Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.65 KB, 73 trang )

Lời nói đầu
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, đất nớc ta chuyển từ một nền kinh tế
kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc, theo
định hớng XHCN. Trong nền kinh tế đó, các doanh nghiệp bình đẳng kinh doanh
và tự do cạnh tranh theo quy định của pháp luật. Cạnh tranh là quy luật tất yếu
của nền kinh tế thị trờng. Điều đó dẫn đến có doanh nghiệp kinh doanh có hiệu
quả, có doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ, mất khả năng thanh toán các khoản nợ
đến hạn. Những hậu quả do nó để lại đòi hỏi chúng ta phải sớm khắc phục một
cách có hiệu quả để làm lành mạnh nền kinh tế. Vì vậy, ngày 30/12/1993, tại kỳ
họp thứ 4, Quốc hội nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX đã thông
qua Luật Phá sản doanh nghiệp và chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày
1/7/1994. Luật Phá sản doanh nghiệp là văn bản luật đầu tiên của Nhà nớc ta
chính thức đa chế định phá sản vào đời sống pháp luật, vào đời sống kinh tế của
đất nớc. Sự ra đời của Luật Phá sản doanh nghiệp ở nớc ta chậm hơn so với các n-
ớc trên thế giới và trong khu vực, nhng nó lại là mới đối với các doanh nghiệp.
Quốc hội quyết định ban hành Luật Phá sản doanh nghiệp trớc sự đòi hỏi chung
của kinh tế đất nớc, xu thế chung của thời đại. Chúng ta không thể phát triển tốt
nếu không chuẩn bị điều kiện hoà nhập với quốc tế và khu vực nhng vẫn phải giữ
bản sắc riêng của mình. Đây là văn bản Luật đầu tiên điều chỉnh tơng đối đầy đủ,
toàn diện những vấn đề xung quanh việc phá sản. Cho đến nay, sau 8 năm triển
khai thi hành Luật Phá sản doanh nghiệp, ngoài những thành công, những thành
quả quan trọng đạt đợc, Luật Phá sản doanh nghiệp đã bộc lộ những thiếu sót,
hạn chế. Những hạn chế của Luật Phá sản doanh nghiệp cũng là tất yếu bởi vì
chúng ta cha có thực tiễn, còn nghèo lý luận cơ bản và cha có nhiều kinh nghiệm
của các nớc trên thế giới và trong khu vực. Vì vậy cần thiết phải nghiên cứu tổng
kết những kết quả đã đạt đợc, phát hiện những yếu kém, những bất cập để kịp
1
thời có những kiến nghị, sửa đổi, bổ sung cần thiết nhằm từng bớc hoàn thiện
pháp luật phá sản ở nớc ta. Đây cũng là lý do em chọn vấn đề Thủ tục giải
quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam - Thực
trạng và giải pháp hoàn thiện làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình.


Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của khoá luận gồm 3 chơng.
-Chơng 1: Một số vấn đề chung về phá sản và thủ tục giải quyết yêu cầu
tuyên bố phá sản doanh nghiệp
-Chơng 2: Thực trạng pháp luật về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá
sản doanh nghiệp ở Việt Nam.
-Chơng 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải
quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Ch ơng 1
2
Một số vấn đề chung về Phá sản và Thủ tục giải
quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
1.1.Đặc điểm và vai trò của Luật Phá sản doanh nghiệp.
1.1.1.Phá sản và đặc điểm của Luật Phá sản doanh nghiệp.
1.1.1.1.Khái niệm về Phá sản.

Phá sản là gì? Thế nào là một doanh nghiệp (DN) bị lâm vào tình trạng
phá sản?
Có thể nói, tình trạng phá sản là một khái niệm rất cơ bản trong pháp luật
phá sản của bất kì quốc gia nào. DN lâm vào tình trạng phá sản là cơ sở để Toà
án xem xét và ra quyết định mở Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản đối
với DN đó. Trong pháp luật phá sản các nớc, khái niệm tình trạng phá sản đợc
hiểu rất khác nhau. Tuy nhiên, qua nghiên cứu pháp luật phá sản các nớc cho
thấy có hai cách thức chủ yếu để xác định tình trạng phá sản của con nợ nh sau:

1.DN bị coi là lâm vào tình trạng phá sản khi không trả đợc một số nợ nhất
định. Chẳng hạn, lý do để tuyên bố phá sản theo Luật phá sản của Singapore
1995 là việc con nợ không thể trả đợc khoản nợ có giá trị từ 2000 đôla Singapore
trở lên (Điều 61). Theo Luật Phá sản 1999 và Luật về Toà án Phá sản và Thủ tục
phá sản 1999 của Thái Lan thì chủ nợ đợc xúc tiến thủ tục tuyên bố phá sản khi

con nợ mắc nợ một số tiền không trả đợc từ 1 triệu bath trở lên đối với cá nhân và
2 triệu bath trở lên đối với công ty và các pháp nhân; trong trờng hợp món nợ
không thanh toán đợc mà nhỏ hơn các qui định trên thì các chủ nợ có quyền tiến
hành thủ tục đòi nợ theo tố tụng dân sự.

3
2.Một DN bị coi là lâm vào tình trạng phá sản nếu tổng số nợ của DN vợt
quá tổng giá trị tài sản còn lại của DN. Ví dụ, Điều 126, 127 Luật Phá sản của
Nhật Bản quy định lý do tuyên bố phá sản công ty là việc công ty không thể trả
đợc các khoản nợ và các nghĩa vụ vợt quá giá trị tài sản của công ty; hay theo
quy định của Điều 1 Luật PSDN Cộng hoà liên bang Nga thì: Tình trạng phá
sản của DN đợc hiểu là việc mất khả năng đáp ứng yêu cầu của chủ nợ về
thanh toán hàng hoá (công việc, dịch vụ) kể cả việc mất khả năng bảo đảm các
thanh toán phải nộp ngân sách và các quỹ ngoài ngân sách do nghĩa vụ của
DN mắc nợ vợt quá tài sản của mình hoặc do mất cân đối trong cán cân thanh
toán của DN mắc nợ.

ở Việt Nam, trớc thời điểm Luật PSDN năm 1993 ra đời, khái niệm mất khả
năng thanh toán các khoản nợ đến hạn đợc hiểu theo nghĩa tổng số tài sản nợ đến
hạn của DN lớn hơn tổng tài sản có của DN. Điều này là bất hợp lý vì đa số các
DN đều tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, hiện tợng số tài sản nợ lớn hơn
số tài sản có chỉ là một hiện tợng nhất thời của DN chứ không phải là một hiện t-
ợng thuộc về bản chất, thờng xuyên của DN. Khắc phục những thiếu sót trên,
Luật PSDN Việt Nam đã xác định khái niệm DN lâm vào tình trạng phá sản
nh sau: DN lâm vào tình trạng phá sản là DN gặp khó khăn hoặc thua lỗ
trong hoạt động kinh doanh sau khi áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết
mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn (Điều 2 Luật PSDN Việt Nam).
Nh vậy, dấu hiệu đặc trng cơ bản nhất để xác định DN lâm vào tình trạng phá
sản là dấu hiệu mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Còn dấu hiệu gặp khó khăn
hoặc bị thua lỗ trong hoạt động sản xuất kinh doanh và dấu hiệu áp dụng các biện

pháp tài chính cần thiết chỉ là những dấu hiệu phụ bổ sung cho phép khẳng định
tình trạng mất khả năng thanh toán nợ mà thôi. Để xác định mất khả năng thanh
toán nợ đến hạn có thể căn cứ vào Điều 3 NĐ189/CP là : DN đợc coi là có
4
dấu hiệu rơi vào tình trạng phá sản nói tại Điều 2 Luật PSDN, nếu bị thua lỗ
trong 2 năm liên tiếp đến mức không trả đợc các khoản nợ đến hạn, không trả
đủ lơng cho ngời lao động theo thoả ớc lao động tập thể và hợp đồng lao động
trong 3 tháng liên tiếp.
1.1.1.2.Sự hình thành và phát triển của Pháp luật Phá sản trên thế
giới.
ở Châu Âu, khi nói đến PSDN, ngời ta thờng dùng từ Bankruptcy hoặc
Banqueroute. Hai danh từ này bắt nguồn từ chữ Banca Rotta của La Mã, có nghĩa
là chiếc ghế bị gãy. Thời đó các thơng gia của thành phố thờng họp nhau lại và
ngời nào mất khả năng thanh toán thì cũng mất luôn quyền tham gia các Đại hội
thơng gia, và do đó chiếc ghế ngồi của ngời đó bị đem ra khỏi hội trờng.

Thực tế các tài liệu lịch sử đã ghi nhận rằng Italia là nớc khai sinh ra Luật
Phá sản từ thời La Mã. ở nớc này, lúc đầu Luật Phá sản chỉ áp dụng cho các th-
ơng nhân. Sở dĩ nh vậy là do ở thời La Mã, những thơng nhân không trả đợc nợ
thờng bị bắt làm nô lệ đem bán lấy tiền khấu trừ vào nợ. Nhiều con nợ thấy rằng
nếu không trả đợc nợ thì tốt nhất là bỏ trốn. Do vậy, để ổn định trật tự xã hội,
Nhà nớc La Mã thờng phải đứng ra cỡng chế tài sản của con nợ để trả cho chủ
nợ. Cách làm nh vậy cũng chỉ thích hợp đối với trờng hợp con nợ chỉ mắc nợ một
ngời. Nhng khi cùng một lúc con nợ mắc nợ nhiều ngời thì rất dễ xảy ra tranh
chấp, nhất là khi con nợ không đủ tài sản để trả hết nợ. Bởi thế, dần dần ngời ta
thấy rằng, để bảo đảm quyền lợi cho các chủ nợ thì toà án địa phơng (của con nợ)
phải đứng ra quản lý số tài sản của con nợ. Sau đó, Toà án sẽ phân chia số tài sản
này cho các chủ nợ theo vốn, lãi của mỗi ngời. Giải pháp trên lúc đó đợc các chủ
nợ đồng tình và đã tỏ ra có hiệu quả. Do đó, về sau những quy định trong giải
5

pháp này đợc cải tiến, hoàn chỉnh và nâng lên thành Luật Phá sản của La Mã thời
cổ đại.

Bớc sang thời kì Trung cổ, các quốc gia châu Âu cũng ban hành Luật Phá
sản. Ban đầu, Luật chỉ áp dụng trong lĩnh vực hoạt động thơng nghiệp sau đó mới
mở rộng sang toàn bộ hoạt động sản xuất - kinh doanh.

Cùng với sự phát triển và mở rộng của thơng mại quốc tế, việc giải quyết
những vấn đề liên quan đến một DN không còn bó hẹp trong biên giới của một
quốc gia. Trong bối cảnh đó, sự khác nhau về những quy định trong pháp luật
phá sản đã gây không ít khó khăn đối với các nhà kinh doanh. Tuy các nớc có
bàn đến các quy định chung của Luật Phá sản, nhng cho đến nay, các nền kinh tế
lớn nh Hội đồng Châu Âu, Mỹ và Canada cũng cha có khả năng đi đến dự thảo
Luật Phá sản chung. Đây là hệ quả tất yếu khách quan vì pháp luật nói chung
cũng nh Luật Phá sản nói riêng còn bị ảnh hởng bởi các điều kiện kinh tế, chính
trị, văn hoá, xã hội,...của mỗi nớc. Vì vậy, để xây dựng đợc một hệ thống pháp
luật phá sản chung thì các quốc gia cần phải nỗ lực hơn nữa.
Luật Phá sản đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. ở giai đoạn
đầu, phá sản bị coi là tội danh hình sự nên con nợ bị xử phạt rất nặng. Chẳng hạn
nh Luật Phá sản của Anh trớc đây cho phép bỏ tù con nợ và khi nhận đợc đơn
yêu cầu tuyên bố PSDN, Toà án sẽ xem xét, nếu đủ bằng chứng thì tuyên bố phá
sản ngay.
ở giai đoạn sau, thời kì từ những năm 70 trở lại đây, Luật Phá sản đã có
những bớc cải tiến và hiện đại hoá. Luật Phá sản không nhằm mục đích đẩy các
DN mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn vào tình trạng phá sản. Ng-
ợc lại, Luật Phá sản chỉ giải quyết những hậu quả đã xảy ra, giúp các bên liên
6
quan giảm đến mức tối thiểu tác động tiêu cực của việc phá sản đối với họ. Đối
với các DN lâm vào tình trạng phá sản, Luật Phá sản cũng đề ra những biện pháp
cần thiết giúp DN thoát khỏi tình trạng phá sản, góp phần tổ chức, cơ cấu lại

những DN quá yếu kém.

ở Việt Nam, pháp luật phá sản đã có từ thời thực dân Pháp đô hộ. Luật này
chỉ chủ yếu điều chỉnh ở miền Nam, nhng cũng rất ít khi đợc áp dụng. Cũng nh
các nớc thuộc địa khác, pháp luật Việt Nam chịu sự ảnh hởng của hệ thống pháp
luật thực dân. Những quy định về khánh tận, thanh toán t pháp phá sản cũng đã
có trong Bộ luật thơng mại Sài Gòn 1972. Trong thời kì nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung, Việt Nam không có pháp luật phá sản, Đảng và Nhà nớc cũng không
giành sự quan tâm cho vấn đề này. Pháp luật phá sản chỉ thực sự cần thiết khi
chúng ta bắt tay vào công cuộc đổi mới toàn diện xây dựng nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần theo cơ chế thị trờng. Pháp luật phá sản Việt Nam hiện hành đ-
ợc ra đời khi chúng ta đang ở giai đoạn đầu của quá trình đổi mới. Việc xây dựng
pháp luật phá sản còn chịu nhiều ảnh hởng của pháp luật phá sản các nớc XHCN,
và mang nhiều dấu ấn của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung.
1.1.1.3.Những nguyên tắc chung của Luật Phá sản doanh nghiệp.
Pháp luật phá sản của bất kể nớc nào trên thế giới cũng phải tuân theo các
nguyên tắc chung sau đây:
-Quản lý tài sản con nợ một cách khách quan và hiệu quả để phân chia cho
các chủ nợ;
-Các chủ nợ và con nợ có thể tham gia vào những thủ tục hành chính với chi
phí thấp nhất và có ít sự trì hoãn nhất;
-Cung cấp một công cụ tiện lợi nhất để thu hồi tài sản còn lại của con nợ để
thanh toán cho các khoản nợ và trách nhiệm của con nợ;
7
-Bảo vệ lợi ích công cộng bằng cách trừng phạt nghiêm khắc những hành vi
lừa đảo và giúp đỡ cho những con nợ không may bị phá sản.
1.1.2.Phân loại Luật phá sản doanh nghiệp.
Căn cứ vào quan hệ giữa DN mắc nợ và chủ nợ, pháp luật PSDN của các nớc
trên thế giới có thể đợc chia thành 3 nhóm sau:
1.1.2.1.Luật phá sản bảo vệ lợi ích của chủ nợ.

Trong quá trình kinh doanh, các DN luôn có quan hệ mật thiết với nhau cho
nên sự phá sản của DN này cũng có thể gây ra nguy cơ phá sản ở các DN bạn
hàng. Bởi vậy, khi một DN bị phá sản thì vấn đề quan tâm trớc tiên là bảo vệ lợi
ích của các DN khác có liên quan.
Đối với các nớc xây dựng pháp luật phá sản theo mô hình của Anh, Đức, và
các nớc Châu Âu lục địa thì Luật Phá sản quan tâm đến việc bảo vệ lợi ích của
chủ nợ, coi thủ tục phá sản là một cách chủ yếu để giúp các chủ nợ thu hồi lại
tiền. Pháp luật phá sản ở một số nớc khác, trong đó có Hungari có quy định buộc
các nhà quản lý của công ty gặp khó khăn về tài chính phải làm đơn lên toà án
xin phá sản. Luật cũng yêu cầu các nhà quản lý DN và các chủ nợ thống nhất với
nhau để lựa chọn hình thức thực hiện, chỉ định ngời thực hiện phá sản nhằm bảo
vệ lợi ích của chủ nợ. Bất cứ một chủ nợ có bảo đảm nào cũng có thể chỉ định ng-
ời quản lý tài sản của DN. Trong quá trình tố tụng phá sản, chủ nợ tham gia vào
hầu hết các giai đoạn từ khởi kiện đến thi hành tuyên bố PSDN nhằm bảo vệ lợi
ích của chủ nợ một cách tốt nhất. Hơn nữa, Luật Phá sản cũng phân chia chủ nợ
thành các nhóm khác nhau để ngăn con nợ đạt đợc thoả thuận cá nhân với một số
chủ nợ và gây thiệt hại cho những chủ nợ khác. Quy định này đảm bảo việc tổ
chức lại sẽ không đợc thực hiện nếu không đợc sự ủng hộ của các chủ nợ lớn.
8
1.1.2.2.Luật phá sản bảo vệ lợi ích của con nợ.
Trớc đây, Luật phá sản chỉ bảo vệ lợi ích của các chủ nợ. Song, cùng với quá
trình phát triển của xã hội, con nợ đợc quan tâm bảo vệ. Sở dĩ nh vậy là vì phá
sản không phải do ý chí chủ quan của bản thân DN mà phụ thuộc vào nhiều yếu
tố khách quan (điều kiện thiên nhiên, môi trờng, kinh tế, chính trị xã hội). Vì thế,
chủ DN bị phá sản - con nợ, đợc coi là kẻ sa cơ lỡ bớc. Trên tinh thần bảo vệ
lợi ích chính đáng của chủ nợ và con nợ, pháp luật phá sản tạo hành lang pháp
lý bảo vệ con nợ và trở thành tấm lá chắn che chở cho con nợ trớc sự tấn công,
xâu xé của các chủ nợ khác.

Nhóm luật phá sản ủng hộ con nợ nhằm mục đích tối đa hoá tài sản của DN

mắc nợ để tăng giá trị tài sản trớc khi phân chia cho các chủ nợ. Tiêu biểu cho
các nớc thuộc nhóm này là Pháp, Bỉ, Lúc xăm bua và các nớc từng là thuộc địa
của Pháp.

Để bảo vệ quyền lợi của con nợ, pháp luật phá sản cho phép con nợ có
quyền tự đệ đơn yêu cầu tuyên bố PSDN. Hơn ai hết, DN là ngời hiểu đợc tình
trạng kinh doanh của họ. Khi họ tự đệ đơn yêu cầu tuyên bố phá sản thì lợi ích
của họ đợc bảo đảm. Cụ thể là:
1.Tạo sự ngăn cách giữa chủ nợ và tài sản của con nợ. Tài sản và nhân thân
của con nợ đợc bảo đảm khi Toà án thụ lý đơn.
2.Kể từ thời điểm ngừng thanh toán nợ (thời điểm này do toà án ấn định)
doanh nghiệp không phải trả lãi cho các khoản nợ. Các khoản nợ cha đến hạn đợc
coi là đến hạn nhng không đợc tính lãi đối với thời gian cha đến hạn nhằm giảm
bớt gánh nợ cho con nợ.

Thủ tục phá sản ở Mỹ và Pháp u tiên đảm bảo việc làm và duy trì khả năng
tiếp tục sản xuất, kinh doanh của DN. Một trong những biện pháp để giúp con nợ
9
thoát khỏi tình trạng phá sản là pháp luật cho phép con nợ đợc chủ động xây
dựng phơng án hoà giải và giải pháp tổ chức lại hoạt động sản xuất kinh doanh.
Việc tổ chức lại nhằm cứu DN thoát khỏi tình trạng kiệt quệ về tài chính. Trong
thời gian để tổ chức lại, DN đợc sự bảo vệ tạm thời của Toà án, tránh những can
thiệp của các chủ nợ và họ đợc dành một thời gian để chuẩn bị. Kế hoạch tổ chức
lại sẽ đợc trình lên các chủ nợ để thông qua. Trong thời gian đó, chủ DN vẫn phải
có trách nhiệm với DN nhng đợc bảo vệ khỏi các đơn yêu cầu phá sản. Họ có thể
tăng thêm một nguồn tài chính mới trong một giai đoạn u tiên.Tuy nhiên, trong
kế hoạch tổ chức lại DN, chủ DN không có toàn quyền quyết định mọi vấn đề mà
sẽ chịu những giới hạn nhất định nhằm bảo vệ quyền lợi cho các chủ nợ. Nếu
việc tổ chức lại DN bị thất bại thì các chi phí cho việc tổ chức lại DN sẽ do các
chủ nợ, các nhà quản lý và các cổ đông của công ty gánh chịu. Việc tự thoả thuận

đợc giữa chủ nợ và chủ DN về việc tổ chức lại sẽ tránh đợc tình trạng tranh chấp
ở toà án quá lâu. Biện pháp tổ chức lại sẽ nhanh hơn, ít tốn kém hơn, và vì vậy có
lợi cho các bên liên quan.
1.1.2.3.Nhóm luật phá sản trung dung.
Nhóm này bao gồm luật phá sản của các nớc XHCN trớc đây và một số quốc
gia Hồi giáo chính thống không có truyền thống thơng mại. Họ cho rằng cần phải
xem xét đến tổng chi phí và lợi ích của mỗi lựa chọn đối với xã hội. Luật Phá sản
phải đợc xây dựng nhằm tối u hoá các phơng án giải quyết phá sản trên cơ sở so
sánh giữa thanh lý và tổ chức lại nhằm ngăn chặn những trờng hợp thanh lý vội
vàng hoặc lại trì hoãn việc phá sản. Những quy định này đòi hỏi các DN tồn tại
khi và chỉ khi giá trị số tài sản của DN đang quản lý hiện tại vợt quá giá trị thanh
lý.

Trên thực tế, sự phân chia luật phá sản thành 3 nhóm nh trên chỉ có ý nghĩa
tơng đối và ranh giới giữa các nhóm không phải bao giờ cũng rõ ràng. Điều đáng
10
chú ý là qua các công trình nghiên cứu luật, ngời ta đã chứng minh đợc rằng sự
phân chia từ lâu nay giữa luật chung (Common law) và luật dân sự (Civil law)
không có ý nghĩa trong việc phân nhóm luật phá sản bởi vì trong số các nớc theo
quan điểm ủng hộ con nợ có cả những nớc thuộc hệ thống luật dân sự nh Đức,
Pháp và các nớc theo hệ thống luật bất thành văn nh Mỹ, Canada,... Ngoài ra,
không có mối quan hệ qua lại giữa trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia và
việc lựa chọn mô hình luật phá sản. Điều đó có nghĩa là một nớc chậm phát triển
có thể theo xây dựng luật phá sản theo hớng ủng hộ con nợ, trong khi một nớc
công nghiệp phát triển có thể u tiên nhiều hơn đến việc bảo vệ quyền lợi của chủ
nợ.

Luật PSDN Việt Nam hiện nay đang đi theo quan điểm kết hợp u tiên cả hai
mục tiêu: hớng vào con nợ và hớng vào chủ nợ. Hớng vào con nợ tập trung
vào việc cứu các công ty thoát khỏi tình trạng khó khăn về tài chính, bảo đảm

việc làm cho ngời lao động thông qua việc tổ chức lại công ty. Hớng vào chủ
nợ tạo điều kiện loại bỏ các công ty quá yếu kém. Đây cũng là xu hớng chung
Luật Phá sản của các nớc trên thế giới.
1.1.3.Vai trò của pháp luật phá sản trong nền kinh tế thị trờng.
Sự tồn tại tất yếu của phá sản đòi hỏi phải có sự điều chỉnh của Nhà nớc, vì
vậy pháp luật phá sản là một công cụ quan trọng để Nhà nớc điều chỉnh hoạt
động kinh tế. Pháp luật PSDN cùng với các văn bản pháp luật khác đã hình thành
nên hệ thống pháp luật kinh tế. Pháp luật phá sản có vai trò rất quan trọng trong
đời sống kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia. Vai trò đó thể hiện ở những nội dung
chủ yếu sau:
Bảo vệ lợi ích chính đáng của chủ nợ với t cách là nhà kinh doanh. Pháp
luật bảo vệ các chủ nợ ở việc thiết kế sẵn một thủ tục t pháp đặc biệt đảm
11
bảo sự bình đẳng quyền lợi giữa các chủ nợ ở cùng một điều kiện nh
nhau, không một chủ nợ nào đợc con nợ trả cho mình trong khi các chủ
nợ khác cha đợc trả. Để bảo vệ lợi ích của chủ nợ, Luật PSDN đã quy
định chủ nợ có những quyền nhất định trong quá trình giải quyết yêu cầu
tuyên bố PSDN. Chủ nợ không có đảm bảo và có đảm bảo một phần có
quyền đệ đơn yêu cầu PSDN (Điều 7), quyền gửi giấy đòi nợ đến Toà án
(Điều 21). Luật PSDN cũng quy định chủ nợ có quyền tham gia Hội nghị
chủ nợ thông qua phơng án tổ chức lại hoạt động sản xuất kinh doanh
(Điều 24), đại diện của các chủ nợ có quyền tham gia vào Tổ quản lý tài
sản và Tổ thanh toán tài sản trong quá trình giải quyết trình tự tuyên bố
PSDN.
Luật PSDN góp phần cơ cấu lại nền kinh tế. Thông qua hình thức hoà
giải, hoãn nợ, tổ chức lại hoạt động kinh doanh, Luật PSDN đã tạo điều
kiện cho DN phục hồi kinh doanh, tìm ra biện pháp tháo gỡ để trả các
món nợ và thoát khỏi nguy cơ bị phá sản. Những quy định này là công cụ
để cơ cấu lại nền kinh tế bởi vì nó không chỉ tạo ra cơ sở pháp lý cho việc
loại bỏ những DN làm ăn thua lỗ kéo dài; hình thành và duy trì những

DN làm ăn có hiệu quả mà còn tạo ra đợc sức cạnh tranh cho nền kinh tế,
đảm bảo cho sự tăng trởng kinh tế và tiến bộ của đời sống xã hội.
Bảo vệ lợi ích và xác định trách nhiệm của DN mắc nợ. DN mắc nợ đợc
bảo vệ quyền lợi và tạo điều kiện để phục hồi lại khả năng kinh doanh.
Thông qua Hội nghị chủ nợ, phơng án hoà giải đợc xây dựng và ấn định
thời gian cho DN mắc nợ tìm cách tháo gỡ khó khăn để trả các khoản nợ.
Việc hoà giải tự nguyện giữa các chủ nợ và DN mắc nợ, nhận bảo lãnh
hay mua lại các khoản nợ đợc u tiên giải quyết. DN mắc nợ có quyền
tham gia vào Tổ quản lý tài sản và Tổ thanh toán tài sản. Trong trờng hợp
sau khi tài sản của DN đã đợc thanh toán cho các khoản nợ mà còn thừa
12
thì số tài sản đó sẽ thuộc về chủ sở hữu DN. Tuy nhiên, chủ DN phải
thực hiện nghĩa vụ của mình trớc các chủ nợ, ngời lao động và tuân thủ
mọi quy định của Toà án cũng nh phơng án hoà giải của Hội nghị chủ
nợ.
Bảo vệ quyền lợi của ngời lao động trong các DN bị phá sản, tạo điều
kiện đảm bảo cho ngời lao động có cuộc sống ổn định, sau khi DN bị phá
sản. Ngời lao động trong DN bị phá sản đợc chi trả các khoản nợ lơng,
trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội. Đây là các khoản đợc u tiên thanh
toán. Ngoài ra, theo Luật PSDN, thông qua tổ chức công đoàn hoặc đại
diện tập thể ngời lao động, ngời lao động có thể thực hiện những quyền
mà pháp luật ghi nhận. Đó là quyền đệ đơn yêu cầu giải quyết PSDN,
quyền tham gia Hội nghị chủ nợ, quyền tham gia Tổ quản lý tài sản và
Tổ thanh toán tài sản.
Bảo đảm trật tự kỉ cơng xã hội. Phá sản luôn ảnh hởng sâu sắc đến đời
sống xã hội trên phạm vi lớn, làm phát sinh những xáo trộn và mâu thuẫn
trong đời sống kinh tế xã hội. Vì thế nó đòi hỏi phải có quy phạm pháp
luật điều chỉnh. Bằng việc giải quyết thoả đáng lợi ích giữa các chủ nợ và
con nợ, giữa chủ nợ với nhau cũng nh xác định trách nhiệm của các bên,
pháp luật phá sản đã góp phần hạn chế những mâu thuẫn phát sinh để ổn

định đời sống xã hội.
Với những đóng góp trên, Luật PSDN là một công cụ pháp lý hữu hiệu để
điều chỉnh những vấn đề phát sinh trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố
PSDN. Từ khi Luật PSDN Việt Nam có hiệu lực cho đến nay, các Toà án đã thụ
lý đợc gần 100 vụ yêu cầu tuyên bố PSDN. Mặc dù con số này còn khiêm tốn nh-
13
ng đã phần nào phản ánh đợc yêu cầu tất yếu của nền kinh tế thị trờng là cần phải
có Luật PSDN.
1.2.Khái niệm về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố
phá sản doanh nghiệp.
1.2.1.Khái niệm.
Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố PSDN là một thủ tục t pháp, một cách
thức chủ nợ thực hiện quyền đòi nợ khi một DN lâm vào tình trạng phá sản.

Tiến hành thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, một mặt, có ảnh h-
ởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. Mặt khác, giải quyết
các quan hệ vay nợ trong khuôn khổ một DN mất khả năng thanh toán là công
việc phức tạp, đòi hỏi phải có quy định chặt chẽ để giải quyết lợi ích của chủ nợ
và con nợ.

Phù hợp với yêu cầu này, pháp luật phá sản Việt Nam quy định giải quyết
phá sản thông qua thủ tục tố tụng t pháp tiến hành tại Toà án. Thủ tục giải quyết
yêu cầu tuyên bố PSDN bao gồm các nội dung cụ thể về lý do PSDN, về thẩm
quyền giải quyết, về trình tự giải quyết yêu cầu tuyên bố PSDN...

Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố PSDN đợc quy định cụ thể trong Luật
PSDN Việt Nam (1993) và các văn bản hớng dẫn thi hành.
Trình tự thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản một DN có thể đợc khái
quát nh sau:
14

1.Chủ nợ hoặc đại diện công đoàn (đại diện ngời lao động nơi cha có tổ
chức công đoàn) hoặc đại diện DN mắc nợ gửi đơn yêu cầu giải quyết tuyên bố
PSDN tới Toà án nơi DN mắc nợ đóng trụ sở chính.(Theo Điều 7, 8, 9 - Luật
PSDN).
2.Toà án thụ lý đơn; thông báo cho DN mắc nợ biết và yêu cầu DN báo cáo
về khả năng thanh toán nợ. Nếu xét thấy đủ căn cứ chứng minh DN mất khả năng
thanh toán nợ đến hạn, Chánh toà Toà kinh tế cấp tỉnh ra quyết định mở thủ tục
giải quyết yêu cầu tuyên bố PSDN. Quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu
tuyên bố phá sản phải nêu rõ lý do mở thủ tục tuyên bố phá sản, ấn định thời
điểm ngừng thanh toán nợ của DN, họ tên của Thẩm phán phụ trách vụ việc và
các nhân viên Tổ quản lý tài sản. (Điều 13 và Điều 15 Luật PSDN).
3.Sau khi mở thủ tục phá sản, Toà án yêu cầu chủ DN hoặc đại diện hợp
pháp của DN phải xây dựng phơng án hoà giải và giải pháp tổ chức lại sản xuất
kinh doanh trình Thẩm phán trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày đợc yêu cầu.
(Điều 20 Luật PSDN).
4.Trong thời hạn do pháp luật quy định, Thẩm phán phải triệu tập Hội nghị
chủ nợ để con nợ trình bày phơng án hoà giải (Điều 28). Nếu Hội nghị chủ nợ
không thành (do không đủ số chủ nợ theo quy định tại Điều 30, 31) thì Thẩm
phán ra quyết định đình chỉ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản.
5.Nếu phơng án hoà giải đợc Hội nghị chủ nợ thông qua thì Thẩm phán ra
quyết định công nhận biên bản hoà giải thành, đồng thời tạm đình chỉ việc giải
quyết yêu cầu tuyên bố phá sản (Điều 33). Trong khoảng thời gian thực hiện các
biện pháp hoà giải đã đợc Hội nghị chủ nợ thông qua, nếu DN thực hiện thành
15
công và khôi phục tình trạng thanh toán nợ thì Thẩm phán ra quyết định đình chỉ
việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản (Điều 35)
6.Thẩm phán ra quyết định tuyên bố PSDN trong các trờng hợp sau:
-Chủ DN hoặc đại diện hợp pháp của DN không có phơng án hoà giải và
giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của DN theo Điều 20, Luật PSDN.
-Chủ DN hoặc đại diện hợp pháp của DN không có mặt tại Hội nghị chủ nợ

để trình bày phơng án hoà giải và trả lời các vấn đề do Hội nghị chủ nợ nêu ra
theo Điều 28, Luật PSDN.
-Hội nghị chủ nợ không thông qua phơng án hoà giải và giải pháp tổ chức
lại hoạt động kinh doanh của DN.
-Hết thời hạn tổ chức lại kinh doanh, DN vẫn kinh doanh không có hiệu quả
và các chủ nợ yêu cầu tuyên bố PSDN.
-Trong thời hạn tổ chức lại kinh doanh, DN vi phạm những thoả thuận tại
Hội nghị chủ nợ và các chủ nợ yêu cầu tuyên bố PSDN.
-Trong quá trình giải quyết việc PSDN, chủ DN t nhân bỏ trốn hoặc bị chết
và ngời thừa kế từ chối thừa kế hoặc không có ngời thừa kế.
7.Sau khi có quyết định tuyên bố phá sản có hiệu lực, phòng thi hành án
thuộc Sở T pháp nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính tiến hành chỉ định Chấp hành
viên phụ trách thi hành quyết định tuyên bố PSDN và ra quyết định thành lập Tổ
thanh toán tài sản để tiến hành:
-Thu hồi và bán đấu giá tài sản của DN bị tuyên bố phá sản.
-Thực hiện phơng án phân chia tài sản theo quyết định tuyên bố PSDN của
Thẩm phán.
Sau khi thi hành xong quyết định tuyên bố PSDN, DN sẽ bị xoá tên trong sổ
đăng kí kinh doanh.
16
1.2.2.Tính chất đặc thù của thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh
nghiệp.
Với t cách là một thủ tục tố tụng, thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố PSDN
có những đặc thù của nó.
1.2.2.1.Đặc thù trong đối tợng, phạm vi áp dụng.
Việc áp dụng thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố PSDN đối với loại chủ thể
nào phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội của mỗi nớc. Tuy nhiên, hiện nay
trên thế giới có 3 xu hớng lựa chọn:
-Xu hớng thứ nhất: Tất cả các cá nhân, bất luận là nhà kinh doanh (thơng
nhân) hay không là nhà kinh doanh nếu không thanh toán đợc nợ đến hạn đều có

thể bị tuyên bố phá sản (úc, Mỹ,...).
-Xu hớng thứ hai: Chỉ có nhà kinh doanh (DN và cá nhân kinh doanh) mới
có thể bị tuyên bố phá sản (Cộng hoà liên bang Nga).
-Xu hớng thứ ba: Chỉ có DN mới chịu sự chi phối của Luật Phá sản (Việt
Nam, Trung Quốc,...).

Xuất phát từ điều kiện, hoàn cảnh thực tế của Việt Nam, tại Điều1 Luật
PSDN quy định: Luật này áp dụng đối với các DN thuộc mọi hình thức sở hữu
đợc thành lập và hoạt động theo pháp luật nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khi lâm vào tình trạng phá sản. Theo điều luật này thì tất cả các loại hình
DN không phân biệt hình thức sở hữu (sở hữu quốc doanh, tập thể hay t nhân)
đều có thể bị tuyên bố phá sản khi đáp ứng đủ các điều kiện luật định. Tuy nhiên
xuất phát từ vai trò đặc biệt của một số loại hình DN trực tiếp phục vụ quốc
phòng an ninh, dịch vụ công cộng quan trọng mà Nhà nớc có quy định khác. Cụ
thể là khi các DN này lâm vào tình trạng phá sản, Toà án chỉ áp dụng thủ tục giải
quyết yêu cầu tuyên bố phá sản khi nhận đợc ý kiến bằng văn bản của Thủ tớng
17
Chính phủ hoặc Thủ trởng Cơ quan Nhà nớc có thẩm quyền đã ra quyết định
thành lập DN về việc không áp dụng biện pháp cần thiết để phục hồi khả năng
thanh toán nợ đến hạn của DN đó. Đối với DN có một phần vốn nớc ngoài, hay
DN 100% vốn nớc ngoài phải đợc thực hiện theo Luật PSDN, Luật Đầu t nớc
ngoài tại Việt Nam và các văn bản hớng dẫn khác trừ trờng hợp điều ớc quốc tế
mà nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tham gia hoặc kí kết có quy định
khác.

Việc pháp luật phá sản Việt Nam quy định đối tợng áp dụng chỉ bao gồm
các DN là khác với quy định của nhiều nớc trên thế giới. Sở dĩ nh vậy là vì trong
điều kiện kinh tế-xã hội hiện tại, với sự quản lý của Nhà nớc, chúng ta cha thể
kiểm soát nổi hoạt động sản xuất kinh doanh của các cá nhân. Sẽ rất khó để xác
định thua lỗ trong sản xuất kinh doanh hay thua lỗ do những hành vi tham ô,

chiếm doạt, lợi dụng danh nghĩa kinh doanh để chột giật. Hơn nữa, các đối tợng
này phần lớn kinh doanh theo kiểu gia đình chủ nghĩa, không có sổ sách chứng
từ, không tuân thủ chế độ kế toán, thống kê. Ngay đối với các công ty , các DN
Nhà nớc, nhiều khi cơ quan kiểm toán cũng đành bó tay. Thêm vào đó, chúng ta
cha có quy định và cũng cha có khả năng phân định rõ ràng tài sản đa vào kinh
doanh với tài sản sinh hoạt tiêu dùng của cá nhân, của nhóm kinh doanh hay của
gia đình họ. Trách nhiệm của cá nhân, của nhóm kinh doanh là trách nhiệm vô
hạn. Nếu chúng ta mở rộng phạm vi áp dụng tới đối tợng này thì Luật sẽ không
còn hiệu lực, hay chỉ còn là hình thức, hoặc sẽ bị lợi dụng và gây không ít khó
khăn không thể khắc phục đợc khi tiến hành tuyên bố phá sản. Mặt khác, DN là
chủ thể kinh doanh chủ yếu trên thơng trờng và đây là một lĩnh vực mới hình
thành trong thời kì chuyển đổi cơ chế quản ký kinh tế nên việc quy định đối tợng
áp dụng hẹp (chỉ bao gồm DN) là phù hợp.
1.2.2.2.Đặc thù về cơ quan tiến hành tố tụng.
18
Theo quy định tại khoản 1 Điều 4, Điều 7, Điều 8, Điều 9, và Điều 40 Luật
PSDN thì Toà án nhân dân cấp tỉnh (Toà kinh tế) nơi DN đặt trụ sở chhính và Toà
án nhân dân tối cao (3 Toà phúc thẩm) có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên
bố PSDN.

Việc giao cho Toà án giải quyết yêu cầu tuyên bố PSDN là đặc điểm chung
của các nớc trên thế giới, nhng do ở nhiều nớc có Toà đặc thù cho nên cũng có sự
phân công khác nhau. ở Cộng hoà liên bang Nga, thẩm quyền này thuộc Toà án
trọng tài, nhng ở Cộng hoà nhân dân Trung Hoa lại thuộc thẩm quyền của Toà
dân sự.

ở Việt Nam, Toà án kinh tế nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ơng
là cơ quan có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố PSDN (sơ thẩm), trờng
hợp có khiếu nại, kháng nghị quyết định tuyên bố PSDN của Toà sơ thẩm thì các
Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao sẽ giải quyết (phúc thẩm). Quyết định

của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao là quyết định cuối cùng.
Việc trao cho Toà án một vai trò nh vậy là một nét đặc thù cơ bản Luật Phá
sản nớc ta so với Luật Phá sản của các nớc trên thế giới. Điều này xuất phát từ
đặc điểm của nền kinh tế và đặc điểm xã hội nớc ta. Hiện tợng phá sản đang là
một khái niệm, một công việc mới mẻ và phức tạp. Thủ tục yêu cầu tuyên bố phá
sản có nhiệm vụ giải quyết một cách triệt để những đòi hỏi đặt ra. Đó là phải bảo
vệ lợi ích hợp pháp cho các chủ nợ, DN mắc nợ, cho ngời lao động nhằm đảm
bảo trật tự xã hội và góp phần có hiệu quả vào việc cơ cấu lại nền kinh tế quốc
dân. Do vậy, việc trao cho Toà án, cơ quan xét xử của Nhà nớc, quyền đa ra các
phán quyết ảnh hởng đến quyền sở hữu, quyền nhân thân và các quyền cơ bản
19
của công dân, của DN khi họ lâm vào tình trạng phá sản là hoàn toàn phù hợp với
đặc điểm tình hình kinh tế, xã hội, văn hoá của nớc ta.
1.2.2.3.Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp là thủ tục t
pháp đặc biệt.
Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố PSDN là thủ tục t pháp đặc biệt. Tính
chất đặc biệt của thủ tục này đợc thể hiện ở những điểm sau:

Thứ nhất, việc đòi nợ và thanh toán nợ đợc tiến hành thông qua một cơ quan
đại diện có thẩm quyền là Toà án với một thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định.
Kết thúc thủ tục này, DN mắc nợ có thể không còn tồn tại nữa.

Thứ hai, nguyên tắc thanh toán là thanh toán trên tổng tài sản hiện có.
Nguyên tắc này hoàn toàn khác với nguyên tắc trong dân sự là phải trả đủ. Có
nghĩa là tài sản có bao nhiêu thì trả bấy nhiêu. Tuy nhiên, thực tế xảy ra các trờng
hợp khác nhau tuỳ thuộc mối quan hệ giữa tài sản có và tài sản nợ của DN. Nếu
tài sản có lớn hơn hoặc bằng tài sản nợ thì đơng nhiên các chủ nợ đợc thanh toán
đầy đủ. Ngợc lại, nếu số tài sản có nhỏ hơn số tài sản nợ thì DN cũng chỉ dùng số
tài sản đó để trả nợ mà thôi. Phần nợ còn thiếu thì các chủ nợ phải chịu theo tỷ
lệ. Bên cạnh đó, việc thanh toán chỉ đợc tiến hành theo quy định chặt chẽ của

pháp luật, trên cơ sở quyết định của Toà án. Quyết định này có thể có trong quá
trình giải quyết phá sản, ví dụ: Thẩm phán đồng ý cho thanh toán nợ có bảo đảm
hoặc sau khi có quyết định tuyên bố PSDN, Thẩm phán quyết định phơng án
phân chia giá trị tài sản còn lại của DN... Điều này hoàn toàn khác trong dân sự
vì trong dân sự việc thanh toán giữa chủ nợ và con nợ đợc tiến hành bất cứ lúc
nào kể cả khi vụ việc đó đã đợc đa ra xét xử tại phiên toà.

20
Thứ ba, việc đòi nợ theo thủ tục phá sản mang tính tập thể cao. Mặc dù một
ngời đệ đơn đòi nợ, sau đó Toà án sẽ giải quyết theo thủ tục phá sản và yêu cầu
các chủ nợ khác gửi giấy đòi nợ cho dù khoản nợ đó đã hoặc cha đến hạn. Còn
trong các vụ án dân sự, hay kinh tế thì các chủ nợ có tính độc lập và Toà án chỉ
giải quyết yêu cầu của ngời khởi kiện.
1.2.2.4.Đặc thù về luật áp dụng trong tố tụng phá sản.
ở nhiều nớc vấn đề xử lý phá sản thuộc đối tợng của nhiều văn bản pháp luật
khác nhau. Chẳng hạn ở Cộng hoà liên bang Đức ngoài Luật Phá sản
(10/12/1877) thì Bộ luật Thơng mại cũng có quy định về phá sản đối với công ty,
ngoài ra còn có các đạo luật khác liên quan đến vấn đề này nh Luật trợ cấp thất
nghiệp do phá sản (17/7/1987), Luật về đấu tranh chống tội phạm kinh tế
(29/7/1886), Luật về cỡng chế thi hành (23/5/1991) ... ở Thụy Điển, thứ tự u tiên
trong việc phân chia tài sản phá sản lại đợc quy định trong một số đạo luật
riêng ...

Đối với Việt Nam, những quy định của Nhà nớc về điều kiện, thủ tục giải
quyết các quan hệ xã hội liên quan đến phá sản tạo thành hệ thống pháp luật về
phá sản. Các quy định này nằm rải rác trong các văn bản pháp luật khác nhau, cả
văn bản luật và văn bản dới luật nh: Luật PSDN (1993), Nghị định 189/CP ngày
23/12/1994 về việc hớng dẫn thi hành Luật PSDN và một số văn bản pháp luật
khác.


Tóm lại, thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố PSDN có những đặc thù riêng
của nó. Các đặc thù đó đợc thể hiện trong phạm vi áp dụng, cơ quan tiến hành tố
tụng, luật áp dụng ... Đặc biệt, đây cũng là một thủ tục đòi nợ nhng khác hẳn với
việc đòi nợ thông thờng trong dân sự.
21
Ch ơng 2
Thực trạng pháp luật về thủ tục giải quyết yêu
cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp ở Việt nam.
22
2.1.Những quy định cơ bản về Thủ tục giải quyết yêu
cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.

Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố PSDN là một nội dung đặc biệt quan
trọng của pháp luật phá sản Việt Nam. Hầu hết các điều khoản trong Luật PSDN
và các văn bản hớng dẫn thi hành đều tập trung quy định vấn đề này, đó là:
2.1.1.Nộp đơn và thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
2.1.1.1.Nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Trong quá trình thực hiện quyền tự do kinh doanh, các chủ thể có quyền tự
chủ để đem lại nguồn lợi cho mình miễn là hành vi của chủ thể đó phù hợp với
quy định của pháp luật. Mặc dù hiện tợng kinh doanh thua lỗ dẫn đến phá sản có
thể gây ra hậu quả xấu với nền kinh tế-xã hội, nhng Nhà nớc chỉ can thiệp khi có
đơn yêu cầu tuyên bố phá sản. Tuy nhiên, xuất phát từ lợi ích của các bên trong
quan hệ PSDN, Nhà nớc chỉ quy định những chủ thể nhất định mới có quyền nộp
đơn yêu cầu tuyên bố phá sản. Việc xác định những đối tợng có quyền và nghĩa
vụ nộp đơn yêu cầu Toà án yêu cầu tuyên bố phá sản có ý nghĩa rất quan trọng.
Nếu cho phép cá nhân, tổ chức nào cũng có quyền làm đơn ra Toà án yêu cầu
tuyên bố phá sản thì khó có thể tránh đợc sự lạm dụng cơ hội này để hạ uy tín
hoặc gây khó khăn cho các đối thủ cạnh tranh của mình. Ngợc lại, nếu hạn chế
quyền này một cách quá đáng, tuỳ tiện, không dựa trên cơ sở khoa học nào thì
hậu quả sẽ làm cho việc giải quyết phá sản khó bị phát hiện, ảnh hởng xấu đến

quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà kinh doanh có quan hệ làm ăn với DN mắc
nợ. Vì vậy, pháp luật phá sản của các nớc cũng nh pháp luật phá sản của Việt
Nam đều quan tâm giải quyết vấn đề này.
23

Thực chất của thủ tục phá sản là giải quyết mối quan hệ về mặt tài sản giữa
chủ nợ và con nợ. Vì vậy, Luật Phá sản của tất cả các nớc đều coi chủ nợ là chủ
thể số một có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản con nợ. Tuy vậy, có sự
khác nhau trong việc quy định phạm vi các chủ nợ có quyền nộp đơn.
-Trung Quốc, Hungari ... cho phép cả chủ nợ có bảo đảm cũng có quyền nộp
đơn.
-Malaixia chỉ cho phép những chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm
một phần mới có quyền này hoặc cả chủ nợ có bảo đảm nhng phải có điều kiện
nhất định nh phải từ bỏ quyền đợc bảo đảm.

Phù hợp với thông lệ quốc tế, Luật PSDN Việt Nam cũng coi chủ nợ không
có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần là chủ thể đầu tiên có quyền yêu cầu
Toà án giải quyết việc tuyên bố PSDN (xem Khoản 1 Điều 7 Luật PSDN).
Việc quy định cho chủ nợ có bảo đảm một phần là hợp lý vì suy cho cùng
họ vẫn là chủ nợ không có bảo đảm, do đó họ có quyền yêu cầu con nợ trả nốt
phần còn thiếu. Đối với chủ nợ có bảo đảm, quyền này không đợc Luật quy định,
bởi vì chủ nợ này có số nợ đã đợc bảo đảm đầy đủ bằng tài sản thế chấp của chủ
nợ. Khi DN bị phá sản thì những chủ nợ này đợc u tiên thanh toán bằng tài sản
thế chấp, cầm cố đó.
Luật phá sản các nớc đều có quy định con nợ có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu
tuyên bố phá sản đối với chính bản thân mình. Luật quy định nh vậy bởi vì hơn ai
hết bản thân con nợ hiểu rõ thực trạng tài chính của mình. Thực tế cho thấy, dù là
DN thuộc thành phần kinh tế nào chăng nữa thì ngời quản lý bao giờ cũng tìm
bằng mọi cách cứu vãn DN của mình đến khi vô phơng cứu chữa thì mới nộp
đơn xin phá sản.


24
Theo Khoản 1 Điều 9 Luật PSDN (1993), DN lâm vào tình trạng phá sản là
chủ thể thứ hai có quyền yêu cầu tuyên bố phá sản. Quy định này có ý nghĩa rất
lớn, thể hiện ở chỗ: Thứ nhất là tạo điều kiện cho chủ DN sớm kết thúc sự tồn tại
của mình khi không còn khả năng tồn tại. Thứ hai là tăng cờng trách nhiệm của
họ đối với xã hội vì sự duy trì một DN đã chết là điều không tốt không chỉ cho
DN mà còn cho cả xã hội. Điều đó sớm hay muộn cũng sẽ ảnh hởng đến xã hội
nói chung.
Ngoài hai chủ thể chính là chủ nợ và con nợ, Luật PSDN Việt Nam còn cho
phép ngời lao động với t cách là một loại chủ nợ đặc biệt có quyền yêu cầu Toà
án tuyên bố PSDN. Tuy nhiên, để tránh tình trạng tuỳ tiện trong việc thực hiện
quyền này, Luật PSDN nớc ta đã quy định những điều kiện cụ thể để ngời lao
động thực hiện đợc quyền của mình. Điều 8 Luật PSDN đã quy định rõ: Trong
trờng hợp DN không trả đợc lơng ngời lao động ba tháng liên tiếp thì đại diện
công đoàn hoặc đại diện ngời lao động nơi cha có tổ chức công đoàn có quyền
nộp đơn đến Toà án nơi DN đặt trụ sở chính yêu cầu giải quyết việc tuyên bố
PSDN.
Tóm lại, Luật PSDN nớc ta chỉ quy định cho ba chủ thể là chủ nợ, con nợ và
ngời lao động có quyền nộp đơn yêu cầu Toà án tuyên bố DN vì chỉ những chủ
thể này mới có quyền và lợi ích liên quan trực tiếp đến DN bị phá sản.
2.1.1.2.Thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Theo quy định tại Điều 4 Luật PSDN và điểm c Khoản 3 Điều 30 Luật Tổ
chức Toà án nhân dân thì Toà kinh tế Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ơng nơi DN đặt trụ sở chính có thẩm quyền thụ lý và giải quyết đơn yêu
cầu tuyên bố PSDN.

25

×