Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Đánh giá sức khỏe thai nhi của Võ thị thùy Diệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.51 KB, 14 trang )



Đánh giá sức khỏe thai – Võ Thị Thùy Diệu – YKHOA.NET
ĐÁNH GIÁ SỨC KHỎE THAI
Võ Thị Thùy Diệu
Đánh giá sức khỏe thai trước sanh nhằm giảm bệnh suất và tử suất chu sinh. Các phương pháp đánh giá sức
khỏe thai hiện hành bao gồm đếm cử động thai, nonstress test, stress test, trắc đồ sinh vật lý, siêu âm doppler.
Từng phương pháp đều có những giới hạn riêng. Không thể có một phác đồ theo dõi sức khỏe thai tuyệt đối
áp dụng cho mọi đối tượng bệnh nhân. Việc tiến hành các phương pháp thử nghiệm nên dựa vào những
nguyên tắc chỉ đạo chung. Bài tổng quan này dựa trên việc tra cứu danh bạ Thử nghiệm lâm sàng Nhóm Thai
kỳ và Sinh sản của Cochrane cập nhật mới nhất vào tháng 3/2007; nêu lên những ưu thế cũng như các mặt tồn
tại của từng phương pháp để người đọc có một thái độ lựa chọn các phương pháp đánh giá sức khỏe thai một
cách hợp lý nhất để đạt được tính chuẩn xác và sát thật nhất về tình trạng thai.
Assessment of fetal well-being
Antepartum fetal assessment is indicated in a hope to improve perinatal outcomes. Current options include the
fetal movement count, the nonstress test, the stress test, the biophysical profile and the doppler velocimetry.
All these modalities have limitations. There is no consistent protocol of antepartum fetal surveillance
applicable to all patients. The testing options could be implemented according to the general principles. The
review was carried out using the Cochrane Pregnancy and Childbirth Group trials register, last updated on
March 2007, highlighting the advantages and disadvantages of the current testing options. The results could
enhance the readers to implement the best testing options appropriately to their current condition.


Khoa Sản bệnh, Bệnh viện Hùng Vương, 128 Hồng Bàng, Quận 05, Tp. HCM (VTT Diệu ThS.BS)
Liên hệ: VTT Diệu (email: )


I. Mở đầu
Đánh giá sức khỏe thai (ĐGSKT) có tầm quan
trọng hàng đầu trong chăm sóc tiền sản vì có
ảnh hưởng đến kết cục của thai kỳ cũng như sự


phát triển tâm sinh lý của bé trong tương lai.
Theo Hiệp hội Sản Phụ khoa (SPK) Hoa kỳ
1999, mục tiêu chăm sóc tiền sản là ngăn ngừa
chết thai [1]. Một nghiên cứu hồi cứu lớn trên
38.000 các trường hợp sanh từ 1977-1985 tại
bệnh viện đa khoa Leeds, Anh Quốc cho thấy
khoảng 1/3 các trường hợp thai chết trước sanh
có thể được ngăn chặn bằng các phương tiện
mới trong việc đánh giá sức khỏe thai đối với
các thai kỳ nguy cơ cao [2]. Trong các trường
hợp tử vong chu sinh, khoảng 85,9% các trường
hợp các bà mẹ không có chế độ chăm sóc tiền
thai hợp lý [3]. Thật vậy, sự khó khăn về kinh
tế vào cuối năm 1984 ở Nigeria đã gây áp lực về
chi phí y tế, khiến số lượng các thai phụ đến
khám và sanh tại bệnh viện giảm đáng kể.
Chính vì vậy, tỉ lệ tử vong chu sinh năm 1984 là
38,7/1.000 đã tăng lên và đạt đỉnh cao là
110,5/1.000 vào năm 1987 tại bệnh viện Wesley
Guild, Nigeria [4]. Tại Canada, tỉ lệ tử vong chu
sinh năm 2001 là 7,7/1.000 ca sinh sống, là tỉ lệ
thấp nhất thế giới [5]; mặc dù vậy, các tác giả
vẫn khẳng định rằng một phần trong tỉ lệ tử
vong vẫn có thể ngăn chặn được nếu có chế độ
chăm sóc tiền sản hợp lý. Điều này càng khẳng
định vai trò của đơn vị chăm sóc tiền sản.
Tuy nhiên, hiện nay trên thế giới vẫn chưa
có sự đồng thuận về sự nhận định ý nghĩa và
giá trị của các phương pháp đánh giá sức khỏe
thai (PPĐGSKT), điều này khiến cho công tác

thực hành lâm sàng luôn gặp những trở ngại
trong việc chỉ định cũng như diễn giải kết quả
của các thử nghiệm ĐGSKT. Với mong muốn
có được tiếng nói chung giữa các nhà sản khoa,
chúng tôi tổng quan tài liệu về các PPĐGSKT
nhằm cung cấp những thông tin, những quan
điểm nhìn nhận vấn đề ở các khía cạnh khác
nhau để có những thái độ hợp lý nhất trong
những quyết định lâm sàng.
II. Cách tổng quan tài liệu
Nguồn dữ liệu: các tài liệu giáo khoa, các mạng
điện tử y khoa có thể truy cập được; các
khuyến cáo chính thức của các Hiệp hội sản
phụ khoa (SPK) uy tín và các tổng quan của thư
viện Cochrane được ưu tiên đánh giá.
Từ khóa: antenatal fetal assessment,
antepartum fetal surveillance, fetal movement,
fetal kick count, Nonstress Test, Stress Test,


Đánh giá sức khỏe thai – Võ Thị Thùy Diệu – YKHOA.NET
Biophysical profile, Doppler velocimetry.
Quản lý tài liệu tổng quan: phần mềm END
NOTE 10.0.2.
III. Chỉ định đánh giá sức khỏe thai
Câu hỏi lâm sàng trong công tác thực hành
luôn được đặt ra là hiện sức khỏe thai có đang
bị đe dọa và sử dụng biện pháp ĐGSKT nào để
đạt tính hợp lý và hiệu quả nhất. Tùy nhóm
thai kỳ nguy cơ cao hay thấp mà có những cách

thức đánh giá riêng.
Thai kỳ nguy cơ thấp:
Được qui vào nhóm này khi không có bất kỳ
yếu tố nguy cơ nào. Các phương pháp qui ước
và thông dụng nhất ĐGSKT đối với nhóm thai
kỳ nguy cơ thấp bao gồm [6]: theo dõi cử động
thai [7], đo bề cao tử cung (BCTC), và nghe tim
thai
Thai kỳ nguy cơ cao:
Khi có bất kỳ yếu tố nào sau đây [8]:
Bệnh lý của thai:
(i) Thai chậm phát triển, (ii) Bất thường NST:
Trisomy 13, 18, 21, (iii) Nhiễm trùng: TORCH,
sốt rét, HIV, giang mai, (iv) Đa thai
Bệnh lý của mẹ:
bệnh tim bẩm sinh tím, cao huyết áp, đái tháo
đường, bệnh lý thận, bệnh tự miễn, bệnh lý
tuyến giáp, thai phụ bị suy dinh dưỡng
Bất thường thai kỳ:
(i) Giảm cử động thai (xem thêm phần III.1.),
(ii) Xuất huyết âm đạo bất thường, (iii) Thai
quá ngày, (iv) Đau bụng không rõ nguyên
nhân, (v) Vỡ ối
Nhóm thai kỳ nguy cơ cao tùy thuộc vào tuổi
thai, bệnh lý kèm theo,… sẽ sử dụng có chọn
lựa các PPĐGSKT được nêu sau.
IV. Các phương pháp ĐGSKT
1. Đếm cử động thai (CĐT)
Một trong những cách ĐGSKT đơn giản nhất là
đếm CĐT. Vì cảm nhận thai máy là một cảm

nhận chủ quan nên mỗi người mẹ sẽ cảm nhận
không giống nhau. Điều quan trọng là mỗi
người mẹ phải tự biết được mức độ hoạt động
của thai nhi và biết được số lần thai máy trung
bình để từ đó một thay đổi về tần số thai máy
có thể là yếu tố báo trước có bất thường ở thai
nhi. Trước thập niên 90, khi mà các phương
tiện ĐGSKT còn nghèo nàn, việc đếm CĐT
được xem như là một phương pháp tầm soát có
hiệu quả, các nghiên cứu báo cáo tỉ lệ tử vong
chu sinh giảm từ 8,7/1.000 xuống còn 2,1/1.000
ca sinh sống bằng cách đếm CĐT [3, 4].
Tuy nhiên, năm 2000 tại trường đại học
Oxford, một nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng
ngẫu nhiên có đối chứng trên 68.000 thai phụ
nhận thấy việc đếm CĐT thường qui trong
tháng cuối không làm giảm tỉ lệ tử vong chu
sinh, mà còn làm tăng sự sử dụng các biện
pháp khác, tăng nhu cầu nhập viện, tăng chi
phí. Việc theo dõi CĐT áp dụng trên 1.250 thai
phụ chỉ để ngăn một trường hợp chết thai trước
sanh [9]. Theo dõi CĐT cũng chỉ giúp xác định
thai hiện có yếu tố nguy cơ nào không, mà
hoàn toàn không có ý nghĩa tiên lượng hậu vận
thai (bằng chứng mức độ IB).
Một nghiên cứu qua 292 thai phụ than phiền
CĐT giảm tại bệnh viện Weiler, trường đại học
Yeshiva, Bronx, New York năm 1991 để xác
định tỉ lệ kết cục xấu cũng như định ra nhu cầu
cần những thử nghiệm tiếp theo. Các thai phụ

khai CĐT giảm sẽ được chỉ định thực hiện hai
loại thử nghiệm ban đầu gồm NST và siêu âm.
Kết quả nghiên cứu cho thấy có 1,7% trường
hợp thai chết qua 2 thử nghiệm ban đầu này;
4,4% cần mổ sanh ngay; 5,8% có kết quả bất
thường cần được theo dõi thêm; 52% trường
hợp có kết quả bình thường. Nhóm có kết quả
thử nghiệm ban đầu bình thường này tiếp tục
được đánh giá bằng các thử nghiệm kế tiếp. Kết
quả nghiên cứu cho thấy các thử nghiệm bổ
sung kế tiếp là hoàn toàn không cần thiết nếu
thử nghiệm ban đầu (NST và siêu âm) bình
thường và nếu thai phụ hoàn toàn không than
phiền việc thai máy giảm thêm hơn [7]. Tuy
nhiên, cho đến hiện tại, nghiên cứu vẫn chưa
xác định được phương pháp theo dõi thai tiếp
sau nào hữu hiệu nhất khi thai phụ khai CĐT
giảm.
Vì thai phụ là người tiếp cận thai nhi của
mình thường xuyên hơn hẳn bất kỳ nhân viên
y tế nào nên mặc dù giá trị của việc theo dõi
CĐT còn chưa rõ, các thai phụ vẫn được
khuyến khích tự theo dõi CĐT và báo với nhân
viên y tế trong mỗi lần khám thai. Kết luận
“giảm cử động thai” chỉ có sau khi chắc chắn
thai phụ thông suốt việc theo dõi CĐT đúng
qui cách.
2. Nghe tim thai
Việc nghe tim thai chỉ cho biết thông tin rằng
thai còn đang sống, hoàn toàn không có bằng

chứng cho thấy xác định thai có đang bị đe dọa
hay không hay việc nghe tim thai sẽ góp phần


Đánh giá sức khỏe thai – Võ Thị Thùy Diệu – YKHOA.NET
cải thiện kết cục thai. Mặc dù vậy, trong thực
hành lâm sàng, việc nghe tim thai vẫn còn được
khuyến cáo một cách thường qui.
3. Nonstress test (NST)
Nonstress test (NST) là thử nghiệm dựa trên
giả thuyết rằng nhịp tim của thai nhi trong
trường hợp không có nhiễm toan do thiếu oxy
mô hay bị ức chế thần kinh sẽ nhất thời tăng
lên đáp ứng với cử động thai. NST đã được giới
thiệu đầu tiên bởi Freeman, Lee và cộng sự vào
năm 1975. Vào cuối thập niên 70, NST đã trở
thành PPĐGSKT hàng đầu.
Đã có nhiều định nghĩa khác nhau về một
NST được xem là có đáp ứng. Các định nghĩa
khác nhau về số lượng, biên độ và thời gian của
nhịp tăng, cũng như về thời gian thực hiện thử
nghiệm. Định nghĩa được khuyến cáo bởi Hiệp
hội Sản phụ khoa Hoa kỳ 1999: NST được xem
là có đáp ứng khi có ít nhất là 2 nhịp tăng với
đỉnh nhịp tăng ≥ 15 nhịp so với nhịp căn bản,
mỗi nhịp tăng kéo dài ít nhất 15 giây, và tất cả
đều phải xảy ra trong 20 phút đầu của thử
nghiệm và biểu đồ ghi nhịp tim thai phải thực
hiện ít nhất là 40 phút trước khi kết luận rằng
NST không đáp ứng.

Miller và cộng sự (1996) đã nghiên cứu kết
cục của thai nhi sau khi mà NST được cho là
không đáp ứng vì chỉ có duy nhất một nhịp
tăng. Họ đã kết luận rằng một nhịp tim thai
tăng cũng đáng tin cậy trong việc dự đoán tình
trạng thai nhi khỏe mạnh như khi có hai nhịp
tăng [10, 11].
Mặc dù số lượng và biên độ bình thường
của nhịp tăng phản ảnh tình trạng sức khỏe
thai, nhưng một “nhịp tăng không đầy đủ”
không phải lúc nào cũng dự đoán được tình
trạng suy thai. Thực vậy, một vài nhà nghiên
cứu đã đưa ra những tỉ lệ NST dương tính giả
vượt quá 90 % khi mà nhịp tăng được cho là
không đầy đủ [12, 13].
Thai mạnh khỏe có lẽ không cử động liên
tục đến 75 phút, chính vì vậy, Brown và Patrick
(1981) đã nhận xét rằng thời gian thực hiện thử
nghiệm lâu hơn có lẽ sẽ làm tăng giá trị tiên
đoán dương của NST không đáp ứng [14].
Devoe và cộng sự (1985) đã kết luận rằng, NST
không đáp ứng trong vòng 90 phút hầu như là
luôn luôn (93%) kết hợp với bệnh lý chu sinh có
ý nghĩa [15]. Do vậy, thiếu nhịp tăng, trong
trường không do mẹ dùng thuốc an thần, là một
bằng chứng đáng ngại.
Nghiên cứu của Phelan từ 07/1977 đến
10/1979 với 3.000 NST được thực hiện trên
1.452 thai kỳ nguy cơ cao, trong đó số NST có
đáp ứng là 85,4 %, không đáp ứng là 14 % và

không thỏa đáng là 0,6 %. Trong khi ở nhóm
thai kỳ có NST có đáp ứng hầu hết có kết cục
chu sinh thuận lợi, nhóm có NST không đáp
ứng cho thấy làm tăng tỉ lệ mổ lấy thai vì suy
thai và tăng tỉ lệ tử vong. Và kết luận của tác
giả đưa ra là NST vẫn là biện pháp ĐGSKT có
giá trị đối với thai kỳ nguy cơ cao [16]. Cho đến
nay NST vẫn được xem như là phương pháp
đầu tay hiệu quả trong việc ĐGSKT [17].
Tuổi thai cũng ảnh hưởng đến sự đáp ứng
của tim thai. Pillai và James (1990) đã nghiên
cứu về vấn đề này trong thai kỳ bình thường và
cho kết quả: tỷ lệ của các cử động thai kèm theo
dao động tăng của nhịp tim thai và cường độ
của những nhịp tăng này đều tăng lên cùng với
tuổi thai [18]. Guinn và cộng sự (1998) đã
nghiên cứu các kết quả NST từ tuổi thai 25–28
tuần ở 188 thai phụ có những kết cục bình
thường sau đó. Chỉ 70 % trong số những thai
nhi bình thường này chứng tỏ là có nhịp tim
thai tăng ít nhất 15 nhịp/phút . Mức độ tăng ít
hơn của nhịp tim thai (10 nhịp/phút) xảy ra ở
90% các trường hợp được thử nghiệm [19]. Hội
nghị về monitoring đánh giá thai nhi của Viện
quốc gia về sức khỏe trẻ em và phát triển con
người (NICHHD) năm 1997 đã định nghĩa về
nhịp tim thai tăng dựa trên tuổi thai như sau:
đỉnh của nhịp tăng phải lớn hơn hoặc bằng 15
nhịp/phút so với nhịp cơ bản, và nhịp tăng phải kéo
dài ít nhất là 15 giây nhưng không quá 2 phút ở

tuổi thai từ 32 tuần trở đi. Trước 32 tuần, nhịp tim
thai tăng được xác định là lớn hơn hoặc bằng 10
nhịp so với nhịp cơ bản và kéo dài ít nhất 10 giây.
Đối với thai non tháng, 50% trường hợp thai
24-28 tuần bình thường có NST không đáp ứng
do sự non yếu của hệ giao cảm (bằng chứng
mức độ II-2B).
Ngoài ra, thiếu vắng nhịp tăng kết hợp với
mất dao động nội tại của nhịp tim thai có lẽ
mang ý nghĩa bệnh lý của tình trạng thai.
Bng 1. Giá trị tiên đoán (GTTĐ) của NST
Salamal-
ekis [25]
Lenstrup
[26]
Bhide
[27]
NST có
đáp ứng

GTTĐ(-) 91.2% 97.3%
Độ chuyên 85.4%
NST không
đáp ứng

GTTĐ(+) 28.1% 34.8% 23.1%


Đánh giá sức khỏe thai – Võ Thị Thùy Diệu – YKHOA.NET
Độ nhạy 40.9% 65.6%

Tuy nhiên, theo Oncken và cộng sự 2002, sự
không đáp ứng của nhịp tim thai cũng có thể
do kết hợp với chu kỳ thức ngủ, hoặc là do
dùng thuốc ức chế thần kinh hay do mẹ có hút
thuốc lá [20]. Một NST không đáp ứng hay mất
những dao động nội tại tự nó không cho phép
thực hiện một chẩn đoán nhưng đây là một dấu
hiệu báo động. Giá trị tiên đoán NST trong việc
phát hiện tình trạng toan chuyển hóa lúc sinh
thấp, khoảng 44%. Tuy nhiên, không được
phép lơ là với một NST không đáp ứng mà cần
phải làm các bước đánh giá kế tiếp. Theo Hiệp
hội Sản phụ khoa Canada 2000: NST không đáp
ứng sẽ được đánh giá tiếp theo bằng ST hay
BPP.
Do sự nhận định về kết quả NST rất khác
nhau như đã bàn luận trên nên Hage và cộng
sự 1985 đã phân các biểu đồ NST cho 5 nhóm
bác sĩ để kiểm định về sự thống nhất cách diễn
giải về CTG, nhận thấy các kết quả đọc CTG
hoàn toàn không tương đồng nhau [21-24].
Đồng thời, nhóm nghiên cứu lập trình phần
mềm cho việc phân tích CTG/NST bằng máy
tính, kết quả tỏ ra chính xác hơn các nhà lâm
sàng về khả năng dự báo tình trạng nhiễm toan
của thai cũng như chỉ số Apgar (bằng chứng
mức độ III-B) theo Hiệp hội SPK Anh Quốc
2001.
4. Stress test (ST)
Stress test (ST) là thử nghiệm được thực hiện

dựa trên sự đáp ứng của nhịp tim thai khi có
cơn co tử cung. Người ta luôn tin rằng sự cung
cấp oxy cho thai nhi sẽ tạm thời bị giảm đi khi
có cơn co tử cung. Chính vì vậy, ST là thử
nghiệm đánh giá chức năng tử cung-nhau, trong
khi NST là thử nghiệm chủ yếu về tình trạng thai.
Với định nghĩa này, ST có vai trò là một thử
nghiệm nhằm lượng giá khả năng chịu đựng
của thai khi vào chuyển dạ, nghĩa là giá trị của
ST là nhằm quyết định phương thức sanh của
thai kỳ, hoặc sanh ngã âm đạo hoặc mổ sanh.
Điều này có nghĩa rằng chúng ta chỉ thực hiện
ST khi đã có chỉ định chấm dứt thai kỳ. Tuy
nhiên, điều này không hoàn toàn hẳn thế ! Vẫn
có rất nhiều phác đồ và các nghiên cứu ở một
số khu vực trên thế giới sử dụng ST sau một
NST nghi ngờ, bất kể tuổi thai. Điều này dường
như khó chấp nhận theo tính logic học. Thật
vậy, ST cũng như bất kỳ một thử nghiệm nào
đều có những tác dụng ngoại ý không mong
đợi, cụ thể là ST có thể gây ra hội chứng quá
kích cơn co tử cung cũng như khả năng có thể
đưa đến một cuộc chuyển dạ sanh non nếu
thực hiện trên một thai kỳ chưa trưởng thành;
và kết cục là một trẻ non tháng ra đời với đầy
những yếu tố rủi ro nếu trường hợp đó chỉ đơn
thuần cần ĐGSKT mà chưa có chỉ định chấm
dứt thai kỳ. Mặc dù tỉ lệ này không nhiều
nhưng không phải hoàn toàn không có, và như
thế có thể vi phạm y đức về mặt nghiên cứu

học. Hơn thế nữa, ST nhằm ĐGSKT ở trạng thái
động, một trạng thái “stress” tạo bởi các cơn co
chuyển dạ, trong khi đó, NST, BPP, Doppler là
những thử nghiệm để khảo sát sức khỏe thai ở
trạng thái tĩnh, giai đoạn có thể kéo dài thêm
thai kỳ nếu được. Chính vì vậy, bất kỳ một sự
so sánh nào về hai nhóm thử nghiệm này, theo
chúng tôi suy luận, dường như quá thiên lệch,
khập khiễng.
Một vấn đề khác rằng giá trị của ST có thật
sự hữu ích trong việc tiên đoán dự hậu thai? Có
rất nhiều nghiên cứu khảo sát mối tương quan
giữa NST, ST, BPP, Doppler nhằm phục vụ cho
các quyết định lâm sàng. Kết quả các nghiên
cứu rất khác nhau.
Nghiên cứu của MW Keane và cộng sự 1981
thực hiện trong vòng 18 tháng, 1.328 NST và
tiếp sau là ST đã được thực hiện trên 566 thai
phụ. Thử nghiệm cuối cùng thực hiện trong
vòng 1 tuần trước sanh được so sánh với kết
cục thai nhi chu sinh. Có tổng cộng 1.118
(84,2%) NST có đáp ứng và 210 (15,8%) không
đáp ứng. Về kết quả ST, có 1.249 (94,1%) trường
hợp âm tính, 52 (3,9%) dương tính, 16 (1,2%)
nghi ngờ, và 11(0,8%) không thỏa mãn. Mối
tương quan giữa NST có đáp ứng và ST âm
tính là rất lớn (99,4%), trong khi giữa NST
không đáp ứng và ST dương tính là rất nghèo
nàn (24,8%) [28]. Mặc dù ST được chứng tỏ là
yếu tố dự báo bệnh lý tốt hơn NST, nhưng cả

hai thử nghiệm đều là những thử nghiệm tiên
đoán có ý nghĩa thống kê cao (p<0,001). Những
thai nhi có NST không đáp ứng và ST âm tính
thì nguy cơ bệnh lý không tăng lên. Nghiên
cứu này đã ủng hộ cho quan niệm rằng chỉ cần
NST được diễn giải chính xác sẽ là công cụ tầm
soát đủ để lượng giá tình trạng sức khỏe thai ở
thai kỳ nguy cơ cao. Chính vì vậy, ST luôn
được bắt đầu bằng việc thực hiện một NST,
nhiều khi cho phép loại trừ việc thực hiện một
ST không còn cần thiết thậm chí đã trở thành
nguy hiểm cho bào thai. Một NST có đáp ứng
đủ để loại bỏ việc thực hiện ST.
Một nghiên cứu khác so sánh OCT và NST


Đánh giá sức khỏe thai – Võ Thị Thùy Diệu – YKHOA.NET
của Quaas L, Đức 1985, qua 247 thai kỳ có nguy
cơ cao về chức năng tuần hoàn tử cung nhau,
nhận thấy: 20% NST không đáp ứng, 19% OCT
có nhịp giảm muộn đơn thuần, khi kết hợp tiêu
chuẩn nhịp giảm muộn và mất dao động nội
tại, tỉ lệ OCT bệnh lý là 29%. Nếu chỉ dựa vào
nhịp giảm muộn, OCT không nổi trội hơn so
với NST. Chỉ khi nhịp giảm muộn kết hợp với
mất nhịp tăng thì mới tăng giá trị tiên đoán của
OCT so với NST. Hơn nữa, nhịp giảm muộn
mà vẫn có nhịp tăng thì giá trị tiên đoán không
hơn so với mất dao động nội tại [29].
Theo Shalev (1993), khi so sánh giá trị của

NST, OCT, S/D Doppler, BPP trong việc tiên
đoán tình trạng toan hóa thai nhi (pH tĩnh
mạch rốn ở những thai chậm tăng trưởng), ghi
nhận kết quả: NST, OCT, BPP có cùng giá trị
GTTĐ(+): 57,1%, GTTĐ(+) S/D ĐMR rất thấp:
14,3%. Chỉ duy nhất sự phối hợp của NST và
OCT mới làm tăng giá trị tiên đoán: 66,7% [30].
Tuy nhiên, sự kết hợp này làm tăng tỉ lệ mổ
sanh nên đây lại là vấn đề cần cân nhắc thêm.
Một nghiên cứu khác của Figueras, bệnh
viện Barcelona, Tây Ban Nha 2003 khi so sánh
giá trị Doppler ống tĩnh mạch (ductus venosus)
và ST qua 68 thai phụ nhóm thai chậm tăng
trưởng >26 tuần sau khi có NST không đáp ứng
và hiện tượng tái phân bố huyết động học. Kết
quả cho thấy giá trị tiên đoán của ST về tỉ lệ sơ
sinh cần nhập đơn vị săn sóc sơ sinh tích cực là
45%, bệnh suất sơ sinh là 13%, cần đặt nội khí
quản là 26%, pH động mạch rốn <7,10 là 29%.
Trong khi đó giá trị tiên đoán của dạng sóng
bất thường ống tĩnh mạch (abnormal ductus
venosus waveform) tuần tự là 81,5%, 26%, 48%
và 55%. Kết luận được rút ra rằng khi NST
không đáp ứng và kèm hiện tượng tái phân bố
huyết động học ở thai chậm tăng trưởng,
Doppler ống tĩnh mạch tỏ ra hơn hẳn ST trong
việc ĐGSKT [31].
Chính vì giá trị tiên đoán của ST không
nâng lên nhiều khi so với việc thực hiện đơn
thuần các phương pháp khác mà lại tăng tỉ lệ

mổ sanh nhiều nên hiện nay ở các nước phát
triển (Canada, ), ST không còn được sử dụng
thông dụng nữa; tuy nhiên ST vẫn còn là một
chọn lựa trong đánh giá sức khỏe thai tại các
trung tâm không có điều kiện sử dụng BPP.
Hơn thế nữa, ST với vai trò là một thử nghiệm
nhằm lượng giá khả năng chịu đựng qua một
cuộc chuyển dạ sanh ngã âm đạo vẫn còn mang
tính chất kinh viện trong các bài giảng lý thuyết
của các trường đại học y khoa nên chúng tôi
nhận thấy cần nhiều thảo luận hơn của các
chuyên gia sản khoa về việc sử dụng thử
nghiệm trong thực hành lâm sàng sản khoa
hiện đại ngày nay.
5. Trắc đồ sinh vật lý (Biophysical profile)
Manning và cộng sự năm 1980 đã đề nghị việc
sử dụng kết hợp 5 thông số sinh vật lý như là
phương tiện ĐGSKT chính xác hơn bất kỳ một
phương tiện dùng riêng lẽ nào. Họ đã đưa ra
giả thuyết rằng việc xem xét chung cả 5 thông
số có thể làm giảm cả tỉ lệ dương tính giả và âm
tính giả.
Manning và cộng sự năm 1993 đã mô tả một
nghiên cứu trên 493 thai nhi, trong đó điểm số
sinh vật lý được làm ngay trước khi đo giá trị
pH máu tĩnh mạch rốn qua chọc dò cuống rốn.
Khoảng 20 % các thai nhi được thử nghiệm có
chậm tăng trưởng, và số còn lại có thiếu máu
tán huyết dị miễn dịch [32]. Theo Manning,
điểm số sinh vật lý bằng 0 luôn luôn kết hợp

với tình trạng toan huyết có ý nghĩa của thai
nhi, trong khi điểm số bình thường từ 8-10
điểm lại kết hợp với giá trị pH bình thường.
Chính vì vậy, Manning đã sử dụng BPP trong
tiên lượng bại não [33]. Một kết quả nghi ngờ -
6 điểm - là một yếu tố dự báo kết cục bất
thường nghèo nàn. Nếu có hiện tượng giảm
điểm số từ 2-4 điểm xuống 0 điểm thì lại chính
xác hơn trong việc tiên đoán hậu vận bất
thường ở thai nhi.
Salvesen và cộng sự (1993) đã so sánh mối
tương quan giữa bảng điểm Manning với pH
máu tĩnh mạch rốn ở 41 trường hợp đái tháo
đường thai kỳ [34]. Họ cũng nhận thấy rằng giá
trị pH bất thường kết hợp có ý nghĩa với điểm
số sinh vật lý bất thường. Tuy nhiên, họ kết
luận rằng điểm số sinh vật lý vẫn còn bị hạn
chế trong việc dự đoán pH thai nhi, bởi vì có 9
trường hợp thai nhi có toan máu nhẹ mà lại có
các thử nghiệm trước sinh bình thường. Weiner
và cộng sự (1996) đã đánh giá ý nghĩa của các
thử nghiệm về sức khỏe thai ở 135 trường hợp
thai chậm tăng trưởng trong tử cung và cũng
đã đi đến kết luận tương tự. Họ thấy rằng bệnh
suất và tử suất ở thai chậm tăng trưởng nặng
được xác định trước tiên bởi tuổi thai và cân
nặng lúc sinh chứ không phải bởi các thử
nghiệm đánh giá thai nhi bất thường.
Hệ thống điểm số Manning cho phép đạt
được một tỉ lệ âm sai có điều chỉnh là 0,7%,

nghĩa là có một độ nhạy cảm rất cao. Hệ thống
điểm số này đã trở thành một biện pháp lượng
giá sức khỏe thai nhi đáng tin cậy. Nhược điểm


Đánh giá sức khỏe thai – Võ Thị Thùy Diệu – YKHOA.NET
của trắc đồ sinh vật lý là tính chi tiết và đòi hỏi
rất nhiều thời gian để thực hiện. Giống như với
các biện pháp khảo sát sức khỏe thai nhi khác
đã nêu, cần chú ý loại trừ những yếu tố ảnh
hưởng đến kết quả của khảo sát như tuổi thai,
các dược chất được sử dụng cũng như các tình
trạng bất thường của bào thai. Thật vậy, thực
hiện BPP ở các trường hợp thai non tháng <34
tuần sẽ xuất hiện vấn đề cử động thai giảm do
tình trạng non tháng, do đó điểm số BPP không
còn chính xác. Đây là vấn đề cần cân nhắc khi
thực hiện BPP ở thai non tháng.
Tuy vậy, vẫn chưa có sự đồng thuận về hiệu
quả của BPP trong đánh giá sức khỏe thai. Một
nghiên cứu cohort lớn ở Canada 2000 cho thấy
việc sử dụng BPP làm giảm tỉ lệ bại não đáng
kể một cách khả quan: từ 4,74/1.000 ở nhóm
không thực hiện BPP thuộc thai kỳ nguy cơ
thấp xuống còn 1,33/1.000 ở nhóm thực hiện
BPP thuộc thai kỳ nguy cơ cao (bằng chứng
mức độ II-3B) [33]. Ngược lại, trong tổng quan
Cochrane 2000, Alfirevic và Neilson kết luận
rằng chưa đủ dữ liệu để đánh giá giá trị của
BPP đối với thai kỳ nguy cơ cao [35].

6. Trắc đồ sinh vật lý cải biên (Modified BPP)
Trong khoảng cuối tam cá nguyệt thứ hai và
tam cá nguyệt thứ ba, lượng nước ối phản ảnh
sự sản sinh ra nước tiểu của thai nhi. Rối loạn
chức năng nhau thai có lẽ sẽ gây ra tình trạng
giảm lượng dịch qua thận thai nhi, điều này
dẫn đến hiện tượng thiểu ối. Do vậy, việc đánh
giá thể tích lượng nước ối rất hữu ích để lượng
giá chức năng tử cung–nhau [36]. Điều này đưa
đến việc hình thành nên trắc đồ sinh vật lý cải
biên (Modified biophysical Profile MBPP).
MBPP kết hợp 2 thông số là NST (chỉ điểm
tình trạng thai trong thời gian ngắn) và chỉ số
ối AFI (chỉ điểm chức năng nhau thai trong thời
gian dài).
Trắc đồ sinh vật lý biến đổi ngày càng được
sử dụng phổ biến hơn trên thế giới bởi tính dễ
dàng và đơn giản hơn so với trắc đồ sinh vật lý
đầy đủ, nhưng vẫn không mất đi vai trò quan
trọng nhất của mình: đánh giá tình trạng sức
khỏe của thai nhi. Khi nghiên cứu về kết cục
của thai nhi ở thai kỳ nguy cơ cao khi được làm
MBPP , Bệnh Viện Bà Mẹ tại Long Beach, CA
,USA (1995) đã thử nghiệm trên 2.774 thai phụ
đái tháo đường thai kỳ, và 17.429 thử nghiệm
MBPP được thực hiện. Những thai phụ có kết
quả MBPP bất thường (NST không đáp ứng
hoặc AFI≤5) thì được tiếp tục làm ST và BPP.
Kết quả, tỉ lệ tử vong chu sinh chưa hiệu chỉnh
là 2,9/1.000. Tỉ suất chung cho những kết cục

bất lợi (chết thai, mổ sanh vì suy thai trong 2
giờ đầu chuyển dạ, Apgar 5 phút <7, xuất huyết
thần kinh trung ương độ III-IV) là 7% [37]. Khi
so sánh với những bệnh nhân có kết quả MBPP
luôn bình thường thì những bệnh nhân phải
làm thêm thử nghiệm hỗ trợ có tỉ lệ kết cục chu
sinh bất lợi cao hơn có ý nghĩa (9,3% so với 4,9
% , p <0,001), và tỉ lệ trẻ non tháng cũng cao
hơn (5,2 % so với 2,4 %, p <0,001). Và kết luận
do nhóm nghiên cứu đưa ra là Trắc đồ sinh vật
lý cải biên thật sự là một phương pháp theo dõi
thai rất tốt và có thể định ra được nhóm bệnh
nhân nguy cơ cao có kết cục chu sinh bất lợi và
sinh trẻ non tháng.
Bản thân riêng thể tích lượng ối cũng có ý
nghĩa quan trọng trong tiên lượng dự hậu thai
[38]. Sử dụng MEDLINE, truy cập tất cả các
nghiên cứu về chỉ số ối và kết cục thai từ 1987
đến 1997, 18 bài báo cáo gồm 10.551 thai phụ.
Chỉ số ối <5 trước sanh gây tăng nguy cơ mổ
sanh vì suy thai (RR: 2,2; 95%CI: 1,5-3,4), tăng tỉ
lệ Apgar 5 phút <7 (RR: 5,2; 95%CI: 2,4-11,3).
Cũng vậy, chỉ số ối AFI<5 trong chuyển dạ gây
tăng nguy cơ mổ sanh vì suy thai (RR: 1,7;
95%CI: 1,1-2,6), tăng tỉ lệ Apgar 5 phút <7 (RR:
1,8; 95%CI: 1,2-2,7) [39].
Bên cạnh đó, một số trung tâm tiến hành
nghiên cứu so sánh giá trị của chỉ số thể tích ối
so với NST trong ĐGSKT trước sanh, nhận thấy
đo xoang ối có giá trị hơn NST đơn thuần [40,

41].
Ngoài ra, đã có một thử nghiệm lâm sàng so
sánh kỹ thuật đo một xoang ối so với chỉ số AFI
trong BPP, nhận thấy đo một xoang giảm tỉ lệ
chẩn đoán thiểu ối mà không ảnh kết cục xấu
hơn [42].
7. Siêu âm Doppler trong thai kỳ nguy cơ cao
Siêu âm (SA) Doppler được sử dụng ở các
trung tâm để đánh giá để đánh giá trở kháng
mạch máu, đánh giá lưu lượng máu trong
những bệnh lý có sự thay đổi hệ thống động
học (dynamic system). Trước khi có mặt
Doppler, phương pháp duy nhất để đánh giá
hệ thống tuần hoàn là mạch máu đồ
(angiography), một phương pháp xâm lấn.
Năm 1983, Campbell đánh giá tuần hoàn tử
cung-nhau, ghi nhận dạng sóng tăng kháng lực
ở trường hợp tiền sản giật. Năm 1997,
Fitzgerald là người đầu tiên đã khảo sát động
mạch rốn (ĐMR). Sau đó, SA Doppler được sử
dụng tại nhiều trung tâm trong việc tiên đoán
những thai phụ có nguy cơ tiền sản giật, thai


Đánh giá sức khỏe thai – Võ Thị Thùy Diệu – YKHOA.NET
chậm tăng trưởng [43, 44].
a. Doppler động mạch rốn
Có nhiều mạch máu khác nhau của mẹ và thai
nhi được lượng giá qua phân tích hình dạng
sóng siêu âm Doppler để đánh giá về nguy cơ

có dự hậu chu sinh bất lợi hay không. Kết quả
nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có
đối chứng của Alfirevic Z, Neilson 2000 cho
thấy ĐMR có giá trị tiên đoán tình trạng thai tốt
nhất cho nhóm thai kỳ nguy cơ cao [45, 46].
Bệnh suất và tử suất chu sinh gia tăng cùng
với những bất thường của dạng sóng ĐMR
[47]. Karsdorp và cộng sự ước tính tỉ số chênh
OR của tử suất đối với mất sóng tâm trương là
4 và đảo ngược sóng tâm trương là 11. Mặc dù
hầu hết các nghiên cứu bị nghi ngờ có hiện
tượng nghịch lý trong điều trị (xem thêm trong
phần bàn luận), nhưng trong các nghiên cứu
này, kết quả Doppler được giấu kín các nhà
lâm sàng.
Siêu âm Doppler ĐMR tốt hơn các biện
pháp ĐGSKT khác (CTG, BPP) trong việc phân
biệt trường hợp thai nhỏ bình thường hay thai
nhỏ bệnh lý (Harman 2003, Soothil 1993).
Những can thiệp dựa vào dạng sóng bất
thường của ĐMR làm giảm tỉ lệ tử vong chu
sinh khoảng 38% ở thai kỳ nguy cơ cao (95%CI:
15-55%) (IA) theo Hiệp hội SPK Canada 2000.
Cũng vậy, một nghiên cứu 146 thai phụ từ
11/1987-12/1988 tại Đại học Alabam so sánh giá
trị của Doppler ĐMR so với các biện pháp
ĐGSKT khác trong việc tiên lượng hậu vận
thai. Kết quả ghi nhận nếu S/D ĐMR ≥4 và
NST/OCT bất thường thì có mối liên hệ mật
thiết với các kết cục xấu của thai như: 47% thai

chậm phát triển trong tử cung, 67% suy thai
cần mổ sanh, 86% cần nhập săn sóc sơ sinh tăng
cường. Tuy nhiên, nếu kết quả NST/OCT bình
thường thì Doppler ĐMR bất thường cũng
không quyết định một chẩn đoán và hướng xử
trí tiếp theo nào cả [48].
Ngược lại, theo Jensen OH, Guimaraes MS.,
Bệnh viện Đại học Aker, Oslo, Norway 1991
qua nghiên cứu thai chậm tăng trưởng: độ
nhạy của S/D ĐMR là 71%, giá trị tiên đoán là
57%, độ chuyên biệt là 77%. Trong khi đó, NST
có các giá trị tương ứng là 39%, 65% and 90%.
Kết luận rằng Doppler nhạy hơn CTG trong
đánh giá thai chậm tăng trưởng. Điều quan
trọng là khi phối hợp giữa Doppler và CTG
nhận thấy làm tăng độ nhạy lên 79%. Những
trường hợp Doppler bình thường, chỉ cần theo
dõi thường qui bằng CTG [49].
Trong khi đó, một nghiên cứu của L. A.
Bracero, R. Figueroa, D. W. Byrne and H. J.
Han, Trung tâm Y khoa Maimonides, Brooklyn,
NY, USA, qua 207 thai phụ đái tháo đường thai
kỳ so sánh giá trị của NST, BPP, S/D ĐMR của
thai 28-35 tuần, đồng thời nhằm mục đích tìm
thời điểm thích hợp để chấm dứt thai kỳ.
Nghiên cứu rút ra rằng [50]: (i) Với S/D ĐMR
>3,0, RR về kết cục thai xấu 2,6 (95% CI: 1,9-3,5,
P < 0,001), (ii) Với BPP <6: RR về kết cục thai
xấu 1,7 (95% CI: 0,9-2,9, P = 0,109), và (iii) Với
NST không đáp ứng: RR về kết cục thai xấu 1,7

(95% CI: 1,2-2,5, P = 0,009).
Williams cùng cộng sự Viện trường Y khoa
Yale, New Haven, Mỹ thực hiện một nghiên
cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối
chứng so sánh giá trị tiên đoán của NST và
Doppler trên 1360 thai phụ qua 36 tháng đối
với những thai kỳ nguy cơ cao ≥32 tuần thai. Tỉ
lệ mổ sanh vì suy thai thấp đáng kể trong
nhóm Doppler so với nhóm NST (30 [4,6%] so
với 60 [8,7%]; p <0,006). Kết luận của nghiên
cứu rằng Doppler ĐMR có vai trò hơn NST
trong ĐGSKT ở thai kỳ nguy cơ cao, làm giảm
tỉ lệ mổ sanh không cần thiết mà không làm
tăng bệnh suất sơ sinh [51].
Các khuyến cáo của Hiệp hội SPK Hoa Kỳ
1999 đã kết luận rằng “Sau khi cân nhắc kỹ, các
bằng chứng hiện hữu đề nghị rằng biện pháp
hàng đầu theo dõi trước sanh những trường
hợp nghi ngờ thai chậm tăng trưởng trong tử
cung bằng Doppler động mạch rốn có thể đạt
được, ít nhất là tương đương (và có thể tốt hơn)
về dự hậu thai nhi và sơ sinh như đối với việc
theo dõi bằng NST. Hơn nữa, tần suất sử dụng
biện pháp theo dõi trước sanh và các khía cạnh
can thiệp về sản khoa đều giảm hơn khi sử
dụng Doppler” [1]. Hiệp hội SPK Hoa Kỳ cũng
phát biểu rằng “ Nếu như Doppler động mạch
rốn được sử dụng, các quyết định liên quan
đến thời gian sanh nên kết hợp thông tin từ
siêu âm Doppler và những thử nghiệm ĐGSKT

khác, như đánh giá lượng ối, NST, ST và BPP”
[1].
Cũng theo khuyến cáo của Hiệp hội SPK
Hoa Kỳ, “Ngoài ích lợi đối với thai chậm tăng
trưởng trong tử cung thì Doppler ĐMR không
có ích lợi gì khác được chứng tỏ, như đối với
thai quá ngày, đái tháo đường, lupus ban đỏ
hay hội chứng anti-phospholipid. Siêu âm
Doppler đã không được chứng minh là có giá
trị như là thử nghiệm tầm soát tình trạng suy
thai nói chung và do đó việc sử dụng nó cho


Đánh giá sức khỏe thai – Võ Thị Thùy Diệu – YKHOA.NET
mục đích này không được khuyến cáo” [1].
Bng 2. Kết cục thai so với sóng tâm trương ĐMR
(Hiệp hội SPK Canada 2000)
Kết cục EDV (+) EDV (-) EDV đảo
ngược
Chết thai 6(03%) 25(14%) 16(24%)
Chết sơ sinh 2(01%) 48(27%) 34(51%)
Sống 206(96%) 105(59%) 17(25%)
Tổng cộng 214(100%) 178(100%) 67(100%)
EDV: End Diastolic Velocity

Tuy nhiên, một phân tích meta được xuất
bản gần đây của 20 thử nghiệm lâm sàng có đối
chứng về siêu âm Doppler thì cho rằng, có đủ
bằng chứng thuyết phục về những kết quả của
siêu âm Doppler đã cải thiện được dự hậu chu

sinh ở thai kỳ nguy cơ cao, giảm được tỉ lệ phải
nhập viện, tỉ lệ khởi phát chuyển dạ và mổ lấy
thai vì suy thai và giảm được tỉ lệ tử vong chu
sinh tới 36% [52-54]. Đồng thời, Goffinet (1997)
đã tổng quan về những thử nghiệm ngẫu nhiên
có đối chứng về Doppler động mạch rốn ở thai
kỳ nguy cơ thấp, và kết luận rằng “Không có
bằng chứng nào cho rằng việc sử dụng thường
quy Doppler động mạch rốn trong dân số
chung hoặc nguy cơ thấp dẫn đến cải thiện sức
khỏe của mẹ và bé. Doppler động mạch rốn
không được khuyến cáo như là một thử
nghiệm thường quy ở thai kỳ nguy cơ thấp”
[52].
Phân tích meta cho thấy vai trò SA Doppler
ĐMR khi so sánh với các phương pháp khác đã
làm giảm 29% tỉ lệ tử vong chu sinh (95%CI: 0-
50%) [55].
b. Doppler động mạch não giữa, động mạch TC
Các nghiên cứu chưa tìm thấy sự khác biệt về
những rối loạn thần kinh vận động ở trẻ 2 tuổi
khi có bất thường về dạng sóng động mạch não
giữa. Tuy nhiên, khi trẻ 5 tuổi, sự khác biệt biểu
hiện rõ nét. Hiện nay, chưa có nghiên cứu thử
nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng về
lưu lượng máu động mạch não giữa để cho tính
thuyết phục cao hơn. Đối với động mạch tử
cung, bất thường sóng ở tuần lễ 11-14 và 23 dự
báo khả năng thai kỳ bị tiền sản giật nặng hoặc
thai chậm tăng trưởng [56]. Điều này cho phép

liệu pháp dự phòng với Aspirin liều thấp hoặc
bổ sung vitamin. Sau 34 tuần, các bất thường
sóng động mạch tử cung làm tăng nguy cơ kết
cục thai xấu gấp 4 lần.
8. Độ trưởng thành nhau
Sự xuất hiện hình ảnh bánh nhau trên siêu âm
thay đổi theo tuổi thai. Chỉ duy nhất một
nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có
đối chứng về việc đánh giá độ trưởng thành
nhau thường qui ở nhóm thai kỳ nguy cơ thấp.
Nghiên cứu cho thấy nhóm được theo dõi
thường qui có kết cục thai tốt hơn. Tuy nhiên,
nghiên cứu chưa được đánh giá cao vì cỡ mẫu
nhỏ nên chưa cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê. Cần nhiều nghiên cứu hơn nữa cho
cả nhóm nguy cơ cao và nhóm nguy cơ thấp.
Thực tế hiện nay chưa sử dụng độ trưởng
thành nhau trong thực hành lâm sàng.
9. Trình tự xuất hiện những biến đổi của các
thử nghiệm đánh giá sức khỏe thai
Bốn nghiên cứu cố gắng mô tả trình tự xuất
hiện những biến đổi của các thử nghiệm
ĐGSKT. Tuy nhiên, điều này gặp nhiều vấn đề
khó khăn vì vấn đề y đức: không thể trì hoãn
việc cho sanh một thai đang bị đe dọa, và thử
nghiệm được sử dụng để quyết định thời điểm
chấm dứt thai kỳ khi có biểu hiện bệnh lý xem
như là thay đổi cuối cùng. Mặc dù vậy, những
bất thường về dạng sóng của động mạch rốn
(ĐMR) có khuynh hướng xuất hiện đầu tiên,

tiếp đến là hiện tượng tái lập tuần hoàn não,
thay đổi dạng sóng của tĩnh mạch, cử động hô
hấp giảm, thể tích ối giảm, dao động nội tại
giảm, ĐMR mất sóng tâm trương hay đảo
ngược, cử động thai bất thường, trương lực thai
giảm, và nhịp tim thai chậm là biến cố sau
cùng. Khi thai mất hiện tượng Sparing, BPP bắt
đầu biểu hiện bất thường [57].
V. Bàn luận
Kết quả của các nghiên cứu cho thấy giá trị tiên
đoán của các PPĐGSKT rất khác nhau theo
từng đối tượng thai kỳ nguy cơ cao: bệnh lý sẵn
có, tuổi thai, rất khác nhau giữa các đơn vị tiến
hành nghiên cứu. Các chuyên gia hàng đầu về
sản khoa nhiều lần ngồi lại với nhau để lý giải
cho sự việc này. Họ đưa ra một số luận cứ,
khuyến cáo những nhà lâm sàng sản khoa khi
sử dụng các PPĐGSKT cần thông suốt một số
điểm cơ bản sau dưới con mắt của nhà dịch tễ
học.
1. Những hiểu biết của chúng ta về “Suy
thai” ban đầu bắt nguồn từ những thử nghiệm
trên động vật bằng cách làm hẹp những mạch
máu nuôi thai, gây ra hiện tượng thiểu năng
oxygen mạn tính (chronic hypoxemia). Chính


Đánh giá sức khỏe thai – Võ Thị Thùy Diệu – YKHOA.NET
vì vậy, những phác đồ chẩn đoán và xử trí trên
người được rút ra từ đấy sẽ không thể đạt mức

chuẩn xác tuyệt đối.
2. Hơn thế nữa, để đánh giá giá trị tiên đoán
của một thử nghiệm ĐGSKT, chúng ta thường
xét sự tương hợp các kết quả giá trị của các thử
nghiệm so với các thông số đo lường kết cục
thai. Các thông số này chia làm 2 nhóm: thông
số tức thời và kết cục tuyệt đối (Sơ đồ 1). Các
thông số đo lường tức thời bao gồm: pH máu
cuống rốn, Apgar tại thời điểm 5 phút, sự cần
thiết nhập đơn vị săn sóc sơ sinh tích cực, bệnh
não sơ sinh [58]. Kết cục tuyệt đối bao gồm: Tử
vong, Bại não (Bại não được định nghĩa là liệt
cứng tứ chi, rối loạn phối hợp động tác), Kém
phát triển tâm thần vận động (Kém phát triển
tâm thần vận động được định nghĩa là giảm
hoặc mất khả năng thực hiện các động tác đi,
ngồi, sử dụng bàn tay hoặc điều khiển đầu).
Chính kết cục tuyệt đối này mới là thông số có
giá trị thuyết phục, là những thông số phản ánh
thật sự hoạt động não bộ của trẻ [59]. Tuy
nhiên, để đo lường các thông số kết cục tuyệt
đối này, các nghiên cứu phải thực hiện trong
khoảng thời gian đủ dài, ít nhất là đến độ tuổi
bé bắt đầu đến trường, 6 tuổi, thậm chí một số
tác giả khuyến cáo có những chức năng tâm
thần vận động chỉ hoàn thiện khi trẻ 18 tuổi.
Trong thực tế, rất hiếm những nghiên cứu so
sánh với các kết cục tuyệt đối như nêu trên vì
hiện tượng mất dấu trong nghiên cứu, mà chỉ
so với những thông số tức thời. Do đó mối liên

quan giữa các thử nghiệm và kết cục thật sự
của thai (tỉ lệ tử vong thai cũng như bại não)
vẫn chưa xác định rõ ràng nên việc diễn giải ý
nghĩa các thử nghiệm hãy còn nhiều điều khá
mông lung.
3. Các kết quả của những thử nghiệm đánh
giá khỏe thai không nên cho các nhà lâm sàng
biết để tránh những nghịch lý trong điều trị
(treatment paradox). Cụ thể là, khi kết quả thử
nghiệm cho rằng tình trạng thai đang bị đe dọa,
nếu nhà lâm sàng biết được kết quả ấy, sẽ cho
những biện pháp can thiệp điều trị quá tích cực
hơn thật sự cần thiết (chẳng hạn cho thai sanh
ngay); kết cục là thai sống; trong trường hợp
đó, kết quả thử nghiệm được cho là dương tính
giả. Ngược lại, khi kết quả thử nghiệm chỉ là
dương tính giả, nhưng bị nhà lâm sàng phát
hiện, họ nghĩ đó là một tình trạng đe dọa thai
cấp cần phải can thiệp ngay. Sự can thiệp sớm
đến nỗi bé tử vong vì những biến chứng của
tình trạng non tháng. Ái ngại thay, những kết
cục thử nghiệm này lại được xem như là dương
tính thật, có giá trị tiên lượng về cái chết của
thai. Phương pháp duy nhất để tránh hiện
tượng nghịch lý này là giấu kín các kết quả thử
nghiệm, không cho các nhà lâm sàng trực tiếp
điều trị bệnh nhân được biết. Tuy nhiên, chính
sự giấu kín này lại phạm y đức vì đó là những
thông tin lâm sàng quan trọng. Đây là điều khó
khăn và cũng là điểm yếu cho các nghiên cứu

để được đánh giá có tính chuẩn mực và độ
thuyết phục cao.
4. Sự diễn giải ý nghĩa của kết quả thử
nghiệm luôn cần dựa vào các yếu tố nguy cơ
hiện có cũng như đã có của thai phụ. Chẳng
hạn, một trường hợp có BPP 6 điểm thường
gây khó khăn cho công tác chẩn đoán của các
nhà lâm sàng vì đây là điểm số trung chuyển.
Tuy nhiên, nếu BPP 6 điểm xảy ra trên một thai
phụ có tiền căn 2 lần thai chết, hiện có cao
huyết áp và xuất huyết âm đạo thì đây là một
dấu hiệu dự báo xấu cho thai kỳ lần này. Trong
khi đó, BPP 6 điểm ở một thai phụ con so,
không cao huyết áp, không triệu chứng bất
thường, chỉ định thực hiện BPP chỉ vì quá lo
lắng thì trường hợp này hoàn toàn có tiên
lượng khá hơn nhiều (xem thêm phần III.5).
5. Vì tần suất tử vong chu sinh thấp, nên để
có thể rút ra được những kết luận thật xác đáng
về giá trị của các phương pháp đánh giá sức
khỏe thai thì cần có những nghiên cứu lớn, với
cỡ mẫu ít nhất 10.000 ca mới có thể đem lại
những khuyến cáo thực hành có ý nghĩa [60].
Các phân tích meta cũng như tổng quan
Cochrane vẫn chưa đủ số lượng nghiên cứu
được xem như chuẩn để làm cơ sở rút ra những
khuyến cáo đề nghị chung [61]. Chính vì vậy,
cho mãi đến hiện nay, chưa có một phác đồ
chuẩn nào được đề xuất cho công tác thực hành
lâm sàng chung. Ở Nam Mỹ, BPP được xem

như thử nghiệm thông dụng nhất trong việc
quyết định kết thúc thai kỳ, trong khi đó, ở
Châu Âu, CTG kết hợp với Doppler được xem
như thông dụng hơn. Hầu hết các nghiên cứu
khẳng định rằng các PPĐGSKT chỉ có ích đối
với thai kỳ nguy cơ cao. Đồng thời, các khuyến
cáo lớn đều cho rằng từng đơn vị thực hành
nên có những phác đồ riêng về 4 vấn đề cơ bản:
(1) Chỉ định; (2) Phương pháp; (3) Tần số tiến
hành thử nghiệm; (4) Xử trí nhằm có những
bằng chứng thiết thực hơn. Theo Hiệp hội SPK
Hoa Kỳ 2004: không phương pháp nào là tối
ưu, vai trò, hiệu quả, tính chính xác của từng
phương pháp còn tùy thuộc vào tình trạng sinh


Đánh giá sức khỏe thai – Võ Thị Thùy Diệu – YKHOA.NET
lý bệnh sẵn có của bệnh nhân. Sự phối hợp và
lặp lại của các phương pháp có giá trị hơn hẳn
một thử nghiệm đơn độc (bằng chứng mức độ
Ib-A).


Đánh giá sức khỏe thai – Võ Thị Thùy Diệu – YKHOA.NET
S đ 1. Thử nghiệm và kết cục
















VI. Kết luận
ĐGSKT là một công việc hết sức cần thiết đối
với các nhà lâm sàng , đặc biệt là đối với những
thai kỳ nguy cơ cao. Câu hỏi luôn được đặt ra
là liệu trong số những thử nghiệm này, thử
nghiệm nào là tốt nhất tiên đoán được hậu vận
chu sinh? Theo khuyến cáo của Hiệp Hội Sản
Phụ Khoa Hoa Kỳ 1999, không có một thử
nghiệm ĐGSKT nào là tốt nhất cả! (“no best
test”) [1, 62]. Trong sổ tay hướng dẫn bệnh
nhân phát hành năm 2002 của Hiệp hội SPK
Hoa Kỳ đã vắn tắt lại như sau: “Monitoring
giúp bạn và bác sĩ của bạn trong lúc bạn mang
thai bằng cách nói cho bạn biết về sức khỏe của
con bạn. Nếu như kết quả của thử nghiệm nói
rằng có vấn đề, thì điều đó không luôn luôn có
nghĩa là con bạn có vấn đề. Đơn giản là điều đó
muốn nói rằng bạn cần sự chăm sóc đặc biệt
hơn hoặc cần làm thêm những thử nghiệm
khác. Hãy thảo luận những câu hỏi bạn muốn

hỏi với bác sĩ của bạn”.
Các khuyến cáo về đánh giá sức khỏe thai
theo Hiệp hội SPK Hoa Kỳ 2000 (mức độ B)
[63]:
1. Các thai kỳ nguy cơ cao cần sử dụng các
biện pháp đánh giá sức khỏe thai như: Theo dõi
cử động thai, Nonstress test (NST), Stress Test
(ST), Biophysical Profile (BPP), hay BPP cải
tiến.
2. Thời điểm bắt đầu đánh giá: từ 32 đến 34
tuần. Trường hợp đái tháo đường loại R hay F,
đái tháo đường kèm thai chậm tăng trưởng, đái
tháo đường kèm cao huyết áp [64] hoặc thai
phụ quá lo lắng về thai thì có thể thực hiện việc
đánh giá sớm hơn, từ 26 đến 28 tuần.
3. Nếu các kết quả trong giới hạn bình
thường, thử nghiệm sẽ được lặp lại 1-2 lần/tuần
tùy loại thử nghiệm cho đến khi sanh. Bất kỳ sự
biến chuyển nào về tình trạng bệnh lý của mẹ
hoặc sự giảm cử động thai đều cần được đánh
giá lại ngay (bằng chứng mức độ II-3B).
4. NST hay BPP cải tiến với kết quả bất
thường cần được đánh giá thêm bởi ST hay
BPP cổ điển. Việc xử trí tiếp theo dựa vào kết
quả của ST hay BPP, tuổi thai, thể tích ối và
tình trạng thai phụ.
5. Nếu không có chống chỉ định sản khoa,
tiếp theo sau các kết quả bất thường của các
PPĐGSKT là việc khởi phát chuyển dạ với việc
theo dõi tim thai cơn co liên tục. Nếu nhịp giảm

muộn lặp đi lặp lại sẽ được mổ sanh ngay.
6. Theo quan điểm hiện nay, đánh giá sức
khỏe thai trước sanh bình thường sẽ không cần
theo dõi bằng monitor trong chuyển dạ
7. Đối với thai kỳ không nguy cơ, Doppler
ĐMR không có giá trị (bằng chứng mức độ
IIIB); ngược lại, rất có giá trị đối vối thai chậm
tăng trưởng, tiền sản giật (bằng chứng mức độ
IA). Quyết định thời điểm lấy thai cần dựa vào
những thông tin từ siêu âm Doppler kết hợp
với những biện pháp đánh giá thai khác, cùng
lúc với việc theo dõi cẩn thận tình trạng của
mẹ.
VII. Vấn đề thực tiễn trong thực hành lâm
sàng
1. Tại khoa Sản bệnh bệnh viện Hùng
Vương (BVHV), số bệnh nhân nội trú tiền sản
khoảng 50 ca/ngày. Các trường hợp này nhập
khoa tiền sản đương nhiên là các thai kỳ nguy
cơ cao. Như vậy, nhu cầu cần được ĐGSKT khá
nhiều. Trong 50 ca tiền sản này có khoảng 20 ca
Thử nghiệm đánh giá
sức khỏe thai
Thông số đo
lường tức thời
Kết cục
tuyệt đối
pH máu cuống rốn
Apgar 5 phút
Cần nhập đơn vị săn

sóc sơ sinh tích cực
Bệnh não sơ sinh
CĐT
Nghe TT
NST
ST
BPP
MBPP
Doppler
Tử vong
Bại não
Kém phát triển tâm
thần vận động


Đánh giá sức khỏe thai – Võ Thị Thùy Diệu – YKHOA.NET
bệnh mới cần mắc CTG lúc vào khoa, 30 ca còn
lại do bệnh theo dõi đang lưu trú, và không
phải tất cả 30 ca này đều cần mắc CTG mà chỉ
khoảng 50% số ca, là khoảng trung bình 15 ca.
Như vậy, có khoảng 20ca bệnh mới + 15 ca
bệnh lưu cần mắc CTG = 35 ca/ngày. Trước mắt
cứ xem như các ca này cần mắc CTG với thời
gian tối thiểu 20 phút trước (số ca cần thêm thời
gian phát sinh vì OCT hay vì NST không đáp
ứng sẽ được tính phụ trội sau). Như vậy, thời
gian cần sử dụng: 35 ca x (20phút + 5phút) =
875 phút (5 phút là thời gian hao tốn giữa các
ca để chuẩn bị bệnh nhân) = khoảng 15
giờ/ngày/ cho 1 máy monitor.

Hiện khoa có 3 máy monitor hoạt động, cho
rằng 1 máy được dành cho vấn đề phát sinh
nêu trên (OCT hay NST không đáp ứng). Như
vậy, còn 1 máy trống. Tuy nhiên, thực tế không
bao giờ 3 máy tạm nghỉ mà luôn hoạt động.
Vấn đề nằm ở đâu? Trên đây là ta cho thời gian
gắn 1 CTG lý tưởng là 20 phút. Nhưng thực tế
luôn cần thời gian dài hơn. Vì sao? Vì sự nhận
định của người đọc CTG chưa an tâm với đoạn
CTG ấy mặc dù CTG thật sự không biểu hiện
đe dọa. Vấn đề là sự nhận định kết quả CTG
còn chưa chuẩn, vẫn chưa thống nhất. Tình
hình này không phải chỉ ở BVHV. Như trong
phần bàn luận về giá trị của NST (phần III.3.3),
một số nơi trên thế giới đã trang bị máy tính xử
lý các kết quả CTG để tạo sự thống nhất về việc
diễn giải CTG. Do đó, nếu bệnh viện trang bị
thiết bị phân tích CTG vi tính hóa thì liệu có thể
giảm thiểu phần nào gánh nặng thời gian cần
thiết mắc CTG chăng?
2. MBPP là phương pháp đánh giá sức khỏe
thai khá đơn giản, chỉ dựa vào 2 thông số: NST
và AFI. Các nghiên cứu trên thế giới đã phần
nào nêu ra những lợi điểm của BPP so với các
PPĐGSKT khác. Trong tình hình quá tải bệnh
nhân như hiện nay, nên chăng tiến hành nghiên
cứu về vai trò của MBPP nhằm tìm ra giải pháp
hữu hiệu nhất?
3. ST là thử nghiệm tốn nhiều thời gian, tỉ lệ
dương tính giả nhiều, ngày càng dần kém vai

trò tiên đoán tình trạng thai so với các phương
pháp khác. Do đó, cần tiến hành nghiên cứu
xác định giá trị tiên đoán của ST nhằm đáp ứng
sự tiện lợi và hiệu quả trong công tác thực
hành.
4. Tuổi thai là một yếu tố “nhiễu” trong
phần diễn dịch kết quả của PPĐGSKT. ĐGSKT
non tháng là cả một vấn đề lớn do sự chưa
trưởng thành của hệ thần kinh tự chủ [65]. Việc
ứng dụng hợp lý các PPĐGSKT cho từng tuổi
thai là một nghệ thuật của nhà sản khoa. Điều
này còn khá nhập nhằng! Xây dựng phác đồ cụ
thể cho khoa tiền sản của bệnh viện là một việc
làm cần được khuyến khích.
Tài liệu tham khảo
1. ACOG practice bulletin. Antepartum fetal surveillance.
Number 9, october 1999 (replaces technical bulletin
number 188, january 1994). Clinical management
guidelines for obstetrician-gynecologists. International
journal of gynaecology and obstetrics: the official organ
of the International Federation of Gynaecology and
Obstetrics 2000; 68(2): 175-85.
2. De Bono M, Fawdry RD, Lilford RJ. Size of trials for
evaluation of antenatal tests of fetal wellbeing in high
risk pregnancy. Journal of perinatal medicine 1990;
18(2): 77-87.
3. Dasgupta S, Saha I, Lahiri A, Mandal AK. A study of
perinatal mortality and associated maternal profile in a
medical college hospital. Journal of the Indian Medical
Association 1997; 95(3): 78-9.

4. Owa JA, Osinaike AI, Makinde OO. Trends in utilization
of obstetric care at wesley guild hospital, ilesa, nigeria.
Effects of a depressed economy. Tropical and
geographical medicine 1995; 47(2): 86-8.
5. J WSS. Selected infant mortality and related statistics,
Canada, 1921-1990. Ottawa: Statistics Canada 1993.
6. Rosen DJ, Michaeli G, Markov S, Greenspoon JS,
Goldberger SB, Fejgin MD. Fetal surveillance. Should it
begin at 40 weeks' gestation in a low-risk population?
The Journal of reproductive medicine 1995; 40(2): 135-9.
7. Whitty JE, Garfinkel DA, Divon MY. Maternal
perception of decreased fetal movement as an indication
for antepartum testing in a low-risk population. American
journal of obstetrics and gynecology 1991; 165(4 Pt 1):
1084-8.
8. Ashley D, Greenwood R, McCaw-Binns A, Thomas P,
Golding J. Medical conditions present during pregnancy
and risk of perinatal death in jamaica. Paediatric and
perinatal epidemiology 1994; 8 Suppl 1: 66-85.
9. Grant A, Elbourne D, Valentin L, Alexander S. Routine
formal fetal movement counting and risk of antepartum
late death in normally formed singletons. Lancet 1989;
2(8659): 345-9.
10. Miller DA, Rabello YA, Paul RH. The modified
biophysical profile: Antepartum testing in the 1990s.
American journal of obstetrics and gynecology 1996;
174(3): 812-7.
11. Paul RH, Miller DA. Nonstress test. Clinical obstetrics
and gynecology 1995; 38(1): 3-10.
12. Devoe LD, Arthur M, Searle N. The effects of maternal

ambulation on the nonstress test. American journal of
obstetrics and gynecology 1987; 157(2): 240-4.
13. Devoe LD, Castillo R, McKenzie J, Searle N, Robinson
B, Davis H. Sequential nonstress testing with use of each
fetus as its own control. American journal of obstetrics
and gynecology 1986; 154(4): 931-6.
14. Brown R, Patrick J. The nonstress test: How long is
enough? American journal of obstetrics and gynecology
1981; 141(6): 646-51.
15. Devoe LD, Castillo RA, Sherline DM. The nonstress test
as a diagnostic test: A critical reappraisal. American
journal of obstetrics and gynecology 1985; 152(8): 1047-
53.


Đánh giá sức khỏe thai – Võ Thị Thùy Diệu – YKHOA.NET
16. Phelan JP. The nonstress test: A review of 3,000 tests.
American journal of obstetrics and gynecology 1981;
139(1): 7-10.
17. Hueston WJ. Techniques for antepartum fetal
surveillance. American family physician 1991; 44(3):
893-904.
18. Pillai M, James D. The development of fetal heart rate
patterns during normal pregnancy. Obstetrics and
gynecology 1990; 76(5 Pt 1): 812-6.
19. Guinn DA, Kimberlin DF, Wigton TR, Socol ML,
Frederiksen MC. Fetal heart rate characteristics at 25 to
28 weeks' gestation. American journal of perinatology
1998; 15(8): 507-10.
20. Oncken C, Kranzler H, O'Malley P, Gendreau P,

Campbell WA. The effect of cigarette smoking on fetal
heart rate characteristics. Obstetrics and gynecology
2002; 99(5 Pt 1): 751-5.
21. Hage ML. Interpretation of nonstress tests. American
journal of obstetrics and gynecology 1985; 153(5): 490-
5.
22. Figueras F, Albela S, Bonino S, Palacio M, Barrau E,
Hernandez S, Casellas C, Coll O, Cararach V. Visual
analysis of antepartum fetal heart rate tracings: Inter- and
intra-observer agreement and impact of knowledge of
neonatal outcome. Journal of perinatal medicine 2005;
33(3): 241-5.
23. Bracero LA, Morgan S, Byrne DW. Comparison of
visual and computerized interpretation of nonstress test
results in a randomized controlled trial. American journal
of obstetrics and gynecology 1999; 181(5 Pt 1): 1254-8.
24. Devoe LD. Computerized fetal heart rate analysis and
neural networks in antepartum fetal surveillance. Current
opinion in obstetrics & gynecology 1996; 8(2): 119-22.
25. Salamalekis E, Vitoratos N, Loghis C, Mortakis A,
Zourlas PA. The predictive value of a nonstress test taken
24 h before delivery in high-risk pregnancies.
International journal of gynaecology and obstetrics: the
official organ of the International Federation of
Gynaecology and Obstetrics 1994; 45(2): 105-7.
26. Lenstrup C. Predictive value of antepartum non-stress
test in multiple pregnancies. Acta obstetricia et
gynecologica Scandinavica 1984; 63(7): 597-601.
27. Bhide A, Bhattacharya MS. Predictive value of the
nonreactive nonstress test in evaluating neonatal

outcome. Journal of postgraduate medicine 1990; 36(2):
104-5.
28. Keane MW, Horger EO, 3rd, Vice L. Comparative study
of stressed and nonstressed antepartum fetal heart rate
testing. Obstetrics and gynecology 1981; 57(3): 320-4.
29. Quaas L, Siebers JW, Hillemanns HG. [value of
antepartal cardiotocogram in risk pregnancies
comparative evaluation of the non-stress test and
oxytocin stress test]. Zeitschrift fur Geburtshilfe und
Perinatologie 1985; 189(4): 173-8.
30. Shalev E, Zalel Y, Weiner E. A comparison of the
nonstress test, oxytocin challenge test, doppler
velocimetry and biophysical profile in predicting
umbilical vein ph in growth-retarded fetuses.
International journal of gynaecology and obstetrics: the
official organ of the International Federation of
Gynaecology and Obstetrics 1993; 43(1): 15-9.
31. Figueras F, Martinez JM, Puerto B, Coll O, Cararach V,
Vanrell JA. Contraction stress test versus ductus venosus
doppler evaluation for the prediction of adverse perinatal
outcome in growth-restricted fetuses with non-reassuring
non-stress test. Ultrasound in obstetrics & gynecology
2003; 21(3): 250-5.
32. Manning FA, Snijders R, Harman CR, Nicolaides K,
Menticoglou S, Morrison I. Fetal biophysical profile
score. Vi. Correlation with antepartum umbilical venous
fetal ph. American journal of obstetrics and gynecology
1993; 169(4): 755-63.
33. Manning FA, Bondaji N, Harman CR, Casiro O,
Menticoglou S, Morrison I, Berck DJ. Fetal assessment

based on fetal biophysical profile scoring. Viii. The
incidence of cerebral palsy in tested and untested
perinates. American journal of obstetrics and gynecology
1998; 178(4): 696-706.
34. Salvesen DR, Freeman J, Brudenell JM, Nicolaides KH.
Prediction of fetal acidaemia in pregnancies complicated
by maternal diabetes mellitus by biophysical profile
scoring and fetal heart rate monitoring. British journal of
obstetrics and gynaecology 1993; 100(3): 227-33.
35. Alfirevic Z, Neilson JP. Biophysical profile for fetal
assessment in high risk pregnancies. Cochrane database
of systematic reviews (Online) 2000(2): CD000038.
36. Khaider AM, Borisov I, Kovachev I, Lichev B.
[ultrasonic methods for determining the volume of
amniotic fluid in a complicated pregnancy: Improved
methods for the prognosis of the perinatal outcome].
Akusherstvo i ginekologiia 1998; 37(1): 5-9.
37. Nageotte MP, Towers CV, Asrat T, Freeman RK.
Perinatal outcome with the modified biophysical profile.
American journal of obstetrics and gynecology 1994;
170(6): 1672-6.
38. Anandakumar C, Biswas A, Arulkumaran S, Wong YC,
Malarvishy G, Ratnam SS. Should assessment of
amniotic fluid volume form an integral part of antenatal
fetal surveillance of high risk pregnancy? The Australian
& New Zealand journal of obstetrics & gynaecology
1993; 33(3): 272-5.
39. Chauhan SP, Sanderson M, Hendrix NW, Magann EF,
Devoe LD. Perinatal outcome and amniotic fluid index in
the antepartum and intrapartum periods: A meta-analysis.

American journal of obstetrics and gynecology 1999;
181(6): 1473-8.
40. Tongsong T, Srisomboon J. Amniotic fluid volume as a
predictor of fetal distress in intrauterine growth
retardation. International journal of gynaecology and
obstetrics: the official organ of the International
Federation of Gynaecology and Obstetrics 1993; 40(2):
131-4.
41. el-Damarawy H, el-Sibaie F, Tawfik TA. Antepartum
fetal surveillance in post-date pregnancy. International
journal of gynaecology and obstetrics: the official organ
of the International Federation of Gynaecology and
Obstetrics 1993; 43(2): 145-50.
42. Chauhan SP, Doherty DD, Magann EF, Cahanding F,
Moreno F, Klausen JH. Amniotic fluid index vs single
deepest pocket technique during modified biophysical
profile: A randomized clinical trial. American journal of
obstetrics and gynecology 2004; 191(2): 661-7;
discussion 667-8.
43. Campbell S, Pearce JM, Hackett G, Cohen-Overbeek T,
Hernandez C. Qualitative assessment of uteroplacental
blood flow: Early screening test for high-risk
pregnancies. Obstetrics and gynecology 1986; 68(5):
649-53.
44. Bower S, Schuchter K, Campbell S. Doppler ultrasound
screening as part of routine antenatal scanning:
Prediction of pre-eclampsia and intrauterine growth
retardation. British journal of obstetrics and gynaecology
1993; 100(11): 989-94.



Đánh giá sức khỏe thai – Võ Thị Thùy Diệu – YKHOA.NET
45. Neilson JP, Alfirevic Z. Doppler ultrasound for fetal
assessment in high risk pregnancies. Cochrane database
of systematic reviews (Online) 2000(2): CD000073.
46. Farmakides G, Weiner Z, Mammapoulos M, Nikolaides
P. Doppler velocimetry. Where does it belong in
evaluation of fetal status? Clinics in perinatology 1994;
21(4): 849-61.
47. Wang KG, Chen CP, Yang JM, Su TH. Impact of reverse
end-diastolic flow velocity in umbilical artery on
pregnancy outcome after the 28th gestational week. Acta
obstetricia et gynecologica Scandinavica 1998; 77(5):
527-31.
48. Lowery CL, Jr., Henson BV, Wan J, Brumfield CG. A
comparison between umbilical artery velocimetry and
standard antepartum surveillance in hospitalized high-
risk patients. American journal of obstetrics and
gynecology 1990; 162(3): 710-4.
49. Jensen OH, Guimaraes MS. Prediction of fetal outcome
by doppler examination and by the non-stress test. Acta
obstetricia et gynecologica Scandinavica 1991; 70(4-5):
271-4.
50. Bracero LA, Figueroa R, Byrne DW, Han HJ.
Comparison of umbilical doppler velocimetry, nonstress
testing, and biophysical profile in pregnancies
complicated by diabetes. Journal of ultrasound in
medicine 1996; 15(4): 301-8.
51. Williams KP, Farquharson DF, Bebbington M,
Dansereau J, Galerneau F, Wilson RD, Shaw D, Kent N.

Screening for fetal well-being in a high-risk pregnant
population comparing the nonstress test with umbilical
artery doppler velocimetry: A randomized controlled
clinical trial. American journal of obstetrics and
gynecology 2003; 188(5): 1366-71.
52. Goffinet F, Paris J, Heim N, Nisand I, Breart G.
Predictive value of doppler umbilical artery velocimetry
in a low risk population with normal fetal biometry. A
prospective study of 2016 women. European journal of
obstetrics, gynecology, and reproductive biology 1997;
71(1): 11-9.
53. Goffinet F, Paris J, Nisand I, Breart G. [clinical value of
umbilical doppler. Results of controlled trials in high risk
and low risk populations]. Journal de gynecologie,
obstetrique et biologie de la reproduction 1997; 26(1):
16-26.
54. Goffinet F, Paris-Llado J, Nisand I, Breart G. Umbilical
artery doppler velocimetry in unselected and low risk
pregnancies: A review of randomised controlled trials.
British journal of obstetrics and gynaecology 1997;
104(4): 425-30.
55. Giles WB. Doppler ultrasound in multiple pregnancies.
Bailliere's clinical obstetrics and gynaecology 1998;
12(1): 77-89.
56. van den Elzen HJ, Cohen-Overbeek TE, Grobbee DE,
Quartero RW, Wladimiroff JW. Early uterine artery
doppler velocimetry and the outcome of pregnancy in
women aged 35 years and older. Ultrasound in obstetrics
& gynecology 1995; 5(5): 328-33.
57. Gagnon R, Van den Hof M. The use of fetal doppler in

obstetrics. Journal of obstetrics and gynaecology Canada
2003; 25(7): 601-14; quiz 615-6.
58. Adamson SJ, Alessandri LM, Badawi N, Burton PR,
Pemberton PJ, Stanley F. Predictors of neonatal
encephalopathy in full-term infants. BMJ (Clinical
research ed 1995; 311(7005): 598-602.
59. MacLennan A. A template for defining a causal relation
between acute intrapartum events and cerebral palsy:
International consensus statement. BMJ (Clinical
research ed 1999; 319(7216): 1054-9.
60. Z A, JP N. Biophysical profile for fetal assessment in
high risk pregnancies (cochrane review). In:The
Cochrane Library Oxford 1998(3).
61. Pattison N, McCowan L. Cardiotocography for
antepartum fetal assessment. Cochrane database of
systematic reviews (Online) 2000(2): CD001068.
62. Druzin ML. Fetal surveillance update. Bulletin of the
New York Academy of Medicine 1990; 66(3): 246-54.
63. Preboth M. Acog guidelines on antepartum fetal
surveillance. American college of obstetricians and
gynecologists. American family physician 2000; 62(5):
1184, 1187-8.
64. Lagrew DC, Pircon RA, Towers CV, Dorchester W,
Freeman RK. Antepartum fetal surveillance in patients
with diabetes: When to start? American journal of
obstetrics and gynecology 1993; 168(6 Pt 1): 1820-5;
discussion 1825-6.
65. Smith CV. Antepartum fetal surveillance in the preterm
fetus. Clinics in perinatology 1992; 19(2): 437-48.


×