Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong tố tụng dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (743.17 KB, 80 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Khi một người biệt tích quá lâu khỏi nơi cư trú đã làm gián đoạn các quan hệ
xã hội mà họ đã tham gia, làm ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp của những
người có liên quan đến họ trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động,
kinh doanh, thương mại… Vì vậy, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những
người có liên quan đến người biệt tích trong các quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình,
lao động, kinh doanh, thương mại pháp luật quy định các chủ thể này có quyền yêu
cầu Tòa án tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết.
Vấn đề giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết lần
đầu tiên được đề cập đến trong Thông tư số 03-NCLP ngày 03/3/1966 của
TANDTC về trình tự giải quyết việc ly hôn. Sau đó, yêu cầu tuyên bố một người
mất tích hoặc là đã chết được quy định tại Điều 10 PLTTGQCVADS và Nghị quyết
số 03/HĐTP ngày 19 tháng 10 năm 1990 của Hội đồng thẩm phán TANDTC về
hướng dẫn thi hành PLTTGQCVADS. Về cơ bản, việc xác định công dân mất tích
hoặc là đã chết theo các quy định của pháp luật TTDS trước thời điểm BLTTDS
được banh hành đều được thực hiện theo một thủ tục chung không tách thành thủ
tục việc dân sự và thủ tục án dân sự.
BLTTDS được Quốc hội khóa XI nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua ngày 15/6/2004 lần đầu tiên đã đưa quy định thủ tục giải quyết việc
dân sự pháp điển hóa chính thức trong luật. Yêu cầu tuyên bố một người mất tích
hoặc là đã chết là một loại việc dân sự được giải quyết theo một thủ tục độc lập quy
định tại Phần thứ năm: "Thủ tục giải quyết việc dân sự" của BLTTDS. Có thể nói,
đây là một bước đột phá về thủ tục tố tụng, tạo ra một hành lang pháp lý trong việc
giải quyết nhanh, giản lược các việc mang tính chất đặc trưng là không có tranh
chấp nhưng cá nhân, cơ quan, tổ chức có yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không
công nhận một sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự
2



Bên cạnh những ưu điểm đạt được của việc áp dụng thủ tục giải quyết việc dân sự
trong việc giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết, thực tiễn
thụ lý và giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết đã và đang
đặt ra khá nhiều những vướng mắc cần tháo gỡ cũng như cần có sự hướng dẫn
thống nhất. Mặc dù thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã
chết lần lượt được quy định tại Chương XXIII và Chương XXIV của BLTTDS, tuy
nhiên phần nhiều các quy định của luật còn mang tính cô đọng, khái quát khá chung
chung, thiếu vắng tính cụ thể và chi tiết, cũng như chưa có sự thống nhất quan điểm
dẫn tới các cách hiểu khác nhau. Điều này không thể tránh khỏi sự "tùy tiện chủ
quan" trong việc áp dụng luật. Chính từ thực trạng này đòi hỏi phải nghiên cứu một
cách toàn diện, sâu sắc và đầy đủ về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người
mất tích hoặc là đã chết nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật TTDS Việt Nam.
Với những lý do đó, việc nghiên cứu ″Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố
một người mất tích hoặc là đã chết trong tố tụng dân sự Việt Nam″ có ý nghĩa
khoa học và có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong khoa học pháp lý từ trước đến nay, ở nước ta chưa có một công trình
nào nghiên cứu chuyên sâu và có hệ thống về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố
một người mất tích hoặc là đã chết. Do trước đây, thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên
bố một người mất tích hoặc là đã chết thường được giải quyết trong cùng một vụ án
ly hôn hoặc một vụ án dân sự khác, cho đến thời điểm BLTTDS có hiệu lực, thủ tục
này mới trở thành một thủ tục độc lập. Ở những khía cạnh khác nhau, cho đến nay
đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến thủ tục này đã được một số tác giả
đề cập đến như: Công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ: ″Cơ sở lý luận và thực
tiễn thi hành quy định tại phần thứ năm: Thủ tục giải quyết việc dân sự của Bộ luật
tố tụng dân sự Việt Nam″ của Viện khoa học xét xử - TANDTC; Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp trường: "Việc dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự tại Tòa án nhân
dân" của Trường đại học Luật Hà Nội, năm 2008; Luận văn thạc sỹ Luật học:
″Trình tự, thủ tục giải quyết các việc dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân

3

sự″, Lê Thanh Huyền, Trường đại học Luật Hà Nội, năm 2006. Một số các bài viết
trên các tạp chí khoa học pháp lý như: "Xác định thời điểm chết trong trường hợp
tuyên bố một người đã chết theo quy định của pháp luật dân sự", Lê Hồng Hải, Tạp
chí Dân chủ & Pháp luật số 9/2004; ″Một số quy định chung về thủ tục giải quyết
việc dân sự″, Tưởng Duy Lượng, Tạp chí Toà án nhân dân, số 6/2005; ″Những vấn
đề cơ bản về thủ tục giải quyết một số việc dân sự cụ thể″, Tưởng Duy Lượng, Tạp
chí TAND, số 11/2005; "Thủ tục giải quyết việc dân sự theo quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự", Lê Thu Hà, Tạp chí TAND, số 12/2006; "Tuyên bố một người là đã
chết theo Điều 81 Bộ luật dân sự năm 2005", Nguyễn Minh Hằng, Tạp chí TAND số
11/2009 …. Tuy vậy, các công trình trên mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một
cách khái quát về thủ tục giải quyết việc dân sự, tiếp cận dưới một vài góc độ của
thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết. Với tình
hình trên, đề tài "Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là
đã chết trong tố tụng dân sự Việt Nam", lần đầu tiên được nghiên cứu ở cấp độ
luận văn thạc sỹ một cách chuyên sâu, toàn diện, đầy đủ và đảm bảo được tính
logíc, hệ thống, không có sự trùng lặp với các công trình nghiên cứu khoa học đã
được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Mục đích của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm thực hiện mục đích:
Một là, làm sáng tỏ cơ sở lý luận về thủ tục giải quyết việc dân sự nói
chung và thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết
trong TTDS nói riêng, tìm hiểu thực tế áp dụng luật thực định để giải quyết yêu cầu
tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong hoạt động xét xử của Tòa án;
Hai là, chỉ ra những điểm còn thiếu hoặc chưa hợp lý trong các quy định về
thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết của pháp luật
TTDS Việt Nam hiện hành, từ đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện quy định của
pháp luật TTDS về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là

đã chết.
4

* Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Luận văn đặt ra các nhiệm vụ sau để thực hiện được mục tiêu đề tài:
- Nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về thủ tục giải quyết
việc dân sự nói chung và thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích
hoặc là đã chết nói riêng;
- Tìm hiểu một cách đầy đủ và có hệ thống quy định của pháp luật TTDS về
thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong TTDS
Việt Nam;
- Nghiên cứu và đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về thủ tục giải quyết
yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết, chỉ ra những nội dung, những
vấn đề còn thiếu sót, chưa phù hợp. Từ đó, luận giải về yêu cầu hoàn thiện quy định
của pháp luật TTDS về thủ tục giải quyết việc dân sự nói chung và thủ tục giải
quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết nói riêng, trên cơ sở đó
đề ra các giải pháp để hoàn thiện các quy định này.
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận của thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên
bố một người mất tích hoặc là đã chết; các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam
hiện hành về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết.
Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề này qua hoạt động xét xử của
TAND trong những năm gần đây.
* Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong khuôn khổ của một Luận văn Thạc sĩ Luật học, tác giả chỉ tập chung
nghiên cứu các quy định về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích
hoặc là đã chết trong pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành. Khi nghiên cứu các quy
định cụ thể về thủ tục này, luận văn có đề cập nghiên cứu về thủ tục giải quyết các
yêu cầu về dân sự nói chung cũng như nghiên cứu khái quát các quy định của
BLDS về tuyên bố một người mất tích và tuyên bố một người là đã chết. Tuy nhiên,

cách tiếp cận những vấn đề này chỉ là cơ sở để nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và
5

hệ thống về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết
theo quy định của BLTTDS Việt Nam.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu nói trên, việc nghiên cứu được tiến
hành dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về quản lý Nhà
nước, quản lý xã hội cũng như chủ trương, quan điểm về việc xây dựng BLTTDS.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên
cứu như: Phân tích, tổng hợp, lôgíc, lịch sử, qui nạp, đối chiếu, so sánh, khảo sát
thăm dò lấy ý kiến trong phạm vi những người làm công tác thực tiễn, sử dụng kết
quả thống kê nhằm làm sáng tỏ các vấn đề trong nội dung luận văn.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống về thủ tục giải quyết yêu cầu
tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong TTDS Việt Nam - một vấn đề
mới, đã và đang gặp nhiều vướng mắc từ thực tiễn xét xử. Luận văn có ý nghĩa khoa
học và thực tiễn sau đây:
Thứ nhất: Lần đầu tiên thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất
tích hoặc là đã chết được nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện cả về vấn
đề lý luận cũng như thực tiễn.
Thứ hai: Quá trình nghiên cứu đề tài tìm ra được những tồn tại trong công tác
xây dựng và thi hành pháp luật về thủ tục giải quyết việc dân sự nói chung và thủ
tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết nói riêng. Từ đó
đưa ra những đề xuất, kiến nghị để góp phần vào việc hoàn thiện các quy định của
pháp luật TTDS Việt Nam trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu giảng dạy
ở bậc Đại học, Trường Đào tạo nghề trong lĩnh vực tư pháp và là tư liệu tốt để các

nhà khoa học tham khảo trong nghiên cứu khoa học TTDS. Luận văn là một công
trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc, trong một chừng mực nhất định cũng có thể
6

giúp ích phần nào cho các cán bộ làm công tác thực tiễn (Thẩm phán, Luật sư, Kiểm
sát viên ) trong việc hiểu biết một cách sâu sắc, đầy đủ và vận dụng đúng đắn các
quy định của pháp luật khi áp dụng chế định thủ tục giải quyết việc dân sự nói
chung và thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết
trong TTDS Việt Nam nói riêng.
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên
bố một người mất tích hoặc là đã chết
Chương 2: Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là
đã chết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam
Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết
và một số kiến nghị










7


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT
YÊU CẦU TUYÊN BỐ MỘT NGƯỜI MẤT TÍCH HOẶC LÀ ĐÃ CHẾT

1.1. Khái quát về việc dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự
1.1.1. Khái niệm việc dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự
Trong các pháp lệnh tố tụng trước thời điểm BLTTDS được ban hành không
có sự phân biệt giữa vụ án với việc dân sự. Tất cả các vụ việc dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án,
dù các bên đương sự có tranh chấp hay không có tranh chấp đều gọi chung là vụ án.
Thuật ngữ việc dân sự lần đầu tiên được ghi nhận trong pháp luật TTDS Việt
Nam trong các quy định của BLTTDS. Theo đó, khái niệm việc dân sự được ghi
nhận tại Điều 311 BLTTDS như sau:
Việc dân sự là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức không có tranh chấp, nhưng
có yêu cầu Toà án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý là
căn cứ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động của mình hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức
khác; yêu cầu Toà án công nhận cho mình quyền về dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động
Các loại việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định
cụ thể để làm căn cứ xác định thẩm quyền theo thủ tục việc dân sự tại các Điều 26,
Điều 28, Điều 30 và Điều 32 BLTTDS. Trong đó, việc yêu cầu tuyên bố một người
mất tích, hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích; yêu cầu tuyên bố một
người là đã chết, hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết là một loại việc
thuộc yêu cầu về dân sự.
Khái niệm việc dân sự tại Điều 311 BLTTDS ghi nhận sự phát triển của khoa
học luật TTDS và dấu ấn của sự tham khảo pháp luật TTDS của một số nước trên
thế giới. Chẳng hạn, Điều 25 BLTTDS của nước Cộng hòa Pháp quy định: ″Thẩm
phán quyết định giải quyết các việc dân sự theo quy định của pháp luật khi có yêu

8

cầu trong trường hợp không có tranh chấp…″. Theo pháp luật TTDS của nước
Cộng hòa Pháp thì việc dân sự được hiểu là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức không có
tranh chấp nhưng có yêu cầu Tòa án giải quyết. BLTTDS của nước Cộng hòa Pháp
cũng ban hành quy định liệt kê các yêu cầu được giải quyết theo thủ tục việc dân sự,
bao gồm các yêu cầu sau: cải chính giấy tờ hộ tịch (Điều 1051); thay đổi tên (Điều
1055-2); tuyên bố mất tích (Điều 1067); thuận tình ly hôn (Điều 1088); hợp pháp
hóa quan hệ huyết thống (Điều 1151); thay đổi họ của trẻ em sinh ra ngoài giá thú
sau khi bố mẹ cùng khai nhận con (Điều 1153); nhận nuôi con nuôi (Điều 1167)
Qua nghiên cứu có thể thấy các việc dân sự theo quy định của BLTTDS nước Cộng
hòa Pháp tương tự như những loại việc dân sự theo quy định của BLTTDS Việt
Nam như yêu cầu tuyên bố công dân mất tích, thuận tình ly hôn. Tuy nhiên, có một
số loại việc theo quy định của pháp luật Việt Nam được thực hiện theo thủ tục hành
chính tư pháp thì theo BLTTDS nước Cộng hòa Pháp lại được thực hiện theo thủ
tục giải quyết việc dân sự như: nhận nuôi con nuôi, sửa chữa giấy tờ hộ tịch, thay
đổi tên.
Pháp luật TTDS của nước Cộng hòa Liên bang Nga mặc dù không có quy
định thế nào là việc dân sự nhưng tại Phần thứ hai: "Thủ tục tố tụng ở Tòa án cấp sơ
thẩm" BLTTDS được Quốc Hội (Duma) thông qua ngày 23/10/2002 quy định về
bốn loại thủ tục TTDS. Bên cạnh thủ tục rút gọn, thủ tục giải quyết vụ án và thủ tục
giải quyết các vụ án phát sinh từ pháp luật công, còn tồn tại một loại thủ tục tố tụng
thứ tư là thủ tục tố tụng đặc biệt. Thủ tục tố tụng đặc biệt được quy định tại Mục IV
Phần thứ hai, gồm mười hai chương (từ Chương XXVII đến Chương XXXVIII), 57
Điều (từ Điều 262 đến Điều 319). Thủ tục tố tụng đặc biệt được áp dụng để giải
quyết các yêu cầu nhằm xác định các sự kiện có giá trị pháp lý, công nhận hoặc
khôi phục quyền dân sự mà về bản chất tương tự như thủ tục giải quyết việc dân
sự được ghi nhận trong pháp luật TTDS Việt Nam. Cụ thể, Điều 262 BLTTDS Liên
bang Nga quy định, Tòa án giải quyết theo thủ tục đặc biệt những vụ việc tương tự
như những loại việc dân sự theo quy định của BLTTDS Việt Nam như: yêu cầu

tuyên bố công dân mất tích hoặc là đã chết; yêu cầu hạn chế năng lực hành vi dân
sự của công dân, tuyên bố công dân mất năng lực hành vi dân sự [40, tr. 180-181].
9

Bên cạnh đó, cũng giống như pháp luật TTDS nước Công hòa Pháp, một số loại
việc theo quy định của pháp luật Việt Nam được thực hiện theo thủ tục hành chính
tư pháp thì theo BLTTDS Liên bang Nga lại được thực hiện theo thủ tục TTDS đặc
biêt như: nhận nuôi con nuôi, thay đổi sữa chữa nội dung đăng ký trong sổ đăng ký
hộ tịch, khiếu nại về việc thực hiện hoặc từ chối thực hiện công chứng.
Từ khái niệm việc dân sự tại Điều 311 BLTTDS đến việc tham khảo pháp
luật TTDS của một số quốc gia trên thế giới, việc dân sự được hiểu về bản chất với
các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, các đương sự trong việc dân sự không có tranh chấp với nhau về
quyền và nghĩa vụ dân sự. Đây cũng là một trong những điểm khác biệt lớn nhất
giữa vụ án dân sự và việc dân sự. Trong vụ án dân sự luôn có sự tranh chấp từ đó
hình thành nên hai hoặc nhiều bên đối kháng nhau về mặt quyền và lợi ích, trong
khi đó đối với việc dân sự các bên đương sự không có sự đối kháng. Sự không đối
kháng trong việc dân sự có thể do:
- Các đương sự không có tranh chấp về quyền, lợi ích hợp pháp do các
đương sự đã tự thỏa thuận được với nhau về các tình tiết của sự việc cũng như
những quyền và lợi ích giữa các đương sự và họ cùng yêu cầu Tòa án công nhận sự
thỏa thuận đó [77, tr 8]. Tuy nhiên, việc không có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ
dân sự giữa các đương sự trong việc dân sự chỉ mang tính tương đối.
- Bản chất việc dân sự là hướng tới xác nhận một sự kiện pháp lý mà từ sự
kiện đó làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các đương sự.
Thứ hai, không có nguyên đơn và bị đơn trong việc dân sự. Nếu như trong vụ
án dân sự các bên đương sự đối kháng nhau để hình thành nên nguyên đơn và bị
đơn thì trong việc dân sự chỉ có người yêu cầu và người có liên quan. Bản chất của
việc giải quyết việc dân sự là Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện
pháp lý được xác định là căn cứ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự chứ không

phải giải quyết tranh chấp giữa các bên đương sự.
Thứ ba, từ yêu cầu của đương sự Tòa án sẽ công nhận hoặc không công nhận
một sự kiện pháp lý mà từ sự kiện đó làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự; từ
yêu cầu của đương sự Tòa án công nhận quyền và nghĩa vụ dân sự cho họ.
10

Như vậy, bản chất của việc dân sự là không có tranh chấp về quyền và lợi ích
hợp pháp giữa các đương sự do các đương sự đã thỏa thuận với nhau về việc giải
quyết quyền và lợi ích hợp pháp và yêu cầu Tòa án công nhận giá trị pháp lý của sự
thỏa thuận đó hoặc do tính chất đặc thù của loại việc và chỉ có một bên đương sự
yêu cầu Tòa án xác định một sự kiện pháp lý, công nhận hoặc không công nhận
quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động.
Từ những phân tích trên đây có thể thấy, sự khác biệt giữa việc dân sự với án
dân sự. Chính sự khác biệt về bản chất đó đã hình thành thủ tục tố tụng giải quyết
việc dân sự riêng bên cạnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự.
Theo nghĩa thông thường, thủ tục là ″những thể thức phải làm để đạt được
một kết quả nhất định″ [36, tr. 4] hoặc là ″những việc cụ thể phải làm theo một trật
tự quy định, để tiến hành một công việc có tính chất chính thức″ [85, tr 883].
Trong Từ điển Luật học ″thủ tục tố tụng″ được hiểu là ″cách thức trình tự và
nghi thức tiến hành xem xét một vụ việc hoặc giải quyết một vụ án đã được thụ lý
hoặc khới tố theo quy định của pháp luật″ [81, tr 729].
Từ khái niệm và bản chất của việc dân sự và khái niệm về thủ tục, thủ tục tố
tụng, có thể rút ra khái niệm thủ tục giải quyết việc dân sự như sau:
Thủ tục giải quyết việc dân sự là cách thức, trình tự Tòa án có thẩm quyền tiến
hành để xem xét, giải quyết các việc dân sự theo quy định của pháp luật TTDS.
Nghiên cứu các quy định tại Phần thứ năm: "Thủ tục giải quyết việc dân sự"
của BLTTDS, thủ tục giải quyết việc dân sự gồm các trình tự sau:
- Thủ tục thụ lý đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự: Việc dân sự phát sinh
khi cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện quyền yêu cầu của mình bằng việc nộp đơn
yêu cầu giải quyết việc dân sự tới TAND có thẩm quyền. Đơn yêu cầu có thể nộp

trực tiếp hoặc gửi thông qua đường bưu điện. Kèm theo đơn yêu cầu, người yêu cầu
phải gửi kèm theo các tài liệu chứng minh cho quyền yêu cầu của mình là có căn cứ
và hợp pháp. Khi nhận được đơn yêu cầu, Tòa án phải kiểm tra đơn yêu cầu về nội
dung như: quyền yêu cầu, năng lực hành vi tố tụng của người yêu cầu, thẩm quyền
giải quyết yêu cầu và các điều kiện thụ lý khác. Trong trường hợp đơn yêu cầu vi
11

phạm các điều kiện về nội dung, Tòa án sẽ ra quyết định trả lại đơn yêu cầu theo
quy định tại Điều 168 và Điều 311 BLTTDS hoặc chuyển đơn yêu cầu đến Tòa án
có thẩm quyền giải quyết nếu nội dung đơn yêu cầu thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án khác. Bên cạnh đó, Tòa án cũng tiến hành kiểm tra đơn yêu cầu về mặt
hình thức. Nếu đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự không có đủ các nội dung quy
định tại khoản 2 Điều 312 BLTTDS thì Tòa án thông báo cho người yêu cầu biết để
họ sửa đổi, bổ sung trong một thời hạn do Tòa án ấn định. Tòa án sẽ tiếp tục việc
thụ lý đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự nếu người yêu cầu đã sửa đổi, bổ sung
đơn yêu cầu theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 312 BLTTDS trong thời hạn do
Tòa án ấn định. Ngược lại, nếu người yêu cầu không sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu
của Tòa án thì Tòa án sẽ áp dụng Điều 311 và khoản 2 Điều 169 BLTTDS trả lại
đơn lại đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người yêu cầu.
- Thủ tục chuẩn bị xét đơn yêu cầu: Trong giai đoạn này, thẩm phán phụ
trách việc giải quyết đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự hoặc một thẩm phán trong
Hội đồng (trong trường hợp loại việc dân sự quy định thành phần giải quyết là một
tập thể gồm ba thẩm phán) sẽ tiến hành các công việc như thông báo thụ lý, nghiên
cứu đơn yêu cầu và các tài liệu, chứng cứ mà người yêu cầu gửi kèm theo, yêu cầu
các đương sự giao nộp, bổ sung thêm tài liệu chứng cứ, thực hiện một số biện pháp
thu thập chứng cứ theo yêu cầu của đương sự Sau khi chuẩn bị đủ các điều kiện
để đưa việc dân sự ra giải quyết, Tòa án sẽ ra quyết định mở phiên họp giải quyết
việc dân sự. Quyết định mở phiên họp phải được gửi ngay cho người yêu cầu và
người có liên quan, quyết định này và hồ sơ việc dân sự cũng được gửi cho VKSND
cùng cấp để Viện kiểm sát nghiên cứu tham gia phiên họp. Ngoài ra trong giai đoạn

này, tùy từng trường hợp khi có căn cứ do pháp luật quy định, thẩm phán phụ trách
giải quyết việc dân sự sẽ ra một trong các quyết định như tạm đình chỉ giải quyết
việc dân sự, đình chỉ giải quyết việc dân sự
- Thủ tục mở phiên họp giải quyết việc dân sự: Trình tự, thủ tục tiến hành
phiên họp được quy định tại Điều 314 BLTTDS. Tại phiên họp giải quyết việc dân
sự, thẩm phán phụ trách giải quyết việc dân sự hoặc Hội đồng sẽ nghe người yêu
cầu hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày yêu cầu, căn cứ, lập luận để
12

chứng minh cho yêu cầu của mình là đúng đắn và hợp pháp, nghe người có liên
quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày ý kiến của mình về những vấn
đề có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của họ trong việc giải quyết việc dân sự, ý
kiến của những người tham gia tố tụng khác như người giám định, người làm
chứng, và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên họp về việc giải quyết
việc dân sự. Trên cơ sở đó, thẩm phán phụ trách giải quyết việc dân sự hoặc Hội đồng
sẽ ra quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu của người yêu cầu.
- Giải quyết việc dân sự theo thủ tục phúc thẩm: Sau khi Tòa sơ thẩm ra
quyết định giải quyết việc dân sự thì quyết định đó chưa có hiệu lực pháp luật ngay
mà còn một thời hạn để các đương sự có thể kháng cáo, Viện kiểm sát có thể kháng
nghị. Nếu có kháng cáo, kháng nghị thì Tòa án cấp trên trực tiếp sẽ tiến hành giải
quyết lại việc dân sự. Thủ tục giải quyết lại việc dân sự này được gọi là thủ tục phúc
thẩm việc dân sự. Thủ tục giải quyết theo trình tự phúc thẩm việc dân sự được quy
định tại Điều 318 BLTTDS.
1.1.2. Đặc trưng của thủ tục giải quyết việc dân sự
Thủ tục giải quyết việc dân sự là một thủ tục độc lập tồn tại song hành bên
cạnh thủ tục giải quyết vụ án dân sự, với một số đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, nguyên tắc giải quyết việc dân sự. Về cơ bản những nguyên tắc
của TTDS quy định tại Chương II BLTTDS cũng được áp dụng để giải quyết việc
dân sự. Tuy nhiên, nếu như đối với vụ án dân sự, Tòa án sẽ áp dụng tất cả các
nguyên tắc quy định tại Chương II BLTTDS để giải quyết thì đối với việc dân sự do

đặc thù của việc dân sự nên một số nguyên tắc của TTDS không được áp dụng để
giải quyết việc dân sự. Theo quy định tại Điều 55 BLTTDS việc giải quyết việc dân
sự sẽ do một thẩm phán hoặc một tập thể thẩm phán giải quyết mà không có Hội
thẩm nhân dân tham gia vào thành phần giải quyết việc dân sự. Vì vậy, nguyên tắc
Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử quy định tại Điều 11 BLTTDS không được áp
dụng đối với việc giải quyết việc dân sự. Ngoài ra, việc giải quyết việc dân sự thông
thường do một thẩm phán giải quyết nên trong nhiều trường hợp nguyên tắc Tòa án
xét xử tập thể quy định tại Điều 14 BLTTDS cũng không được áp dụng khi giải
quyết việc dân sự.
13

Thứ hai, thành phần tiến hành tố tụng. Do có sự phân biệt giữa vụ án dân sự
và việc dân sự, cho nên theo quy định của BLTTDS, bên cạnh khái niệm phiên tòa
sơ thẩm dân sự còn có khái niệm phiên họp sơ thẩm giải quyết việc dân sự. Khái
niệm phiên họp sơ thẩm giải quyết việc dân sự dùng để chỉ phiên họp giải quyết các
việc dân sự lần đầu của Tòa án, còn khái niệm phiên tòa sơ thẩm dân sự dùng để chỉ
phiên tòa giải quyết lần đầu vụ án dân sự của Tòa án. Giữa phiên tòa sơ thẩm dân sự
và phiên họp sơ thẩm giải quyết việc dân sự có sự khác nhau về thành phần tiến
hành tố tụng. Theo quy định tại Điều 52 BLTTDS thành phần Hội đồng xét xử sơ
thẩm của phiên tòa sơ thẩm dân sự có Hội thẩm nhân dân tham gia. Trong khi đó,
theo quy định tại Điều 55 BLTTDS thì thành phần giải quyết việc dân sự ở cấp sơ
thẩm không có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân. Thông thường giải quyết việc
dân sự ở cấp sơ thẩm do một thẩm phán phụ trách và quyết định, tuy nhiên, đối với
những trường hợp công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hoặc không công nhận
những bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài hoặc công nhận và cho thi hành ở
Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài hoặc việc giải quyết yêu cầu hủy
quyết định của trọng tài thương mại theo quy định của Pháp lệnh Trọng tài thương
mại năm 2003 do một Hội đồng gồm ba thẩm phán giải quyết.
Có thể nói, mặc dù BLTTDS không quy định thủ tục rút gọn như nhiều nước
trên thế giới nhưng thủ tục giải quyết việc dân sự được xây dựng dựa trên một số

yếu tố của mô hình thủ tục rút gọn. Vì thế, thủ tục giải quyết việc dân sự được rút
gọn hơn so với thủ tục giải quyết vụ án dân sự về thành phần tiến hành tố tụng, thủ
tục và thời hạn giải quyết. Mục đích của thủ tục này nhằm bảo đảm việc giải quyết
việc dân sự được nhanh chóng, giảm bớt chi phí tố tụng, tiết kiệm cho ngân sách
Nhà nước cũng như cho các đương sự, đồng thời tạo điều kiện cho thẩm phán có thể
chủ động trong công việc của mình, nâng cao trách nhiệm cá nhân của thẩm phán,
thực hiện những bước đi cơ bản của công cuộc cải cách tư pháp. Riêng về việc giải
quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hoặc không công nhận
những bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài hoặc công nhận và cho thi hành ở
Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài hoặc việc giải quyết yêu cầu hủy
quyết định của trọng tài thương mại theo quy định của Pháp lệnh Trọng tài thương
14

mại năm 2003 do một tập thể gồm ba thẩm phán giải quyết. Bởi, khác với những
loại việc dân sự khác, tính chất của các loại việc dân sự này phức tạp hơn, Tòa án
không phải giải quyết về mặt nội dung các yêu cầu dân sự mà là xem xét tính pháp
lý để công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hoặc không công nhận những phán
quyết của một cơ quan tài phán nước ngoài về việc giải quyết vụ việc dân sự, công
nhận hoặc hủy phán quyết của Trọng tài Thương mại Việt Nam về giải quyết tranh
chấp thương mại.
Thứ ba, sự tham gia tố tụng của VKSND. Theo quy định tại khoản 2, Điều
21 BLTTDS thì VKSND chỉ tham gia phiên tòa sơ thẩm dân sự đối với những vụ án
do Tòa án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại, trong khi đó, đại diện
VKSND phải tham gia tất cả các phiên họp giải quyết việc dân sự. Sự khác biệt này
xuất phát từ lý do thành phần giải quyết việc dân sự thông thường chỉ do một thẩm
phán quyết định, cho nên để tránh khả năng lạm quyền của thẩm phán, đòi hỏi phải
có sự kiểm soát chặt chẽ của Viện kiểm sát.
Thứ tư, những người tham gia tố tụng.
- Đương sự trong việc dân sự. Đương sự trong vụ việc dân sự là người tham
gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bảo vệ lợi ích công

cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách. Thông thường đương sự
chính là chủ thể của quan hệ pháp luật nội dung tranh chấp hoặc người có quyền và
nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự. Khoản 1 Điều 56 BLTTDS
quy định: "Đương sự trong vụ án dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm
nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan". Như vậy, theo quy
định này thì đương sự trong vụ án dân sự gồm: nguyên đơn, bị đơn và người có
quyền, nghĩa vụ liên quan. Đương sự trong vụ án dân sự luôn luôn hình thành nên
các bên đương sự đối kháng nhau. Trong khi đó, BLTTDS không quy định cụ thể
về đương sự trong việc dân sự. Tại Điều 312 và Điều 313 BLTTDS có đề cập đến
sự tham gia của người yêu cầu và người có liên quan. Từ những quy định này có thể
hiểu đương sự trong việc dân sự gồm người yêu cầu và người có liên quan. Tuy
nhiên, khác với đương sự trong vụ án dân sự, đương sự trong việc dân sự không
hình thành nên các bên đương sự đối kháng nhau, bởi lẽ bản chất của việc giải quyết
15

việc dân sự là xác định một sự kiện pháp lý, chứ không phải giải quyết tranh chấp
giữa các bên đương sự.
- Việc tham gia tố tụng của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự. Điều 313 BLTTDS quy định những người tham gia phiên họp bao gồm:
đại diện VKSND, người yêu cầu hoặc người đại diện hợp pháp của họ; người có
liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Ngoài ra, trong trường hợp cần
thiết, Toà án có thể triệu tập người làm chứng, người giám định, người phiên dịch
tham gia phiên họp. Như vậy, phiên họp giải quyết việc dân sự không đề cập đến sự
tham gia của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người yêu cầu hay người
có liên quan. Trong khi đó, đối với việc giải quyết vụ án dân sự, theo quy định tại
Điều 203 BLTTDS, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải
tham gia phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án.
Thứ năm, về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Theo quy định tại
Chương VIII BLTTDS và Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP ngày 27 tháng 4 năm
2005 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định tại

Chương VIII ″Các biện pháp khẩn cấp tạm thời″ của BLTTDS chỉ đề cập đến việc
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình giải quyết vụ án dân sự mà
không quy định về việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với việc giải
quyết việc dân sự.
Thứ sáu, về thời hạn tố tụng. Thời hạn tố tụng giải quyết việc dân sự thường
ngắn hơn so với thời hạn tố tụng giải quyết vụ án dân sự. Chẳng hạn thời hạn tối đa
chuẩn bị phiên họp sơ thẩm đối với giải quyết việc tuyên bố một người mất năng
lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự, tuyên bố một người đã chết là
ba mươi ngày kể từ ngày thụ lý đơn, đối với thủ tục thông báo tìm kiếm người vắng
mặt tại nơi cư trú, tuyên bố một người mất tích thì thời hạn này là hai mươi ngày.
Trong khi đó, thời hạn tối đa chuẩn bị xét xử đối với việc giải quyết những tranh
chấp về dân sự và những tranh chấp về hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 25
và 27 BLTTDS là sáu tháng, đối với các tranh chấp về kinh doanh, thương mại và
những tranh chấp về lao động quy định tại Điều 29 và Điều 31 BLTTDS thì thời
hạn này là ba tháng.
16

Thứ bảy, về thủ tục giải quyết. Cũng giống như vụ án dân sự, thủ tục giải
quyết việc dân sự cũng áp dụng những quy định của nguyên tắc hai cấp xét xử, tức
là quyết định giải quyết việc dân sự cũng có thể bị kháng cáo, kháng nghị trong một
thời hạn nhất định để yêu cầu phúc thẩm lại (trừ quyết định giải quyết yêu cầu công
nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; quyết định giải quyết yêu
cầu công nhận sự thoả thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn).
Mặc dù vậy, theo quy định của BLTTDS thì giữa thủ tục sơ thẩm và phúc thẩm việc
dân sự với thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm vụ án dân sự vẫn có sự khác biệt. Với thủ tục
sơ thẩm vụ án dân sự, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử Tòa án phải tiến hành hòa
giải để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án
không được hoà giải hoặc không tiến hành hoà giải được quy định tại Điều 181 và
Điều 182 của BLTTDS. Tại phiên tòa sơ thẩm có phần tranh luận giữa các bên
đương sự. Trong khi đó, với thủ tục sơ thẩm giải quyết việc dân sự, pháp luật TTDS

không có quy định về thủ tục hòa giải trong giai đoạn chuẩn bị phiên họp và không
có phần tranh luận của các bên đương sự tại phiên họp giải quyết việc dân sự.
Theo quy định tại Điều 264 BLTTDS, phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự phải
tiến hành công khai và Tòa án phải triệu tập người kháng cáo, đương sự, cá nhân,
cơ quan, tổ chức có liên quan đến việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị Trong
khi đó, theo quy định tại Điều 318 và Điều 280 BLTTDS, thủ tục phúc thẩm việc
dân sự không mở công khai, không triệu tập người yêu cầu và những người có liên
quan trừ khi Tòa án xét thấy cần thiết.
Ngoài ra, theo quy định của pháp luật TTDS hiện hành, bản án, quyết định
của Tòa án về vụ án dân sự có thể được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm
hoặc tái thẩm. Quyết định giải quyết việc dân sự có được xem xét theo thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm hay không vẫn là một vấn đề còn tranh luận.
1.2. Khái niệm về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích
hoặc là đã chết
Yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết là một loại việc dân sự,
theo đó người có quyền, lợi ích liên quan đề nghị Tòa án tuyên bố một người đã biệt
tích một thời gian dài không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã
17

chết là mất tích hoặc là đã chết. Thời gian này đối với yêu cầu tuyên bố một người
mất tích là hai năm liền trở lên kể từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó;
nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ
ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu không xác định
được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên
của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng. Đối với yêu cầu tuyên bố một người là
đã chết thì thời gian này được xác định như sau: sau ba năm, kể từ ngày quyết định
tuyên bố mất tích của Toà án có hiệu lực pháp luật; biệt tích trong chiến tranh sau
năm năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc; bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau
một năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm hoạ, thiên tai đó chấm dứt; biệt tích năm
năm liền trở lên kể từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó. Khi đó, theo

yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án sẽ tiến hành giải quyết yêu
cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết theo trình tự thủ tục giải quyết việc
dân sự nói chung và theo quy định tại Chương XXIII BLTTDS về Thủ tục giải
quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích và Chương XXIV BLTTDS về Thủ tục
giải quyết yêu cầu tuyên bố một người là đã chết.
Từ khái niệm về thủ tục giải quyết việc dân sự như đã đề cập ở phần trên và
các quy định tại Chương XXIII, Chương XXIV BLTTDS, có thể rút ra nét khái quát
về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết như sau:
Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết là
trình tự, thủ tục tố tụng do Tòa án có thẩm quyền tiến hành để xem xét chấp thuận
hay không chấp thuận yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết từ giai
đoạn thụ lý đơn yêu cầu đến khi quyết định tuyên bố mất tích hoặc là đã chết có
hiệu lực pháp luật.
Về cơ bản thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã
chết không có gì khác so với thủ tục giải quyết việc dân sự nói chung. Tuy nhiên, so
với thủ tục giải quyết việc dân sự khác, trong giai đoạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu
tuyên bố một người là mất tích hoặc là đã chết, phải tiến hành thủ tục thông báo tìm
kiếm người bị yêu cầu tuyên bố mất tích hoặc là đã chết. Thủ tục thông báo này là
bắt buộc đối với thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích. Đối với thủ
18

tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người là đã chết, mặc dù BLTTDS không có
quy định về thủ tục thông báo, tuy nhiên mục đích của thủ tục thông báo là để đảm
bảo tính chính xác của quyết định tuyên bố một người là đã chết. Do đó, ″khi giải
quyết yêu cầu tuyên bố một người là đã chết mà chưa thông qua thủ tục tuyên bố
người đó mất tích thì thông báo tìm kiếm cũng là thủ tục bắt buộc″ [75, tr 383]. Đối
với trường hợp người đã bị tuyên bố mất tích nhưng sau ba năm kể từ ngày quyết
định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức gì
là người đó còn sống và có yêu cầu tuyên bố người đó là đã chết thì vẫn phải tiến
hành thủ tục thông báo tìm kiếm. Bởi, ″trong khoảng thời gian đó cũng có thể

người bị Tòa án tuyên bố mất tích xuất hiện nhưng họ và những người có liên quan
không yêu cầu hủy quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án″ [75, tr 383].
Bản chất của thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là
đã chết là yêu cầu Tòa án xác nhận một sự kiện pháp lý, từ sự kiện pháp lý đó sẽ là
cơ sở để các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan khởi kiện đề nghị Tòa án có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp trong một vụ án. Đồng thời, sự kiện pháp lý đó
cũng là cơ sở để quản lý tài sản của người mất tích hoặc là đã chết, tránh tình trạng
tẩu tán tài sản của người đó.
1.3. Tuyên bố mất tích, tuyên bố chết từ quy định của Bộ luật dân sự đến
quy định của Bộ luật tố tụng dân sự
Khi nghiên cứu về mối tương quan giữa pháp luật nội dung và pháp luật tố
tụng, Mác viết ″Thủ tục tố tụng và pháp luật liên hệ mật thiết với nhau như hình
thức của thực vật với thực vật, hình thức của động vật với thịt và máu của động vật.
Thủ tục tố tụng cũng như các pháp luật đều phải quán triệt một tinh thần bởi vì thủ
tục tố tụng chỉ là hình thức tồn tại của luật, do đó cũng là biểu hiện của đời sống
bên trong của luật″ [13, tr 58] và ″Tố tụng là hình thức bảo vệ pháp luật″ [13, tr
58]. Vận dụng quan điểm của C.Mác để phân tích mối quan hệ của pháp luật dân sự
và pháp luật TTDS chúng ta thấy pháp luật TTDS là phương thức bảo đảm cho
pháp luật nội dung (Luật Dân sự, Luật Hôn nhân và Gia đình, ), bảo đảm cho các
giao dịch dân sự, các quyền dân sự được thực hiện. Giữa pháp luật dân sự và pháp
luật TTDS có một mối quan hệ gắn bó mật thiết, hữu cơ như vậy cho nên những
thay đổi của pháp luật dân sự đòi hỏi pháp luật TTDS phải có sự thay đổi cho phù hợp.
19

Kế thừa và phát triển pháp luật dân sự từ trước, ngày 28 tháng 10 năm 1995
tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa IX nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
thông qua BLDS đầu tiên. Việc ban hành BLDS tạo cơ sở pháp lý cho Tòa án trong
quá trình giải quyết các tranh chấp, yêu cầu dân sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các đương sự. Theo quy định của BLDS, khi người bị tuyên bố mất tích
hoặc là đã chết trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu cầu

của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án ra quyết định huỷ
bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích (Điều 90 BLDS năm 1995, Điều 80
BLDS năm 2005) hoặc là đã chết (Điều 93 BLDS năm 1995, Điều 83 BLDS năm
2005). Trong khi đó, theo quy định tại Mục 9, Phần III Nghị quyết số 03/HĐTP
ngày 19 tháng 10 năm 1990 của Hội đồng thẩm phán TANDTC về hướng dẫn thi
hành PLTTGQCVADS (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 03/HĐTP) thì khi người bị
Tòa án tuyên bố mất tích hoặc là đã chết xuất hiện thì vụ án có thể được giải quyết
lại theo thủ tục tái thẩm. Như vậy, việc hoàn thiện pháp luật dân sự đã tạo cơ sở cho
việc xây dựng các quy định về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất
tích hoặc là đã chết trong TTDS Việt Nam.
1.4. Cơ sở của việc xây dựng thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một
người mất tích hoặc là đã chết trong tố tụng dân sự Việt Nam
1.4.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Nhà nước pháp quyền là một trong những thành tựu của loài người trong
việc tổ chức và vận hành xã hội. Những ý tưởng về nhà nước pháp quyền đã có từ
lâu trong lịch sử nhân loại và được các nhà khoa học chính trị, luật học, xã hội học,
sử học nghiên cứu từ nhiều phương diện khác nhau. Tựu chung lại có thể hiểu một
cách tổng quát về nhà nước pháp quyền như sau: Nhà nước pháp quyền là "một hình
thức tổ chức nhà nước đặc biệt mà ở đó có sự ngự trị cao nhất của pháp luật, với
nội dung thực hiện quyền lực của nhân dân″ [5, tr 497]. Dưới góc độ pháp lý có thể
thấy rằng, Nhà nước pháp quyền là ″nhà nước thực thi quyền lực của mình dựa trên
nền tảng pháp luật được ban hành theo thủ tục hiến định nhằm bảo đảm các quyền
tự do, dân chủ của nhân dân và công lý″ [19].
20

Do đó, để xây dựng Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực
sự trở thành ″Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức″ [20, tr 11] thì

việc xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn thiện là đòi hỏi và cũng là điều kiện tiên
quyết. Bởi vì, ″Không thể có nhà nước pháp quyền ở bất cứ một quốc gia nào, nếu
như ở đó nhà nước chưa được tổ chức và hoạt động trên nền tảng của một hệ thống
pháp luật có thể bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của nhân dân và công lý″ [19].
Vì vậy, việc xây dựng và hoàn thiện thủ tục giải quyết việc dân sự nói
chung và thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết nói
riêng bên cạnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự là việc làm tất yếu để thực hiện
nhiệm vụ cải cách tư pháp, đó là ″Tiếp tục hoàn thiện thủ tục TTDS″ mà Nghị quyết
số 49 – NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020 đã đề ra để đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa.
1.4.2. Quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp
Hơn hai mươi năm qua, kể từ khi công cuộc đổi mới được tiến hành, vấn đề
cải cách bộ máy nhà nước, trong đó có cải cách tư pháp đã được đặt ra và thực hiện
từng bước có hiệu quả.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã chỉ rõ là trong thời gian tới phải
″ban hành các đạo luật cần thiết để điều chỉnh các lĩnh vực của đời sống xã hội″
[16, tr. 36], trong công cuộc cải cách tư pháp, để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động
xét xử của TAND, giải quyết nhanh chóng và hiệu quả các tranh chấp trong nội bộ
nhân dân cần ″tiếp tục sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt
động của các cơ quan tư pháp cũng như các thủ tục tố tụng để tạo cơ sở pháp lý
cần thiết cho hoạt động của các cơ quan này″ [72]. Vì vậy, Nghị quyết hội nghị lần
thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII khẳng định ″Hoạt động tư pháp
phải bảo vệ quyền và lợi ích của công dân Nghiên cứu áp dụng thủ tục rút gọn
để xét xử kịp thời một số vụ án đơn giản, rõ ràng″. Thực hiện chủ trương đó của
Đảng, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị về
21

một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới tiếp tục khẳng định:
″Nghiên cứu để quy định và thực hiện thủ tục rút gọn đối với những vụ án đơn giản,

, chứng cứ rõ ràng″ [2, tr. 5]. Như vậy, từ những yêu cầu cụ thể này của công
cuộc cải cách tư pháp đòi hỏi pháp luật TTDS phải xây dựng một cơ chế giải quyết
linh hoạt, đơn giản, gọn nhẹ, nhanh chóng, tiết kiệm thời gian, chi phí tố tụng của
Nhà nước và của các đương sự đồng thời bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp
của các đương sự. ″Những quy định của pháp luật tố tụng tuy chỉ là những quy định
về thủ tục và cách thức giải quyết các vụ án, nhưng chúng lại thể hiện rất rõ bản
chất giai cấp của nền tư pháp. Một nền tư pháp dân chủ, mang đậm tính nhân dân
sẽ không chấp nhận những thủ tục tư pháp rườm rà, nhiều tầng nấc, quan liêu và
bất lợi cho các bên tham gia tố tụng″ [72]. Vì vậy, việc xây dựng và hoàn thiện thủ
tục giải quyết việc dân sự nói chung và thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người
mất tích hoặc là đã chết nói riêng là đòi hỏi tất yếu của công cuộc cải cách tư pháp.
1.4.3. Căn cứ từ nhu cầu thực tiễn trong việc giải quyết yêu cầu tuyên bố
một người mất tích hoặc là đã chết
Trước khi BLTTDS được ban hành và có hiệu lực, PLTTGQCVADS và các
văn bản hướng dẫn vẫn chưa tách biệt giữa việc dân sự với vụ án dân sự dẫn đến
thực tế là Toà án đã từng giải quyết hai "vụ án" trong một "vụ án", đó là việc tuyên
bố một người là đã chết trong vụ án chia thừa kế và đem tài sản của người đã bị Toà
án tuyên bố là đã chết ra chia thừa kế. Việc các Toà án giải quyết việc tuyên bố một
người là đã chết trong cùng vụ án chia thừa kế của người bị tuyên bố là đã chết là
không phù hợp với các quy định của pháp luật dân sự (khoản 1 Điều 636 và Điều
639 của BLDS năm 1995) vì mặc dù người bị Toà án tuyên bố là đã chết thì họ mới
là chết về mặt pháp lý khi bản án đó có hiệu lực pháp luật, chứ chưa chắc họ đã chết
về mặt sinh học. Việc chia thừa kế tài sản của người bị tuyên bố là đã chết khi bản
án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật sẽ dẫn đến hệ quả là chia thừa kế tài sản
của một người còn sống. Vì vậy, BLTTDS quy định cụ thể về thủ tục giải quyết yêu
cầu tuyên bố một người là đã chết nói riêng và thủ tục giải quyết việc dân sự nói
chung bên cạnh thủ tục giải quyết vụ án dân sự. Do đó, kể từ ngày BLTTDS có hiệu
lực, không thể giải quyết việc dân sự trong cùng một vụ án với cùng một thủ tục
22


giải quyết vụ án dân sự. Theo đó, trong trường hợp có đương sự khởi kiện chia thừa
kế của một người với lý do người đó rơi vào các trường hợp có thể yêu cầu Tòa án
tuyên bố là đã chết theo quy định của BLDS thì trước hết đương sự phải làm đơn
yêu cầu Tòa án có thẩm quyền tuyên bố người đó là đã chết. Sau khi quyết định
tuyên bố người đó là đã chết có hiệu lực pháp luật thì đương sự mới khởi kiện vụ án
chia thừa kế của người đó. Quy định như vậy là hoàn toàn hợp lý.
1.5. Lược sử quy định về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người
mất tích hoặc là đã chết trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
1.5.1. Giai đoạn trước năm 1945
Trước thời Pháp thuộc, do nền kinh tế phong kiến lạc hậu, kém phát triển nên
pháp luật nói chung và pháp luật TTDS nói riêng cũng chưa phát triển. Do đó, thủ tục
giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết chưa được định hình.
Rạng sáng ngày 01/9/1858, quân Pháp đã nổ súng vào bán đảo Sơn Trà - Đà
Nẵng mở đầu chiến dịch xâm lược Việt Nam và từng bước thiết lập chế độ thống trị
rất tàn bạo, hà khắc và phản động của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta, xã hội
Việt Nam đã có những biến đổi lớn: Từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ
thuộc địa nửa phong kiến. Ở thời điểm lịch sử này, nước ta bị chia cắt thành các
vùng lãnh thổ có chế độ chính trị khác nhau: Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp, Bắc Kỳ
và Trung Kỳ là đất bảo hộ, ba thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng là nhượng
địa của Pháp. Tương ứng với các chế độ chính trị khác nhau là hệ thống tổ chức tư
pháp khác nhau và các bộ luật riêng biệt cũng được ban hành. Các Toà án Pháp tại
Việt Nam được thiết lập ở Nam kỳ, ba thành phố nhượng địa của Pháp (Hà Nội, Hải
Phòng, Đà Nẵng) và hai thành phố khác là Nam Định, Vinh, các Toà án Pháp tại
Việt Nam giải quyết những vụ kiện mà đương sự là người Pháp hay đồng hoá với
Pháp hoặc người nước ngoài được ưu đãi như người Pháp và áp dụng các quy định
của Bộ Dân sự Tố tụng Pháp năm 1806 và Bộ Dân luật giản yếu ban hành kèm theo
Sắc lệnh ngày 3/10/1883 của Tổng thống Pháp. Các Toà án Việt Nam được thiết lập
ở Bắc kỳ và Trung kỳ để giải quyết các việc kiện giữa người Việt Nam với nhau
hoặc người nước ngoài có địa vị như người Việt Nam.
23


Ở Bắc kỳ, thủ tục giải quyết các vụ kiện dân sự được quy định trong Luật
dân sự thương sự tố tụng thi hành trong các tòa Nam án Bắc kỳ và Bắc kỳ pháp viện
biên chế (công bố bằng nghị định ngày 2/12/1921). Ở Trung kỳ, thủ tục giải quyết
các vụ kiện dân sự được quy định trong Bộ luật dân sự thương sự, tố tụng Trung kỳ
và Bộ Trung kỳ pháp viện biên chế được ban hành vào năm 1935. Cùng với các luật
về thủ tục nêu trên, các luật về nội dung được áp dụng ở Bắc Kỳ là Bộ Dân luật Bắc
Kỳ được ban hành năm 1931 với nhan đề chính thức là Bộ Dân luật được thi hành
tại các Tòa Nam án Bắc Kỳ, còn ở Trung Kỳ là Bộ Dân luật Trung Kỳ được ban
hành vào năm 1936 có tên gọi là Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật. Luật ở Trung phần
và Bắc phần lần đầu tiên đã đề cập đến vấn đề tuyên cáo thất tung và thủ tục tuyên
cáo thất tung, theo đó, ″nếu quá hai năm mà không có được tin tức chi của người đi
mất biệt, thân nhân có thể xin Tòa án chỗ trú sở của người ấy để xác nhận sự thất
tung. Tòa án này sẽ ra lệnh mở cuộc điều tra mà người đi mất chưa về hay không
cho tin tức về thì Tòa sẽ lên án tuyên cáo thất tung ″ [47, tr 68]. Người thất tung ở
đây được hiểu là ″người đã đi biệt tích vắng tăm, không ai biết đã chết hay còn
sống″ [47, tr 68]. Cụ thể, Điều thứ 58 Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật quy định: "Khi
người nào bỏ trú sở mà đi mất tích, không ai biết tin tức ra sao, không ai biết sống
chết thế nào, hễ đủ các trường hợp ấy mới theo luật mà dự đoán thất tung ". Và
Điều thứ 59 Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật quy định thời điểm phát sinh quyền yêu
cầu Tòa án tuyên dự đoán một người thất tung. Điều thứ 59 Hoàng Việt Trung kỳ
hộ luật quy định:
Nếu đã hơn 2 năm mà tuyệt nhiên không có tin tức gì về người thất tung
cả, thời tòa sơ cấp có thể hoặc vì sự cần thiết mà tự mình định, hoặc do
người có liên quan thiết trình lên, mà lập ra bản án để làm công cứ về
việc dự đoán thất tung, trong án sẽ nói rõ ràng sự dự đoán thất tung ấy
bắt đầu từ ngày nào, nghĩa là từ ngày nào trở đi, người ta không chắc
rằng người ấy còn sống hay chết
Tiếp đó, Điều thứ 60 Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật quy định: "Nếu trong thời hạn
một năm, sau khi có án dự đoán thất tung như điều trên đã nói, mà người thất tung

không thấy trở về, hoặc không thấy tin tức gì về nữa, thời Tòa án lại lập án tuyên
cáo hẳn sự thất tung. Án ấy cũng đem niêm yết như án trước".
24

Như vậy, pháp luật thời Pháp thuộc đã bước đầu có quy định về sự thất tung
(giống yêu cầu tuyên bố một người mất tích ngày nay) và thủ tục tuyên cáo thất tung.
1.5.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989
Cách mạng Tháng 8 thành công, ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc
bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng. Ngay từ ngày
đầu được thành lập để củng cố và xây dựng chính quyền mới, ngày 10 tháng 10
năm 1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành
Sắc lệnh số 47-SL về việc tạm thời áp dụng các luật lệ cũ, theo đó, ″Cho đến khi
ban hành những bộ luật pháp duy nhất cho toàn cõi nước Việt Nam, các luật lệ hiện
hành ở Bắc, Trung và Nam bộ vẫn tạm thời giữ nguyên như cũ″ [52, tr. 1], nếu
những quy định trong các luật lệ cũ ″không trái với nền độc lập của nước Việt Nam
và chính thể dân chủ cộng hoà″ [52, tr. 1]. Như vậy, thủ tục tuyên cáo thất tung theo
quy định trong các luật lệ trước đó vẫn được áp dụng trong giai đoạn này.
Năm 1954, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, miền Nam vẫn tiếp tục
sống dưới ách thống trị của chính quyền Ngụy quyền Sài Gòn. Ở hai miền Nam,
Bắc của Việt Nam thời gian từ năm 1954 đến năm 1975 về cơ bản có hai hệ thống
Tòa án và hệ thống TTDS hoàn toàn khác nhau.
Ở miền Bắc, từ những năm đầu hòa bình lập lại Nhà nước ta đã ban hành một
loạt những văn bản pháp luật TTDS mới và thủ tục yêu cầu tuyên bố một người mất
tích hoặc là đã chết bước đầu đã được đề cập đến trong Thông tư số 3-NCLP ngày
03 tháng 3 năm 1966 của TANDTC về trình tự giải quyết việc ly hôn (sau đây gọi
tắt là Thông tư số 3-NCLP). Theo quy định tại điểm c, Mục 2 Thông tư số 3-NCLP
thì nếu người chồng hoặc người vợ đi đâu không rõ tin tức gì đã trên dưới hai năm
mà người vợ hoặc người chồng ở nhà xin ly hôn thì Tòa án thụ lý giải quyết, trừ
trường hợp người vắng mặt vì thực hiện nghĩa vụ do nhà nước giao. Tòa án có thẩm
quyền giải quyết loại việc này là Tòa án cơ sở nơi người xin ly hôn cư trú. Thủ tục

xét xử loại việc này, điểm c, Mục 2 Thông tư số 3-NCLP quy định:
Thẩm phán điều tra xác minh sự vắng mặt và thời gian vắng mặt của
người chồng hoặc vợ của người xin ly hôn. Để điều tra cần lấy lời khai
của thân nhân người vắng mặt, lời xác nhận của các đoàn thể xã hội địa
25

phương và của Ủy ban hành chính xã nơi trú quán cuối cùng của người
vắng mặt và các chứng cứ khác cần thiết. Đề phòng lẫn lộn người vắng
mặt vì nghĩa vụ nhà nước giao cho với người tự ý đi đâu không rõ. Đối
với những người vắng mặt vì nghĩa vụ chung thì không áp dụng đường
lối và thủ tục giải quyết việc ly hôn nói ở đây.
Trước khi xử sơ thẩm phải niêm yết giấy báo phiên tòa tại nơi trú quán
cuối cùng của người vắng mặt.
Như vậy, theo quy định tại Thông tư số 3-NCLP, thủ tục giải quyết yêu cầu
tuyên bố một người mất tích được tiến hành trong quá trình giải quyết vụ án ly hôn.
Ở miền Nam, trong vùng giải phóng, do phải tập trung lãnh đạo thực hiện
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước nên Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam chưa có điều kiện xây dựng văn bản pháp luật.
Trong khi đó, ở vùng cai trị của chính quyền Ngụy quyền Sài Gòn thời gian đầu vẫn
áp dụng những văn bản pháp luật TTDS được ban hành dưới thời Pháp thuộc. Từ
năm 1960 trở đi, chính quyền Sài Gòn đã ban hành nhiều văn bản pháp luật mới,
đặc biệt phải kể đến Bộ luật dân sự và thương sự tố tụng được ban hành kèm theo
Sắc luật số 030-TT/SLU ngày 20 tháng12 năm 1972 của Tổng thống Việt Nam
cộng hòa, Bộ Dân luật được ban hành kèm theo Sắc luật số 028/TT/SLU ngày 20
tháng 12 năm 1972 của Tổng thống Việt Nam cộng hòa. Theo đó, thủ tục tuyên bố
thất tung đã được quy định một cách cụ thể hơn. Điều 569 Bộ luật dân sự và thương
sự tố tụng quy định: ″Sự thất tung sẽ được tuyên bố theo những điều kiện và thể
thức ấn định trong Dân luật″ và tại Chương thứ nhất, Thiên bốn Bộ Dân luật quy
định cụ thể về thủ tục tuyên bố thất tung. Theo quy định tại Điều 78 và Điều 80 Bộ
Dân luật, nếu một người bỏ nơi cư sở (cư trú) đi biệt tích không có tin tức gì, không

ai biết sống hay chết đã hai năm, Tòa án có thể do lời yêu cầu của thân nhân, tuyên
án dự đoán đương nhân đã thất tung, đồng thời truyền mở cuộc điều tra về tung tích
người ấy. Một năm sau nếu người đi vắng vẫn không trở về và nếu cuộc điều tra
không có kết quả cho biết tung tích người ấy, Tòa án sẽ tuyên án thất tung theo yêu
cầu của mọi đương sự có quyền lợi. Thời hạn một năm sẽ tính từ ngày bản án được
niêm yết hay công bố tùy theo thể thức nào đã được thi hành trước. Tòa án có thẩm

×