi nhọn.
Cùng với tài nguyên thiên nhiên còn có tài nguyên nhân văn cũng là
tiền đề để phát triển kinh tế - xã hội của một nước, một vùng. Dân cư và
nguồn lao động không chỉ là lực lượng trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã
hội, mà còn là lực lượng tiêu thụ sản phẩm của xã hội, kích thích quá trình tái
tạo sản xuất mở rộng của xã hội. Dân cư và các nguồn lực lao động vốn khó
di chuyển đi xa, vì vậy khi lựa chọn đị điểm sản xuất kinh doanh trước hết cần
tận dụng tới mức tối đa nguồn lao động tại chỗ.
Trong tài nguyên nhân văn còn có yếu tố về văn hoá - lịch sử. Mỗi một
vùng ở nước ta đều có một bản sắc dân tộc khác nhau, và có các ngành nghề
truyền thống khác nhau. Do đó, nhà đầu tư nước ngoàiđánh giá từng ngành
nghề truyền thống, ngành nào có lợi hơn và thu được lợi nhuận nhanh thì họ
sẽ đầu tư vào.
Ngoài ra, các nhà đầu tư còn căn cứ và hiện trạng và tiềm năng phát
triển kinh tế - xã hội ở nơi mình định đầu tư vào. Cơ cấu GDP cũng là một
nhân tố quan trọng để nhà đầu tư xem xét để từ đó nhà đầu tư biết mình phải
đầu tư vào ngành nào, vào lĩnh vực nào.
Với những căn cứ trên mà các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư chủ yếu
vào nước ta ở 8 vùng từ Bắc đến Nam.
Bảng 1: Cơ cấu đầu tư đầu tư nước ngoài theo vùng lãnh thổ tính
theo % FDI đến hết năm 1999
STT Vùng lãnh thổ Tỷ lệ %
1 Đông Nam Bộ 53,13
2 Đồng bằng sông Hồng 29,6
3 Duyên hải Nam Trung Bộ 8,64
4 Đông Bắc 5,46
5 Đồng bằng sông Cửu Long 2,86
6 Bắc trung Bộ 2,46
7 Tây Nguyên 0,16
8 Tây Bắc 0,15
Tổng 100
Nguồn:những vấn đề kinh tế thế giới –số 2(64)2000
II. Khái quát về thực trạng thu hút FDI vào nền kinh tế Việt Nam nói chung.
1. Vị trí và tầm quan trọng của đầu tư nước ngoài đối với nền kinh tế
Việt Nam.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong những thập kỷ qua đã tăng rất
nhanh, tốc độ tăng trung bình của toàn thế giới là 24% trong thời kỳ 1986-
1990 và 3,2% vào đầu thập kỷ 90. Trong đó tốc độ tăng FDI của các nước
ASEAN là nhanh nhất, vào khoảng 40%/năm trong suốt thời kỳ 1985-1994
(theo World Investment Report, New York -1995).
Với sự ra đời và hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài, thị trường xuất khẩu của Việt Nam không ngừng được mở
rộng. Từ các thị trường truyền thống thuộc khối các nước xã hội chủ nghĩa
trước đây mà chủ yếu là các nước Đông Âu, thị trường ck đã mở rộng sang
các nước Tây Âu, Bắc Mỹ và các nước NICs. Kim ngạch xuất khẩu của khối
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh qua các năm, từ 52 triệu
USD năm 1991, năm 1995 đạt 440 triệu USD - tăng 8,5 lần so với năm 1991,
năm 1999 đạt 2.577 triệu USD tăng 5,9 lần so với năm 1995 và tăng 1,3 lần
so với năm 1998. Xuất khẩu của khối các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài trong tổng kim nghạch xuất khẩu của cả nước không ngừng tăng lên, từ
8% năm 1998 lên 10,8% năm 1996 và lên 23% năm 1999.
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tạo nguồn thu đáng kể cho
ngân sách nhà nước. Nộp ngân sách của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài (không kể dầu khí) cũng liên tục tăng lên, từ 128 triệu USD năm 1994
đến năm 1998 đạt 317 triệu USD, năm 1999 đạt 271 triệu USD.
Các doanh nghiệp FDI đã góp phần giải quyết việc làm cho trên 30 vạn
lao động trực tiếp. Các nhân viên trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài đã tiếp thu được công nghệ quản lý hiện đại, nâng cao trình độ tin học,
ngoại ngữ, có điều kiện cập nhật các kiến thức, phương tiện, công cụ mới
trong quản lý kinh tế, có điều kiện làm quen và tự rèn luyện tác phong công
nghiệp ; người lao động đã được nâng cao tay nghề, làm quen và sử dụng
thành thạo các nhà máy móc thiết bị hiện đại
Đầu tư nước ngoài cũng góp phần mở rộng, đa dạng hoá và đa phương
hoá các hoạt động kinh tế đối ngoại, tạo điều kiện tăng cường, củng cố và tạo
ra những thế lực mới cho nền kinh tế nước ta trong tiến trình hội nhập nền
kinh tế khu vực và thế giới.
2. Khái quát chung thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Đối tác nước ngoài chủ yếu là các nước trong khu vực như Nics, Đông
á, ASEAN, Nhật Bản chiếm tới 75% tổng vốn đầu tư nước ngoài trong doanh
nghiệp công nghiệp giai đoạn 1988-1999. Điều này phản ánh mức độ hội
nhập khu vực khá nhanh. Thời gian gần đây Mỹ và Tây Âu đầu tư vào Việt
Nam với tốc độ nhanh, nhiều dự án quy mô lớn. Tuy nhiên vị trí này chưa
xứng đáng với tiềm năng về vốn và công nghệ của các nước có nền kinh tế
phát triển như Mỹ, Tây Âu. Qua bảng 2 thấy rõ điều đó:
Bảng 2: Mười một quốc gia có số vốn đầu tư trên 1 tỷ USD
tính đến hết năm 1999
Số thứ tự Tên đối tác Số vốn
(Tr.USD)
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
Singapore
Đài Loan
Hồng Kông
Nhật Bản
Hàn Quốc
Britsh Vrigin islands
Pháp
Mỹ
Austraylia
Thái Lan
Malaysia
4918,3
4225,3
3433,8
3275,1
3953,3
1772,3
1725,2
1126,0
1074,3
1035,9
1021,8
Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư- vụ quản lý dự án
Trong biểu trên ta thấy năm quốc gia có quy mô vốn đầu tư lớn nhất thì
bốn quốc gia thuộc khu vực, và đặc biệt quy mô lớn hơn ba đến bốn lần của
các nước còn lại và các quốc gia trong khu vực là đối tác lớn trong các ngành
công nghiệp.
Bảng 3: Mười quốc gia có số dự án đầu tư cho ngành công nghiệp lớn
nhất (tính đến hết năm 1999).
STT Tên nước Số DA % DNLD
VĐT
(ĐVT:
Tr.USD)
% VLD/VĐT
1
2
3
4
Nhật Bản
Hàn Quốc
Đài Loan
Singapore
168
161
273
87
43,5
33,5
25,6
49,4
2191,9
1884,1
1609,2
1327,7
60,9
48,3
18,7
61,7
5
6
7
8
9
10
Malaysia
Hồng Kông
Mỹ
Vrigin
Thán Lan
úc
34
86
36
16
39
29
58,8
57,0
50,0
37,5
56,4
65,5
715,2
710.2
701,9
513,9
346,2
298,2
14,2
33,6
91,5
31,3
67,6
73,0
Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư-vụ quản lý dự án -danh mục các dự án đầu tư
trong công nghiệp.
Từ các bảng trên cho thấy các đối tác lớn của ta chủ yếu là các nước
nhỏ vì vậy thời gian tới cùng với tiếp tục trnh thủ thu hút FDI từ các nước
trong khu vực chúng ta cần lựa chọn đối tác đầu tư sao cho vừa tranh thủ
được vốn, vừa tận dụng được công nghệ kĩ thuật và các lợi thế từ nước lớn
như: Mỹ, Anh, Tây Âu.
Cơ cấu kinh tế nước ta về cơ bản mất cân đối: giữa các vùng, giữa các
ngành, giữa các thành phần kinh tế cản trở đà phát triển vì vậy dịch chuyển,
sắp xếp lại cơ cấu kinh tế là cần thiết đây là một mục tiêu của công cuộc đổi
mới kinh tế được đại hội VIII thông qua. Với mong muốn sử dụng FDI góp
phần dịch chuyển cơ cấu kinh tế nên chính phủ đã có những chính sách
khuyến khích, ưu đãi đối với các dự án đầu tư vào nơi có diều kiện kinh tế
khó khăn như miền núi, vùng sâu, vùng xa. Tuy nhiên cho đến nay vốn vẫn
tập trung chủ yếu vào các địa bàn có điều kiện thuận lợi về kết cấu hạ tầng,
môi trường kinh tế xã hội.
Trong bảng 1, ta thấy trong khi Tây Nguyên và Tây Bắc chỉ chiếm
0,15% và 0,16% thì riêng Đông Nam Bộ chiếm tới 53,13% tổng vốn đầu tư
Đến hết năm 1999, Việt Nam đã thu hút được trên 2.991 dự án có vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài với tổng số vốn đăng ký (kể cả tăng vốn) là 42,7
tỷ USD. Đã có 29 dự án hết hạn với tổng số vốn đăng ký đã hết hạn là 289
triệu USD và 561 dự án đã giải thể trước thời hạn với tổng số đăng ký 6,5 tỉ
USD. Tại Việt Nam tính đến hết năm 1999 có 2.401 dự án còn hiệu lực với
tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực là 35,88 tỉ USD (kể cả tăng vốn). Trong
số này có 1.607 dự án đã triển khai thực hiện với tổng vốn thực hiện là 15,1 tỉ
USD (gồm 1.127 dự án đã đi vào hoạt động có doanh thu; 479 dự án đang xây
dựng cơ bản).
2.1. Tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành kinh tế.
Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chủ yếu tập trung vào các ngành công
nghiệp và xây dựng với 1.421 dự án chiếm 60,55% tổng dự án FDI, tổng vốn
đầu tư đăng ký đạt 18,1 tỉ USD chiếm 50,62% tổng vốn đăng ký. Nông lâm
ngư nghiệp thu hút được 313 dự án chiếm 13,33% số dự án, tổng vốn đầu tư
ký đạt 2.084 triệu USD chiếm 5,81 về vốn. Các ngành dv với 613 dự án
chiếm 26,12% về số dự án, tổng số vốn đầu tư đăng ký đạt 15.632 triệu USD
chiếm 43,57 vốn đăng ký.
Bảng 4: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo lĩnh vực
(Tính đến năm hết 1999)
Lĩnh vực Số dự án
Tỷ trọng
(%)
Tổng vốn đầu tư
(Tr.USD)
Tỷ trọng
(%)
Công nghiệp và xây
dựng
1.421 60,55 18100 50,62
Nông lâm ngư nghiệp 313 13,33 2.084 5,81
Các ngành dịch vụ 613 26,12% 15.632 43,57
Nguồn: Vụ QLDAĐTNN - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Sơ đồ số 1: cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài theo lĩnh vực
Số dự án
Tổng vốn đầu
t
50.62%
43.57%
5.81%
C«ng nghiÖp vμ x©y dùng
N«ng l©m ng− nghiÖp
DÞch vô
Nhìn chung quy mô đầu tư bình quân cho một dự án trong ngành nông
lâm ngư nghiệp tương đối nhỏ so với các ngành khác, trong đó các dự án đầu
26.12%
13.33%
60.55%
C«ng nghiÖp vμ x©y dùng
N«ng l©m ng− nghiÖp
DÞch vô