Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Cơ chế kiểm soát quyền lực chính trị tại việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.94 KB, 26 trang )

MỤC LỤ

PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................2
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM SOÁT...............2
1.1. Quyền lực và kiểm soát quyền lực nhà nước...............................2
1.1.1. Quyền lực và quyền lực nhà nước...............................................2
1.1.2. Kiểm soát quyền lực nhà nước....................................................3
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến kiểm soát quyền lực nhà nước......5
1.2.1. Các nhân tố tác động đến kiểm soát quyền lực nhà nước ở giai
đoạn trao quyền.....................................................................................6
1.2.2. Các nhân tố tác động đến kiểm soát quyền lực nhà nước giai
đoạn thực hiện quyền............................................................................6
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TRONG VIỆC KIỂM SOÁT QUYỀN
LỰC CỦA NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.................................7
2.1. Sự cần thiết phải kiểm soát quyền lực nhà nước và các cơ chế
kiểm soát quyền lực nhà nước.............................................................7
2.1.1. Sự cần thiết phải kiểm soát quyền lực nhà nước.........................7
2.1.2. Các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trên thế giới..............8
2.1.3. Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay......9
2.2. Một số hạn chế trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở
nước ta..................................................................................................11
2.2.1. Hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội chưa mạnh, hiệu quả
chưa cao; cơ chế bảo vệ Hiến pháp chưa cụ thể..................................11

i


2.2.2. Hoạt động thanh tra, kiểm tra của hệ thống hành pháp cịn nhiều
hạn chế.................................................................................................12
2.2.3. Hoạt động kiểm sốt quyền lực của tư pháp còn yếu................12


CHƯƠNG III: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC CỦA NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY.................................................................................................15
3.1. Quan điểm trong kiểm soát quyền lực của nhà nước ở nước ta
hiện nay................................................................................................15
3.2. Một số định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kiểm
soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay................................17
3.2.1. Định hướng xây dựng và hoàn thiện các cơ chế kiểm soát quyền
lực nhà nước........................................................................................17
3.2.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà
nước ở Việt Nam hiện nay.................................................................18
KẾT LUẬN....................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................23

ii


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn là
những cơ sở lý luận quan trọng trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Những quan điểm và tư tưởng đó chẳng
những có giá trị khoa học sâu sắc mà cịn có giá trị định hướng, giá trị phương
pháp luận cho cách mạng Việt Nam trong hiện tại và tương lai.
Ở Việt Nam, trong quá trình xây dựng và phát triển nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, bên cạnh việc hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy nhà
nước, chúng ta cũng đã quan tâm đến việc kiểm soát quyền lực nhà nước,
bước đầu đạt được những kết quả nhất định, song cũng bộc lộ nhiều hạn chế,
khiểm khuyết, điều này dẫn tới hệ quả là làm giảm hiệu quả hoạt động và
lòng tin của nhân dân đối với nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Thực tiễn đó nảy sinh nhu cầu cần nghiên cứu làm rõ lý luận của chủ

nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về việc kiểm sốt quyền lực nhà
nước để từ đó vận dụng vào thực tiễn Việt Nam nhằm kiểm soát có hiệu quả
quyền lực nhà nước đảm bảo quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, thực hiện
thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh. Nhận
thức được yêu cầu đó của thực tiễn nên tơi chọn đề tài “Cơ chế kiểm sốt
quyền lực chính trị tại Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ
chuyên ngành Triết học của mình. Tuy nhiên, do đề tài có nội dung khá rộng,
do đó, tơi chỉ tập trung nghiên cứu sâu vào mảng “kiểm tra, giám sát” trong
q trình kiểm sốt quyền lực nhà nước.

1


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM SOÁT
QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
1.1. Quyền lực và kiểm soát quyền lực nhà nước
1.1.1. Quyền lực và quyền lực nhà nước
Quyền lực
Hiện nay có nhiều khái niệm khác nhau về quyền lực và chưa có một
khái niệm thống nhất về quyền lực. Tuy nhiên, có thể rút ra được khái niệm
chung nhất về quyền lực như sau quyền lực là năng lực, khả năng của một tổ
chức hay cá nhân, tác động đến hành động, hành vi của những người khác,
buộc họ phải thực hiện ý chí của mình thơng qua các phương tiện, phương
thức nào đó như uy tín, quyền hành, cơ chế, chính sách, quy định, thậm chí
cưỡng bức thực hiện.
Trong thực tế, ta cũng có thể tạm hiểu quyền lực với nghĩa đơn giản là
khả năng mà chủ thể này có thể áp đặt ý chí và buộc chủ thể khác phải thực
hiện theo ý chí của mình bằng một sức mạnh cưỡng chế nào đó. Hay, “quyền
lực” là cái mà nhờ nó chủ thể này (chủ thể có quyền lực) có thể áp đặt ý chí

của mình lên chủ thể khác (chủ thể bị quyền lực chi phối).
Quyền lực nhà nước
“Quyền lực nhà nước là biểu hiện tập trung của quyền lực chính trị và
là trung tâm của quyền lực chính trị, được hình thành thơng qua cuộc đấu
tranh chính trị, giành chính quyền tổ chức nhà nước và thực hiện chức năng
thống trị xã hội”.
Nguồn gốc của quyền lực nhà nước xuất phát từ quyền lực chính trị bao
gồm: Quyền lực chính trị của giai cấp thống trị xã hội (mang tính quyết định)
và quyền lực chính trị của các giai cấp, tầng lớp khác (mức độ thực hiện
2


quyền lực chính trị của các giai cấp, tầng lớp phụ thuộc vào tương quan lực
lượng của giai cấp, tầng lớp đó trong xã hội). Đồng thời, quyền lực nhà nước
cịn xuất phát từ các “nhóm” người trong xã hội với tư cách nhà nước là thiết
chế công quyền, nơi phải thực thi quyền lực công.
Quyền lực nhà nước mang tính chính trị, nhưng khơng phải mọi quyền
lực chính trị đều gọi là quyền lực nhà nước. Quyền lực chính trị rộng hơn, đa
dạng hơn cả về phương thức và hình thức, về cấp độ và cơ cấu.
Sự thay đổi vị trí của các giai cấp trong xã hội dẫn đến việc chuyển
chính quyền nhà nước tay giai cấp này sang tay giai cấp khác, từ đó thay đổi
căn bản tính chất của quyền lực nhà nước, phương thức cầm quyền, thể chế
chính trị,... Tuy nhiên, do hình thức ủy quyền và kiểm soát quyền lực nhà
nước khác nhau nên nhiều lúc quan hệ giữa người có chủ quyền và người
được ủy quyền bị tha hóa, xun tạc.
1.1.2. Kiểm sốt quyền lực nhà nước.
“Kiểm soát quyền lực nhà nước là hoạt động có chủ đích của nhà nước
và xã hội, với tổng thể những phương tiện tổ chức và pháp lý thơng qua các
hình thức hoạt động như giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm sát, kiểm toán, tài
khán nhằm hạn chế nguy cơ sai phạm cũng như những hành vi lộng quyền,

chuyên quyền, độc đoán của cơ quan quyền lực nhà nước và của công chức
nhà nước. Đảm bảo cho quyền lực nhà nước được thực hiện đúng mục đích,
khoa học, hiệu lực và hiệu quả”.
Quyền lực nhà nước có thể được kiểm sốt bởi các yếu tố sau:
Thứ nhất, Qúa trình tổ chức bộ máy nhà nước sao cho các bộ phận của
nhà nước có khả năng tự kiểm soát lẫn nhau.
Thứ hai, hoạt động của các hệ thống kiểm sốt quyền lực nhà nước từ
trong và ngồi bộ máy nhà nước.

3


- Nội dung kiểm soát kiểm soát quyền lực nhà nước Một là, đối với
các nước tư bản (xã hội bóc lột):
Quyền lực nhà nước được thực hiện theo nguyên tắc “phân quyền”.
Quyền lực nhà nước phải được phân công thành ba bộ phận khác nhau:
Quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Theo đó, quyền lực
khơng tập trung vào cùng một cá nhân hay tổ chức mà do các cơ quan khác
nhau thực hiện: Lập pháp thuộc về cơ quan dân cử; Hành pháp thuộc về chính
phủ và các cơ quan hành chính nhà nước; Tư pháp thuộc hệ thống cơ quan xét
xử, là cơ quan hoạt động độc lập. Đồng thời, giữa các cơ quan nhà nước,
trong q trình thực hiện quyền có thể kiểm sốt, kiềm chế lẫn nhau, để
khơng có sự làm dụng quyền.
Quyền lực nhà nước được phân chia theo chiều ngang và chiều dọc.
Theo chiều ngang quyền lực nhà nước được chia thành ba nhánh: Lập pháp,
Hành pháp và tư pháp. Còn theo chiều dọc thì quyền lực được phân chia giữa
chính quyền trung ương và chính quyền địa phương; giữa các cấp địa phương.
Hai là, đối với các nước xã hội chủ nghĩa:
Kiểm soát quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nguồn gốc và bản chất của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc

về nhân dân”. Quyền lực nhà nước không phải là quyền lực tự có của Nhà
nước mà là quyền lực của nhân dân, được nhân dân ủy quyền, nhân dân giao
quyền.
Quyền lực nhà nước thường được lượng hóa, phân định thành các
quyền Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp. Sự phân định các quyền như vậy là
điều kiện cơ bản để nhân dân giao quyền mà không bị lạm quyền, nhân dân
kiểm soát và đánh giá được hiệu lực và hiệu quả thực hiện các quyền mà mình
đã giao.
- Phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước
4


Một là, đối với nhà nước tư bản (xã hội bóc lột):
Kiểm sốt quyền lực nhà nước được thực hiện cả bên trong cũng như từ
bên ngồi.
Kiểm sốt bên trong: là kiểm soát nội bộ nhà nước tức là kiểm soát lẫn
nhau giữa ba cơ quan: Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp và sự kiểm sốt của
chính bản thân ba cơ quan đó;
Kiểm sốt bên ngồi: là kiểm sốt giữa chính quyền trung ương với
chính quyền địa phương. Kiểm soát lẫn nhau giữa ba nhánh quyền lực được
quy định một cách chặt chẽ trong hệ thống luật. Tuy nhiên, tùy vào đặc điểm
của từng quốc gia, từng hình thức nhà nước mà có sự kiểm sốt có sự khác
biệt.
Hai là, đối với nhà nước xã hội chủ nghĩa:
Cũng bao gồm kiểm sốt quyền lực bên trong và bên ngồi.
Kiểm soát bên trong: Đây là mối quan hệ kiểm soát quyền lực trong tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Trên cơ sở phân công một cách
đúng đắn, hợp lý, minh bạch, rõ ràng giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp thì những quyền này mới thể hiện hết được tác dụng trong thể hiện ý
nguyện nhân dân. Đồng thời, phân cấp, phân quyền giữa quyền lực nhà nước

ở trung ương và ở địa phương một cách phù hợp, mới thực hiện được việc
kiểm soát quyền lực bên trong bộ máy nhà nước.
Kiểm sốt bên ngồi: Trước hết là sự kiểm soát giữa nhân dân với nhà
nước. Đây là mối quan hệ giữa chủ với nhà nước. Chỉ khi nào phân định đúng
chức năng,, quyền hạn của Nhà nước, và xây dựng được cơ chế giám sát hữu
hiệu thì nhân dân mới có thể kiểm sốt quyền lực hiệu quá.
Cùng với đó, đối với các nước Xã hội chủ nghĩa, chính Đảng đóng vai
trị vơ cùng quan trong. Do đó, muốn kiểm sốt quyền lực tốt cần xây dựng
5


được một chính Đảng lãnh đạo tốt nhằm giúp tổ chức và hoạt động của Nhà
nước đạt hiệu quả.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến kiểm soát quyền lực nhà nước
Thực tế, việc kiểm soát quyền lực nhà nước cần phải trải qua một q
trình gồm hai giai đoạn chính: trao quyền và thực hiện quyền.
1.2.1. Các nhân tố tác động đến kiểm soát quyền lực nhà nước ở giai đoạn
trao quyền
“Ban hành Hiến pháp” là “nhân tố đầu tiên” tác động đến việc kiểm
soát quyền lực nhà nước. Trao quyền cũng chính là phương thức để Nhân dân
thực hiện kiểm soát quyền lực đối với Nhà nước.
“Nhân tố thứ hai” tác động đến kiểm soát quyền lực nhà nước ở giai
đoạn trao quyền là “cách thức thiết kế” (cách thức tổ chức) quyền lực nhà
nước.Mỗi quốc gia, tùy thuộc vào điều kiện, hồn cảnh thực tế của mình mà
lựa chọn mơ hình tổ chức quyền lực nhà nước khác nhau. Hiện nay, trên thế
giới có hai mơ hình tổ chức quyền lực phổ biến, đó là “quyền lực ưu thế” (có
một cơ quan ở vị trí chủ đạo, và cơ quan đó là trung tâm quyền lưc); “quyền
lực cân bằng” (sự chi phối quyền lực bằng nhau giữa các cơ quan).
1.2.2. Các nhân tố tác động đến kiểm soát quyền lực nhà nước giai đoạn thực
hiện quyền

“Nhân tố thứ nhất” tác động đến việc kiểm soát quyền lực nhà nước ở
giai đoạn thực hiện quyền là “hoạt động giám sát quyền lực nhà nước”. Đây là
hoạt động nhằm mục đích bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan nhà nước
tuân thủ đúng pháp luật trong khuôn khổ phạm vi, quyền hạn được trao.
“Nhân tố thứ hai” tác động đến việc kiểm soát quyền lực nhà nước ở
giai đoạn thực hiện quyền là “hoạt động bảo hiến”. Hoạt động này là nhân tố
có ảnh hưởng khơng nhỏ đến việc kiểm soát quyền lực nhà nước, bởi lẽ Hiến
pháp là văn bản pháp lý cao nhất, ghi nhận sự trao quyền của Nhân dân cho
6


Nhà nước, mọi vi phạm Hiến pháp đều phải được xử lý thì mới đảm bảo
quyền lực của Nhân dân được tơn trọng trên thực tế.
Tóm lại, kiểm sốt quyền lực nhà nước có liên quan mật thiết đến việc
trao quyền và tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước. Các hoạt động này đều
xoay quanh Hiến pháp, do đó, kiểm sốt quyền lực nhà nước khơng gì khác là
kiểm soát Hiến pháp, làm cho Hiến pháp được ban hành và thực thi trên cơ sở
ý chí của Nhân dân.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TRONG VIỆC KIỂM SOÁT
QUYỀN LỰC CỦA NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Sự cần thiết phải kiểm soát quyền lực nhà nước và các cơ chế kiểm
soát quyền lực nhà nước
2.1.1. Sự cần thiết phải kiểm soát quyền lực nhà nước
Quyền lực nhà nước, một mặt, là yếu tố cần thiết để duy trì trật tự xã
hội; mặt khác, ln có xu hướng bị lạm dụng bởi những người nắm giữ. Do
vậy, quyền lực nhà nước cần phải được kiểm sốt. Có thể luận giải sự kiểm
sốt này vì các lý do dưới đây:
Quyền lực nhà nước là quyền lực được người dân ủy nhiệm. Đó không
phải là thứ quyền lực tự thân, hay xuất phát từ đấng siêu nhiên, mà là quyền
lực có nguồn gốc từ người dân. Do đó, xét từ khía cạnh đạo đức, các cơng

chức trong bộ máy nhà nước phải có nghĩa vụ phục vụ nhân dân, là “đày tớ”,
“công bộc” của nhân dân.
Quyền lực nhà nước bao giờ cũng được giao cho một nhóm người nắm
giữ, nên rất dễ bị các cá nhân thao túng, lạm dụng. Trong mỗi con người,
thường tồn tại hai thái cực: tính vị tha (vì người, vì xã hội) và tính vị kỷ (vì
bản thân mình). Do đó, bên cạnh việc bị chi phối bởi các lý tưởng, niềm tin
cao đẹp, hành vi của con người cịn bị chi phối bởi các toan tính cá nhân. Khi
con người được đặt trong một môi trường quá dễ dàng, thuận tiện, thì lịng
7


tham có thể sẽ nổi lên, lấn át lý trí. Trong hồn cảnh đó, khả năng lạm dụng,
sử dụng quyền lực công để “mưu lợi riêng” rất dễ xảy ra.
Quyền lực nhà nước là ý chí chung của xã hội nhưng lại được giao cho
một số ít người với những khả năng hữu hạn khi thực thi. Đã là con người, ai
cũng có thể mắc sai lầm, bởi thế, những người nắm giữ quyền lực nhà nước
cũng có thể mắc sai lầm trong q trình thực thi nó. Tuy nhiên, do tính chất
của quyền lực nhà nước, nên nếu để xảy ra sai lầm này, cộng đồng, xã hội sẽ
là đối tượng phải gánh chịu những hậu quả. Do vậy, để giảm thiểu những sai
lầm đáng tiếc đó, quyền lực nhà nước cần được đặt dưới sự kiểm soát.
Nhà nước là chủ thể giữ độc quyền cưỡng chế hợp pháp. Quyền lực nhà
nước thường được sử dụng để cưỡng chế và loại bỏ những vật cản, những
hành vi gây trở ngại cho việc thực hiện lợi ích chung của cộng đồng, xã hội.
Khi đó, nếu quyền lực này được sử dụng một cách hợp lý sẽ đem lại cho xã
hội sự trật tự và phát triển; ngược lại, nếu nó bị lạm dụng, sẽ gây hậu quả cho
xã hội. Thực tế cho thấy, không phải bao giờ sự cưỡng chế và can thiệp của
nhà nước cũng đúng đắn và mang lại hiệu quả. Với lý do như vậy, quyền lực
nhà nước cần được điều chỉnh kịp thời, được kiểm soát thường xuyên và chặt
chẽ.
2.1.2. Các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trên thế giới

Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước là một tập hợp các quy định, luật
lệ do các chủ thể quyền lực đưa ra nhằm bảo đảm quyền lực được sử dụng
đúng mục đích và có hiệu quả. Có thể kể đến ba cơ chế chính trong kiểm sốt
quyền lực nhà nước hiện nay là: Sự tự kiểm soát của người cầm quyền; sự
kiểm soát giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước; sự kiểm soát của xã hội.
Sự tự kiểm soát của người cầm quyền là cơ chế tự kiểm sốt của chính
những người nắm giữ quyền lực nhà nước. Hiệu quả của cơ chế này phụ
thuộc vào một số yếu tố, như nền tảng văn hóa của người cầm quyền (khả
8


năng thẩm thấu, nội tâm hóa các chuẩn mực, giá trị đạo đức của xã hội ở mỗi
cá nhân); mức độ nhận thức của người cầm quyền về lương tâm, trách
nhiệm... Tuy nhiên, sự tự kiểm sốt này ln chứa đựng những rủi ro và bị
đánh giá thấp, mặc dù trên thực tế, có thể vẫn có cá nhân vượt qua được sự
cám dỗ khi nắm giữ quyền lực nhà nước. T. Hobbes, nhà triết học người Pháp
ở thế kỷ XVIII cho rằng, điều này khó có tính khả thi, cả về mặt lý thuyết lẫn
thực tế, bởi vì “nếu như bạn bị giới hạn bởi chính bản thân mình, thì có nghĩa
là bạn khơng bị giới hạn”. Thực tế cho thấy, khi có quá nhiều quyền lực trong
tay, ngay cả người tốt cũng có thể lạm quyền.
Sự kiểm sốt giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước là cơ chế kiểm
sốt quyền lực nhà nước thơng qua hệ thống thể chế nhằm ngăn chặn các
hành động tùy tiện, ngẫu hứng, hoặc mang tính chủ quan của người cầm
quyền, buộc họ phải đưa ra các quyết định phù hợp với hệ thống thể chế đã
được thiết lập.
Để bảo đảm quyền lực nhà nước không thể bị lạm dụng, sử dụng sai
mục đích, các quốc gia phương Tây đã áp dụng lý thuyết “tam quyền phân
lập”, theo đó, các cơ quan nhà nước khác nhau sẽ được trao những thẩm
quyền khác nhau nhằm tạo ra cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các nhánh lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy nhiên, trên thực tế, có sự khác biệt trong

việc ứng dụng lý thuyết này cũng như sự khác nhau về tính hiệu quả của nó ở
mỗi quốc gia. Điều đó tùy thuộc vào hồn cảnh lịch sử, văn hóa chính trị và
đặc biệt là sự thức tỉnh của “giới tinh hoa” ở mỗi quốc gia đó. Chẳng hạn, thể
chế đại nghị kiểu Anh áp dụng mơ hình phân quyền “mềm dẻo”; thể chế cộng
hòa tổng thống kiểu Mỹ áp dụng mơ hình phân quyền “cứng rắn”; thể chế
cộng hịa bán tổng thống kiểu Pháp áp dụng mơ hình phân quyền “hỗn hợp”.
Dù được thiết kế theo mơ hình nào, ý tưởng chủ đạo của các thể chế đó đều
dựa trên nguyên lý: Dùng quyền lực để kiểm soát quyền lực, dùng quyền

9


cưỡng chế này để kiểm soát quyền cưỡng chế khác, khiến cho những người
nắm giữ quyền lực công, dù vị kỷ hay tư lợi, cũng không thể lạm quyền.
Sự kiểm soát của xã hội là cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía
xã hội. Các chủ thể tham gia vào q trình này có thể gồm các đảng chính trị,
các tổ chức xã hội, các cơ quan báo chí và người dân…
2.1.3. Cơ chế kiểm sốt quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay
Ở Việt Nam, xét về bản chất, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Việc thiết lập cơ chế kiểm
soát lẫn nhau giữa các cơ quan quyền lực nhà nước là cần thiết, nhằm ngăn
chặn khả năng lạm quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước được sử dụng đúng
mục đích. Trong Hiến pháp năm 2013, vấn đề kiểm sốt quyền lực nhà nước
đã được ghi nhận. Sự phân công và kiểm soát quyền lực được thể hiện ngay
trong việc phân định phạm vi quyền lực đối với từng cơ quan nhà nước. Cụ
thể, Quốc hội được trao quyền lập hiến, lập pháp, quyết định những vấn đề
quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước,
Chính phủ thực hiện quyền hành pháp và Tòa án nhân dân tối cao thực hiện
quyền tư pháp.

Là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, do nhân dân bầu ra, Quốc hội
được trao thẩm quyền kiểm sốt quyền lực của Chính phủ và Tịa án nhân dân
tối cao, cụ thể như sau:
Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức danh quyền lực thuộc Chính phủ
và Tịa án nhân dân tối cao: Theo quy định, sau cuộc bầu cử Quốc hội, Quốc
hội sẽ họp và tiến hành bầu Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án
Tịa án nhân dân tối cao; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm các chức danh quyền
lực thuộc Chính phủ và các thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao. Quốc hội
còn có thể tước quyền đối với các chức danh quyền lực do mình bầu ra.
10


Chẳng hạn, thơng qua thủ tục bỏ phiếu bất tín nhiệm, Quốc hội có thể bãi
nhiệm, miễn nhiệm các chức danh quyền lực như Chủ tịch nước và Phó Chủ
tịch nước, Thủ tướng và các Phó Thủ tướng Chính phủ, các thành viên Chính
phủ, nếu các chức danh quyền lực này không thực hiện tốt các nhiệm vụ được
giao. Quốc hội cũng có thể bãi nhiệm, miễn nhiệm Chánh án và các thẩm
phán của Tòa án nhân dân tối cao.
Giám sát hoạt động của Chính phủ và Tịa án nhân dân tối cao: Quốc
hội thực hiện sự giám sát đối với Chính phủ, Tịa án nhân dân tối cao thơng
qua các hình thức như xem xét báo cáo của Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính
phủ, Chánh án Tịa án nhân dân tối cao, đồng thời yêu cầu các chức danh này
phải giải trình về các vấn đề mà Quốc hội quan tâm. Với tư cách là đại biểu
dân cử, các đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Thủ tướng Chính phủ, các
bộ trưởng và các thành viên khác trong Chính phủ, Chánh án Tịa án nhân dân
tối cao; u cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu liên
quan đến các hoạt động của Chính phủ. Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của
Quốc hội cũng giám sát việc thực thi quyền lực đối với cơ quan hành pháp
trong phạm vi lĩnh vực mà mình phụ trách.
Bãi bỏ các quyết định của Chính phủ và Tòa án nhân dân tối cao: Để

bảo đảm tính hợp hiến và hợp pháp của các văn bản pháp luật, Quốc hội có
quyền bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ, Tịa án nhân dân tối cao nếu các văn bản này trái với Hiến pháp, luật và
nghị quyết của Quốc hội. Ủy ban Thường vụ Quốc hội được trao thẩm quyền
đình chỉ việc thi hành các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tịa
án nhân dân tối cao nếu các văn bản này trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết
của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định bãi bỏ các văn bản này tại kỳ họp
gần nhất; bãi bỏ các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án
nhân dân tối cao nếu các văn bản này trái với pháp lệnh, nghị quyết của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội.
11


2.2. Một số hạn chế trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta
2.2.1. Hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội chưa mạnh, hiệu quả chưa
cao; cơ chế bảo vệ Hiến pháp chưa cụ thể
Chủ thể và đối tượng giám sát của Quốc hội nhận thức chưa đúng và
đầy đủ về vai trò giám sát của Quốc hội. Phạm vi giám sát tối cao của Quốc
hội được quy định chưa hợp lý. Việc giao cho Quốc hội, các ủy ban của Quốc
hội, các đại biểu Quốc hội giám sát hoạt động tư pháp và việc ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật là quá rộng, chưa phù hợp bởi đối tượng trực tiếp
chịu sự giám sát của Quốc hội là những người giữ chức vụ cao trong Đảng và
Nhà nước. Họ là những người vừa quyết định thân phận chính trị của bản thân
đại biểu Quốc hội, vừa quyết định lợi ích kinh tế, tài chính của các địa
phương nơi đại biểu tổ chức thành đồn. Đặc điểm đó khó có thể bảo đảm cho
đại biểu Quốc hội thực hành quyền giám sát của mình.
Cơ chế bảo vệ Hiến pháp chưa cụ thể: Khoản 2 Điều 19 Hiến pháp
2013 quy định: “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính
phủ, Tịa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà
nước và tồn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp. Cơ chế bảo vệ

Hiến pháp do luật định”. Theo đó, hệ thống pháp luật hiện hành chưa quy
định cụ thể cơ chế bảo vệ Hiến pháp, mà quy định thành các quy phạm chứa
đựng trong các ngành luật cụ thể. Mặt khác, khác với các nước theo hệ thống
pháp luật Common Law như Mỹ có cơ quan tài phán Hiến pháp, Việt Nam
khơng thành lập và trao quyền cho một cơ quan tài pháp cụ thể, độc lập.
2.2.2. Hoạt động thanh tra, kiểm tra của hệ thống hành pháp còn nhiều hạn
chế
Trong hệ thống hành pháp, chức năng kiểm tra, giám sát chung của
những người đứng đầu như Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng… chưa được
thực hiện thường xuyên trên thực tế, dù trên thực tế nhiều văn bản quy phạm

12


pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật có nội dung trái với Hiến pháp và pháp
luật.
Hệ thống thanh tra nhà nước: Thanh tra Chính phủ, Thanh tra tỉnh,
Thanh tra huyện; thanh tra các bộ, sở là cơ quan có chức năng thanh tra hoạt
động thường xuyên, liên tục. Tuy nhiên, bất cập chủ yếu trong tổ chức và hoạt
động của Thanh tra Chính phủ, Thanh tra tỉnh, Thanh tra huyện là tính phụ
thuộc vào cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung cùng cấp, trong
khi đó bảo đảm tính độc lập về tổ chức và tính chuyên nghiệp trong hoạt động
là hai yếu tố quan trọng không thể thiếu trong quá trình thực hiện chức năng
thanh tra.
2.2.3. Hoạt động kiểm sốt quyền lực của tư pháp cịn yếu
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì Tịa án nhân dân là cơ quan
xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư
pháp; Viện kiểm sát nhân dân có chức năng là thực hành quyền công tố, kiểm
sát hoạt động tư pháp. Như vậy, chức năng thực hiện quyền tư pháp là thuộc
Tịa án nhân dân, thơng qua quyền hạn, nhiệm vụ thì cơ chế kiểm tra, giám sát

thực hiện chủ yếu bằng chức năng xét xử, giải thích pháp luật.
Các chế tài kiểm soát quyền lực nhà nước của tư pháp với hành pháp
chưa đủ mạnh. Do nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước là quyền tư pháp
không thể lấn sân sang quyền hành pháp, các quan tịa khơng thể can thiệp
sâu vào hoạt động của cơ quan hành chính.
Vì vậy, trong vụ khiếu kiện hành chính, quyền của Tịa án chỉ dừng lại
ở mức độ phán xét tính hợp pháp của một quyết định hành chính, hành vi
hành chính mà không thể chỉ định một phương thức xử sự cụ thể cho cơ quan
hành chính.
Khi các quyết định hành chính sai trái bị hủy bỏ, quyền hay lợi ích của
người khởi kiện có được khơi phục hay khơng lại hoàn toàn phụ thuộc vào cơ
13


quan hành chính. Hơn nữa, cơ quan thi hành án lại khó có thể độc lập với cơ
quan hành chính - đối tượng thi hành án. Vì vậy, các phán quyết của Tòa án
chưa được thực thi nghiêm túc.
Cơ chế kiểm soát quyền lực của tư pháp đối với hành pháp cịn mang
tính thụ động: Kiểm tra của Tịa hành chính đối với quyền lực hành pháp chỉ
là kiểm tra khi có tranh chấp hành chính, trong lĩnh vực quản lý hành chính
giữa cá nhân, tổ chức với cơ quan, cơng chức nhà nước khi có khiếu kiện của
người dân. Vì vậy, sự kiểm sốt quyền lực nhà nước này cịn mang tính thụ
động, nếu khơng có khiếu kiện của cơng dân, tổ chức thì khơng thể hình thành
hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước của hành pháp.
Hiện nay, tổ chức Tịa án theo đơn vị hành chính lãnh thổ nên chưa
đảm bảo tính độc lập cao trong hoạt động xét xử, phán quyết của Tịa án hành
chính đối với các cơ quan hành chính. Điều đó sẽ ảnh hướng đến sự công tâm,
công bằng, khách quan trong phán quyết của Tòa đối với các quyết định, hành
vi hành chính của các cán bộ, cơng chức cùng cấp.
Người bị kiện thường là người có chức vụ quyền hạn ở địa phương nơi

thẩm phán công tác và là những người có thể có ý kiến đối với việc bổ nhiệm
thẩm phán, nên còn xuất hiện tư tưởng ngại va chạm trong đội ngũ thẩm phán
hành chính, dẫn tới đánh giá chứng cứ còn phiến diện, áp dụng pháp luật chưa
chặt chẽ.
Vì vậy, chúng ta thấy thực tế Tịa án nhân dân tối cao hoặc các thẩm
phán có xu hướng giải thích thu hẹp quyền hạn của mình khi xử hành chính.
Điều này cũng làm hạn chế khả năng kiểm sốt quyền lực của tư pháp đối với
hành pháp.
Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của Hiến pháp 2013 thì chức
năng của Viện kiểm sát nhân dân là thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt
động tư pháp. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì Viện kiểm sát nhân
14


dân chỉ kiểm sát hoạt động tư pháp, phạm vi kiểm sát hẹp hơn nhiều so với
Hiến pháp năm 1992.
Theo quy định tại Điều 137 Hiến pháp năm 1992 thì Viện kiểm sát
nhân dân tối cao có chức năng như sau: “Viện kiểm sát nhân dân tối cao kiểm
sát việc tuân theo pháp luật của các bộ, các cơ quan ngang bộ, các cơ quan
khác thuộc Chính phủ, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân, thực hành quyền công
tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.
CHƯƠNG III: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC CỦA NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC
TA HIỆN NAY
3.1. Quan điểm trong kiểm soát quyền lực của nhà nước ở nước ta hiện
nay
Nhìn chung, trong cơ chế kiểm sốt quyền lực nhà nước ở Việt Nam,
trung tâm của sự kiểm soát được đặt vào Chính phủ, cụ thể là sự kiểm sốt
của Quốc hội đối với Chính phủ. Tuy nhiên, Hiến pháp năm 2013 vẫn tiếp tục

duy trì một chế định vốn đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992, đó là
trao cho Chủ tịch nước quyền "phủ quyết hạn chế" đối với cơ quan lập pháp.
Theo đó, khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội đệ trình một pháp lệnh nào đó lên
Chủ tịch nước cơng bố, nếu khơng đồng ý, Chủ tịch nước có quyền đề nghị
Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh đó trong thời hạn 10 ngày
kể từ ngày được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thơng qua. Trong trường hợp
pháp lệnh đó tiếp tục được Ủy ban Thường vụ Quốc hội biểu quyết thông qua
mà Chủ tịch nước vẫn không đồng ý, Chủ tịch nước sẽ trình Quốc hội quyết
định tại kỳ họp gần nhất (khoản 1, Điều 88 Hiến pháp năm 2013). Tuy nhiên,
quyền này của Chủ tịch nước không được áp dụng đối với các luật của Quốc
hội. Do đó, đây có thể coi là quyền “phủ quyết hạn chế” của Chủ tịch nước

15


đối với quyền lập pháp. Chủ tịch nước chỉ có thể trì hỗn một pháp lệnh, chứ
khơng thể hủy bỏ văn bản này.
Đối với cơ quan tư pháp, Hiến pháp khơng trao cho Chính phủ bất kỳ
quyền kiểm sốt nào đối với hoạt động của Tòa án nhân dân tối cao. Quy định
này có sự tính tốn, nhằm bảo đảm cho Tịa án có được vị thế độc lập, khách
quan trong hoạt động xét xử. Tuy nhiên, Tòa án nhân dân tối cao cũng khơng
có quyền kiểm sốt đối với Quốc hội và Chính phủ.
Trên thực tế, Tịa án nhân dân tối cao không thực hiện chức năng bảo
hiến (quyền phủ quyết đối với các văn bản quy phạm pháp luật, quyết định
của Quốc hội và Chính phủ nếu chúng trái với Hiến pháp) cũng như giám sát
hoạt động của hai cơ quan quyền lực này. Hệ thống tòa án chỉ thực hiện
nhiệm vụ xét xử theo luật định. Qua hoạt động xét xử, tịa án có quyền đề
nghị hay yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền khắc phục, sửa đổi, hoặc bãi bỏ
các quy định khơng cịn phù hợp. Trên cơ sở đó, Tịa án nhân dân tối cao thực
hiện việc tổng kết thực tiễn, xét xử, nhằm bảo đảm áp dụng thống nhất pháp

luật trong hoạt động xét xử.
Từ sự phân tích ở trên, có thể thấy, cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các
cơ quan trong bộ máy nhà nước ở nước ta hiện nay đang đặt ra một số vấn đề:
Thứ nhất, cơ chế kiểm soát quyền lực trong bộ máy nhà nước mặc dù
đã được thiết lập, nhưng chưa thể hiện được đầy đủ tinh thần được ghi nhận
trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội” (bổ sung, phát triển năm 2011) cũng như trong Hiến pháp năm 2013 là
có sự “kiểm sốt lẫn nhau giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp” (2). Chúng ta mới chỉ thiết lập được cơ chế kiểm
soát quyền lực của Quốc hội đối với cơ quan hành pháp và tư pháp, mà chưa
có cơ chế kiểm soát quyền lực ngược lại, tức là chưa có cơ chế kiểm sốt
quyền lực của hai cơ quan này đối với Quốc hội. Điều này xuất phát từ quan
16


điểm cho rằng, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, do nhân
dân bầu ra, vì vậy, tất cả các quyền lực nhà nước khác đều phải đặt dưới
quyền lực tối cao của Quốc hội.
Thứ hai, ngay cả các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước đã được xác
lập, được ghi nhận trong Hiến pháp, hay được thể chế hóa trong các điều luật,
trên thực tế, tính hiệu lực và hiệu quả của chúng vẫn cịn khá khiêm tốn. Cho
đến nay, trong quá trình thực hiện quyền giám sát tối cao của mình, Quốc hội
hiếm khi đưa ra quyết định về việc bãi bỏ một phần hay toàn bộ văn bản quy
phạm pháp luật của các đối tượng mà mình giám sát. Bên cạnh đó, cơ chế
kiểm sốt quyền lực nhà nước từ phía xã hội mặc dù ngày càng được chú
trọng, nhưng nhìn chung, hiệu quả chưa cao. Nguyên nhân là do những quy
định về cách thức tham gia kiểm soát của các đối tượng cịn chưa phù hợp;
thẩm quyền, năng lực chun mơn của các đối tượng tham gia kiểm sốt cịn
hạn chế…
3.2. Một số định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát

quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay
3.2.1. Định hướng xây dựng và hoàn thiện các cơ chế kiểm soát quyền lực
nhà nước
Thứ nhất, cần sớm xây dựng một đạo luật về tổ chức và hoạt động giám
sát và phản biện xã hội của Nhân dân. Đồng thời, quy định trách nhiệm của
các cơ quan nhà nước trong việc tạo điều kiện cho công dân và các tổ chức
chính trị, xã hội, nghề nghiệp của cơng dân thực hiện quyền. Trong điều kiện
hệ thống chính trị một Đảng cầm quyền như nước ta, khơng hình thành được
một cơ chế KSQLNN của công dân và các tổ chức đại diện của công dân
tham gia giám sát và phản biện một cách thực chất thì khó mà tránh khỏi tình
trạng tha hóa quyền lực nhà nước ngày càng trầm trọng.

17


Thứ hai, phát huy mạnh mẽ vai trò của các phương tiện thơng tin đại
chúng trong việc KSQLNN. Luật Phịng, chống tham nhũng cần có quy định
pháp lý mở rộng, khuyến khích, khen thưởng, tạo mơi trường pháp lý, dân
chủ, khơng có vùng cấm trong việc báo chí đấu tranh chống tiêu cực, tham
nhũng của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào trong hệ thống chính trị nước ta, nhất
là các quan chức cao cấp trong bộ máy nhà nước.

Thứ ba, quy định trách nhiệm giải trình của các quan chức đứng đầu tổ
chức Đảng, đứng đầu Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, chính quyền
cấp xã, phường trước cử tri của các tổ dân phố để nghe dân nói, dân phản ánh
những biểu hiện tiêu cực ngay tại nơi sinh sống của mình. Chính quyền các
cấp của nước ta, nhất là chính quyền cấp cơ sở cịn rất xa dân. Trách nhiệm
giải trình của các quan chức nhà nước trước dân được rất nhiều nước đề cao
trong điều kiện ngày nay và là một giải pháp phản ánh trực tiếp ý nguyện của
dân.

3.2.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước ở
Việt Nam hiện nay
Một số đề xuất về việc tiếp tục xây dựng, hồn thiện các cơ chế kiểm
sốt quyền lực nhà nước ở nước ta thời gian tới
1- Tiếp tục xây dựng, hồn thiện cơ chế kiểm sốt quyền lực giữa các
cơ quan trong bộ máy nhà nước. Để bảo đảm cơ chế kiểm soát quyền lực nhà
nước được vận hành một cách hiệu quả, tất cả các cơ quan quyền lực nhà
nước đều phải trở thành đối tượng của sự giám sát, kiểm soát, bởi về nguyên
tắc, nguy cơ lạm quyền ở các cơ quan này là như nhau. Theo đó, ngay cả
Quốc hội cũng nên được xem là đối tượng của sự kiểm soát quyền lực. Hiện
nay, vai trị kiểm sốt quyền lực của cơ quan tư pháp đối với các cơ quan lập
pháp và hành pháp còn khá mờ nhạt. Trong thời gian tới, nên tính đến phương
18



×