Tải bản đầy đủ (.pdf) (213 trang)

Từ quy luật mâu thuẫn đến vấn đề đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 213 trang )


Học viện Chính trị hành chính Quốc gia
Hồ Chí Minh



BO CO
TNG HP KT QU NGHIấN CU
TI KHOA HC CP B NM 2011
Mó s: B 11-04

Từ quy luật mâu thuẫn đến vấn đề đấu tranh giai cấp
ở nớc ta hiện nay




C quan ch trỡ: VIN TRIT HC
Ch nhim ti: TS. NG QUANG NH
Th ký ti: NGUYN TH BC


9116


Hà Nội - 2011
LỰC LƯỢNG NGHIÊN CỨU


TT
Tác giả Tên chuyên đề


1
PGS, TS Trần Văn Phòng
Viện Triết học, Học viện CT-HC quốc gia
Hồ Chí Minh
2
PGS, TS Nguyễn Thế Kiệt
Viện Triết học, Học viện CT-HC quốc gia
Hồ Chí Minh
3
PGS, TS Trần Thành
Viện Triết học, Học viện CT-HC quốc gia
Hồ Chí Minh
4
PGS, TS Nguyễn Minh Hoàn
Viện Triết học, Học viện CT-HC quốc gia
Hồ Chí Minh
5
Th.S Vũ Mạnh Toàn
Khoa Triết học, Học viện Khoa học xã
hội, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
6
TS Đặng Quang Định
Viện Triết học, Học viện CT-HC quốc gia
Hồ Chí Minh

7
Th.S Vi Thị Hương Lan
Viện CNXHKH, Học viện CT-HC quốc
gia Hồ Chí Minh
8

Th.S Hoàng Ngọc Thắng
Trường Đại học Phòng cháy chữa cháy















CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI


Chữ viết tắt Chữ được viết tắt
Chủ nghĩa cộng sản CNCS
Chủ nghĩa tư bản CNTB
Chủ nghĩa xã hội CNXH
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá CNH, HĐH
Doanh nghiệp nhà nước DNNN
Giai cấp công nhân GCCN
Giai cấp nông dân GCND
Kinh tế thị trường KTTT
Lực lượng sản xuất LLSX

Quan hệ sản xuất QHSX
Tư bản chủ ngh
ĩa TBCN
Xã hội chủ nghĩa XHCN
















MỤC LỤC



Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: QUY LUẬT MÂU THUẪN – CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐỂ NGHIÊN
CỨU VẤN ĐỀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


13
1.1. Quy luật mâu thuẫn
13
1.2. Lý luận về giai cấp, đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác –
Lênin – giá trị khoa học và ý nghĩa của nó trong thời đại ngày nay
31
Chương 2: ĐẤU TRANH GIAI CẤP Ở NƯỚC TA HIỆN NAY - THỰC
CHẤT VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

59
2.1. Thực chất của cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay
59
2.2. Những vấn đề đặt ra từ nhận thức quy luật mâu thuẫn và
quá trình thực hiện đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay
126
Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP CƠ BẢN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
ĐẤU TRANH GIAI CẤP Ở NƯỚC TA HIỆN NAY TRÊN CƠ SỞ QUY LUẬT
MÂU THUẪN

144
3.1. Một số quan điểm cơ bản để giải quyết vấn đề đấu tranh
giai cấp ở nước ta hiện nay trên cơ sở nhận thức, vận dụng quy luật
mâu thuẫn
144
3.2. Một số giải pháp cơ bản giải quyết vấn đề đấu tranh giai
cấp ở nước ta hiện nay trên cơ sở nhận thức, vận dụng quy luật mâu
thuẫn
153
KẾT LUẬN
171

NHỮNG CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
173
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
175


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thế kỷ XX, thế giới đã chứng kiến hai sự kiện chính trị nổi bật
nhất, mang tầm của những chuyển biến cách mạng, làm thay đổi trật tự thế
giới, tác động sâu sắc đến đời sống chính trị - xã hội của tất cả các quốc gia:
Thứ nhất, đầu thế kỷ XX (1917), ch
ủ nghĩa xã hội hiện thực ra đời, đưa
lịch sử nhân loại phát triển sang một trang mới, đánh dấu bước chuyển biến vĩ
đại nhất của con người trong quá trình đấu tranh vì tiến bộ xã hội. Sự ra đời
và lớn mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa đã làm thay đổi căn bản đời sống
kinh tế, chính trị - xã hội ở nhiều quốc gia trên th
ế giới, làm thay đổi cục diện
và trật tự thế giới to lớn.
Thứ hai, cuối thế kỷ XX (1991), chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và
Đông Âu bị sụp đổ. Đây là sự kiện tác động to lớn và gây ra những biến đổi
sâu sắc, làm đảo lộn toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị - xã hội trên thế giới.
Nhiều quốc gia trong hệ thống xã hội ch
ủ nghĩa mất phương hướng chính trị,
đời sống kinh tế - xã hội rơi vào khủng hoảng trầm trọng.
Sau sự kiện chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ,
trong lĩnh vực lý luận, tư tưởng đã nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp. Đây là
thời kỳ ra đời của nhiều luận điệu phản kích, bác bỏ nh

ững nội dung cơ bản
trong học thuyết cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong đó
có lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp. Nhiều tư tưởng, học thuyết của các
nhà lý luận, nhà tư tưởng tư sản đưa ra trước đó có điều kiện trỗi dậy và phát
triển mạnh mẽ. Những thuật ngữ như “xã hội siêu công nghiệp”, “các nhà hợp
nhất”, “phương tiện h
ợp nhất”, “siêu đấu tranh”, “ý thức hệ toàn cầu”…của
Alvin Toffler; “dung hợp giai cấp” của phái Phrăng Phuốc; “chủ nghĩa Mác
mới” ở các nước phương Tây, bắt nguồn từ Lucacs, Korsch, Hor Kheimer,

2
Gramsi có điều kiện tiếp tục đưa ra quan điểm phủ nhận sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân; lấy xung đột văn hoá thay thế cho đấu tranh giai cấp Tất
cả những lý luận, tư tưởng của các học giả thuộc các trường phái trên đây xét
đến cùng đều nhằm phủ nhận vai trò của chủ nghĩa Mác – Lênin; phủ nhận lý
luận đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sả
n. Họ cho rằng lý luận đấu tranh
giai cấp đã lỗi thời, xã hội không còn đấu tranh giai cấp, không còn chuyên
chính vô sản, chỉ còn sự hợp tác, thống nhất, sự tương trợ thuần tuý lẫn
nhau… Điều này đã tác động không nhỏ tới nhận thức, tư tưởng, quan điểm,
lập trường của những người mácxít.
Vậy, có phải lý luận đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác – Lênin đ
ã lỗi
thời? Có phải thời đại ngày nay không còn đấu tranh giai cấp?
Theo quan điểm của V.I.Lênin, trong thời kỳ chuyên chính vô sản, đấu
tranh giai cấp vẫn còn là tất yếu. Vì, trong nền chuyên chính vô sản, giai cấp
vô sản dùng chính quyền của mình để đè bẹp bọn bóc lột, trấn áp những lực
lượng phản cách mạng, lực lượng bảo thủ, đại diện cho lợi ích của thiểu số,
bảo vệ
đất nước; làm cho quần chúng lao động và bị bóc lột hoàn toàn tách

khỏi giai cấp tư sản, củng cố sự liên minh của giai cấp vô sản với quần chúng
lao động, lôi cuốn họ vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đảm bảo cho
giai cấp vô sản nắm được chính quyền và lãnh đạo quần chúng; dùng chính
quyền để tổ chức xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa.
Thời đại ngày nay vẫn là th
ời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội. Có thể khẳng định, trong thời đại ngày nay, đấu tranh giai cấp
vẫn còn là tất yếu, thậm chí mức độ, tính chất của cuộc đấu tranh giai cấp
hiện nay còn gay gắt và phức tạp hơn bao giờ hết.
Hiện nay, “trật tự thế giới mới” hình thành ngày càng bộc lộ bản chất
giai cấp của ch
ủ nghĩa tư bản. Đó là trật tự mà không có trật tự: bạo lực, chiến
tranh, áp bức, cường quyền, can thiệp, khủng bố dường như gia tăng hơn.

3
Cuộc khủng hoảng vùng Vịnh 1991; vấn đề nhân quyền ở Nam Tư, Côsôvô,
Ápganixtan… mà Mỹ và Nato áp đặt bằng vũ khí giết người, ngang ngược,
phi lý cho thấy bản chất của chủ nghĩa tư bản không hề thay đổi. Cho dù chủ
nghĩa tư bản làm dịu đi những mâu thuẫn trong lòng nó và chưa cạn kiệt khả
năng phát triển, nhưng có thể khẳng định rằng tự bản thân nó
đang tạo ra
những điều kiện để phủ định chính nó.
Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay đấu tranh giai cấp cũng không mất
đi, bởi cách giải quyết vấn đề dân tộc, nhân loại vẫn do các giai cấp và bị chi
phối bởi quan điểm giai cấp và lợi ích giai cấp. Trong hệ thống phức tạp
những mâu thuẫn của thời đại, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bả
n và chủ nghĩa
xã hội vẫn biểu hiện ra là mâu thuẫn cơ bản nhất. Các thế lực thù địch vẫn tìm
trăm phương nghìn kế để chống phá các nước đang đi theo con đường xã hội
chủ nghĩa, bác bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin. Với những biến đổi sâu sắc như

hiện nay của tình hình thế giới sẽ làm cho cuộc đấu tranh vì mục tiêu hoà bình
và tiến bộ xã hội càng trở nên khó khă
n, phức tạp hơn, nhất là đối với những
nước đang đi theo con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do vậy, vấn đề đấu
tranh giai cấp vẫn là nội dung cơ bản trong đường lối chính sách của các đảng
cộng sản, nhất là các đảng cộng sản cầm quyền. Mắc sai lầm trong vấn đề này
chắc chắn sẽ gây ra tổn thất to lớn cho cách mạng.
Trong đ
iều kiện hiện nay, nước ta đang phát triển kinh tế nhiều thành
phần, với sự đan xen tồn tại của các hình thức sở hữu đã làm cho cơ cấu xã
hội – giai cấp có nhiều biến đổi. Mặt khác, nước ta đang trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Đó là thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã
hội kia, nên trong thời kỳ ấy s
ự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới diễn ra rất
gay gắt. Cái mới mặc dù là tiến bộ nhưng mới ra đời nên còn non nớt chưa
chiếm ưu thế, chưa phát triển thành xu hướng chủ đạo. Cái cũ tuy đã lỗi thời
về mặt lịch sử nhưng lại chưa mất đi vì nó còn biện hộ cho lợi ích của một lực

4
lượng xã hội nhất định. Cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới đại diện cho hai
xu thế tiến bộ và lạc hậu biểu hiện thành mâu thuẫn xã hội trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị - xã hội, văn hoá tư tưởng ) làm
cho mâu thuẫn giai cấp, đấu tranh giai cấp diễn ra phức tạp. Do vậy, có thể
khẳng định, ở nước ta hi
ện nay đấu tranh giai cấp vẫn còn là tất yếu.
Nội dung chủ yếu của cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay không
ngừng củng cố chính quyền Nhà nước của dân, do dân, vì dân; đấu tranh làm
thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ
độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn
vinh, nhân dân hạnh phúc; thực hiệ

n thắng lợi công nghiệp hoá, hiện đại hoá
theo định hướng chủ nghĩa xã hội, khắc phục tình trạng nước nghèo, thực hiện
công bằng xã hội, chống áp bức bất công, đấu tranh ngăn chặn những hành
động tiêu cực, sai trái.
Tuy vậy, trong những năm qua có lúc, do nhận thức của chúng ta về vấn
đề này còn giản đơn nên chúng ta chưa có cách thức xử lý đúng đắn vấn đề
đấu tranh giai cấp. Cụ thể
là có lúc chúng ta đã tuyệt đối hóa đấu tranh, xem
nhẹ thống nhất. Trong khi giải quyết mâu thuẫn xã hội lại chủ yếu thực hiện
triệt tiêu mâu thuẫn, loại bỏ mặt đối lập Căn nguyên của những hạn chế trên
là do trong quá trình nhận thức và vận dụng lý luận đấu tranh giai cấp chúng
ta đã không dựa trên cơ sở quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập nên đ
ã mắc sai lầm tả khuynh, hữu khuynh, gây ra những tổn thất to lớn
cho cách mạng. Do vậy, để nhận thức đúng lý luận đấu tranh giai cấp của chủ
nghĩa Mác – Lênin cần phải nhận thức đúng quy luật mâu thuẫn nói riêng,
nhận thức đúng tinh thần của chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung. Điều này là
cơ sở đem lại thành công cho sự nghiệp cách mạng, thúc đẩy sự phát triển
nhanh và bền vữ
ng của đất nước.

5
Xuất phát từ những lý do trên có thể thấy, việc nghiên cứu vấn đề đấu
tranh giai cấp ở nước ta hiện nay vừa có ý nghĩa lý luận vừa có ý nghĩa thực
tiễn to lớn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu về giai cấp,
đấu tranh giai cấp nói chung và ở Việt Nam nói riêng, chủ yếu là những công
trình:
2.1. Những công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước:

Quan hệ giai cấp – dân tộc – nhân loại, của tác giả Trần Hữu Tiến,
Nguyễn Ngọc Long, Nguyễn Xuân Sơn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2002; Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về giai cấp, của tác giả Lê Hữu
Nghĩa, Tạp chí Cộng sản số 11/1994; Giai cấp và đấu tranh giai cấp – Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn, của tác giả Trần Phúc Thăng, Nxb. Lý luậ
n Chính
trị, Hà Nội, 2005; Nghiên cứu và vận dụng học thuyết đấu tranh giai cấp của
chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện hiện nay như thế nào? của tác giả
Dương Văn Thịnh, Tạp chí Triết học, số 1/2006; Vấn đề dân tộc, giai cấp,
nhân loại, của tác giả Vũ Hiền, Ngô Mạnh Lân, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội. 1995; Nhận thức và vận dụng quan đi
ểm mácxít về đấu tranh giai cấp
trong lĩnh vực bảo vệ an ninh trật tự ở nước ta hiện nay, Tạp chí Trật tự an
toàn xã hội, số 10/1997; Cách mạng tháng Mười tiếp tục soi sáng con đường
chúng ta đi, của Học viện CTQG Hồ Chí Minh và Trung tâm Khoa học Xã
hội và Nhân văn quốc gia, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.1998; Nét đặc sắc
trong việc giải quyết mối quan hệ dân tộc, giai cấp ở Việt Nam hi
ện nay, của
tác giả Nguyễn Chí Mỳ, Nguyễn Ngọc Long, Tạp chí Cộng sản số 6/1999;
Đấu tranh giai cấp với nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia trong công cuộc đổi
mới hiện nay ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Triết học, của tác giả Phạm Thái
Bình, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2001; Góp phần

6
nhận thức thế giới đương đại, của tác giả Nguyễn Đức Bình, Lê Hữu Nghĩa,
Trần Hữu Tiến (đồng chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.2003; Học
thuyết đấu tranh giai cấp - một số vấn đề lý luận và thực tiễn hiện nay, của
tác giả Nguyễn Quang Hưng, Tạp chí Triết học, số 10/2005; Tư tưởng của
V.I.Lênin về cuộc
đấu tranh của giai cấp vô sản vì dân chủ và chủ nghĩa xã

hội, của tác giả Lê Minh Quân, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số
11/2005; Độc lập dân tộc của các nước đang phát triển trong xu thế toàn cầu
hoá, của tác giả Thái Văn Long, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.2006; Chủ
nghĩa Mác – Lênin với vận mệnh và tương lai của chủ nghĩa xã hội hiện thực,
của tác giả Nguyễn Ngọc Long (chủ biên), Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà
Nội.2009; Cảnh giác với những thủ đoạn mới của chủ nghĩa tư bản trong
cuộc đấu tranh ý thức hệ hiện nay, của tác giả Trần Hữu Tiến, Tạp chí Lý
luận Chính trị, số 4 -2010
Trong Luận án Tiến sĩ Triết học Đấu tranh giai cấp với nhiệm vụ bảo vệ
an ninh quốc gia trong công cuộc đổi mới hiện nay ở Việ
t Nam, tác giả Phạm
Thái Bình đã có nghiên cứu khá sâu sắc vấn đề đấu tranh giai cấp ở nước ta.
Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về giai cấp, đấu tranh giai
cấp và kế thừa được những giá trị của những công trình khoa học trước đó,
Luận án đã nêu ra đặc điểm và thực chất của cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt
Nam hiện nay. Tác giả kh
ẳng định, đặc điểm cơ bản của cuộc đấu tranh giai
cấp ở Việt Nam hiện nay là cuộc đấu tranh được tiến hành trong điều kiện từ
một nền sản xuất nhỏ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, quá độ lên chủ nghĩa xã
hội; cuộc đấu tranh được tiến hành trong điều kiện đất nước thống nhất, d
ưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc thống nhất
hữu cơ với nhau; cuộc đấu tranh diễn ra trong điều kiện quốc tế phức tạp, các
thế lực thù địch tăng cường diễn biến hoà bình nhằm phủ định chủ nghĩa xã
hội. Tác giả cũng cho rằng, thực chất của cuộc đấu tranh giai cấp ở
nước ta

7
hiện nay là cuộc đấu tranh chống xu hướng tự phát tư bản chủ nghĩa và các

thế lực thù địch với độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác, nó là
cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đây là một nhận
thức phản ánh đúng đắn tinh thần của chủ nghĩa Mác – Lênin, có ý nghĩa lý
luận cơ bản đối với vi
ệc cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay. Tác giả
Luận án còn khẳng định, chúng ta không thể nhận thức mơ hồ về giai cấp và
đấu tranh giai cấp, thiếu quan điểm giai cấp và phương pháp phân tích giai
cấp trong việc xử lý các quan hệ xã hội - giai cấp. Phủ nhận tính khách quan
của đấu tranh giai cấp thì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
văn minh sẽ không trở thành hiện thực. Đây là quan điể
m đúng đắn để giải
quyết vấn đề đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay.
Tuy vậy, gắn việc giải quyết vấn đề đấu tranh giai cấp với nhiệm vụ bảo
vệ an ninh quốc gia nên Luận án chưa làm rõ được những sai lầm về nhận
thức và xử lý những vấn đề giai cấp cụ thể ở Việt Nam thời gian qua, do thiếu
cơ sở
lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp. Mặt khác, những nội dung của
cuộc đấu tranh giai cấp được nghiên cứu trong bối cảnh Việt Nam chưa chịu
nhiều tác động bởi các yếu tố quốc tế như hiện nay. Những vấn đề trên đây sẽ
được nghiên cứu đầy đủ trong đề tài này của nhóm tác giả.
Trong cuốn Giai cấp và đấu tranh giai cấp – Một số vấn đề lý lu
ận và
thực tiễn, tác giả Trần Phúc Thăng đã có những nghiên cứu sâu sắc về giai
cấp, đấu tranh giai cấp. Trong đó, tác giả đã lược khảo quan điểm của các nhà
tư tưởng về giai cấp và đấu tranh giai cấp trong lịch sử, từ thời cổ đại đến
trước khi chủ nghĩa Mác – Lênin ra đời; nêu ra những tư tưởng cơ bản, có giá
trị to lớn của chủ
nghĩa Mác – Lênin về giai cấp và đấu tranh giai cấp; làm rõ
điểm khác biệt căn bản giữa quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và những
quan điểm trước đó về giai cấp và đấu tranh giai cấp.


8
Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tác giả Trần Phúc Thăng đã
làm rõ thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giữa các giai cấp có
lợi ích cơ bản đối lập nhau. Đây là kết luận phản ánh đúng tư tưởng của Mác
– Lênin về đấu tranh giai cấp. Trên cơ sở đó, tác giả Trần Phúc Thăng đã có
nghiên cứu sâu về đặc điểm cu
ộc đấu tranh của giai cấp vô sản, trong đó có
cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến
nay. Tuy nhiên, vấn đề đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay, tác giả mới
chỉ nêu ra một số nội dung cơ bản nên chưa bao quát hết tính phức tạp của
vấn đề đấu tranh giai cấp ở Việt Nam, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hoá, hộ
i
nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, cơ cấu xã hội giai cấp Việt Nam đang có biến
động mạnh mẽ, các thế lực thù địch đang ra sức chống phá cách mạng. Do
vậy, vấn đề đấu tranh giai cấp trong điều kiện hiện nay phải được nghiên cứu
sâu hơn ở bình diện rộng lớn hơn, để lấy đó làm cơ sở lý luận cho việc giải
quy
ết những vấn đề của thực tiễn. Vấn đề này sẽ được nghiên cứu đầy đủ hơn
trong đề tài này của nhóm nghiên cứu.
Trong bài Cảnh giác với những thủ đoạn mới của chủ nghĩa tư bản trong
cuộc đấu tranh ý thức hệ hiện nay, tác giả Trần Hữu Tiến đã cho thấy, trong
thời đại ngày nay, chủ nghĩa tư bản hiệ
n đại với nhiều thủ đoạn tinh vi, lợi hại
thông qua các phương tiện thông tin hiện đại để chống hệ tư tưởng xã hội chủ
nghĩa. Cuộc đấu tranh ý thức hệ giữa hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa và hệ tư
tưởng tư sản diễn biến hết sức phức tạp. Cuộc đấu tranh đó thể hiện mâu
thuẫn gi
ữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản đang diễn ra gay gắt. Tình
hình đó sẽ trở nên đặc biệt nguy hiểm nếu trong Đảng có sự mơ hồ, rối loạn ý

thức hệ. Để giành thắng lợi, chủ nghĩa xã hội cần phát triển về mọi mặt: tư
tưởng, lý luận, chính trị, thực tiễn; chỉ có phát triển đúng hướng, hệ tư t
ưởng
xã hội chủ nghĩa mới thắng được hệ tư tưởng tư sản.

9
Trong bài Toàn cầu hoá và đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, được
in trong cuốn Góp phần nhận thức thế giới đương đại, tác giả Trần Hữu Tiến
đã phân tích cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc trong thời kỳ toàn cầu
hoá hiện nay. Tác giả khẳng định, cùng với áp bức, bóc lột giai cấp, áp bức,
bóc lột dân tộc vẫn tồn tại trong điều kiện toàn cầu hoá, áp bức dân t
ộc đã
tăng lên sau khi Liên xô sụp đổ. Bước sang thế kỷ XXI, chính giới tư bản, đặc
biệt là Mỹ, tăng cường rõ rệt tính chất bành trướng, phản động, hiếu chiến.
Biểu hiện rõ rệt là cuộc xâm lược tàn bạo của Mỹ và NATO ở Nam Tư, là
việc Mỹ cấu kết với Israel đàn áp dã man phong trào giải phóng dân tộc ở
Trung Đông Do vậy, có thể nói trong điều kiện toàn c
ầu hoá, các mâu thuẫn
cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khác nhau vẫn
tồn tại và phát triển, có mặt sâu sắc hơn, đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai
cấp tiếp tục diễn ra gay gắt. Trong bài viết này, tác giả còn nêu ra những đặc
điểm của phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân thời kỳ toàn cầu hoá.
Những đặc điểm đó đã phản ánh tính phứ
c tạp của cuộc đấu tranh giai cấp
hiện nay.
Ngoài những công trình chủ yếu trên đây, các công trình khác đã nghiên
cứu vấn đề giai cấp trên nhiều góc độ khác nhau, trong đó các công trình vẫn
có sự thống nhất về thực chất của đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay là
cuộc đấu tranh chống xu hướng tự phát tư bản chủ nghĩa và các thế lực thù
địch với độc lập dân tộc và chủ

nghĩa xã hội; cuộc đấu tranh giai cấp ngày
càng đa dạng, phức tạp về mức độ, tính chất, tạo ra những chuyển biến sâu
sắc trong quan hệ giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại ngày nay. Tuy
vậy, trong thời kỳ toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, vấn đề đấu
tranh giai cấp lại nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp hơn bao giờ hết, nh
ất là khi
chủ nghĩa xã hội hiện thực đang có những thành tựu to lớn và triển vọng phát
triển ngày càng mạnh mẽ, các thế lực thù địch đang tìm mọi cách phủ nhận,

10
chống lại phong trào đấu tranh đòi quyền tự quyết dân dộc, đòi công bằng,
tiến bộ xã hội trong xã hội mới. Do vậy, vấn đề đấu tranh giai cấp vẫn rất cần
được tiếp tục nghiên cứu trên cả bình diện lý luận và thực tiễn ở phạm vi rộng
lớn hơn.
2.2. Những công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài:
Goócbachốp – Bạo loạn sự kiện tháng Tám nhìn t
ừ bên trong, của tác
giả V.Páplốp, A.Lukianốp, V.Criuscốp, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1994; Trước những lời vu khống, của tác giả Tôđo Gípcốp, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội. 1995; Chuẩn bị cho thế kỷ XXI, của tác giả Paul Kennedy.
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995; Marx – nhà tư tưởng của cái có thể, 2
tập, của tác giả Michel Vadée, Viện Thông tin Khoa học Xã hội, Hà Nội
1996; Bàn cờ lớn, của tác gi
ả Zbigniew Brzezinski, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội. 1999; Tương lai của nền dân chủ xã hội, của tác giả Thomas Meyer
và Nicole Breyer, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội. 2007…
Những công trình trên đây đã nghiên cứu nhiều vấn đề thể hiện các nội
dung của cuộc đấu tranh cho dân chủ, tiến bộ, xã hội, đồng thời phê phán
những quan điểm của các thế lực thù địch đối với sự tiến bộ của lịch s
ử loài

người. Đặc biệt, trong một số công trình trên đã nêu khả năng và tương lai
phát triển của chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ mới trên cơ sở nền tảng của chủ
nghĩa Mác về sự phát triển của lịch sử, tính tất yếu của lịch sử.
Một số công trình khác đã phân tích vấn đề quan hệ giai cấp, dân tộc, sắc
tộc ở các nước trên th
ế giới, như tư tưởng bá quyền kiểu mới, về đấu tranh sắc
tộc ở Balkans Âu - Á, từ đó đưa ra những nhận định về trật tự thế giới mới.
Điều này có ý nghĩa tham khảo đối với quá trình đấu tranh để giữ độc lập dân
tộc và xây dựng chiến lược phát triển của mỗi quốc gia trong tương lai. Đây
là những vấn đề chính tr
ị thực tiễn quan trọng, được nhóm tác giả nghiên cứu
kỹ và phân tích sâu thêm thực chất của cuộc đấu tranh giai cấp hiện nay.

11
Có thể nói, cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về giai cấp,
đấu tranh giai cấp, nhưng do chưa có sự phân tích rõ cơ sở lý luận của đấu
tranh giai cấp nên trong xử lý những vấn đề thực tiễn vẫn mắc những sai lầm
nhất định. Đặc biệt, phân tích cơ sở lý luận để giải quyết vấn đề đấu tranh giai
cấp trong điều kiện Việt Nam hội nhậ
p quốc tế toàn diện, mạnh mẽ thì chưa
có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống. Đây là vấn đề được giải
quyết trong đề tài Từ quy luật mâu thuẫn đến vấn đề đấu tranh giai cấp ở
nước ta hiện nay của tập thể tác giả.
3. Mục tiêu của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn vấn đề đấu tranh giai cấp ở
n
ước ta hiện nay, đề tài đề xuất những quan điểm, giải pháp cơ bản giải quyết
vấn đề đấu tranh giai cấp, góp phần giải phóng sức sản xuất xã hội, thúc đẩy
sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
4. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vậ
t lịch sử trong việc phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của
vấn đề đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay. Ngoài ra, các phương pháp lịch
sử – lôgic, phân tích – tổng hợp, trừu tượng hoá khoa học và các phương pháp
khác cũng được sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
5.1. Ý nghĩa lý luận
- Đề tài làm rõ hơn cơ sở lý luận để nghiên cứu sâu v
ấn đề giai cấp trong
xã hội.
- Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng
dạy, học tập triết học và các ngành khoa học xã hội nhân văn.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn

12
- Đề tài có thể giúp người làm công tác quản lý xã hội, xây dựng pháp
luật, nhận định, tổng kết, rút kinh nghiệm ở từng địa phương trong công tác
lãnh đạo, quản lý.
- Đề tài đưa ra những giải pháp định hướng có tính khả thi để tạo sự
thống nhất giữa lý luận với thực tiễn nhằm giải quyết một số vấn đề nảy sinh
trong quan hệ giai cấp ở nướ
c ta hiện nay.
6. Kết cấu nội dung nghiên cứu.
Đề tài được chia thành 3 chương.
Chương 1: Quy luật mâu thuẫn – cơ sở lý luận để nghiên cứu vấn đề đấu
tranh giai cấp hiện nay
Chương 2: Đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay thực chất và những vấn
đề đặt ra
Chương 3: Quan điểm, giải pháp cơ bản giải quyết vấn đề đấu tranh giai

cấp ở n
ước ta hiện nay trên cơ sở nhận thức quy luật mâu thuẫn














13
Chương 1

QUY LUẬT MÂU THUẪN – CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐỂ NGHIÊN CỨU
VẤN ĐỀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1.1. QUY LUẬT MÂU THUẪN
1.1.1. Nội dung cơ bản của quy luật mâu thuẫn
Để nghiên cứu vấn đề đấu tranh giai cấp hiện nay, chúng ta không thể
không đi sâu tìm hiểu quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
(gọi tắt là quy luật mâu thuẫn). Bởi lẽ, chính quy luật này là cơ sở lý luận để
hiểu và lý giải vấn đề đấu tranh giai cấp nói chung, đấu tranh giai cấp ở Việt
Nam nói riêng.
Xung quanh quy luật thống nhấ

t và đấu tranh của các mặt đối lập đã có
không ít những cố gắng của các nhà nghiên cứu nhằm luận giải một cách đầy
đủ hơn, sâu sắc hơn. Các cố gắng này đã góp phần để chúng ta hiểu quy luật
cũng như những luận điểm của các nhà kinh điển Mác - Lênin về quy luật này
đầy đủ hơn. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà đến bây giờ quy
luật này vẫn là chủ đề tranh luậ
n của nhiều nhà nghiên cứu. Do vậy, vẫn cần
thống nhất lại một số nội dung cơ bản của quy luật này theo tinh thần của triết
học Mác - Lênin.
1. Thông thường người ta quan niệm cho rằng, mâu thuẫn được tạo thành
bởi các cặp mặt đối lập (những khuynh hướng, những thuộc tính,v.v vận
động, phát triển trái ngược nhau, mâu thuẫn nhau, bài trừ nhau trong cùng
một sự vật). Điều này đ
úng, nhưng cần phải hiểu và diễn đạt một cách chặt
chẽ hơn nữa. Đúng là mâu thuẫn được tạo thành bởi các cặp mặt đối lập,
chính xác ra, mâu thuẫn là sự liên hệ giữa các cặp mặt đối lập. Nhưng không
phải bất kỳ cặp mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn, mà chỉ là những

14
cặp mặt đối lập nằm trong cùng một sự vật; trong cùng một thời gian; về cùng
một mối liên hệ và luôn tác động, liên hệ qua lại với nhau mới tạo thành mâu
thuẫn của sự vật đó.
2. Cũng nên phân biệt cho rõ hai khái niệm: Khái niệm thống nhất trong
ngôn ngữ thường ngày và khái niệm thống nhất được sử dụng trong quy luật
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lậ
p, mặc dù hai khái niệm này có
những nét tương đồng. Khái niệm thống nhất trong quy luật thống nhất và đấu
tranh của các mặt đối lập là khái niệm thống nhất của các mặt đối lập chứ
không đơn thuần chỉ là khái niệm thống nhất. Khái niệm thống nhất thông
thường được hiểu là sự hợp thành một khối không chia cắt

1
. Trong khi đó
khái niệm "thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập" được hiểu theo nhiều
nghĩa khác nhau.
Thứ nhất, sự thống nhất của các mặt đối lập được hiểu theo nghĩa các
mặt đối lập nương tựa vào nhau, cần đến nhau, làm cơ sở, điều kiện, tiền đề
cho nhau tồn tại, không có mặt này thì cũng không có mặt kia và ngược lại,
không có mặ
t kia thì cũng không có mặt này. Chẳng hạn như đồng hóa và dị
hóa trong cơ thể động vật. Không có đồng hóa thì quá trình dị hóa không thể
diễn ra. Ngược lại, không có dị hóa thì quá trình đồng hóa cũng không thể
diễn ra được. Nghĩa là đồng hóa và dị hóa trong cơ thể động vật cần đến nhau,
nương tựa vào nhau, làm cơ sở cho nhau tồn tại.
Thứ hai, sự thống nhất của các mặt đối lập là sự phù h
ợp, sự đồng nhất,
sự tác động ngang nhau của các mặt đối lập. Như V.I.Lênin đã từng chỉ rõ:
"Sự đồng nhất của các mặt đối lập ("Sự thống nhất của chúng, nói như vậy có
lẽ đúng hơn ? Tuy ở đây sự phân biệt giữa các từ đồng nhất và thống nhất
không quan trọng lắm"
2
. V.I.Lênin còn viết: "Sự thống nhất (phù hợp, đồng


1
Xem: Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.1977. tr.744.
2
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến Bộ, Mátxcơva.1981, tập 29, tr.279.

15
nhất, tác dụng ngang nhau) của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời "

1
.
Trong lĩnh vực xã hội, điều này thể hiện rõ nhất ở thời kỳ quá độ, khi cái mới
và cái cũ, cái tiến bộ và cái lạc hậu, bảo thủ còn đan xen nhau, đấu tranh lẫn
nhau, chưa cái nào thắng thế hoàn toàn. Rõ ràng, điều này chỉ diễn ra trong
những giới hạn, điều kiện cụ thể và không thể mãi mãi, chỉ là tạm thời.
Hơn nữa, giữa các mặt đối lậ
p vẫn có những nhân tố "giống nhau" "đồng
nhất" với nhau. Chính vì có những nhân tố "giống nhau", "đồng nhất" với
nhau này mà trong sự triển khai mâu thuẫn đến một lúc nào đó và ở một điều
kiện nào đó (khi nhân tố "giống nhau", "đồng nhất" nhau này chiếm xu thế chi
phối của mặt đối lập) thì mặt đối lập này có thể chuyển hóa sang mặt đối lập
kia hoặc chuyển hóa sang một mặ
t đối lập khác - khi xét trong một mối quan
hệ cụ thể nào đó. Chẳng hạn, sự phát triển kinh tế TBCN là phục vụ giai cấp
tư sản, nhưng rõ ràng là sự phát triển kinh tế TBCN này lại tạo ra những tiền
đề vật chất - mà thiếu nó - không thể thay thế CNTB bằng CNXH. Vì thế
cũng không nên hiểu một cách giản đơn rằng, nếu hai mặt đối lập với nhau
trong một mâu thuẫn thì mặt này không th
ể hàm chứa những yếu tố thuộc mặt
đối lập kia. Thực tế cũng cho thấy, chúng ta không thể cắt cực bắc và cực
nam của một thanh nam châm một cách tuyệt đối được. Bởi lẽ, cắt nhỏ thanh
nam châm đến đâu đi nữa, chúng ta đều có hai cực bắc và cực nam của nó.
Cũng như trong xã hội, trong đội ngũ những người cộng sản, có thể nói luôn
luôn có thể nả
y sinh những yếu tố của mặt đối lập với nó (tức đối lập với
những người cộng sản). Cũng tương tự như vậy không thể nói trong giai cấp
tư sản không có những yếu tố, thuộc tính, đặc điểm nào của giai cấp vô sản.
Hay như trong CNTB không có những yếu tố, thuộc tính của CNXH. Vì vậy
không nên hiểu hai mặt đối lập của mâu thuẫn m

ột cách đơn giản rằng mặt


1
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến Bộ, Mátcơva.1981, tập 29, tr.379.

16
này không thể hàm chứa yếu tố nào của mặt kia và ngược lại. Nếu chỉ hiểu
như vậy dễ dẫn tới sai lầm tả khuynh. Điều quan trọng là chúng ta phải tìm
được những yếu tố thuộc tính, đặc điểm giống nhau, tương đồng nhau ở các
cặp mặt đối lập. Tất nhiên, như V.I.Lênin nói "những yếu tố, thuộc tính, đặc
điểm giống nhau này, t
ương đồng, đồng nhất với nhau này là phải có điều
kiện "Không phải chỉ là sự thống nhất của các mặt đối lập, mà còn là những
chuyển hóa của mỗi, quy định, chất đặc trưng, mặt, thuộc tính sang mỗi cái
khác [sang cái đối lập với nó?]"
1
. Cũng chính vì vậy, đối với V.I.Lênin: "Phép
biện chứng là học thuyết vạch ra rằng những mặt đối lập làm thế nào mà có
thể và thường là (trở thành) đồng nhất - trong những điều kiện nào chúng là
đồng nhất, bằng cách chuyển hóa lẫn nhau, tại sao lý trí của con người không
nên xem những mặt đối lập ấy là chết, cứng đờ, mà là sinh động, có điều kiện,
năng độ
ng, chuyển hóa lẫn nhau"
2
. Chỉ trên tinh thần này của V.I.Lênin chúng
ta mới thực hiện được chính sách đại đoàn kết dân tộc. Sự đoàn kết thống
nhất trong Đảng cũng là như vậy.
Qua trên chúng ta có thể hiểu rằng, mâu thuẫn không thể hình thành từ
sự thống nhất của các “phần tử, yếu tố” không đối lập. Hơn nữa khái niệm

"các phần tử, yếu tố” không đối lập không đồng nhất vớ
i khái niệm "mặt
không đối lập". Đồng thời "mặt không đối lập" chỉ tồn tại trong mối quan hệ
với các mặt đối lập của nó. Ngoài mối quan hệ đó ra nó không còn là mặt
không đối lập nữa.
Thống nhất của các mặt đối lập là tương đối, đấu tranh của các mặt đối
lập là tuyệt đối. Bởi lẽ, như trên chúng ta đã rõ, thống nhất củ
a các mặt đối
lập bao hàm sự tác động ngang nhau, cân bằng nhau của các mặt đối lập. Nói
khác đi thống nhất của các mặt đối lập ở đây là thống nhất trong sự “đấu


1
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến Bộ, Mátcơva.1981, tập 29, tr. 239-240.
2
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến Bộ, Mátcơva.1981, tập 29, tr.116-117.

17
tranh” thăng bằng nhau của các mặt đối lập. Hơn nữa, ngay trong sự thống
nhất của các mặt đối lập, với bản chất của mình, các mặt đối lập luôn có xu
hướng phát triển trái ngược nhau, bài trừ nhau. Do vậy, đến một thời điểm
nhất định, các mặt đối lập ấy sẽ trở nên gay gắt với nhau - tức tạo thành mâu
thuẫn - đấu tranh với nhau.
Điều này có nghĩa là, ngay trong sự thống nhất
của các mặt đối lập ấy cũng hàm chứa những yếu tố dẫn tới đấu tranh của các
mặt đối lập. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là tuyệt đối là bởi vì, cuộc đấu
tranh này diễn ra trong suốt quá trình tồn tại của sự vật, trong suốt các giai
đoạn tồn tại, phát triển của sự vật.
3. Không nên hiểu các mặt đối lập chỉ đơn thuần là những mặt, những
đặc điểm, những thuộc tính, những quy định có khuynh hướng biến đổi trái

ngược nhau. Các mặt đối lập theo V.I.Lênin đó là "những khuynh hướng mâu
thuẫn; bài trừ lẫn nhau, đối lập"
1
nhau. Vì vậy, phát triển theo quan điểm duy
vật biện chứng đối với V.I.Lênin đó "là sự thống nhất của các mặt đối lập (sự
phân đôi cái thống nhất thành những mặt đối lập bài trừ lẫn nhau và mối quan
hệ lẫn nhau giữa các mặt đối lập ấy"
2
. Rõ ràng là các mặt đối lập trong mẫu
thuẫn theo quan niệm của V.I.Lênin không chỉ là những khuynh hướng trái
ngược nhau mà phải là những khuynh hướng mâu thuẫn nhau, đối lập nhau,
bài trừ lẫn nhau (V.I.Lênin nhấn mạnh chữ bài trừ lẫn nhau) và giữa chúng có
mối quan hệ lẫn nhau. Bài trừ ở đây là mặt này bài trừ mặt kia nhưng lại
thống nhất với nhau, quan hệ với nhau, làm tiền đề tồn tại cho nhau.
4. Một sự
vật, hiện tượng có thể có nhiều mâu thuẫn cơ bản nhưng trong
cùng một thời điểm, một điều kiện, một mối liên hệ xác định, theo chúng tôi
sự vật, hiện tượng chỉ có một mâu thuẫn cơ bản. Bởi mâu thuẫn cơ bản phải là
mâu thuẫn quy định bản chất sự vật, hiện tượng tồn tại với tư cách là chính


1
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến Bộ, Mátcơva.1981, tập 29, tr.379.
2
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến Bộ, Mátcơva.1981, tập 29, tr.379.

18
nó. Mâu thuẫn cơ bản được giải quyết sự vật, hiện tượng sẽ chuyển sang trạng
thái tồn tại khác của nó-hay nói khác đi nó đã là sự vật khác. Khi ấy sự vật đó
đã là sự vật khác chứ không còn như nó đã là. Tất nhiên trong một sự vật,

hiện tượng có thể có nhiều mâu thuẫn khác nhau (xét trong các mối liên hệ
khác nhau) cùng tồn tại. Các mâu thuẫn này có quan hệ tác động qua lại lẫ
n
nhau và giải quyết các mâu thuẫn này đều có ảnh hưởng tới giải quyết mâu
thuẫn cơ bản của sự vật, hiện tượng. Nhưng giải quyết các mâu thuẫn không
cơ bản này chưa thể làm cho sự vật, hiện tượng thay đổi về chất. Vì thế, quan
điểm cho rằng khi mâu thuẫn cơ bản được giải quyết thì sự vật, hiện tượng
chuyển sang trạng thái khác v
ề chất là hoàn toàn hợp lý. Ở trạng thái khác, sự
vật hiện tượng lại có mâu thuẫn cơ bản mới trong điều kiện mới, trong mối
liên hệ mới cụ thể xác định. Vì vậy, triết học Mác - Lênin mới phân biệt các
loại mâu thuẫn (mâu thuẫn cơ bản và không cơ bản; mâu thuẫn chủ yếu và
thứ yếu; mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài,v.v ) và chỉ ra vai trò
khác nhau của từng loại mâu thuẫn này trong s
ự vận động, phát triển của sự
vật, hiện tượng.
5. Trong quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, cả sự
thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập đều có vai trò quan trọng trong
sự tồn tại, vận động, phát triển của sự vật. Sự thống nhất và đấu tranh của các
mặt đối lập có liên hệ chặt chẽ v
ới sự vận động, phát triển của sự vật. Khi các
mặt đối lập thống nhất với nhau, sự vật vẫn còn là nó. Đến thời điểm nào đó,
các mặt đối lập vận động, phát triển trái ngược nhau, mâu thuẫn nhau, bài trừ
nhau. Nếu mâu thuẫn được giải quyết thì sự vật mới được ra đời thay thế sự
vật cũ. Khi sự vật mới ra đờ
i nó lại bao hàm sự thống nhất mới của các mặt
đối lập mới. Nhưng sự thống nhất mới này của các mặt đối lập mới chỉ là
tương đối, và theo xu hướng tất yếu sẽ dẫn tới đấu tranh với nhau ngày càng
gay gắt. Cứ như vậy, sự vật vận động, phát triển.


19
Mặc dù khi mâu thuẫn được giải quyết sự vật mới vận động, phát triển
nhưng nếu không có sự thống nhất của các mặt đối lập thì sự vật không thể là
nó, nó không thể tồn tại được. Do vậy, khi nhận thức sự vật phải nhận thức
đúng cả thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
6. Cần phân biệt mâu thuẫn trong tự
nhiên với mâu thuẫn trong xã hội.
Mâu thuẫn trong tự nhiên được giải quyết một cách tự phát không cần đến sự
can thiệp của con người; còn mâu thuẫn xã hội được giải quyết thông qua
hoạt động thực tiễn có ý thức của con người. Con người không thay thế được
quy luật nói chung, quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập nói
riêng nhưng thông qua hoạt động thực tiễn có ý thức của mình, con ngườ
i có
thể tìm ra cơ chế, điều kiện để tác động thúc đẩy quy luật diễn ra nhanh hơn,
tạo động lực cho sự phát triển. Chẳng hạn, giai cấp tư sản đang làm mọi cách
để "điều hòa" “điều chỉnh” mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa của lực lượng
sản xuất và tính chất tư bản tư nhân chủ nghĩa của quan hệ sản xuấ
t trong xã
hội tư bản. Để thực hiện điều này, giai cấp tư sản có những điều chỉnh nhất
định về an sinh xã hội, về chính sách xã hội, có tính tới lợi ích của người lao
động. Nhưng những điều chỉnh về an sinh xã hội, về chính sách xã hội này
cũng chỉ có giới hạn nhất định mà giai cấp tư sản còn chấp nhận được về mặt
lợi ích. Do vậy, để giải quyết mâu thuẫn này không thể là "điều hòa", thỏa
hiệp mãi. Sự tác động của giai cấp tư sản chỉ có thể “kéo dài” sự tồn tại của
mâu thuẫn cơ bản này chứ không giải quyết được nó.
Đúng như V.I.Lênin đã viết: "Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng
là học thuyết về sự thống nhất của các mặ
t đối lập. Như thế là nắm được hạt
nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những sự giải thích
và một sự phát triển thêm"

1
. Trên đây là một số nội dung cần thống nhất khi


1
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến Bộ, Mátcơva.1981, tập 29, tr.240.

20
hiểu quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Thống nhất cách
hiểu như trên sẽ cho ta cơ sở lý luận khoa học để giải quyết vấn đề đấu tranh
giai cấp một cách đúng đắn hơn trong điều kiện hiện nay.
7. Vấn đề các mâu thuẫn của chủ nghĩa xã hội đã được các nhà kinh điển
mácxít, nhất là V.I.Lênin trình bày tương đối rõ nét trong các quan
điểm của
mình ngay sau thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga. Đây là cơ sở lý luận
quan trọng để các đảng cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa giải quyết
những vấn đề mâu thuẫn xã hội, trong đó có vấn đề đấu tranh giai cấp.
Trong các tác phẩm viết vào những năm 1918 - 1919, V.I.Lênin đã phân
tích một cách cụ thể các dạng mâu thuẫn không đối kháng khác nhau trong
bản thân khu vực xã hộ
i chủ nghĩa. Đặc biệt, trong ghi chú bên lề cuốn sách
của Bukharin Kinh tế của thời kỳ quá độ, V.I.Lênin nhận xét rằng, trong chủ
nghĩa xã hội, sự đối kháng sẽ biến mất, nhưng mâu thuẫn thì vẫn tồn tại
(1)
.
Luận điểm này là một bước quan trọng trong sự phát triển một cách sáng tạo
phép biện chứng duy vật. Luận điểm này có ý nghĩa phương pháp luận to lớn
đối với sự phân tích có phân biệt mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản cũng như
thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin đã phân
biệt ba dạng mâu thuẫn không đối kháng tiêu bi

ểu cho lôgic phát triển nội tại
của khu vực xã hội chủ nghĩa.
Thứ nhất, đó là mâu thuẫn gắn liền với sự tồn tại những tàn dư của chủ
nghĩa tư bản trong bản thân khu vực xã hội chủ nghĩa, đó là tàn dư của cái cũ
trong cái mới, vì xã hội mới thoát thai từ trong lòng xã hội cũ.
Thứ hai, trong sự phát triển của chủ nghĩa xã hộ
i cũng có những mâu
thuẫn nảy sinh do những nhiệm vụ mới của sự phát triển tiếp tục đặt ra, khi
những hiện tượng tự bản thân chúng hoàn toàn không phải là những tàn dư


(1)
Dẫn theo: Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô - Viện Triết học: Lịch sử phép biện chứng, tập V, Phép biện
chứng mácxít (Giai đoạn V.I.Lênin), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1998, tr.400.

21
của chủ nghĩa tư bản. Trong một giai đoạn phát triển nhất định, có những cái
đóng vai trò tiến bộ, nhưng sau đó đã biến thành vật kìm hãm sự phát triển
tiếp tục, trở nên già cỗi, lỗi thời.
Thứ ba, đó là những mâu thuẫn của sự phát triển, tuy trực tiếp không
phải là quan hệ giữa cái cũ và cái mới, mà là đặc trưng cho mối liên hệ mâu
thuẫ
n giữa bộ phận và toàn thể, giữa cái đặc thù và cái phổ biến, giữa cái duy
nhất và cái nhiều, giữa cái đồng nhất và khác biệt ở trong bản thân cái mới
(1)
.
Theo tư tưởng của V.I.Lênin, cái mới và cái cũ chỉ được hiểu theo nghĩa
những mặt mâu thuẫn trong đó một mặt (cái mới) thúc đẩy sự phát triển trong
những điều kiện nhất định, còn mặt kia (cái cũ) thì lại kìm hãm nó cũng trong
những điều kiện ấy. Tiêu chuẩn của cái mới và cái cũ ở đây là mối quan hệ

với quá trình phát triển chứ không phải là những đặ
c điểm thời gian - những
đặc điểm cũng thường là đặc trưng trong khái niệm cái cũ và cái mới. Chẳng
hạn, khi người ta nói rằng nếu hiện tượng xuất hiện muộn hơn về mặt thời
gian, “trẻ hơn” thì nó là “cái mới”, mặc dù nó có thể ưa thích cái cũ, đóng vai
trò kìm hãm trong sự phát triển.
Khi phân tích phức hợp tất cả các dạng cụ thể của các mâu thuẫn không
đối kháng là c
ơ sở quan trọng để chúng ta nhận thức và giải quyết những mâu
thuẫn xã hội ở nước ta hiện nay.
1.1.2. Những nhận thức mới về quy luật mâu thuẫn trong điều kiện
hiện nay.
Một là, ngày nay, khi nói về “mặt đối lập” chúng ta đã mở rộng nhận
thức về phạm vi của nó. Nếu trước đây khái niệm “mặt đối lập” dùng để chỉ
nh
ững khuynh hướng, những thuộc tính,v.v vận động, phát triển trái ngược
nhau, mâu thuẫn nhau, bài trừ nhau trong cùng một sự vật, thì ngày nay “mặt


(1)
Xem thêm: Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô - Viện Triết học: Lịch sử pháp biện chứng, tập V, Phép biện
chứng mácxít (Giai đoạn V.I.Lênin), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.1998, tr.402.

×