Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

3 giải pháp hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực chính trị ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.32 KB, 34 trang )

TIỂU LUẬN

MÔN: CHÍNH TRỊ HỌC

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ KIỂM SOÁT QUYỀN
LỰC CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Học viên:
Lớp:

HÀ NỘI THÁNG 9-2017


2

MỞ ĐẦU
Quyền lực biểu hiện ở tất cả các lĩnh vực, các quan hệ xã hội, nhưng
tập trung và phức tạp nhất là ở quyền lực chính trị. Quyền lực chính trị chỉ
xuất hiện trong xã hội có giai cấp và chủ yếu tập trung ở quyền lực nhà
nước, nó trở thành trọng điểm của cuộc đấu tranh giữa các quan điểm, lý
luận khác nhau.
Quyền lực nhà nước là vấn đề vô cùng quan trọng, nhưng cũng rất
phức tạp. Việc nắm giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước có hiệu
quả sẽ là điều kiện để thực hiện được những mục đích đã đề ra, mang lại
hạnh phúc và nhiều lợi ích nhất cho nhân dân, đất nước. Tuy nhiên, trong
quá trình nắm giữ, tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước thường tiềm ẩn
rất nhiều những nguy cơ khác nhau như tham nhũng, lãng phí, lạm quyền…
có thể dẫn tới tác động tiêu cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Và không chỉ dừng lại ở nguy cơ tiềm ẩn mà nhiều nguy cơ trong quá
trình cầm quyền đã phát sinh thành những tai họa, tệ nạn tiêu cực trên thực
tế làm ảnh hưởng rất lớn tới uy tín, danh dự của cán bộ, công chức, các cơ


quan nhà nước, làm giảm hiệu quả của bộ máy nhà nước, gây hậu quả xấu
đến công cuộc quản lý và xây dựng đất nước, lợi ích và đời sống nhân
dân…Vì vậy, vấn đề kiểm soát và cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước là
một nhiệm vụ cấp bách trong quản lý nhà nước ở nước ta hiện nay.
Trong thời gian qua, nhiều giải pháp đã được đưa ra để góp phần vào
sự hiệu quả của cơ chế kiểm soát quyền lực chính trị, tuy nhiên vẫn chưa
mang lại những dấu hiệu tích cực.
Xuất phát từ thực trạng này, tác giả chọn đề tài “Giải pháp hoàn
thiện cơ chế kiểm soát quyền lực chính trị ở Việt Nam hiện nay” làm tiểu
luận kết thúc môn học.


3

NỘI DUNG
1.

Lý luận về kiểm soát quyền lực chính trị

Vấn đề kiểm soát quyền lực luôn luôn tồn tại trong hệ thống xã hội
nói chung và trong bộ máy nhà nước nói riêng. Mỗi chế độ xã hội có nhà
nước đều tồn tại quan hệ kiểm soát quyền lực khác nhau với vị trí của các
chủ thể khác nhau. Chế độ phong kiến chỉ một người giữ vai trò chủ thể
của quyền lực, và đương nhiên chủ thể đó là hiện thân của quyền kiểm soát
đối với quyền lực. Đó là vua.
Khi xã hội chuyển từ thể chế chuyên chế sang thể chế dân chủ, vấn
đề tổ chức quyền lực thay đổi căn bản. Từ đó quan hệ quyền lực, kiểm soát
quyền lực cũng có những thay đổi căn bản. Tuy nhiên, có một số thuật ngữ,
nếu không phân biệt rõ thì có thể hiểu chệch đi, thậm chí sai về bản chất,
như “tổ chức quyền lực”; “quan hệ các quyền”; “kiểm soát quyền lực”;

“kiểm tra”, “thanh tra” trong thực hiện quyền lực nhà nước...
Tổ chức quyền lực là thuật ngữ nói về hiện trạng của quyền lực nhà
nước của một loại thể chế nhất định. Thí dụ đã là phong kiến thì quyền lực
tối cao, toàn diện là của vua hay nữ hoàng.
Quan hệ giữa các quyền là chỉ mối quan hệ của các nhánh quyền của
nhà nước (có thể rộng ra là trong hệ thống chính trị); giữa các tổ chức và
người dân trong một hệ thống chính trị nhất định.
Thanh tra là một hoạt động thực thi quyền của một cơ quan nhà nước
theo chức năng được pháp luật quy định. Thanh tra là một hoạt động được


4

giao cho một cơ quan, cơ quan đó có quyền tác động vào hoạt động của cơ
quan khác, nhưng là theo chức năng chứ không phải theo thứ bậc. Thí dụ
như ở nước ta, Thanh tra Chính phủ có thể thanh tra các cơ quan ngang bộ
khác. Nhưng quyền đó bị chi phối theo quan hệ chức năng. Nghĩa là, ngoài
luật pháp về thanh tra, còn chịu sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Đây
là quan hệ chức năng trong tổ chức quyền lực.
Kiểm tra là một hoạt động từ chức năng của một cơ quan trong quan
hệ của quản lý, kể cả của hệ thống các tổ chức ngoài Nhà nước. Một hoạt
động kiểm tra có thể xuất phát từ quan hệ thứ bậc của quan hệ quyền lực.
Thí dụ thủ trưởng cơ quan có thể giao cho một cơ quan tiến hành kiểm tra
hoạt động của một cơ quan, một nhóm người, một người bên trong cơ quan
đó.
Kiểm soát quyền lực thể hiện sự nhận thức, bày tỏ quan điểm, thái
độ, giải pháp của một cá nhân hay tổ chức đối với cá nhân (như quốc hội
đối với tổng thống, thủ tướng). Bày tỏ sự đồng thuận hay phản đối một hoạt
động nào đó của đối tượng phù hợp với hiến pháp. Mục đích chung nhất là
để bảo đảm quyền lực trong vòng trật tự.

Thuật ngữ “kiểm soát” tự bản thân nó mang tính trật tự luật định như
quốc hội với chính phủ trong các thể chế nghị viện, hoặc trật tự thứ bậc trên
dưới trong hành chính. Kiểm soát quyền lực không phải là hoạt động diễn
ra thường xuyên, hàng ngày như hoạt động hành chính mà chủ yếu nhận
thức nó từ quan hệ nguồn gốc phát sinh.
Trong một số thể chế trên thế giới hiện nay như chế độ Tổng thống
kiểu Hoa Kỳ, còn có quan hệ kiểm soát quyền lực lẫn nhau tương đối giữa
lập pháp và hành pháp. Tại sao lại xuất hiện kiểu quan hệ tương tác như


5

trên? Đó là do quy định của Hiến pháp Hoa Kỳ. Theo đó, Quốc hội gồm hai
viện có khá nhiều quyền giới hạn Tổng thống (hành pháp) như quyền lựa
chọn nhân sự cao cấp (cấp chính phủ); quyền về chi tiêu (giới hạn), quyền
tiến hành chiến tranh của hành pháp Hoa Kỳ; nghĩa là nhiều hoạt động của
Tổng thống Mỹ nếu không có sự đồng thuận của hai viện hoặc một trong
hai viện thì không thể tiến hành được. Đây là quyền tuyệt đối. Trái lại,
Tổng thống có quyền phủ quyết luật do Nghị viện ban hành. Quyền này
trên lý thuyết, theo Hiến pháp là tương đối. Vì sự phủ quyết đó nếu Nghị
viện tiếp tục theo đuổi đến cùng thì đạo luật đó sẽ phải được thông qua.
Nhưng theo tập quán pháp ở Mỹ, quyền đó dường như là tuyệt đối bởi
những đạo luật bị Tổng thống phủ quyết thì thường không được Nghị viện
xem xét lại. Nó còn mang tính tương đối bởi thực tế cho thấy những đạo
luật bị phủ quyết, thường hoặc là ít quan trọng với vận mệnh quốc gia và
người dân; hoặc là số lượng đạo luật bị phủ quyết là rất ít, thậm chí rất hãn
hữu. Tuy nhiên, đã nói quyền kiểm soát thì cho dù là ít quan trọng, hoặc là
hãn hữu thì bản chất nó vẫn là quyền kiểm soát quyền lực vì nó có quan hệ
“chủ thể và đối tượng”.
Phạm vi của kiểm soát quyền lực trong xã hội

Trong khoa học chính trị, khi nói tới kiểm soát quyền lực là hiểu
quan hệ đó diễn ra trong hoạt động thực thi quyền lực nhà nước. Tuy
nhiên, có một số hệ thống chính trị mà ở đó, chế độ nhất nguyên được vận
hành thì yếu tố kiểm soát quyền lực không những xảy ra ở hoạt động thực
thi quyền, mà còn ở giai đoạn tổ chức quyền lực (như ở Việt Nam).
Tại sao lại có biểu hiện của kiểm soát quyền lực ngay trong giai đoạn
tổ chức quyền lực, chủ yếu thường xảy ra ở loại thể chế nhất nguyên? Có
hai lý do: (1)Trong các nước đa đảng, việc cầm quyền của một đảng thường


6

có rủi ro về mặt thời gian cầm quyền (chỉ một vài kỳ bầu cử là có thể bị
mất vai trò và đảng khác lên thay thế). Nếu cứ đảng nào lên cầm quyền
thay đảng cũ mà lại thay đổi thể chế thì dễ dẫn đến sự bất ổn xã hội.
Nhưng, đa số các quốc gia hiện nay muốn thay đổi thể chế phải theo ý chí
của người dân bằng trưng cầu dân ý, sửa đổi hiến pháp. Vì vậy, kiểm soát
quyền lực trong tổ chức thực chất thuộc về ý chí của nhân dân. (2) Ở các
quốc gia có thể chế chính trị nhất nguyên, vai trò của đảng cầm quyền nổi
lên như một chủ thể quan trọng làm thay đổi tổ chức quyền lực. Nó còn
được mạnh lên một khi mà ở quốc gia đó, quyền trưng cầu dân ý chưa được
luật hóa như ở nước ta. Những thay đổi về vị trí, chức năng của các quyền
trong ba quyền cơ bản, sự đổ
Như vậy với cách tiếp cận chính trị là việc giành, giữ và thực thi
quyền lực nhà nước thì quyền lực chính trị có thể được coi là quyền lực nhà
nước. Vậy nên kiểm soát quyền lực chính trị cũng mang bản chất là kiểm
soát quyền lực nhà nước. Đây là hoạt động có chủ đích của nhà nước và xã
hội, với tổng thể những phương tiện tổ chức và pháp lý thông qua các hình
thức hoạt động như giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm sát, kiểm toán, tài
phán nhằm hạn chế nguy cơ sai phạm cũng như những hành vi lộng quyền,

chuyên quyền, độc đoán của cơ quan quyền lực nhà nước và của công
chức nhà nước. Đảm bảo cho quyền lực nhà nước được thực hiện đúng
mục đích, khoa học, hiệu lực và hiệu quả.


7

2.

Thực trạng kiểm soát quyền lực chính trị ở việt nam
Ở Việt Nam, “kiểm sát” là hoạt động xem xét, đánh giá của Việm
kiểm sát nhằm đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất. Chẳng hạn, Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát hoạt động tư pháp.
Còn “kiểm soát” được cho là xem xét. Đánh giá, theo dõi nhằm ngăn
chặn những điều trái với quy định. Như vậy, về cơ bản, thanh tra, kiểm tra,
giám sát, kiểm soát có nghĩa như nhau, đó là xem xét, đánh giá hoạt động
của các chủ thể thực hiện quyền lực nhà nước để Hiến pháp, pháp luật được
thực hiện nghiêm chỉnh, chính xác, đầy đủ, nhưng chúng khác nhau về chủ
thể thực hiện, về nội dung, hình thức, phạm và đối tượng chịu sự xem xét,
đánh giá. So với thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm sát thì kiểm soát có
phạm vi xem xét, đánh giá rộng hơn, hình thức phong phú hơn, nó bao hàm
cả việc giám sát, thanh tra, kiểm tra, theo dõi…Đối tượng chịu sự xem xét,
đánh giá của kiểm soát là tất cả các chủ thể thực hiện quyền lực nhà nước.
Nội dung kiểm soát bao gồm việc tổ chức và việc thực hiện đối với cả
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Chủ thể thực hiện kiểm soát quyền
lực nhà nước khá đa dạng, đó có thể là nhân dân, các đảng phái, của các tổ
chức chính trị - xã hội, cũng có thể do chính nhà nước (các cơ quan nhà
nước), thậm chí là các tổ chức quốc tế…Từ những phân tích trên cho
thấy: Kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam là toàn bộ những hoạt
động xem xét, theo dõi, đánh giá, những biện pháp mà thông qua đó có thể

ngăn ngừa, loại bỏ những nguy cơ, những việc làm sai trái của cơ quan,
nhân viên nhà nước trong việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước,
bảo đảm cho quyền lực nhà nước được tổ chức và thực hiện đúng mục đích
mong muốn và đạt được hiệu quả cao.


8

Kiểm soát quyền lực nhà nước là rất quan trọng và cần thiết. Không
quốc gia nào có thể phát triển nhanh, ổn định và bền vững nếu như quyền
lực nhà nước không được kiểm soát và thực hiện đúng đắn. Tuy nhiên, trên
thực tế tình trạng lạm quyền, tha hóa quyền lực vẫn luôn tiềm ẩn và thường
xuyên xảy ra. Một số nhân viên nhà nước, thậm chí cả các cơ quan nhà
nước thay mặt nhân dân nắm giữ và thực hiện quyền lực nhà nước nhưng
lại lợi dụng quyền lực được giao vào mục đích vụ lợi hoặc vì mục đích cục
bộ; một số nhân viên nhà nước do năng lực, trình độ hạn chế nên đã mắc
sai lầm trong việc đưa ra những quyết định làm ảnh hưởng tới lợi ích của
các tổ chức, cá nhân.
Việc kiểm soát quyền lực nhà nước được thực hiện bởi nhiều chủ thể,
thông qua hình thức, phương tiện với những nội dung và quy trình kiểm
soát khác nhau ở các thời điểm khác nhau. Việc kiểm soát quyền lực nhà
nước có thể được tiến hành từ bên ngoài, cũng có thể từ bên trong; có thể
kiểm soát công khai, kiểm soát ngầm; kiểm soát giai đoạn, kiểm soát liên
tục; có thể giản đơn, có thể phức tạp thông qua cơ chế kiểm soát. Với mỗi
quốc gia, việc kiểm soát và tổ chức thực hiện việc kiểm soát quyền lực nhà
nước với cơ chế khác nhau. Vậy, quan niệm thế nào là cơ chế kiểm soát
quyền lực nhà nước, trong cơ chế đó bao gồm những yếu tố nào, được vận
hành ra sao hiện nay cũng còn khá nhiều ý kiến cần phải được nghiên cứu
làm rõ.
Kiểm soát quyền lực ở nước ta luôn bảo đảm và thể hiện sự thống

nhất về bản chất của mối quan hệ trong hệ thống chính trị. Điều này còn thể
hiện tính nhất quán ngay trong Hiến pháp năm 2013. Tính nhất quán đó có
được là do tính ổn định của thể chế suốt mấy chục năm nay. Đó là: sự lãnh
đạo, vai trò cầm quyền chỉ do một đảng (Đảng Cộng sản Việt Nam) nắm
giữ.


9

Ở Việt Nam hiện nay, cơ chế kiểm soát quyền lập pháp được quan
niệm là những cơ sở pháp lý để cơ quan chuyên trách của nhánh quyền tư
pháp được phân công kiểm tra quyền lập pháp dựa vào đó triển khai hoạt
động giám sát tính hơp hiến – hợp pháp của các văn bản nhất định do Quốc
hội và lãnh đạo cấp cao thuộc nhánh quyền lập pháp ban hành, tiến hành
thủ tục tố tụng đối với các vụ việc có liên quan đến quyền lập pháp theo
các quy định của Hiến pháp và các đạo luật khác góp phần làm cho quá
trình tổ chức, thực hiện quyền lập pháp được tuân thủ theo đúng các quy
định và trong giới hạn của Hiến pháp và pháp luật,…vì lợi ích chung của
nhân dân và xã hội dân sự, cũng như bảo vệ một cách hữu hiệu tính pháp
chế cao nhất của Hiến pháp, những cơ sở của chế độ hiến định, các quyền
và tự do của con người và của công dân với tư cách là cá giá trị xã hội cao
quý nhất được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại. Cơ chế kiểm
soát quyền hành pháp được cho là hệ thống các phương thức, khả năng và
quy tắc được ghi nhận để thông qua đó biết được quyền lực hành pháp đang
làm gì, làm như thế nào và khống chế, điều chỉnh được nó. Và không chỉ
xem xét việc thực hiện quyền lực hành pháp có phù hợp luật pháp hay
không mà còn là xem hiệu quả của việc thực hiện luật đến mức độ nào. Cơ
chế kiểm soát quyền tư phápđược xác định là hệ thống các phương thức,
khả năng và quy tắc được ghi nhận trong Hiến pháp và các đạo luật khác
với tư cách là những căn cứ pháp lý để: Quyền lập pháp thông qua cơ quan

lập pháp cao nhất là Quốc hội được phân công giám sát hoạt động của
quyền tư pháp, dựa vào đó triển khai công tác nhân sự cấp trung ương trong
các cơ quan tư pháp cao nhất của đất nước (Tòa án) hình thành cơ cấu tổ
chức – hoạt động và nghe các báo cáo của cơ quan tư pháp cao nhất; cũng
như quyền tư pháp thông qua Tòa án hiến pháp, dựa vào đó triển khai hoạt
động tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản pháp luật nhất định do cơ
quan tư pháp thẩm quyền chung cao nhất và một số quan chức lãnh đạo cấp


10

cao thuộc nhánh quyền tư pháp ban hành, tiến hành thủ tục tố tụng về hiến
pháp đối với các vụ việc có liên quan đến quyền tư pháp theo các quy định
của Hiến pháp và các đạo luật khác nhằm góp phần làm cho quá trình tổ
chức, thực hiện quyền tư pháp được tuân thủ theo đúng các quy định và
trong giới hạn của Hiến pháp và pháp luật.
Như vậy, có thể nói, trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước gồm
nhiều các tiểu cơ chế kiểm soát đối với từng bộ phận quyền lực nhà nước.
Với mỗi quyền lực trên lại do nhiều cơ quan nhà nước được phân công,
cùng phối hợp thực hiện và tiến hành việc kiểm soát quyền lực. Nhưng mỗi
cơ quan tham gia thực hiện quyền lực nhà nước có vị trí, vai trò, chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau nên lại cần phải có phương thức kiểm soát
riêng đối với chúng. Do vậy, nếu chúng ta coi cơ chế kiểm soát quyền lực
nhà nước nói chung là một chỉnh thể lớn, thì các cơ chế kiểm soát đối với
từng quyền lực nhà nước (quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư
pháp) được coi là chỉnh thể bộ phận (nhỏ hơn) và trong các cơ chế bộ phận
đó lại có những cơ chế kiểm soát nhỏ hơn nữa. Giữa cơ chế kiểm soát
quyền lực nhà nước nói chung với các cơ chế nhỏ hơn luôn có sự liên hệ,
ảnh hưởng qua lại đa chiều rất phức tạp, song chúng luôn phải thống nhất
với nhau tạo thành một chỉnh thể chung.

Với cách tiếp cận trên cho thấy, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
ở Việt Nam là tổng hợp của nhiều “cơ chế kiểm soát có tính chất bộ phận”
nhằm đạt được mục đích chung là tất cả các nhánh quyền lực nhà nước
(quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp) ở các phạm vi khác
nhau đều được kiểm soát. Vì thế, hiệu quả của cơ chế kiểm soát quyền lực
nhà nước nói chung phụ thuộc vào tính đồng bộ, hiệu quả của mỗi cơ chế
kiểm soát có tính chất bộ phận.


11

Quan hệ kiểm soát quyền lực giữa cơ quan quyền lực với cơ quan
chấp hành dựa trên nền tảng của dân chủ XHCN; hoạt động kiểm soát
quyền lực trong hệ thống hành chính (biểu hiện qua quan hệ thứ bậc trên
dưới) được thiết lập vững chắc.
Hệ thống chính trị nước ta được tổ chức và hoạt động theo nguyên
tắc “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”, nên kiểm soát
quyền lực nhà nước phải là kiểm soát của cả ba lực lượng trên.
Kiểm soát quyền lực của Đảng đối với Nhà nước
Đảng ta là đảng cầm quyền, thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước và toàn xã hội, điều này đã được khẳng định rõ trong Điều 4,
Hiến pháp năm 1992. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh sự lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước ta là khách quan, là nhân tố bảo đảm cho Nhà nước
ta hoạt động theo đúng định hướng về xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trong giai đoạn hiện
nay, trước những yêu cầu ngày càng cao của xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền, đòi hỏi Đảng phải nâng cao năng lực, hiệu quả lãnh đạo
đối với Nhà nước, trong đó phát huy vai trò của Đảng trong kiểm soát
quyền lực nhà nước là một nội dung rất quan trọng.
Thực tế hiện nay, một số cơ quan, tổ chức đảng các cấp bị động trong

phát hiện tiêu cực, lạm quyền. Công tác kiểm tra, giám sát chỉ phát hiện
tiêu cực khi có đơn thư tố cáo, đã làm cho vai trò, uy tín cấp ủy đảng giảm
sút, tiếng nói bị thu hẹp; qua đó, một số tổ chức đảng đã tự hạ thấp vai trò,
uy tín, năng lực lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức chính quyền nhà nước.
Cho nên, chống tha hóa quyền lực hiện nay cần thiết phải phát huy tốt năng
lực lãnh đạo của tổ chức đảng các cấp.


12

Trước tiên phải khắc phục triệt để tính bị động trong phát giác tiêu
cực. Suy cho cùng, để làm được tốt điều này phải nâng cao giác ngộ, trách
nhiệm chính trị, đạo đức cho cán bộ, đảng viên. Cần ngăn chặn tình trạng
bàng quan, dĩ hòa vi quý, sợ va chạm, sợ trù úm... của một số cán bộ, đảng
viên làm cho tổ chức đảng tê liệt, thiếu sức sống
Tổ chức đảng các cấp cần tăng cường và thực hiện nghiêm các
nguyên tắc kiểm tra giám sát đối với cán bộ, đảng viên, kịp thời phát hiện
và ngăn chặn những biểu hiện vi phạm. Đặc biệt, cần chú trọng kiểm tra,
giám sát người đứng đầu tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể
nhân nhân, những cán bộ, đảng viên trong những ngành, lĩnh vực nhạy
cảm: quản lý tài nguyên, đất đai, năng lượng, đầu tư công, bất động sản...
nơi dễ phát sinh tiêu cực, lạm quyền. Mặt khác, “công tác kiểm tra, giám
sát của Đảng phải phối hợp chặt chẽ với công tác thanh tra của Chính phủ,
công tác giám sát của Quốc hội và các cơ quan hành pháp, tư pháp, Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân theo đúng chức năng và thẩm quyền
của mỗi cơ quan”; tiếp tục “hoàn thiện quy chế phối hợp giữa ủy ban kiểm
tra đảng với các tổ chức đảng và các cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc
xem xét khiếu nại, tố cáo và xử lý kỷ luật cán bộ, đảng viên”
Cần thực hiện tốt các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng, đặc biệt
nguyên tắc tập thể lãnh đạo phân công cá nhân phụ trách. Hiện nay,

“nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” trên thực tế ở nhiều nơi
rơi vào hình thức…; tạo kẽ hở cho cách làm việc tắc trách, trì trệ, hoặc lạm
dụng quyền lực một cách tinh vi để mưu cầu lợi ích cá nhân”, khiến xảy ra
tình trạng tranh công đổ lỗi, không ai chịu trách nhiệm trước sai phạm, làm
suy yếu sức mạnh thực thi quyền lực nhân dân. Cho nên, cần khắc phục
bệnh hình thức trong phân công trách nhiệm dẫn tới việc lỏng lẻo trong
thực hiện nguyên tắc trên. Phân công trách nhiệm cá nhân từng cán bộ,


13

đảng viên phải gắn với thực tiễn yêu cầu, chức năng nhiệm vụ của công
việc từng người đảm trách, trong đó có trách nhiệm về Đảng và trách
nhiệm về chính quyền, lấy Điều lệ Đảng, trách nhiệm pháp lý làm cơ sở
cho việc giám sát thực hiện nhiệm vụ, chức trách được giao. Đặc biệt, phải
đề cao trách nhiệm và quyền hạn của người đứng đầu trong mối quan hệ
giữa tập thể và cá nhân, vừa phải tôn trọng nguyên tắc tập thể, vừa phải
phát huy vai trò cá nhân người đứng đầu; khuyến khích bảo vệ người dám
nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, đặt lợi ích chung lên trên lợi ích
riêng; phải đề cao sự minh bạch và trách nhiệm cao của người cầm quyền.
Kiểm soát quyền lực của nhân dân đối với Nhà nước
Đây là mối quan hệ kiểm soát quyền lực của người chủ đối với Nhà
nước. Để thực hiện được tốt sự giám sát của nhân dân đối với quyền lực
nhà nước, cần thực hiện tốt một số vấn đề:
Thứ nhất, phải nâng cao nhận thức, trách nhiệm và bảo vệ người dân
trong giám sát quyền lực. Sự phát triển mọi mặt đời sống xã hội, đặc biệt sự
phát triển của ý thức pháp luật, sự bùng nổ các phương tiện truyền thông
cũng như trình độ dân chủ ở nước ta được nâng lên... đã làm cho người dân
nhận thức ngày càng rõ hơn về trách nhiệm, quyền hạn của mình trong
kiểm soát quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, một bộ phận nhân dân hiện nay

chưa thực sự nhận thức rõ, hoặc cố tình lợi dụng để khiếu kiện kéo dài,
vượt cấp mặc dù đã được trả lời, giải đáp. Mặt khác, cơ chế để bảo vệ, biểu
dương người tố cáo vi phạm còn thiếu chặt chẽ, nhiều người dũng cảm tố
cáo tiêu cực, tham nhũng bị trả thù, bị gây khó dễ và trở thành những người
“đặc biệt”, thậm chí lập dị so với cách ứng xử thông thường của số đông,
điều đó đã làm giảm ý chí của nhiều người. Cho nên hiện nay, khuyến


14

khích người dân giám sát quyền lực nhà nước chỉ có hiệu quả khi họ hiểu,
họ biết và họ dám lên tiếng, và họ được bảo vệ trước pháp luật.
Thứ hai, nâng cao hơn nữa hiệu quả các cơ quan đại diện của dân
trong giám sát. Đây là vấn đề được nhân dân đặc biệt quan tâm. Mặt trận
Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội là cơ quan đại diện của nhân dân
cần phát huy tốt hơn vai trò trong giám sát và phản biện xã hội không chỉ
quá trình hoạch định các quyết sách chính trị, mà cả quá trình tổ chức thực
hiện các quyết sách đó.
Thứ ba, hoàn thiện và cụ thể hóa cơ chế nhân dân thực hiện quyền
giám sát trực tiếp đối với quyền lực nhà nước. Nhân dân không chỉ tuyệt
đối ủy quyền cho các cơ quan đại diện, mà còn trực tiếp tham gia vào xây
dựng chính quyền, giám sát việc thực thi quyền lực nhà nước ở mọi cấp. Sự
tham gia trực tiếp của nhân dân không đơn thuần là vấn đề quan điểm lý
luận, mà là một vấn đề thực tiễn. Nhiều vụ tiêu cực trong các lĩnh vực khác
nhau được người dân và dư luận phanh phui, lên án thời gian qua là những
bằng chứng hùng hồn nói lên điều đó. Trong thời gian tới, cần phải phát
huy hơn nữa hình thức dân chủ trực tiếp của nhân dân theo hướng: “hoàn
thiện chế định bầu cử, quyền bãi nhiệm đại biểu của nhân dân; hoàn thiện
cơ chế để nhân dân thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội,
quyền dân chủ trực tiếp ở cơ sở, thảo luận các vấn đề quan trọng; xây dựng

cơ chế để nhân dân thực hiện quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng
cầu ý dân”
Kiểm soát quyền lực giữa các yếu tố bên trong quyền lực Nhà
nước
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng ta khẳng định:
“Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm


15

soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp”. Quan điểm đó được tiếp tục khẳng định trong Dự thảo Hiến pháp
sửa đổi năm 1992. Việc khẳng định cơ chế kiểm soát quyền lực trong hoạt
động của bộ máy nhà nước là sự phát triển nhận thức lý luận cũng như thực
tiễn của Đảng ta trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện tốt sự kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ
quan trong bộ máy nhà nước theo quan điểm trên, thiết nghĩ, cần tập trung
thực hiện tốt một số vấn đề:
Phân định rõ chức năng của từng cơ quan lập pháp - hành pháp - tư
pháp. Nhà nước pháp quyền thì đòi hỏi trước tiên là phải hoàn thiện cơ sở
pháp lý cho hoạt động của bộ máy nhà nước. Trước đây, chúng ta đã phân
định nhưng chưa rạch ròi ba cơ quan lập pháp - hành pháp - tư pháp, cho
nên, trong thực tế còn lẫn lộn chức năng, gây khó khăn trong tổ chức thực
hiện. Bước tiến đáng kể trong lập hiến ở nước ta là, trong Dự thảo sửa đổi
Hiến pháp năm 1992 đã phân định rõ ba cơ quan lập pháp - hành pháp - tư
pháp. Đây là cơ sở cho việc xác định rõ chức trách nhiệm vụ của mỗi cơ
quan.
Phát huy tốt vai trò, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan
giám sát độc lập trong bộ máy nhà nước như Kiểm toán Nhà nước. Kiểm
toán Nhà nước được ghi rõ “hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.

Phân cấp quản lý phù hợp gắn với quy trách nhiệm cho người đứng
đầu cơ quan, tổ chức. Hiện nay, “cơ chế, chính sách về quản lý kinh tế - xã
hội trên nhiều lĩnh vực vẫn còn sơ hở, bất cập; một số quy định thiếu nhất
quán, thiếu chặt chẽ, vẫn còn tình trạng “xin-cho””. Thực tế đáng buồn: có
đến mấy cơ quan chủ quản đối với một đối tượng nhưng không thể quy
trách nhiệm rõ ràng cho ai. Ví dụ, một loại thực phẩm có ba đến bốn cơ


16

quan quản lý, chịu trách nhiệm khác nhau. Cho nên, hiện tượng đùn đẩy
trách nhiệm, tranh công đổ lỗi còn diễn ra nhiều; việc quy trách nhiệm tập
thể, cá nhân do đó còn nhiều kẽ hở, thực hiện các chế định về vai trò,
quyền hạn, trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, tổ chức còn nhiều bất cập.
Vì vậy, cần tạo đột phá trong quản lý vĩ mô nhằm nâng cao hiệu lực quản lý
xã hội.
Hoàn thiện hệ thống luật pháp gắn với nâng cao hiệu quả hoạt động
của bộ máy hành chính. Nhà nước pháp quyền lấy luật pháp làm tối
thượng, nên để kiểm soát quyền lực nhà nước cho tốt, thì việc hoàn thiện
pháp luật và thực thi nghiêm pháp luật là đòi hỏi tất yếu và là yêu cầu cao
đối với xây dựng và hoàn thiện nhà nước ta hiện nay. Hiện nay, chúng ta
đặc biệt “còn thiếu những cơ chế, chính sách đồng bộ, khoa học để chủ
động ngăn ngừa những vi phạm”(7). Cho nên, phải tiếp tục hoàn thiện hệ
thống pháp luật, đặc biệt các chế định về kiểm soát quyền lực nhà nước: kê
khai tài sản, chống tham nhũng; thuế thu nhập... để nâng cao hiệu quả trong
ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực. Cùng với đó, cần tiếp tục đẩy mạnh tinh
giản biên chế, nâng cao chất lượng đội ngũ, củng cố kỷ cương làm việc,...
để nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước, tăng
cường hiệu quả thực thi quyền lực nhân dân.
Kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các chủ thể nói trên không phải

là những hoạt động độc lập tách rời nhau mà có sự thâm nhập, quan hệ chặt
chẽ với nhau, cùng phát huy hiệu quả đối với một đối tượng: quyền lực nhà
nước. Chỉ có thực hiện toàn diện, chặt chẽ sự kiểm soát của cả ba lực lượng
mới bảo đảm cho tổ chức và hoạt động của Nhà nước vận hành nhịp nhàng,
ăn khớp và thông suốt, ngăn chặn tình trạng lạm dụng quyền lực, để tư
tưởng “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” trở thành hiện thực./.


17


18

3.

Vấn đề đặt ra và giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền
lực chính trị ở Việt Nam
3.1.Xuất phát từ lý luận
Trước tiên phải thấm nhuần sâu sắc quan điểm quyền lực tối cao
thuộc về nhân dân. Lời ấy không phải là hô khẩu hiệu, mà phải được thấm
sâu trong hệ thống chính trị và trong cộng đồng nhân dân. Mọi người phải
ý thức rõ ràng và đầy đủ về quan điểm ấy, thường xuyên thể hiện bằng
hành động thực tế. Tiếp theo, quyền lực phải được kiểm soát bằng chính
quyền lực nhà nước, quy định trong Hiến pháp và các luật liên quan về cơ
cấu và chức năng, nhiệm vụ của bộ máy nhà nước, trong đó có sự phân
công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, kiểm soát quyền lực giữa các
cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp
trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất, nhằm hạn chế sai lầm hoặc
khi có sai lầm thì được phát hiện và điều chỉnh, khắc phục sớm nhất.
Nói chung, các nhà nước phong kiến chưa giải quyết được việc kiểm

soát quyền lực, mặc dù có lúc đã có một số quy định tiến bộ, manh nha của
kiểm soát quyền lực. Luật lệ của triều đình có những quy định cấm các
quan không được làm. Một số triều đại đã từng có các quan ngự sử ghi
chép trung thực, khách quan mọi việc liên quan đến các quyết định và ứng
xử của nhà vua, của triều đình để lịch sử đánh giá, phán xét công, tội. Vua
cũng không được kiểm duyệt các ghi chép này. Có các gián quan để can
gián vua không làm việc sai; có trống để thần dân kêu oan; có quan tòa
liêm chính để phán xử đúng, sai... Tuy nhiên, vấn đề kiểm soát quyền lực
về cơ bản vẫn chưa được giải quyết. Nguyên nhân là do quyền lực tập trung
vào tay vua và hoàng tộc, vua bảo chết thì phải chết, ý vua là ý trời, ý vua
là pháp luật, còn nhân dân chỉ là đối tượng bị cai trị, không có quyền tự do,


19

kể cả quyền sống, trái ý vua thì tùy theo mức độ và sự nóng giận của vua
mà bị trị tội, kể cả tru di tam tộc. Thời kỳ đầu của chế độ tư bản cũng vậy,
quyền lực tập trung vào tay những người giàu có và cũng không được kiểm
soát. Khi chế độ tư bản phát triển đến một mức độ nhất định, đã có những
bước tiến quan trọng về dân chủ xã hội, cộng với sự phát triển của các hệ tư
tưởng, nhất là lĩnh vực triết học, làm thay đổi nhận thức và tư duy chính trị,
thì quyền lực mới được kiểm soát đáng kể, và ngày nay vẫn đang phải tiếp
tục hoàn thiện.
Phương pháp tiếp cận của nước ta lâu nay đối với vấn đề này chưa
phải đã tốt, quyền lực nhìn chung chưa được kiểm soát chặt chẽ, thậm chí
không ít trường hợp hầu như ít bị kiểm soát, và trên thực tế, việc lạm dụng
quyền lực diễn ra ở nhiều nơi, nhiều cấp. Chính nó đã tạo nên sự tha hóa
đến độ rất phức tạp. Chúng ta không tiếp thu theo kiểu bê nguyên, rập
khuôn máy móc mô hình “Tam quyền phân lập” của các nước phương Tây,
vì mỗi quốc gia có đặc điểm văn hóa và ở giai đoạn phát triển khác nhau,

nhưng riêng về vấn đề kiểm soát quyền lực trong đó thì rất nên nghiên cứu
một cách thật nghiêm túc để kế thừa “hạt nhân hợp lý”. Đồng thời với việc
phân công, phối hợp, kiểm soát một cách khoa học giữa ba nhánh nói trên,
còn có sự phân công và kiểm soát lẫn nhau giữa các bộ phận ngay trong
cùng một nhánh, nhất là hành pháp và tư pháp.
Tiếp theo, kiểm soát quyền lực thông qua việc thực thi rộng rãi
quyền dân chủ; kể cả hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện và dân
chủ tham dự; thông qua chế độ tranh cử, đề bạt và miễn nhiệm cán bộ;
minh bạch thông tin và trách nhiệm giải trình của các tổ chức và cá nhân
được giao quyền lực; sự giám sát của công luận, của nhân dân; tự do tư
tưởng và tự do ngôn luận để thể hiện chính kiến của những con người tham
gia làm chủ đất nước. Trong đó, cần phát huy tốt vai trò của các tổ chức


20

chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các phong trào lành
mạnh, hợp pháp, do nhân dân tự giác và tự nguyện lập ra nhằm bảo vệ lợi
ích chính đáng của nhân dân, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây
dựng xã hội. Nó là phương thức rất quan trọng để thực thi quyền dân chủ
của nhân dân; nó đã từng tồn tại và đang tồn tại trong xã hội Việt Nam
truyền thống trước đây và trong xã hội Việt Nam hiện tại, tất nhiên là chưa
hoàn chỉnh, chưa hiện đại.
Nhân dân có quyền chất vấn, yêu cầu cơ quan nhà nước phải giải
trình; có quyền phản đối những việc làm sai trái; có quyền yêu cầu cán bộ
không đủ tư cách phải từ chức hoặc bị cách chức... Các cơ quan nhà nước
phải có trách nhiệm lắng nghe, điều tra xác minh, tiếp thu, trả lời, giải trình,
không được ngăn cản, cấm đoán nhân dân thể hiện chính kiến một cách ôn
hòa. Khuyến khích công luận lên tiếng phê phán, phản đối những việc sai
trái để tăng sức đề kháng của cơ thể xã hội. Ở đâu và khi nào mà công luận

bị hạn chế, ngăn cản thì ở đó và lúc ấy cơ thể xã hội đang giảm sức đề
kháng.
Trong một xã hội tiến bộ, việc minh bạch thông tin có vị trí rất quan
trọng, mọi người dân đều có quyền tiếp cận thông tin, không ai được bưng
bít thông tin, giống như “ánh sáng ban ngày” thay cho “đêm tối”, để cái
xấu, cái ác không còn nơi ẩn nấp, phải lộ rõ nguyên hình. Lâu nay ở Việt
Nam ta còn rất nhiều việc chưa được minh bạch, kể cả việc nhỏ và việc lớn,
kể cả những chủ trương, quyết định và những vụ, việc tiêu cực, tham
nhũng, sai lầm. Chính sự chưa minh bạch này đã làm cho nhân dân nghi
ngờ, giảm sút lòng tin. Nghi ngờ dung túng, bao che, cùng “lợi ích nhóm”.
Nhiều việc được cho là “nhạy cảm” để lấy cớ đó mà không minh bạch
thông tin. Chính việc không minh bạch ấy đã làm hạn chế hiệu quả của
cuộc chiến chống tham nhũng và “lợi ích nhóm”, nếu như không muốn nói


21

rằng nó cản trở các công việc ấy. Một nhà nước của nhân dân, cớ sao không
báo cáo đầy đủ cho nhân dân biết? Nếu lãnh đạo không có ai dính dáng gì
tiêu cực trong đó thì tại sao lại sợ minh bạch? Muốn minh bạch thông tin
thì lãnh đạo Đảng và Nhà nước phải mở rộng hành lang hơn nữa cho tự do
ngôn luận và báo chí, còn bản thân báo chí cũng phải dũng cảm, bản lĩnh
và nâng cao đạo đức nghề nghiệp, nhà báo dám dấn thân cho lẽ phải và
không để bị mua chuộc. Cũng có ý kiến lo ngại rằng, khi minh bạch thông
tin về các vụ, việc thì nhân dân sẽ mất lòng tin hơn nữa. Không phải như
vậy! Không minh bạch mới làm mất lòng tin. Ai cũng có quyền nghi ngờ
cả. Và người lãnh đạo tốt cũng mang tiếng lây. Không dám minh bạch vì sợ
mất lòng tin thì đó là thứ lòng tin bị đánh lừa, lòng tin nhầm lẫn.
Văn học nghệ thuật cũng cần phải tích cực tham gia “trừ gian” để
góp phần “tải đạo” theo các giá trị nhân bản và phương pháp nghệ thuật

phù hợp. Để thực thi dân chủ, việc đầu tiên là thật sự tạo điều kiện cho
nhân dân được bày tỏ ý kiến. Đồng thời phải chống loạn ngôn, chống vu
cáo và xúc phạm các cá nhân và tổ chức, vi phạm tự do của người khác, kể
cả nhân dân và người lãnh đạo.
Công tác cán bộ lâu nay, bên cạnh những mặt làm được, nhìn chung
trong hệ thống chính trị chưa tuyển chọn và sử dụng được nhiều nhân tài.
Lịch sử nước ta đã nhiều lần lặp đi lặp lại như vậy. Trong kháng chiến
chống ngoại xâm, với sức mạnh thiêng liêng của hồn nước, nhân tài tụ về
dưới cờ nghĩa để chiến đấu vì mẹ hiền Tổ quốc. Đến khi hòa bình thì nhân
tài, trung thần thưa vắng dần, còn nịnh thần thì chui vào ngày càng nhiều
trong triều chính, dẫn đến tha hóa quyền lực và sụp đổ. Cách làm công tác
cán bộ chủ yếu là sắp đặt theo ý chí và cách tư duy còn nhiều chủ quan của
người lãnh đạo. Không ít trường hợp sắp xếp cán bộ theo quan hệ, hậu duệ,
“lợi ích nhóm”, bị đồng tiền chi phối; đề bạt con cháu và những người “ăn


22

cánh”. Từ xưa tới nay, chế độ và triều đại nào cũng vậy, nạn “mua quan,
bán chức” là một trong các biểu hiện tha hóa quyền lực nguy hại nhất. Ở
Việt Nam, nhiều năm rồi nạn “chạy chức”, “chạy quyền” đã trở nên khá
phổ biến, có những trường hợp cứ như là đương nhiên, rất đáng lo ngại, kể
cả ở những lĩnh vực hệ trọng. Công tác cán bộ chưa có được một cơ chế
khoa học để tuyển chọn và sử dụng được nhân tài, bởi còn ảnh hưởng nặng
nề tàn dư của tư tưởng phong kiến và những năm gần đây lại cộng với mặt
trái của cơ chế thị trường và sự tha hóa quyền lực.
Cần đổi mới mạnh mẽ và căn bản công tác cán bộ theo hướng cán bộ
lãnh đạo chủ chốt phải qua tranh cử trong môi trường thật sự tôn trọng ứng
cử tự do và đề cử, chọn cán bộ chuyên môn phải qua thi tuyển, thực chất và
nghiêm túc, khách quan, vừa mở rộng dân chủ, vừa tăng trách nhiệm của

người đứng đầu trong công tác cán bộ. Đó cũng là cách để nhân dân và
đông đảo cán bộ tham gia giám sát quyền lực trong việc giao quyền lực cho
cán bộ. Nâng cao chất lượng của đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân
các cấp, lựa chọn những người có năng lực và bản lĩnh làm đại biểu chân
chính và xứng đáng của nhân dân, dám nói tiếng nói trung trực đấu tranh
bảo vệ lợi ích của nhân dân. Khi các đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân
dân các cấp đã được nhân dân bầu chọn thì phải toàn tâm toàn ý, một lòng
một dạ phục vụ nhân dân, lắng nghe nhân dân, nói tiếng nói của nhân dân,
biểu quyết vì nhân dân. Tiến tới công khai cho nhân dân biết các đại biểu
ấy biểu quyết thế nào đối với những công việc mà nhân dân bức xúc, quan
tâm, để giám sát sự trung thành với nhân dân. Nếu các đại biểu ấy là đảng
viên thì càng phải gương mẫu thực hiện ý dân, coi lòng dân là cơ sở quan
trọng nhất để hành động - đó là nguyên tắc cao nhất. Tổ chức đảng đã giao
cho đảng viên nhiệm vụ làm đại biểu chân chính của nhân dân, đảng viên
cứ thế mà hành động; tổ chức đảng không “cầm tay, chỉ việc”. Trung thành


23

với nguyện vọng của nhân dân, nói tiếng nói của nhân dân - đó chính là
nhân cách và ý thức đảng viên chân chính. Đảng vì nhân dân mà hành động
chứ không vì mục đích khác, không để cho “nhóm lợi ích” chi phối và thao
túng.
Lâu nay không ít trường hợp cấp ủy đảng đã sử dụng biện pháp hành
chính và quyền lực, thậm chí đã trở thành cơ quan quyền lực cao nhất trên
thực chất. Với cách này, nếu kéo dài thì tổ chức đảng sẽ bị quyền lực làm
tha hóa, vừa hạn chế công việc lãnh đạo đất nước, vừa làm suy yếu bản
thân tổ chức đảng. Cần đổi mới một cách căn bản nội dung và phương thức
lãnh đạo của Đảng theo hướng Đảng không làm thay, không chồng chéo
với công việc của Nhà nước, nhất là việc sử dụng quyền lực nhà nước, mà

chuyển mạnh sang lãnh đạo chủ yếu bằng các giá trị văn hóa, từ chủ trương
hợp lòng dân đến noi gương và thuyết phục, không áp đặt một chiều bằng
biện pháp tổ chức, hành chính và quyền lực, Đảng phải đại diện chân chính
và xứng đáng nhất cho ngọn cờ dân chủ; phát hiện và chọn lựa cho được
các hiền tài để giới thiệu với nhân dân. Đó cũng là cách làm truyền thống
mà trước đây, trong điều kiện chưa cầm quyền và trong thời kỳ kháng chiến
chống thực dân, đế quốc, Đảng đã từng sử dụng để trở thành một Đảng
lãnh đạo của nhân dân. Bản thân trong tổ chức của Đảng cũng cần phải có
cơ quan do đại hội cử ra để giám sát cán bộ lãnh đạo về nhân cách và việc
sử dụng quyền lực, trong quá trình lãnh đạo và kiểm soát quyền lực, cần
thực hành dân chủ rộng rãi và phát huy vai trò của nhân dân để tham gia
xây dựng bảo đảm cho Nhà nước ta thật sự là nhà nước của nhân dân - là
mục tiêu xây dựng Nhà nước mà Đảng nói lâu nay./.
3.2.Theo tinh thần Nghị quyết trung ương 4
Đối với các thể chế chính trị tư sản, thực hiện tam quyền phân lập
giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp thể hiện rõ bản chất và sự kiểm soát


24

lẫn nhau giữa các cơ quan thuộc quyền lực chính trị, tuy nhiên, nó vẫn chỉ
củng cố quyền lực chính trị của giai cấp tư sản. Ở nước ta hiện nay, quyền
lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các
cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Quyền lực chính trị diễn ra chủ yếu qua phương thức thực thi quyền
lực chính trị ở từng thể chế chính trị trong mỗi quốc gia, dân tộc. Ở nước ta
hiện nay, thực thi quyền lực chính trị trong hệ thống chính trị xã hội chủ
nghĩa, trong một khối thống nhất theo nguyên tắc “Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Trong thể chế một đảng duy nhất cầm
quyền, nội dung lãnh đạo, về thực chất là nội dung đảng cầm quyền, nhưng

là sự cầm quyền của một đảng được nhân dân thừa nhận bằng Hiến pháp và
pháp luật. Đảng Cộng sản cầm quyền là đảng nắm chính quyền, lãnh đạo
các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng của mình, đồng thời giữ vững
bản chất là Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Vấn đề quyền lực và kiểm soát quyền lực (quyền lực chính trị) luôn
mang tính thời sự trong xã hội hiện đại. Đặc biệt, đối với nước ta hiện nay,
với thể chế một Đảng duy nhất cầm quyền và trong xu thế hội nhập quốc
tế, vấn đề thực thi quyền lực và kiểm soát quyền lực càng có tính cấp thiết,
liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của dân tộc, chế độ chính trị và thắng
lợi của sự nghiệp đổi mới.
Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và
những bất cập, hạn chế trong thực thi quyền lực của những người có chức,
có quyền đã được Hội nghị Trung ương 4 khóa XII tập trung thảo luận và
thể hiện quyết tâm cao khắc phục. Những hiện tượng như: “…sống ích kỷ,
thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, tham nhũng, ham quyền lực; bè phái
cục bộ, mất đoàn kết; quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn, bức xúc


25

của dân”, đã được đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thẳng thắn chỉ
rõ trong bài phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 4 khóa XII.
Trong tính tổng thể của những hiện tượng trên, thì vấn đề lạm dụng,
tham nhũng, ham quyền lực của những người có chức, có quyền có tính
nguy hiểm trực tiếp nhất. Từ đó dẫn đến tình trạng “chạy cấp, chạy chức,
chạy chỗ, chạy tuổi”…, bất chấp nguyên tắc, dư luận. Có những người
chưa đủ phẩm chất, năng lực để đảm đương thực thi quyền lực ở một vị trí
cao, nhưng qua “chạy” để có quyền, có “danh”, có địa vị và để vụ lợi cá
nhân, vì lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm. Tham nhũng quyền lực, thực chất là
“cướp danh”; từ tham nhũng quyền lực đến “tha hóa quyền lực” chỉ trong

gang tấc. Tha hóa quyền lực chính trị được hiểu là quá trình những người
có chức, có quyền trượt sang chiến tuyến bên kia, tức là thực thi quyền lực
“trái ngược, phản lại” mục tiêu, tôn chỉ của Đảng. Nếu để hiện tượng tha
hóa quyền lực chính trị diễn ra nghiêm trọng, sẽ dẫn tới hệ thống chính trị
bị mục ruỗng và khó tránh khỏi khủng hoảng chính trị, mất chế độ, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” và trượt vào quỹ đạo của quyền lực chính trị tư sản.
Trong thể chế một đảng duy nhất cầm quyền, nội dung lãnh đạo của
đảng, về thực chất là nội dung đảng cầm quyền, nhưng là sự cầm quyền của
một đảng được nhân dân thừa nhận bằng Hiến pháp và pháp luật. Đảng
Cộng sản cầm quyền là đảng nắm chính quyền, lãnh đạo các cơ quan nhà
nước thực hiện chức năng của mình, đồng thời giữ vững bản chất là Nhà
nước của dân, do dân, vì dân. Quyền lực chính trị của Đảng kết tinh trong
Cương lĩnh chính trị, đường lối, quyền định hướng chính trị đối với tổ chức
và hoạt động Nhà nước; quyền sử dụng bộ máy nhà nước để thực thi quyền
lực của Đảng. Việc thực thi quyền lực chính trị của Đảng theo nguyên tắc
“Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Đảng cầm quyền,
thực thi quyền lực qua lãnh đạo bộ máy Nhà nước và biểu hiện qua những


×