Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Đánh giá hiện trạng hoạt động của hệ thống thủy nông phục vụ kế hoạch sử dụng đất 2006 - 2010 huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 120 trang )

THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

1. MỞ ĐẦU

1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất và nước là hai nguồn tài ngun q giá của nhân loại vì nó là cội
nguồn của sự tồn tại, nguồn gốc của mọi sự sống trên trái đất. Đối với nông
nghiệp đất là tư liệu sản xuất đặc biệt. Cùng với đất, nước là yếu tố hàng đầu để
sản xuất nông nghiệp. Trong sản xuất nơng nghiệp ơng cha ta đã có câu “Nhất
nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”.
Mối quan hệ giữa đất, nước và cây trồng luôn mật thiết với nhau. Cây
trồng sinh trưởng, phát triển được là nhờ các yếu tố nước, chất dinh dưỡng, nhiệt
độ, ánh sáng, khơng khí, trong đó nước có vai trị đặc biệt ở chỗ nó vừa có khả
năng điều hồ các yếu tố cịn lại vừa phát huy tác dụng của chúng làm cho cây
trồng phát triển.
Tuy nhiên tài nguyên nước phân bố không đồng đều trong không gian và
thời gian, chưa đáp ứng với yêu cầu nước của cây trồng trong hệ thống luân
canh, chưa phù hợp với tốc độ phát triển của sản xuất nơng nghiệp. Vì vậy việc
tưới, tiêu nước là biện pháp kỹ thuật nhằm phát huy tốt nhất hiệu quả việc sử
dụng nguồn tài nguyên đất. Hơn nữa, ngày nay khoa học kỹ thuật ngày càng
được áp dụng rộng rãi trên đồng ruộng, cơ cấu cây trồng thay đổi theo hướng
công nghiệp hố hiện đại hố nơng nghiệp - nơng thơn, nhiều giống mới có yêu
cầu thâm canh cao, lượng nước yêu cầu lớn, nhiều loại cây trồng có giá trị hàng
hoá cao được đưa vào sản xuất dẫn đến nhu cầu nước của từng hệ thống cây
trồng, từng công thức luân canh cũng thay đổi so với trước. Để đáp ứng đủ nước
theo yêu cầu thâm canh tăng vụ các cơng trình thuỷ nơng phục vụ tưới, tiêu chưa
đáp ứng được đầy đủ yêu cầu trên. Hay nói cách khác là áp lực về năng xuất cây
trồng lên một đơn vị diện tích canh tác phụ thuộc vào việc tưới, tiêu chủ động
hay khơng.
Hiện nay cả nước hiện có 75 hệ thống thuỷ nông lớn, gần 1.970 hồ chứa
nước lớn và một lượng tương tự như vậy là hồ chứa, đập nhỏ, trên 10.000 trạm


1


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
bơm và 1000 km kênh trục lớn với tổng giá trị quy ra tiền tới 100.000 tỷ đồng.
Nhưng do hệ thống thuỷ lợi qua quá trình sử dụng, khai thác từ lâu đã xuống
cấp, cộng với công tác quản lý và sử dụng nước tưới không tốt (cả trên kênh và
trên mặt ruộng) đã làm cho lượng nước sử dụng cho một ha gieo trồng rất lớn,
dẫn đến thuỷ lợi phí nơng dân phải trả cho các cơng ty trong vụ xn là 300 kg
thóc/ha và vụ mùa 250 kg thóc/ha. Ngồi ra nơng dân phải trả thêm cho hợp tác
xã trong vụ xuân là 90 kg thóc/ha và vụ mùa là 70 kg thóc/ha (Đồn Dỗn Tuấn
và đồng nghiệp năm 1996). Đặc biệt sau nghị định 64 CP, trên một thửa ruộng
của hợp tác xã trước kia, nay đã có nhiều hộ nơng dân cùng canh tác với nhiều
giống và thời vụ khác nhau đã làm cho việc sử dụng nước ngày càng lãng phí,
mặc dù nhu cầu nước của cây lúa chỉ khoảng 3.600-3.800 m3/ha, mà nước tưới
thực tế biến động 3.570 - 5.246 m3/ha tuỳ theo lượng mưa của từng vụ [3].
Bên cạnh đó, hầu hết các cơng trình thuỷ nơng có quá trình khai thác kém
hiệu quả và hệ số dẫn nước kênh mương ở mức thấp nên việc sử dụng nước
ngày càng lãng phí, sự mất cân đối trong thu chi của các cơng ty, xí nghiệp thuỷ
nơng khiến nhà nước phải trợ cấp một lượng kinh phí đáng kể. Do vậy, việc
đánh giá hoạt động của hệ thống thuỷ nông là rất cần thiết, giúp cho việc quản lý
nguồn tài nguyên đất và tài nguyên nước một cách có hiệu quả.
Ninh Giang là huyện nằm trong vùng lúa trọng điểm của tỉnh Hải Dương,
kết quả chuyển đổi ruộng đất từ ô thửa nhỏ sang ô thửa lớn đã tác động mạnh
mẽ tới q trình phát triển theo hướng cơng nghiệp hố - hiện đại hố nơng
nghiệp nơng thơn. Là huyện thuần nơng nên cơng tác thuỷ nơng có vai trò quan
trọng trong việc khai thác tiềm năng đất đai.
Mặc dù hệ thống thuỷ nông đã được đầu tư xây dựng và tu bổ thường
xuyên nhưng vẫn còn một số tồn tại và bất cập. Khả năng chống úng, hạn chưa
cao, đa số cơng trình đã xây dựng từ năm 1963, tiến độ thực hiện kiên cố hoá

kênh mương đạt ở mức thấp. Những tồn tại này đã gây khó khăn cho công tác
tưới, tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp, chưa đáp ứng được nhu cầu thâm canh
tăng vụ. Đánh giá sự hoạt động của hệ thống, đưa ra các giải pháp cải tạo nâng
cấp giúp cho việc thực hiện tốt kế hoạch sử dụng đất là việc làm cần thiết.
2


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Xuất phát từ nhận thức những vấn đề bất cập trên, được sự hướng dẫn
trực tiếp của thầy giáo, PGS. Ts Nguyễn Văn Dung, giảng viên khoa Đất và Môi
trường - Trường Đại học Nông nghiệp I - Hà Nội tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Đánh giá hiện trạng hoạt động của hệ thống thuỷ nông phục vụ kế
hoạch sử dụng đất 2006 - 2010 huyện Ninh Giang - tỉnh Hải Dương”
1.2. Mục đích và yêu cầu
1.2.1. Mục đích
Nghiên cứu, phân tích, đánh giá hiện trạng hoạt động của hệ thống thuỷ
nông huyện Ninh Giang - tỉnh Hải Dương. Phát hiện những tồn tại và đề xuất
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phục vụ của hệ thống đối với công tác kế
hoạch sử dụng đất giai đoạn 2006 - 2010.
1.2.2. Yêu cầu
Các tài liệu, số liệu và thông tin trong công tác điều tra phải đầy đủ, chính
xác, trung thực phản ánh đúng thực trạng hoạt động của hệ thống thuỷ nông
huyện Ninh Giang.
Đánh giá hiện trạng phải dựa trên cơ sở định tính, định lượng và khoa học.
Đề xuất những giải pháp, kiến nghị trên cơ sở thực trạng hệ thống, phù
hợp với điều kiện địa phương, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống
phục vụ tốt cho kế hoạch sử dụng đất đến năm 2010.

3



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
Hệ thống thuỷ nông được hiểu là tập hợp các cơng trình thuỷ lợi có liên
quan với nhau để tưới và tiêu cho các loại cây trồng trong lưu vực phục vụ của
hệ thống. Cơng trình thuỷ lợi bao gồm hồ chứa nước, trạm bơm, đập, cống, kênh
mương, kè đê. Như vậy thuỷ nông được hiểu là thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông
nghiệp. Tuy nhiên, thuật ngữ thuỷ nông hiện nay được hiểu rộng hơn, không chỉ
là tưới, tiêu phục vụ sản xuất nơng nghiệp mà cịn cấp nước cho cả sinh hoạt,
công nghiệp, thuỷ sản v.v... nhưng nhiệm vụ tưới, tiêu phục vụ sản xuất nông
nghiệp phải là nhiệm vụ chính.
2.1. Tình hình sử dụng nước
2.1.1. Tình hình sử dụng nước trên thế giới
Nước bao phủ ba phần tư bề mặt trái đất, nước cũng chiếm ba phần tư
cấu tạo các mô sinh vật. Trữ lượng nước trên trái đất có hạn và chu trình nước
tiếp diễn liên tục từ dạng đặc sang dạng lỏng, chuyển sang dạng khí và ngược
lại. Trong tổng lượng nước của trái đất chỉ có 3% là nước ngọt, trong đó chỉ có
0,3% là sẵn sàng dùng được cho chúng ta. Hiện nay, ở nhiều vùng trên thế giới
vào những thời điểm nhất định, có tình trạng thiếu nước vì con người khơng
chỉ cần có nước mà nước phải đủ, đảm bảo về chất lượng, đúng lúc và đúng
chỗ.
Trong tự nhiên nước được luân chuyển theo một chu trình bay hơi và
ngưng tụ liên tục gọi là chu trình thuỷ văn, nhờ đó mà nước tham gia vào chu
trình phát triển của tất cả các hệ sinh thái. Theo tính tốn lượng nước mưa hàng
năm trên trái đất khoảng 105.000 km3, trong dó khoảng 1/3 thấm vào đất, tích
đọng ở ao hồ và hình thành dịng chảy ra sơng, 2/3 cịn lại trở lại khí quyển. Tổng
lượng nước trên trái đất khoảng 1,4 tỷ km3 nhưng 96,5% là nằm ở đại dương.
Nguồn nước ngọt mà con người có thể dùng được chỉ khoảng 2,53% tổng lượng
nước tồn trái đất, cịn lại đóng băng ở hai cực trái đất. Trong khi lượng mưa chủ

yếu lại rơi trên đại dương, trung bình năm khoảng 990 mm, lục địa trung bình
năm chỉ khoảng 650 - 670 mm, trên lục địa lượng mưa phân bố rất khơng đều nó
4


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
phụ thuộc vào khí hậu và địa hình, vùng nhiệt đới từ 2000 - 5000 mm/năm, vùng
hoang mạc dưới 120 mm/năm [5]. Từ đó cho thấy nước là một thứ tài nguyên
phân bố không đều, nhìn chung trên tồn thế giới từ một xứ khơ cằn sang một
vùng nhiệt đới lượng nước có thể biến đổi từ 1 - 1000.
Nguồn nước trên trái đất chúng ta khơng phải là vơ tận. Vì vậy từ xa xưa tổ
tiên loài người đã thấy được tầm quan trọng của nước và tìm cách cải tạo dịng
nước tự nhiên, sử dụng chúng một cách hiệu quả nhất: ở Ai Cập 5000 năm trước
công nguyên con người đã xây dựng những đập giữ nước trên sông Nile, Trung
Quốc 4000 năm trước đã xây dựng kênh đào tới 700 dặm, Ấn Độ cách chúng ta 20
thế kỷ đã có nhiều cơng trình chứa nước tưới cho lưu vực sơng Indus.
Cho đến vài thập kỷ gần đây, nhờ hệ thống thuỷ nông mà diện tích đất
được tưới tăng tương đối ổn định. Năm 1972 diện tích đất được tưới của thế giới
là 176.420.000 ha, năm 1982 tăng lên là 215.253.000 ha, năm 1987 là
227.108.000 ha. Trong đó chỉ riêng khu vực Châu Á diện tích đất được tưới năm
1972 là 113.888.000 ha, năm 1982 là 135.297.000 ha, năm 1987 là 142.301.000
ha, năm 1992 là 181.533.000 ha và Trung Quốc là nước có diện tích đất được
tưới lớn nhất trong khu vực và trên thế giới, diện tích đất được tưới năm 1992 là
49.030.000 ha, đến nay con số này là trên 5 triệu ha. Cùng với sự tiến bộ về
khoa học kỹ thuật và áp lực về an ninh lương thực của tồn nhân loại, diện tích
đất được tưới khơng ngừng tăng, đây là điều đáng mừng cho ngành nông nghiệp
thế giới.
Ngày nay việc sử dụng nước của con người không ngừng tăng lên do dân số
tăng, đầu thế kỷ 20 dân số toàn cầu là 1,6 tỷ người nhưng đến cuối năm 1999 đã đạt
6 tỷ, tăng 3,75 lần, điều này đã khiến cho nước dùng cho công nghiệp tăng 20 lần,

nước dùng cho nông nghiệp tăng 7 lần, nước cho sinh hoạt tăng 10 lần. Ngoài sự
gia tăng dân số khiến nhu cầu sử dụng nước gia tăng cịn có các nguyên nhân khác
như cách sống của con người thay đổi cần sử dụng nhiều nước hơn, nhất là nhu cầu
nước sạch cung cấp cho các thành phố lớn. Trên thế giới có hơn 100 quốc gia và
khu vực bị thiếu nước với mức độ khác nhau, trong đó có 4 quốc gia bị thiếu nước
nghiêm trọng. Vùng thiếu nước trên trái đất chiếm tới 60% diện tích châu lục, trong
5


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
các nước đang phát triển có tới 60% số người thiếu nước sạch trong sinh hoạt, 80%
bị bệnh tật có liên quan đến ơ nhiễm nước.
Có thể nhận thấy rằng trong những năm gần đây, để phát triển ngành nơng
nghiệp hầu hết Chính phủ các nước trên thế giới đều rất chú trọng đến công tác thuỷ
lợi, cả về đầu tư xây dựng hệ thống và tổ chức quản lý khai thác, sử dụng các cơng
trình. Ở những nước phát triển đầu tư các cơng trình thuỷ lợi hồn chỉnh, (tưới, tiêu
chủ động), các nước đang phát triển xây dựng các cơng trình thuỷ lợi đầu mối có tính
chất trọng điểm, các cơng trình có sự tham gia của cộng đồng, tư nhân tự bỏ vốn xây
dựng cơng trình. Đa dạng hố các hình thức đầu tư và quản lý các cơng trình thuỷ lợi
tất cả phục vụ nền nông nghiệp phát triển bền vững.
2.1.2 Tình hình sử dụng nước ở Việt Nam
Lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam gắn liền với sự
hình thành của hệ thống đê điều, hệ thống kênh rạch chống lũ, hàng ngàn năm
mở mang vùng đất mới, phát huy mặt lợi, hạn chế mặt hại của nước để tồn tại và
phát triển. Cũng nhờ lợi thế đó, một nền văn minh lúa nước đã hình thành từ
hàng nghìn năm trước ở vùng đồng bằng Sơng Hồng và di cư vào đồng bằng
Sông Cửu Long 300 năm trước đây.
Là một quốc gia có nguồn tài nguyên nước phong phú với mức bình quân
trên đầu người hiện nay là 12.000m3/năm, nhưng 2/3 lượng nước nói trên lại phát
sinh từ lãnh thổ các nước khác ở thượng lưu, như thượng lưu khu vực sông Hồng,

trung và thượng lưu khu vực sơng MêKơng. Vì thế lượng nước qua lãnh thổ Việt
Nam phụ thuộc một phần vào tình hình khai thác và sử dụng nước của các nước
trên. Do địa hình bị chia cắt bởi nhiều dãy núi song song và do chế độ mưa khơng
đồng nhất nên dịng chảy phân bố không đều trên lãnh thổ.
Vùng đồng bằng sông Cửu Long có tổng lượng dịng chảy là 507,8 tỷ m3,
trong đó 95% lượng nước từ bên ngồi lãnh thổ chảy vào, lượng nước qua vùng
chiếm 61% quỹ nước mặt của toàn lãnh thổ. Tuy lượng nước phong phú nhưng
vẫn còn hai hạn chế cho sự phát triển của một số vùng thuộc đồng bằng sơng
Cửu Long đó là “ngập lụt về mùa mưa và hạn hán về mùa khô”[14].
Vùng đồng bằng Bắc Bộ là vùng có tiềm năng nước đứng thứ hai trong
6


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
cả nước với tổng lượng dịng chảy bình qn nhiều năm là 159 tỷ m3, chiếm
19% quỹ nước của quốc gia. Bình quân ở Bắc Bộ mỗi ha hàng năm có 13.900
m3 nước trong đó 8.940 m3 được phát sinh trong lãnh thổ (64%). Dung tích các
hồ chứa ở Bắc Bộ đã đạt trên 8 tỷ m3 nước. Hầu như trên các sông vừa và nhỏ
trong vùng đều đã có các hồ chứa hoặc các cơng trình cấp nước làm tăng dịng
chảy và lượng dịng chảy trong mùa kiệt [14].
Vùng Bắc Trung Bộ là vùng đứng thứ 3 về tiềm năng nguồn nước với
lượng nước trung bình nhiều năm là 83,4 tỷ m3 chiếm 9,4% quỹ nước quốc gia
trong đó có 11,9 tỷ m3 từ bên ngồi đổ vào. Lượng dịng chảy tháng kiệt nhất chỉ
chiếm 1,3% lượng dòng chảy cả năm nên ở Bắc Trung Bộ cũng được xây dựng
nhiều hồ chứa nhỏ để tăng cường lượng dòng chảy vào mùa kiệt [14].
Vùng Nam Trung Bộ có tiềm năng nước mặt 59,5 tỷ m 3, bình qn có
12.000m3/ha trong năm. Do chiều dài sơng ngắn và dốc, các sơng có nguồn từ
Đơng Trường Sơn chảy thẳng ra biển nên trong vùng này khó có điều kiện xây
dựng các hồ vừa và lớn [14].
Vùng Tây Ngun chủ yếu là sơng Sêsan và sơng Serepok có tổng dịng

chảy của cả hai sơng là 27,8 tỷ m 3 trong đó lưu vực sơng Sesan có tiềm năng
nguồn nước mặt là 12.000 m 3/ha/năm, cao hơn lưu vực sông Serepork (7.540
m 3/ha/năm). Hiện trên sông Sesan đã xây dựng thuỷ điện Yaly có dung tích
điều tiết 700 triệu m 3. Trên sơng Serepok chưa có hồ chứa nước lớn nhưng có
rất nhiều hồ chứa nhỏ tưới cho lúa và cây công nghiệp như cà phê, tiêu, cao su
[14].
Vùng Đơng Nam Bộ có lượng nước đến hàng năm là 36,6 tỷ m3, trong đó
chỉ có 4 tỷ m3 chảy vào lãnh thổ Campuchia. Lượng dịng chảy đến trung bình
năm là 10.200 m3/ha, trong đó 9.100 m3/ha là do phát sinh tại chỗ. Do lượng
mưa càng giảm theo độ cao bề mặt lưu vực nên càng về phía ven biển và phía
Nam của vùng thì lượng dịng chảy do mưa tại chỗ giảm. Hiện nay trong vùng
đã có nhiều hồ chứa với dung tích 4.800 triệu m3 để điều tiết nước tưới và cung
cấp cho sinh hoạt, công nghiệp.
Nhờ nguồn nước phong phú, tổ tiên chúng ta từ xa xưa đã nhận thức được
7


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
tầm quan trọng của thuỷ lợi đối với đời sống và phát triển sản xuất nơng nghiệp.
Tuỳ thuộc vào q trình phát triển xã hội trong từng giai đoạn mà các phương
tiện, biện pháp khai thác tài nguyên nước cũng khác nhau. Thời gian đầu người
ta chỉ biết sử dụng nguồn nước có sẵn của tự nhiên, sau đó biết đào giếng, đào
ao để lấy nước sử dụng cho sản xuất và đời sống. Cùng với q trình phát triển
của xã hội, khoa học cơng nghệ với các phương thức khai thác tài nguyên nước
cũng được phát triển theo hướng hiện đại và hiệu quả. Quá trình khai thác tài
nguyên nước gắn liền với quá trình hình thành và phát triển hệ thống cơng trình
các cấp và hình thức quản lý tương ứng qua từng thời kỳ.
* Thời kỳ phong kiến
Thế kỷ IX, nhân dân ta đã xây dựng được cơng trình kiên cố là đê bao
thành Đại La với chiều dài 8.500 m, cao 6 m. Thế kỷ X (983), nhân dân Thanh

Hoá đã đào đắp sơng Đồng Cỏ, Thái Hồ, dưới thời Lý Thái Tôn đào sông Đan
Nãi. Thời Trần Thái Tông (năm 1231) đào sông Hào và sông Trầm. Năm 1390
đào sông Thiên Đức (sông Đuống ngày nay). Khi xã hội phong kiến nước ta
bước vào thời kỳ suy tàn, các công trình thuỷ nơng ít được xây dựng, hạn hán lũ
lụt xảy ra liên tục [21].
* Thời kỳ Pháp thuộc
Thời kỳ này, thực dân Pháp xây dựng hơn 10 cơng trình thuỷ nơng, các
cơng trình này chủ yếu phục vụ các đồn điền của Pháp như hệ thống sông Cầu,
hệ thống sông Liễu Sơn...[21].
* Sau năm 1954, dưới sự lãnh đạo của Đảng các cơng trình thuỷ nơng đã được
phục hồi nhanh chóng. Đến năm 1956, nhân dân ta đã đào đắp cơng trình 27
triệu 90 vạn m3 để tưới cho 1 triệu 56 vạn ha. Đến năm 1959 đã tiếp tục đào đắp
84 triệu 86 vạn m3 để tưới cho 1 triệu 90 vạn ha. Đáng chú ý, hệ thống đại thuỷ
nơng Bắc Hưng Hải ra đời đã góp phần làm thay đổi nước trên đồng ruộng của
tỉnh Hải Hưng cũ. Năm 1958, khi chưa có hệ thống thuỷ nơng Bắc Hưng Hải,
Hưng Yên cấy hai vụ với diện tích 209.925 ha, thu hoạch được 162.885 tấn thóc.
Năm 1959, nhờ có hệ thống thuỷ nơng Bắc Hưng Hải, Hưng n cấy hai vụ với
diện tích 246.807 ha đạt 208.860 tấn thóc (tăng 95.975 tấn so với năm 1958)
8


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
[23]. Nhờ có hệ thống cơng trình này, các tỉnh đồng bằng Sơng Hồng đã sản
xuất thêm được vụ đông và dần trở thành vụ sản xuất chính. Các cơng trình thủy
lợi đã tạo điều kiện và khả năng thâm canh cao trong sản xuất, kết quả thể hiện
rõ nhất là năng suất, sản lượng cây trồng đã được tăng lên không ngừng qua các
năm [11].
Trong ba năm phát triển kinh tế (1958 - 1960), ngồi việc xây dựng hệ
thống đại thuỷ nơng Bắc Hưng Hải, Nhà nước còn xây dựng một số trạm bơm
loại vừa như Thuỵ Phương, Gia Thượng Hà Nội, Tây và Nam Nghệ An [21].

Dưới ánh sáng Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IV, Nhà nước và nhân
dân đầu tư vốn và sức lực vào xây dựng các cơng trình thuỷ nông như Trịnh Xá,
Kim Đôi Hà Bắc, HTTN Nam Sơng Mã - Thanh Hóa; Các hồ chứa nước suối
Hai, Đại Lãi, Cẩm Ly; Các trạm bơm như La Khê (Hà Tây), Hồng Vân...
Phong trào thi đua làm thuỷ lợi nhỏ năm 1964 - 1965 đã động viên đông
đảo quần chúng nhân dân xây dựng mạng lưới cơng trình tưới, tiêu rộng khắp
đồng ruộng [21].
Những cơng trình xây dựng từ những năm 1955 - 1970, có năng lực thiết
kế tưới nước hơn gấp ba lần so với năng lực của các cơng trình xây dựng dưới
thời Pháp thuộc, bị phá hoại do chiến tranh mà Nhà nước đã khôi phục lại. Đến
năm 1970, 60% diện tích đất canh tác đã có cơng trình thuỷ lợi. Trong đó, đồng
bằng Bắc Bộ khoảng 80%, Trung du và khu 4 cũ gần 60%, miền núi gần 30%.
Các cơng trình thuỷ lợi ra đời với việc tưới, tiêu chủ động nên năng suất lúa
trong thời gian này đạt 2 - 3 tấn/ha/vụ.
Đến nay thuỷ lợi Việt Nam đã hình thành 75 hệ thống thuỷ lợi lớn và vừa,
750 hồ chứa nước lớn và vừa, trên 10.000 hồ chứa nhỏ, 2.000 trạm bơm điện lớn
và vừa, có cơng suất 450 MW, 30 vạn máy bơm với năng lực thiết kế tưới cho 3
triệu ha đất canh tác; Tiêu cho trên 1,4 triệu ha đất tự nhiên ở các tỉnh Bắc Bộ;
Ngăn mặn 70 vạn ha, cải tạo 1,6 triệu ha đất chua phèn ở đồng bằng Sơng Cửu
Long. Riêng diện tích trồng lúa được tưới chiếm 80% tổng diện tích lúa trong cả
nước. Năm 2000, diện tích lúa được tưới cả năm gần 7 triệu ha, trong đó: - Lúa
Đơng Xn: 2.860.000 ha - Lúa Hè Thu: 2.190.000 ha - Lúa mùa: 1.640.000 ha;
9


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Các hệ thống thuỷ lợi còn tưới trên 1 triệu ha cây rau màu, cây cơng nghiệp và
cây ăn quả.
2.2. Vai trị thủy nơng đối với sản xuất nông nghiệp
Trong “Luật Tài nguyên nước” được Quốc hội thông qua năm 1998, việc

bảo vệ tài nguyên nước đã được khẳng định, điều đó chứng tỏ nước có vai trị
quan trọng trong đời sống và sản xuất.
Nước đóng vai trị hết sức quan trọng trong đời sống sinh vật, đối với cây
trồng nó là yếu tố quyết định sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng. Trong
cây nước chiếm tới 3/4 trọng lượng, trong chất nguyên sinh hàm lượng nước
chiếm tới 90%. Nước tham gia các quá trình trao đổi chất, là nguyên liệu để thực
hiện quá trình quang hợp, nước là phương tiện vận chuyển các chất trong cây,
đảm bảo trạng thái có lợi cho sự sinh trưởng. Nói cách khác nước vừa tham gia
cấu trúc nên cơ thể thực vật, vừa quyết định các biến đổi sinh hoá và các hoạt
động sinh lý trong cây cũng như quyết định sự sinh trưởng, phát triển của cây.
Chính vì vậy nước được xem là yếu tố sinh thái quan trọng nhất đảm bảo và
quyết định năng xuất cây trồng.
Trong suốt đời sống của cây, nước lúc nào cũng cần thiết để thay thế
lượng nước mất đi. Nhưng ở những thời kỳ khác nhau thì cây cần lượng nước
không giống nhau. Ở bất kỳ thời kỳ sinh trưởng nào của cây nếu thiếu nước đều
gây ảnh hưởng xấu, nhưng có một thời kỳ thiếu nước sẽ gây tác hại nghiêm
trọng đến năng suất và chất lượng sản phẩm thu hoạch của cây - thời kỳ đó gọi
là thời kỳ khủng hoảng nước của cây hay thời kỳ nhạy cảm với sự thiếu hụt
nước [12]. Ở thời kỳ này cây tiêu thụ nước với hiệu suất tích luỹ chất khơ cao
nhất và nước đóng vai trị quyết định năng suất cuối cùng. Ví dụ đối với cây lúa
giai đoạn làm địng, trổ bơng và phát triển hạt cho đến khi lúa chín tức là thời kỳ
tích luỹ chất khô, nếu ở giai đoạn này thiếu nước sẽ gây nên hiện tượng lem lép
hạt.
Ngồi ra chúng ta cịn thấy rõ tác dụng của nước đối với việc cải tạo các
loại đất mặn, đất chua, đất lầy thụt, đất bạc màu v.v... Trong công tác cải tạo các
loại đất này thì thuỷ lợi ln đi trước một bước, tạo nên các loại đất thích hợp
10


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

cho cây trồng, góp phần giữ vững và ổn định sản xuất.
Trong sản xuất nông nghiệp, hiệu quả của tưới, tiêu mang lại không thể
phủ nhận. Tổng kết thực tế của Vụ quản lý và khai thác cơng trình thuỷ lợi cho
biết: ở nước ta tưới, tiêu cho lúa có thể tăng sản lượng lên 20%- 30%. Nhờ có
các cơng trình thuỷ lợi, chúng ta đã chế ngự được thiên nhiên, hạn chế được
những tác hại do thiên tai như lũ lụt, hạn hán. Từ xa xưa ông cha ta đã biết làm
thuỷ lợi như quai đê lấn biển, thau chua, rửa mặn, tạo nên những làng, xã, những
huyện mới như: Tiền Hải - Thái Bình, Kim Sơn - Ninh Bình.
Nhờ sử dụng nước tưới từ các cơng trình thuỷ lợi, các sản phẩm nơng
nghiệp được sản xuất với chi phí thấp, khả năng cạnh tranh cao, sản xuất trên
diện tích lớn; Tăng trưởng sản xuất ổn định, nguồn lực sản xuất nông nghiệp
như lao động, đất đai được khai thác và sử dụng một cách hợp lý; Đảm bảo an
ninh lương thực quốc gia, phát triển nông nghiệp cân đối và bền vững.

11


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Nhiều cơng trình thuỷ lợi được xây dựng ngồi việc cung cấp nước cho
nơng nghiệp còn cấp nước đầy đủ và ổn định cho sinh hoạt và phát triển tiểu thủ
công nghiệp, các khu công nghiệp ở thị xã, thành phố. Nhiều cơng trình thuỷ lợi,
hồ đập chứa nước tạo ra cảnh quan môi trường rất lý tưởng để khai thác nuôi
trồng thuỷ sản, phát triển du lịch. Có cơng trình thuỷ lợi sử dụng nước rất độc
đáo đã góp phần tạo nên kỳ quan thế giới như vườn treo Babilon.
Nhu cầu về nước là rất lớn và không thể thay thế, đặc biệt đối với các
quốc gia, các vùng sản xuất nông nghiệp. Trong nền kinh tế mở hiện nay, nông
nghiệp nông thôn đang có nhiều đổi mới, đời sống nhân dân ổn định và từng
bước nâng cao, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao trong q trình sản xuất của
nhân dân thì cơng tác thuỷ lợi ngày càng trở nên quan trọng và thường xuyên
được quan tâm..

Ở Việt Nam, yêu cầu nước tưới phục vụ sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ
trọng 80-90% tổng lượng nước dùng, có vai trị quyết định đối với năng suất, sản
lượng cây trồng, nhất là lúa nước [7]. Vai trò của nước đối với cây trồng được xếp
ngang hàng với 3 yếu tố quan trọng là phân - cần - giống. Ông cha ta cũng đã
khẳng định vai trị của nước qua câu “nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”.
Theo Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thơn, việc tưới tiêu nước cho lúa
hợp lý góp phần làm tăng năng suất từ 17-25% [15]. Kết quả nghiên cứu của Cục
quản lý và Khai thác cơng trình thủy lợi ở nước ta đã chỉ ra tưới, tiêu cho lúa góp
phần làm tăng năng suất từ 20-30%. Ở Trung Quốc, kết quả nghiên cứu cho thấy
nếu đảm bảo đủ nước tưới cho lúa sẽ làm tăng sản lượng 30% [18].
Theo nghiên cứu của bộ môn Thuỷ nông - Trường Đại học Nông nghiệp I
- Hà Nội, yêu cầu nước cho tưới ải vùng Gia Lâm - Hà Nội thay đổi từ 1.700
đến 2.500 m3/ha.

12


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Theo Hồng Anh Đức - 1994 [6], lượng nước cần cho tưới ải và tưới
dưỡng vụ lúa xuân 1994 của hệ thống kênh tưới Kênh Đông - Trạm bơm Văn
Giang - Hải Dương: Lượng nước bình quân: Tưới ải: 2.600 m 3/ha, tưới dưỡng:
4.700 m3/ha.
Theo Nguyễn Văn Dung - 1998 [3], thời kỳ tưới ải và tưới dưỡng 3 năm
(1996 - 1998) ở trạm bơm La Khê - Hà Tây:
Vụ Mùa: - Tưới ải: 2.038 - 2.657 m3/ha.
- Tưới dưỡng: 1.619 - 1.787 m 3/ha.
Vụ Xuân: - Tưới ải: 3.582 - 5.133 m3/ha.
- Tưới dưỡng: 4.117 - 5.246 m 3/ha.
Ở nước ta, do địa hình phức tạp, khí hậu thay đổi theo mùa nên hàng năm
lượng dòng chảy 80% tập trung vào mùa mưa, còn lại 20% tập trung vào mùa

khô, nhưng nhu cầu dùng nước trong nơng nghiệp thì ngược lại, mùa mưa u
cầu nước tưới 20%, mùa khô yêu cầu 80% [25], [1]. Ngồi ra nước tưới làm
thay đổi mơi trường sinh thái và có tác động khơng nhỏ đến hoạt động của con
người.
Nước tưới phục vụ cho sản xuất nông nghiệp được cung cấp từ nguồn tự
nhiên thông qua hệ thống công trình thủy lợi. Để khai thác tốt cơng trình thuỷ
lợi cần phải có một cơ chế tổ chức quản lý hệ thống phù hợp.
Tình trạng khơ hạn, lũ lụt xảy ra và tác hại của nó đối với con người đã
thể hiện tác động hai mặt của nước đối với sản xuất và đời sống xã hội. Con
người với vai trò chủ thể, cần phải nhận thức rõ tác động xấu của nước để có
biện pháp điều chỉnh và hạn chế đến mức thấp nhất ảnh hưởng xấu đối với sản
xuất và đời sống.
Thủy lợi được hiểu là những hoạt động liên quan đến ý thức của con
người trong quá trình khai thác sử dụng tài nguyên nước để phục vụ cho lợi ích
của mình. Để đảm bảo việc khai thác sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên nước,
cần phải có nhân, vật, lực để xây dựng, quản lý, khai thác các cơng trình thủy lợi
nhằm đạt được nhiều lợi ích khác nhau. Tuy nhiên, mục đích bao trùm của các
cơng trình thủy lợi là phục vụ cho phát triển sản xuất nông nghiệp, cung cấp nước
13


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
sinh hoạt, cải tạo mơi trường sinh thái và hạn chế sự tác động bất lợi của nước đối
với sản xuất và đời sống. Các cơng trình thủy lợi có tác dụng ngăn nước, giữ
nước, điều tiết dòng chảy theo ý đồ của con người. Đối với nông nghiệp, tác dụng
của thủy lợi thể hiện thông qua hoạt động tưới, tiêu nhằm đáp ứng nhu cầu sinh
trưởng, phát triển của cây trồng, vật nuôi và là một trong những yếu tố quan trọng
quyết định đến năng suất cây trồng.
Ngoài những tác dụng đối với sản xuất và đời sống, các cơng trình thủy
lợi cịn có tác dụng trong việc bảo vệ môi trường, cân bằng sinh thái và mở ra

những điều kiện cho phát triển một số ngành kinh tế mới như du lịch, nuôi trồng
thủy sản, giao thơng... Như vậy, có thể thấy rằng ngồi vai trị đối với cây trồng,
các cơng trình thủy lợi xét trên các phương diện khai thác khác nhau cịn có tác
dụng nhiều mặt và hiệu quả ngày càng khả quan.
2.3. Hiện trạng hoạt động của một số hệ thống thuỷ nông ở nước ta
2.3.1. Hiện trạng hoạt động
Ở nước ta, hầu hết các cơng trình thuỷ nơng được đầu tư xây dựng từ
những năm 60 của thế kỷ trước, trải qua nhiều năm sử dụng đã xuống cấp, công
suất thực tế không đảm bảo so với yêu cầu, đó là điều dễ nhận thấy.
Theo thống kê trong 15 năm trở lại đây, hiệu quả phục vụ tưới, tiêu của hệ
thống thủy lợi đạt kết quả thấp. Trong phạm vi toàn quốc, hệ thống tưới mới chỉ đạt
được 1.261.901 ha trong tổng số 2.065.062 ha, đạt 62,7 % năng lực thiết kế. Trong
rất nhiều nguyên nhân dẫn tới kết quả hoạt động của hệ thống tưới thấp có nguyên
nhân quản lý nước mặt ruộng không khoa học [22]. Hơn nữa vụ đơng xn năm
2005, cả nước có kế hoạch gieo cấy 2,9 triệu ha lúa, nhưng khi cân đối khả năng
nguồn nước và năng lực các cơng trình thủy lợi hiện có chỉ đảm bảo tưới cho 2,7
triệu ha lúa. Đây là vấn đề cần được các ngành, các cấp quan tâm, chủ động tìm
giải pháp đối phó nhằm hạn chế thiệt hại ở mức thấp nhất do hạn hán gây ra (Nông
nghiệp nông thôn Việt Nam 28/3/2005).
Theo ông Ngơ Văn Tốn giám đốc cơng ty khai thác cơng trình thuỷ lợi
Bắc Nam Hà, tồn cơng ty có 8 trạm bơm lớn đặt dọc sông Hồng và sông Đà thì
14


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
trừ hai trạm mới xây, trạm Như Trác mới nâng cấp, năm trạm còn lại đều được
lắp đặt từ những năm 1960-1970. Các máy bơm do Liên Xô cũ và một số nước
Đông Âu chế tạo nay đã hết hạn sử dụng. “Các bảng điện, tủ điều khiển, động
cơ của máy đều lão hóa. Trục bơm nước lạc hậu đến nỗi chẳng tìm ra thiết bị
thay thế, buộc chúng tôi phải hàn vá chắp nối trục cũ rất thủ cơng”. Ơng Tốn

đánh giá hệ thống này chỉ tận dụng 60% nguồn nước thủy triều và nước xả từ hồ
Hịa Bình, cịn lại đành để trơi ra biển.
Trong hệ thống thủy lợi Bắc bộ, ngoại trừ sơng Hồng và Thái Bình, các
sơng cịn lại đều bị bồi lắng. Đầu tháng 2-2006 khi mực nước sông Hồng tại Hà
Nội xuống 1,6m thì các sơng nhỏ gần như biến thành mặt ruộng, dịng chảy
khơng hề tồn tại. Đơn cử sông Sắt, sông Châu Giang (chảy qua hai tỉnh Hà Nam,
Nam Định) bị bồi lắng với độ dày từ 0,8-1,3 m.
Theo ông Phạm Xuân Sử, cục trưởng Cục Thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và
phát triển nông thôn, thừa nhận tất cả cơng trình thủy lợi ở đồng bằng sơng
Hồng đều xuống cấp. Hằng năm, ngành thủy lợi thu thủy lợi phí được 500 tỷ
đồng nhưng phải trả cho ngành điện, trả lương gần 20.000 công nhân quản lý,
vận hành. Số kinh phí dành cho duy tu, cải tạo, nâng cấp cơng trình cịn lại rất ít.
Theo đánh giá, các cơng trình thuỷ lợi phục vụ nơng nghiệp mới khai thác được
60 - 65% năng lực thiết kế. Cá biệt có cơng trình mới khai thác được trên 30%
năng lực, việc nâng cao hiệu quả khai thác các cơng trình thêm 20% sẽ tạo ra
một tiềm năng mới với công suất tưới khoảng 600.000 ha.

15


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Bảng 2.1. Năng lực phục vụ thực tế của một số hệ thống thuỷ nông
% so
với
thiết kế
98

1

Sông Cầu


Sông Cầu

Đập dâng

Năng lực
phục vụ
(ha)
25.100

2

Thái Nguyên

Núi Cốc

Hồ chứa

6.500

54

3

Đông Anh

Đơng Anh

Trạm bơm


6.047

97

4

Bắc Hưng Hải

Bắc Hưng Hải

Tự chảy

77.298

52

5

Nam Thái Bình

Nam Thái Bình

Tự chảy

44.973

88

6


Kẻ Gỗ

Kẻ Gỗ

Hồ chứa

19.529

93

7

Quảng Nam

Phù Ninh

Hồ chứa

14.500

63

ST
T

Tên
CTKTCTTL

Tên
hệ thống


Loại hình
cơng trình

(Nguồn: thống kê của Trần Phương Diễm - tạp chí viện Thủy Lợi năm 2000)

Theo thống kê của Trần Phương Diễm - 2000 [2], năng lực phục vụ nông
nghiệp của một số hệ thống thuỷ nơng khác nhau, có cơng trình đạt trên 80% so
với thiết kế tưới như cơng trình Sơng Cầu, Kẻ Gỗ; Cơng trình đạt hiệu quả thấp
50 - 60% như Bắc Hưng Hải, Phù Ninh, Núi Cốc (Bảng 2.1).
Theo thống kê của Viện Khoa học thuỷ lợi - 1995 [16], diện tích đất được
tưới trên các khu vực ở nước ta vẫn đạt thấp. Bên cạnh đó, do đặc điểm thời tiết,
khí hậu của các khu vực khác nhau làm ảnh hưởng rất lớn đến nơng nghiệp. Khu
vực Bắc Trung Bộ diện tích tưới đạt thấp nhất chỉ 36,7%, trong khi đó đồng
bằng Sơng Hồng đạt gần 80% diện tích so với thiết kế. Một trong những chỉ tiêu
đánh giá hoạt động của hệ thống thủy nông là lượng nước tưới cho cây trồng
(chủ yếu là lúa) mà hệ thống có khả năng cung cấp.
Như vậy, các cơng trình thuỷ lợi phục vụ nơng nghiệp mới chỉ khai thác
được 52 - 98% năng lực thiết kế. Cá biệt cơng trình thuỷ nơng Bắc Hưng Hải
với loại hình cơng trình tưới tự chảy mới khai thác được 52% năng lực. Ngồi ra
có các cơng trình hoạt động rất tốt như hồ Kẻ Gỗ loại hình cơng trình hồ chứa
đạt 93% năng lực, hệ thống thuỷ lợi Đông Anh đạt 97%, hệ thống thuỷ nông
Sông Cầu đạt 98%.
Bảng 2.2. Thực tế khai thác và thiết kế về tưới của các hệ thống thuỷ nông phục
vụ vụ Đông Xuân 1994 - 1995
Khu vực

Diện tích tưới

16


Diện tích tưới

%


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Đồng bằng Sơng Hồng

thiết kế (A)
661.000

thực tế (B)
524.000

(B/A)
79,2

Khu vực Bắc Trung Bộ

339.900

124.800

36,7

1.128.000

781.000


69,2

Đồng bằng Sông Cửu Long

(Nguồn: Tuyển tập kết quả khoa học và công nghệ 1994 - 1999, (tập 2), NXB Nông nghiệp, Hà Nội)

Theo thống kê của viện thuỷ lợi, thực tế khai thác về tưới cho sản xuất
nông nghiệp khác nhau giữa các vùng: Đồng bằng sơng Cửu Long có diện tích
tưới thiết kế là 1.128.000 ha, diện tích thực tưới 781.000 ha, năng lực phục vụ
thực tế đạt 69,2%. Đồng bằng sông Hồng có diện tích tưới thiết kế là 661.000
ha, diện tích thực tưới là 524.000 ha năng lực phục vụ thực tế đạt 79,2%, cao
hơn so với vùng Đồng bằng sông Cửu Long và Bắc Trung Bộ (36,7%).
Nguyễn Văn Dung - 1999 [3]: Hệ thống tưới La Khê - Hà Tây là hệ thống
tưới, tiêu bằng trạm bơm điện, hệ thống được đưa vào sử dụng năm 1963. Theo
nhiệm vụ thiết kế, hệ thống phải đảm bảo tưới, tiêu cho 4 huyện thị với tổng
chiều dài kênh chính là 33 km.
- Diện tích được tưới của hệ thống:
+ Vụ mùa năm 1997 diện tích được tưới là 5.595 ha trong đó tưới chủ
động là 2.294 ha chiếm 44%, bán chủ động là 1.231 ha chiếm 19% và tạo nguồn
là 2.070 ha chiếm 37%.
+ Vụ xuân năm 1998 diện tích tưới là 5.617 ha trong đó tưới, tiêu chủ
động là 2.581 ha chiếm 45,95%, bán chủ động là 1.123 ha chiếm 19,99%, tạo
nguồn là 1.913 ha chiếm 34,06%.
- Lượng điện tiêu thụ của hệ thống: Đối với chủ động toàn vụ năm 1997 là
318,54 kwh/ha, bán chủ động là 509,67 kwh/ha, tạo nguồn là 637,08 kwh/ha. Vụ
mùa năm 1998 chủ động toàn vụ là 230,50 kwh/ha, bán chủ động là 368,08
kwh/ha, tạo nguồn là 461,0 kwh/ha.
Nguyễn Đức Tình [24 ] - hệ thống thuỷ lợi hồ EAKAO, diện tích tưới
thiết kế của hệ thống là 1.900 ha, diện tích thực tưới của hệ thống chỉ đạt
42,68% so với nhiệm vụ thiết kế và 69,67% so với khả năng đảm nhiệm tưới

(1.164 ha) của cơng trình. Diện tích tưới nghiệm thu của cơng trình là 688 ha,
17


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
đạt 84,83% so với diện tích thực tưới 811 ha, 59% so với khả năng đảm nhiệm
tưới của cơng trình. Kết quả thu thuỷ lợi phí của hệ thống tương đối thấp chỉ đạt
43,9% - 47,4% so với kế hoạch thu. Chi phí hàng năm của hệ thống luôn ở mức
cao hơn so với tổng doanh thu, tỷ lệ thu chi ở mức thấp nhất và không ổn định.
Năm 2001 tỷ lệ thu chi của hệ thống là 55,6% và năm 2002 là 64,9%.
Hoàng Anh Đức [6] - hệ thống tưới kênh Đông (trạm bơm Văn Giang).
Cơng trình đầu mối của trạm bơm gồm 2 cụm máy bơm. Cụm máy bơm kênh
Tây gồm 4 máy, công suất mỗi máy là 250 kw với lưu lượng là 8.100 m 3/h, tưới
cho 4.477 ha. Cụm máy kênh Đơng có 3 máy, cơng suất mỗi máy là 200 kw với
lưu lượng là 7.000 m3/h, tưới cho 3.290 ha. Thời kỳ tưới ải với số giờ bơm là
1.441h, lượng điện tiêu thụ của hệ thống là 223.286 kwh và tổng lượng nước đạt
6.508.632 m 3, tưới tự chảy qua trạm bơm di động cấp 2 tổng lượng nước là
2.559.103,08 m3, lượng điện tiêu thụ là 17.654,886 kwh. Thời kỳ tưới dưỡng với
thời gian bơm là 1.454h, lượng điện tiêu thụ là 228.155 kwh, tổng lượng nước
cung cấp là 10.936.181 m3 và 4.399.874,80 m 3 nước tương ứng với lượng điện
tiêu thụ là 109.996,870 kwh đối với tưới tự chảy qua trạm bơm di động cấp 2.
Hàng năm, sau khi xí nghiệp quyết tốn thu chi, tổng chi ln vượt so với tổng
thu do đó Nhà nước vẫn phải bù lỗ. Tỷ lệ thu chi của hệ thống chỉ đạt 74,8%
năm 1993 và 77,3% năm 1994.
Hệ thống thuỷ nông Bắc Hưng Hải nằm giữa đồng bằng Sơng Hồng có
diện tích tự nhiên 200.230 ha, bao gồm địa giới của 4 tỉnh Hưng Yên, Hải
Dương (thành phố Hải Dương, Bình Giang, Thanh Miện, Cẩm Giàng, Gia Lộc,
Ninh Giang, Tứ Kỳ), Bắc Ninh (Thuận Thành, Gia Bình, Lương Tài), Hà
Nội (Gia Lâm, Long Biên). Hệ thống được bao bọc bởi 4 con sông lớn với
chiều dài chảy qua hệ thống khá dài, Sơng Đuống ở phía Bắc (67km), Sơng

luộc ở phía Nam (72 km), Sơng Thái Bình phía Đơng (73 km), Sơng Hồng ở
phía Tây (57 km).
Hệ thống thuỷ nơng Bắc Hưng Hải là hệ thống thuỷ nông liên tỉnh lớn ở
miền Bắc, đa số diện tích trong vùng phải tiêu bằng bơm:
18


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Về tưới: Nguồn nước thời kỳ căng thẳng nhất là thời kỳ lấy nước đổ ải vụ
chiêm xuân, từ 20 tháng 1 đến 10 tháng 2 nếu mực nước sơng Hồng tại cống
Xn Quan bình quân đạt +1,94 m kết hợp với việc lấy nước trữ sớm từ ngày 05
tháng 1, lấy nước ngược qua Cầu Cất - Cầu Xe - An Thổ, đồng thời nạo vét khơi
thơng dịng chảy các kênh dẫn cấp 2 theo thiết kế thì đảm bảo đủ nước phục vụ
sản xuất nông nghiệp. Nếu vào tháng 1, tháng 2 mực nước tại Xuân Quan thấp
hơn 1,94 m thì tình hình cung cấp nước gặp khó khăn, cụ thể hạn vụ chiêm xuân
các năm 1998, 2003, 2004 phải lấy nước ngược qua cống Cầu Cất - Cầu Xe - An
Thổ chiếm đến 40 - 50 % tổng lượng nước yêu cầu do mực nước tại Xuân Quan
chỉ đạt +1,54 m. Mực nước thấp nhất tại Xuân Quan ngày 30/01/2005 chỉ đạt
+1,26 m, Kênh Cầu +0.86 m, Bá Thuỷ +0,66 m, tại Neo +0,58 m thấp hơn mực
nước trung bình nhiều năm từ 30 - 40cm nên các trạm bơm hoạt động không đạt
hiệu quả. Hiện nay do hệ thống kênh mương bị bồi lắng, các trạm bơm bị xuống
cấp nên việc cung cấp nước thường không kịp thời vụ, đặc bệt những năm gần
đây do sự điều tiết của hồ Hoà Bình. Năm 2005 và 2006 việc cung cấp nước
cho vụ Đơng Xn gặp rất nhiều khó khăn. Theo thống kê diện tích hạn
trong vùng hàng năm khoảng 33.000 - 36.000 ha, tuy tồn bộ diện tích được
gieo cấy nhưng phải kéo dài thời gian gieo cấy, chậm thời vụ nên ảnh hưởng
đến năng suất cây trồng và ảnh hưởng đến các vụ khác.

19



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Về tiêu: Hiện nay diện tích lưu vực là 192.045 ha được phân thành hai
vùng đó là vùng bơm trực tiếp ra sơng ngồi 51.800 ha (tiêu ra sông luộc 20.677
ha, tiêu ra sông Đuống 1.500 ha, tiêu ra sơng Thái Bình 29.410 ha), vùng tiêu
qua Cầu Xe - An Thổ 140.245 ha trong đó tiêu bằng động lực 77.550 ha, tiêu tự
chảy 62.695 ha. Hiện nay do sự biến động và thay đổi của khí tượng thuỷ văn,
sự xuống cấp của cơng trình, sự hạn chế trong đầu tư và quản lý khai thác, sự
tăng mực nước ở các cửa tiêu Cầu Xe - An Thổ nên một số diện tích bị úng, một
số vùng tiêu tự chảy nay phải tiêu bằng động lực, diện tích úng trong vùng lớn
nhất là năm 2004 với 62.062 ha, năm 2003 là 13.365 ha, năm 2005 là 7.032 ha.
Hệ thống thuỷ nông Bắc Hưng Hải cũng như các hệ thống thuỷ nông khác
của nước ta đã được xây dựng từ nhiều năm trước, hiện nay nhiều công trình đã
xuống cấp, kênh mương bị bồi lắng, các trạm bơm sử dụng đã lâu bị hư hỏng...
cần phải nâng cấp, sửa chữa, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước
trong tình hình mới.
2.3.2. Tài chính trong quản lý thủy nơng
Nhìn chung, thủy lợi phí có thể đủ khơi phục chi phí về hoạt động và vận
hành. Hầu hết các nước trong những năm gần đây mới tiến hành thu thuỷ lợi phí,
chủ yếu ở vùng thiếu nước. Ví dụ, Indonexia đưa ra phí dịch vụ thủy lợi (ISF)
mãi tới năm 1987 để khơi phục chi phí hoạt động và bảo hành những cơ sở hạ
tầng, mặc dù khôi phục tiền vốn cũng dần dần được đưa vào giá tiền nước. Ở
Philippin chủ yếu là để cấp cho việc hoạt động và bảo hành các hệ thống thủy
lợi. Giá tiền ở mùa khô cao hơn giá tiền vào mùa mưa do lượng nước cấp vào
mùa khô không đủ. Tuy nhiên, chỉ có những cánh đồng có năng suất ít nhất là
40 cavan/ha một vụ mới phải trả tiền thủy lợi phí (1 cavan = 50 kg). Những cánh
đồng có năng suất dưới 40 cavan/ha thì được miễn phí. Người nơng dân có thể
trả thủy lợi phí bằng tiền mặt hoặc bằng hiện vật. Việc quy ra tiền mặt là dựa
trên giá hỗ trợ của Chính phủ đối với lúa tại thời điểm trả tiền. Giá đối với các
loại cây trồng khác bằng 60% giá của lúa. Giá đối với các hệ thống trạm bơm là

cao hơn do phải chi phí trả tiền điện [17].
Nguồn thu của các cơng ty thuỷ nơng là thuỷ lợi phí. Mặc dù, trong 1 vụ
20


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
sản xuất nước tưới cung cấp cho 1 ha đất canh tác là như nhau nhưng mức thu
thuỷ lợi phí khác nhau.
Theo Nghị định 122/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ)
ban hành ngày 25/08/1984 về việc thu chi thuỷ lợi phí của các cơng ty khai thác
cơng trình thuỷ nơng. Quy định mức thu thủy lợi phí như sau:
- Tưới, tiêu chủ động phải nộp: 100% mức tính tốn.
- Tưới, tiêu bán chủ động phải nộp: 80% mức tính tốn.
- Tưới tạo nguồn phải nộp: 60 - 70% mức tính tốn.
Hiện nay ở Việt Nam thủy lợi phí vẫn thu theo Nghị định số
143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ, quy định chi tiết thi hành
một số điều của pháp lệnh. Các chính sách về thủy lợi phí, chính sách hỗ trợ tài
chính, đặc biệt về phát triển tổ chức quản lý thủy nông cơ sở hay các điều kiện
để thực hiện chuyển giao cơng trình cho tổ chức hợp tác dùng nước quản lý
được quy định trong Nghị định này. Một số văn bản pháp lý có liên quan cũng
góp phần khẳng định chủ trương của Nhà nước trong việc phát triển tổ chức
quản lý thủy nơng cơ sở và khuyến khích sự tham gia của cộng đồng vào công
tác quản lý thủy nơng. Nghị định của Chính phủ số 29/1998/NĐ-CP ngày
15/11/1998 khẳng định tính dân chủ là cơ sở đảm bảo tính bền vững của tổ chức
quản lý thủy nơng cơ sở....
Thủy lợi phí gắn liền với q trình xây dựng cơng trình từ bước quy
hoạch đến khâu quản lý. Định giá thủy lợi phí và thu thủy lợi phí gắn bó chặt
chẽ với tất cả các yếu tố trong quá trình đó.
Trong quy hoạch cơng trình, người ta phải xác định được nhiệm vụ cụ thể
của cơng trình đó trên cơ sở điều kiện tự nhiên và xã hội. Khi mà cả một cộng đồng

những người hưởng lợi đều có nguyện vọng và nhất trí để xây dựng thì vấn đề tài
chính cho xây dựng sẽ thuận lợi hơn (so với tự tổ chức để xây dựng). Mức đóng
góp của người dân sẽ là cao nhất để cùng với Chính phủ xây dựng (ngay ở Nhật chỉ
khi nào có tối thiểu 75% số người hưởng lợi nhất trí thì cơng trình mới được Nhà
nước tài trợ xây dựng chứ khơng phải loại bỏ). Trên cơ sở đó việc thu các khoản
tiền cho quá trình vận hành quản lý sẽ thực sự dễ dàng hơn.
21


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Trong giai đoạn xây dựng: Sự tham gia và giám sát chặt chẽ của đại diện
cộng đồng người hưởng lợi sẽ tạo ra cho họ một niềm tin rằng cơng trình của họ
sẽ bền vững. Số tiền Nhà nước và sự đóng góp của họ được đầu tư tồn bộ cho
cơng trình, và điều quan trọng họ tự thấy mình là chủ thực sự.
Trong quá trình quản lý vận hành: Thơng thường chỉ đến giai đoạn này
người ta mới nghĩ đến thủy lợi phí. Nếu chỉ là định mức được ban bố trên cơ sở
pháp lệnh thì việc thu cịn tương đối dễ dàng, nhưng nó sẽ khơng dễ đối với
vùng miền núi. Cịn nếu là định mức của cơ sở đặt ra, khơng có sự tham gia của
người hưởng lợi thì thực sự là khó. Tách rời các giai đoạn trên, người hưởng lợi
cảm thấy bị “đòi” nhiều hơn là họ tự nghĩ phải “bỏ ra” hoặc “đóng góp” cho
quản lý vận hành.
Mức thu thủy lợi phí giúp các cơng ty thủy nơng hạch toán kinh doanh,
phải đảm bảo đủ đầu tư sửa chữa các cơng trình phục vụ trong hệ thống. Chi phí
của các hệ thống ảnh hưởng lớn đến hoạt động của hệ thống. Đặc biệt việc chi
trả tiền điện chiếm tỷ lệ cao trong chi phí của hệ thống.
Một trong những ngun nhân khiến các cơng trình thuỷ nơng hoạt động
chưa hết năng suất là do thiếu kinh phí. Thủy lợi phí hiện là nguồn thu chủ yếu
của các doanh nghiệp khai thác cơng trình thuỷ nơng. Hàng năm, cả nước thu
được khoảng 500-600 tỷ đồng từ các cơng trình này, đạt 70-80% kế hoạch. Số
tiền này để đầu tư cho công tác quản lý vận hành và duy tu, bảo dưỡng cơng

trình. Song chi phí sửa chữa thường xun các cơng trình thuỷ nơng lại chưa
đảm bảo, chỉ đạt 10-15% tổng chi phí hoạt động tưới, tiêu. Chi phí tiền điện khá
lớn, chiếm tới 30-50% tổng chi phí. Ngành thủy lợi cịn "đứng ngồi khơng n"
khi giá điện tăng, nhất là theo các phương án tăng tới 20% vào giờ cao điểm.
Theo ông Phạm Xuân Sử, cục trưởng Cục Thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và
phát triển nông thôn, để phục vụ hoạt động sản xuất nơng nghiệp thì ngay cả giờ
cao điểm các trạm bơm cũng phải vận hành, do vậy thời gian tới chi phí của
ngành thủy lợi lại đội thêm 20%. Gánh nặng này đè lên vai ngành thủy lợi vì chỉ
19% các doanh nghiệp khai thác các cơng trình thuỷ nơng có doanh thu đủ bù
đắp chi phí, cịn lại 81% là thu khơng đủ bù chi.
22


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Theo Yasuyuki Kono, năm 2000, thủy lợi phí ở hệ thống tưới Nam Hà1
rất khác nhau giữa các vị trí đầu kênh và cuối kênh. Trung bình là 206 kg/ha
(3,9 % năng suất lúa trung bình),161 kg/ha (3,4 %) và 98 kg/ha (2,2 %), cho vụ
đông xuân, 123 kg/ha ( 2,8%), 101 kg/ha và 60 kg/ha (1,7%) vụ mùa tương ứng
ở đầu, giữa và cuối kênh. Trong khi năng lực thực tế của thống này chỉ đạt trung
bình từ 60 - 75 % [27].
Theo Nguyễn Thế Kỷ - 1994, thống kê nhiều năm ở trạm bơm La Khê Hà Tây chi phí tiền điện để bơm nước năm thấp nhất là 35% tổng chi phí, năm
cao nhất là 50% tổng chi phí [12].
Hồng Anh Đức - 1994, hạch tốn kinh doanh ở xí nghiệp Văn Giang cho
thấy tiền điện chiếm 34% tổng chi phí [6]. Hoặc hệ thống thuỷ lợi huyện Hoa Lư
- Ninh Bình diện tích tưới thực tế chỉ đạt 70,15%, tiêu đạt 68,31% so với nhiệm
vụ thiết kế và đây là nguyên nhân chính, tổng thu/tổng chi chỉ đạt 62,91%, trong
đó tiền điện chiếm cao nhất tới 67,68% tổng chi phí [4].
Như vậy, hệ thống thủy lợi có vai trị to lớn đối với sản xuất nông nghiệp
và phát triển nông thôn và là một trong những cơng trình thuộc cơ sở hạ tầng
trọng yếu trong nông nghiệp. Ở Việt Nam cũng như các nước trong khu vực,

tình trạng cơng trình xuống cấp và hoạt động đạt hiệu quả thấp là nguyên nhân
làm cho sử dụng nước lãng phí và cũng là ngun nhân trực tiếp làm cho nhiều
cơng trình gặp khó khăn về vấn đề tài chính, khơng đáp ứng được nhu cầu duy
tu bảo dưỡng để nâng cao hiệu quả hoạt động của cơng trình. Do vậy, vấn đề
quản lý thủy nơng khơng chỉ là kỹ thuật mà cịn là vấn đề xã hội, thể chế tổ chức
trong đó nhấn mạnh đến sự tham gia của người dân.
Ngoài ra, việc tiếp tục đánh giá thực trạng hoạt động của hệ thống là cần
thiết, để chỉ rõ những tồn tại, từ đó sẽ có cơ sở để giúp hệ thống khắc phục tình
trạng lãng phí nước và dần tiến đến diện tích tưới thực tế sẽ bằng diện tích tưới
thiết kế, điều đó có nghĩa hệ thống sử dụng nước ngày càng hiệu quả.

23


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đánh giá hiện trạng hoạt động của hệ thống thủy nông phục vụ kế hoạch
sử dụng đất 2006 - 2010 huyện Ninh Giang - tỉnh Hải Dương.
3.2. Nội dung nghiên cứu
3.2.1. Đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội liên quan đến hệ thống
thủy nông
3.2.1.1. Điều kiện tự nhiên
3.2.1.2. Điều kiện kinh tế
3.2.1.3. Điều kiện xã hội
3.2.2. Hiện trạng sử dụng đất năm 2006 và KHSDĐ đến năm 2010
3.2.3. Hiện trạng hệ thống thuỷ nông
3.2.3.1. Phân chia khu vực tưới tiêu trong hệ thống
3.2.3.2. Hiện trạng hệ thống các cơng trình của hệ thống

3.2.3.3. Tình hình úng hạn và hiệu quả của hệ thống
3.2.3.4. Tình hình tổ chức quản lý hệ thống
3.2.4. Đề xuất phương hướng giải quyết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của
hệ thống thủy nông phục vụ kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2006 - 2010
3.3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Phương pháp thu thập tài liệu
* Số liệu thứ cấp (số liệu đã công bố): Các số liệu đã công bố như đất đai,
dân số, lao động, tình hình sản xuất nơng nghiệp, hoạt động hệ thống thủy
nông...

24


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
* Số liệu sơ cấp (số liệu mới thu thập): Các số liệu về thực trạng hoạt
động hệ thống như diện tích tưới tiêu, cơng suất máy, điện năng tiêu thụ, thủy
lợi phí. Các số liệu được thu thập từ các phòng ban chức năng, các đơn vị cụm
thông qua phỏng vấn trực tiếp và điều tra quan sát hệ thống.
3.3.2. Phương pháp phân tích số liệu
* Phương pháp phân tích số liệu: Sử dụng phần mềm như Microsoft excel
để phân tích số liệu, Mapinfo, Microstation... để biên tập bản đồ.
* Phương pháp so sánh: Các chỉ tiêu số liệu cần thiết sau khi được chọn
lọc và mô tả thống kê sẽ được tiến hành so sánh trong q trình phân tích.

25


×