Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

luận văn tình trạng đô-la hoá tại việt nam – thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (736.69 KB, 81 trang )







Luận văn
Tình trạng đô-la hoá tại Việt
Nam – Thực trạng và giải pháp

MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

LỜI CẢM ƠN

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ ĐÔ-LA HOÁ 3

1.1 Khái niệm đô-la hoá 3

1.2 Phân loại đô-la hoá 4

1.2.1 Đô-la hoá không chính thức 4

1.2.2 Đô-la hoá bán chính thức 5


1.2.3 Đô-la hoá chính thức 5

1.3 Nguyên nhân của tình trạng đô-la hoá 6

1.4 Tác động của tình trạng đô-la hoá đến nền kinh tế 9

1.4.1 Những tác động tích cực của đô-la hoá 9

1.4.2 Những tác động tiêu cực của đô-la hoá 12

1.5 Kinh nghiệm quốc tế về đô-la hoá và bài học cho Việt Nam 20

1.5.1 Kinh nghiệm đô-la hoá ở Argentina 20

1.5.2 Kinh nghiệm đô-la hoá ở Campuchia 21

1.5.3 Bài học cho Việt Nam 23

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH ĐÔ-LA HOÁ TẠI VIỆT
NAM 25

2.1 Diễn biến tình hình đô-la hoá tại Việt Nam trong thời gian qua 25

2.2 Phân tích những tác động của tình trạng đô-la hoá tới nền kinh tế
Việt Nam. 38

2.2.1 Tác động của đô-la hoá đến hệ thống Tài chính – Ngân hàng 38

2.2.1.1 Đô-la hoá tiền gửi trong hệ thống ngân hàng 38


2.2.1.2 Đô-la hoá cho vay 45
2.2.2 Tác động của đô-la hoá đến điều hành chính sách tiền tệ 50

2.2.3 Tác động của đô-la hoá đến người dân 51

2.3. Đánh giá chung về tình trạng đô-la hoá tại Việt Nam 53

2.3.1 Đánh giá những tác động của đô-la hoá đến nền kinh tế Việt Nam 53

2.3.2 Đánh giá những biện pháp mà NHNN đã sử dụng nhằm hạn chế
tình trạng đô-la hoá trong thời gian qua 55

2.4 Nhận xét chung 58

CHƯƠNG III: MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM CẢI
THIỆN TÌNH TRẠNG ĐÔ-LA HOÁ TẠI VIỆT NAM 61

3.1 Định hướng nhằm cải thiện tình trạng đô-la hoá tại Việt Nam. 61

3.1.1 Định hướng hình thành một đồng tiền chung khu vực ASEAN 61

3.1.2 Định hướng về hoạt động của hệ thống ngân hàng 62

3.2 Một số giải pháp nhằm cải thiện tình trạng đô-la hoá tại Việt Nam64

3.2.1 Giải pháp về chính sách quản lý ngoại hối 65

3.2.2 Giải pháp nhằm nâng cao tính chuyển đổi của đồng Việt Nam 67

3.2.3 Giải pháp trong lĩnh vực tiền tệ 69


3.2.4 Thực hiện tốt chủ trương “trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng đồng
tiền Việt Nam” 70

3.3 Một số đề xuất 70

KẾT LUẬN 73

TÀI LIỆU THAM KHẢO 74


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế và lạm phát, 1991 - 1996 26

Bảng 2: Lãi suất tiết kiệm USD và VND giai đoạn 1992 – 1996 27

Bảng 3: Lãi suất tiết kiệm USD & VND năm 1997 - 1998 29

Bảng 4: Lãi suất tiết kiệm USD & VND, 1999 - 2001 31

Bảng 5: Tình hình xuất nhập khẩu giai đoạn 1990 – 2000 32

Bảng 6: Tỷ lệ tiền gửi bằng đồng USD trên tổng phương tiện thanh toán 40

Bảng 7: Khối lượng tiền gửi ngoại tệ (FCDs) trong hệ thống ngân hàng 41



DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 1: Tỷ trọng tiền gửi ngoại tệ trên tổng phương tiện thanh toán giai
đoạn 2000 – 2005 42

Biểu đồ 2: Cơ cấu tiền gửi trong hệ thống ngân hàng từ 2004 - 2008 44

Biểu đồ 3: Cơ cấu cho vay nền kinh tế giai đoạn 2000 – 2004 47

Biểu đồ 4: Cơ cấu cho vay giai đoạn 2005 - 2008 48



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
CPI

Ch
ỉ số giá ti
êu dùng

CSTT Chính sách tiền tệ
FCDs Tiền gửi ngoại tệ
FED Cục dự trữ liên bang Hoa Kỳ
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
IMF Quỹ tiền tệ quốc tế
M2

T
ổng ph
ương ti

ện thanh toán

NHTW Ngân hàng trung ương
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
TCTD Tổ chức tín dụng
VND Đồng Việt Nam
USD

Đô
-
la M


WTO Tổ chức Thương mại thế giới
LỜI CẢM ƠN


Đề tài kết quả của quá trình tìm hiểu và nghiên cứu của em trong một
thời gian dài. Đề tài được hoàn thành với sự cố gắng, nỗ lực hết mình của bản
thân và sự giúp đỡ tận tình của cô Trần Thị Lương Bình.
Đầu tiên em muốn gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc
đến cô giáo Trần Thị Lương Bình – giảng viên khoa Tài chính Ngân hàng -
Đại học Ngoại Thương, người đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em trong suốt quá
trình nghiên cứu đề tài. Đồng thời em cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô
trong khoa Tài chính Ngân hàng – Đại học Ngoại Thương đã tạo điều kiện
giúp đỡ em hoàn thành tốt đề tài này.
Một lần nữa em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến các thầy cô
giáo. Kính chúc thầy cô mạnh khoẻ và hạnh phúc.


1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện tượng đô-la hoá là một hiện tượng không còn mới mẻ ở Việt
Nam. Xét trên cả ba góc độ: việc sử dụng đô-la Mỹ trong xã hội, tỷ trọng tiền
gửi và tỷ trọng dư nợ cho vay bằng đồng đô-la Mỹ trong cơ cấu nguồn vốn
huy động và dư nợ của hệ thống ngân hàng thương mại, phải thừa nhận thẳng
thắn rằng nền kinh tế nước ta đang trong tình trạng đô-la hoá. Đặc biệt tình
trạng này càng trầm trọng khi chúng ta gia nhập WTO. Gần đây, khi có một
số bài đăng tài trên báo, tạp chí, các phương tiện thông tin đại chúng về tình
trạng đô-la hoá thì hiện tượng này mới thực sự được chú ý. Vì vậy cần thiết
phải có những nghiên cứu cụ thể để làm rõ một số vấn đề: Đô-la hoá là gì? Nó
biểu hiện dưới các hình thức như thế nào? Đô-la hoá là tốt hay xấu, có nên
loại bỏ hoàn toàn hiện tượng này khỏi nền kinh tế hay không? Nó có tác động
thế nào đến nền kinh tế? Những chủ trương nhằm phát huy mặt tích cực và
hạn chế mặt tiêu cực mà tình trạng đô-la hoá mang lại cho nền kinh tế và cho
đời sống xã hội?
Để có một cái nhìn tổng quan hơn về tình trạng đô-la hoá, cũng như tìm
ra được những giải pháp khắc phục tình trạng đô-la hoá ở Việt Nam vấn đề: “
Tình trạng đô-la hoá tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp” được tác giả lựa
chọn làm đề tài cho khoá luận tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu của khoá luận
Mục đích nghiên cứu của khoá luận nhằm làm rõ những vấn đề cơ bản
về đô-la hoá, đồng thời đánh giá tình trạng đô-la hoá tại Việt Nam trong thời
gian qua. Trên cơ sở đó khoá luận đưa ra những định hướng và giải pháp
nhằm cải thiện tình trạng đô-la hoá tại Việt Nam.

2


3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khoá luận là hiện tượng đô-la hoá trong nền
kinh tế. Phạm vi nghiên cứu của khoá luận là tình trạng đô-la hoá tại Việt
Nam giai đoạn 1990 – những tháng đầu năm 2010.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khoá luận kết hợp các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp duy
vật biện chứng, phương pháp thu thập dữ liệu, phương pháp thống kê, phương
pháp so sánh nhằm làm rõ những vấn đề được nghiên cứu.
5. Kết cấu của khoá luận
Ngoài lời mở đầu và phần kết luận, nội dung của khoá luận gồm 3
chương:
Chương I: Tổng quan về đô-la hoá
Chương II: Thực trạng tình hình đô-la hoá tại Việt Nam
Chương III: Một số định hướng và giải pháp nhằm cải thiện tình trạng
đô-la hoá tại Việt Nam.












3


CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ ĐÔ-LA HOÁ

1.1 Khái niệm đô-la hoá
Ở Việt Nam khái niệm đô-la hoá được nhìn nhận là hiện tượng ngoại tệ
(mà chủ yếu là đô-la Mỹ) được sử dụng rộng rãi để thay thế một hay nhiều
chức năng của đồng nội tệ.


Theo Tyler Moroney, một nhà khoa học của Quỹ Fulbright thì đô-la
hoá là quá trình một nước bỏ hoàn toàn đồng nội tệ và sử dụng đồng tiền của
một nước có tính ổn định hơn làm phương tiện thanh toán hợp pháp. Mặc dù
khái niệm này được gắn liền với đồng đô-la Mỹ (USD), nhưng việc chuyển
đổi một đồng nội tệ ra bất kỳ đồng ngoại tệ nào có tính ổn định (ví dụ: đồng
Euro, Yên Nhật…) đều được gọi là “đô-la hoá”.


Theo tiêu chí của IMF, một nền kinh tế được coi là có tình trạng đô-la
hoá cao khi tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ vượt quá 30% trong tổng khối
lượng tiền tệ cung ứng mở rộng M2, bao gồm: tiền mặt trong lưu thông, tiền
gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi ngoại tệ. Dựa trên cơ sở đó,
theo thống kê của IMF hiện nay có rất nhiều quốc gia ở châu Á, châu Mỹ,
châu Phi được coi là có tình trạng đô-la hoá nền kinh tế. Đã có 3 nước chính
thức tuyên bố đô-la hoá nền kinh tế là Panama, Elsanvaldo, Ecuardo. Theo
luật của các nước này thì đồng đô-la được phép sử dụng lưu hành đồng thời
với đồng nội tệ trong chi trả tiền lương, trợ cấp, phúc lợi xã hội, Người dân
được mua bán hàng hoá hoặc thực hiện các giao dịch thương mại, dịch vụ
khác bằng đồng đô-la.
Theo báo cáo của NHNN Việt Nam thì những năm gần đây tỷ trọng
tiền gửi bằng đô-la Mỹ luôn ở mức cao. Điều này cho thấy mức độ đô-la hoá




Thời báo kinh tế Việt Nam:

Tạp Kinh tế và dự báo, số 428, năm 2008

4

ở nước ta không phải là thấp. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế, các quốc gia
đã xuất hiện nhu cầu sử dụng tiền tệ mạnh để thực hiện các chức năng của
tiền tệ song song với đồng nội tệ. Do đó hiện tượng đô-la hoá mặc nhiên được
thừa nhận ở các nước này. Việt Nam cũng nằm trong bối cảnh đó.
1.2 Phân loại đô-la hoá
Dựa vào trạng thái của việc sử dụng ngoại tệ, đô-la hoá được chia ra
làm ba loại: Đô-la hoá không chính thức, đô-la hoá bán chính thức và đô-la
hoá chính thức.
1.2.1 Đô-la hoá không chính thức
Là trường hợp ngoại tệ được sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế mặc dù
không được quốc gia đó chính thức thừa nhận. Ở những nước có nền kinh tế
bị đô-la hóa không chính thức, phần lớn người dân đã quen với việc sử dụng
đồng đô-la nhưng Chính phủ vẫn cấm niêm yết giá hàng hóa bằng đô-la, cấm
dùng đô-la đối với hầu hết giao dịch trong nước. Thuật ngữ “đô-la hoá không
chính thức” bao gồm các loại sau:
 Các trái phiếu ngoại tệ và các tài sản phi ngoại tệ ở nước ngoài
 Tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài
 Tiền gửi ngoại tệ ở các ngân hàng trong nước
 Trái phiếu hay các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ cất trong túi
Đô-la hoá không chính thức được chia làm ba giai đoạn:
Giai đoạn đầu, các nhà kinh tế gọi là giai đoạn “thay thế tài sản”. Trong
giai đoạn này người dân giữ trái phiếu, ngoại tệ và các khoản tiền gửi ở nước

ngoài như một phương tiện cất trữ nhằm tránh sự mất giá của tài sản do tác
động của lạm phát trong nước.
Giai đoạn thứ hai được các nhà kinh tế gọi là giai đoạn “thay thế tiền
tệ”. Trong giai đoạn này người dân giữ một khối lượng lớn các trái phiếu
ngoại tệ và tiền gửi ngoại tệ tại hệ thống ngân hàng trong nước (nếu được

5

phép). Ngoại tệ vừa thực hiện chức năng là phương tiện thanh toán vừa thực
hiện chức năng phương tiện cất trữ. Tiền lương, thuế hay những chi tiêu hàng
ngày được thanh toán bằng nội tệ. Nhưng với những tài sản có giá trị lớn như
ô tô, đất đai, nhà cửa, thường được trả bằng ngoại tệ.
Trong giai đoạn cuối cùng, giá cả hàng hoá được tính bằng nội tệ
nhưng mọi người đều liên tưởng đến ngoại tệ thông qua tỷ giá hối đoái. Đô-la
hoá không chính thức rất phổ biến ở các nước đang phát triển trong đó có Việt
Nam.
1.2.2 Đô-la hoá bán chính thức
Hay còn gọi là đô-la hoá từng phần, là những nước có hệ thống lưu
hành chính thức hai đồng tiền. Ở những nước này, đồng ngoại tệ là đồng tiền
lưu hành hợp pháp, thậm chí còn có ưu thế trong các khoản tiền gửi ngân
hàng. Nhưng nó đóng vai trò thứ cấp trong việc trả lương, thuế và những chi
tiêu hàng ngày. Khác với các nước đô-la hoá chính thức, các nước trong tình
trạng đô-la hoá bán chính thức vẫn duy trì Ngân hàng trung ương để thực hiện
các chính sách tiền tệ của mình. Trên thế giới có khoảng 12 nước như
Bhamas, Haiti, Liberia, áp dụng đô-la hoá bán chính thức.
1.2.3 Đô-la hoá chính thức
Hay còn gọi là đô-la hoá hoàn toàn, xuất hiện khi đồng ngoại tệ là đồng
tiền hợp pháp duy nhất được lưu hành. Nghĩa là đồng ngoại tệ không chỉ được
sử dụng hợp pháp trong các hợp đồng giữa các bên tư nhân mà còn hợp pháp
trong các khoản thanh toán của Chính phủ. Nếu đồng nội tệ còn tồn tại thì nó

chỉ có vai trò thứ yếu và thường chỉ là đồng tiền xu hay các đồng tiền mệnh
giá nhỏ.
Đô-la hoá chính thức không có nghĩa là chỉ có một loại ngoại tệ được
lưu hành hợp pháp. Tuy nhiên các nước đô-la hoá chính thức thường chọn
một đồng ngoại tệ mạnh làm đồng tiền hợp pháp, chỉ có Andorra sử dụng cả
Franc của Pháp và Peseta của Tây Ban Nha. Hầu hết ở các nước đô-la hoá

6

chính thức, các đối tác tư nhân được phép ký hợp đồng bằng bất kỳ đồng tiền
nào mà họ thoả thuận.
Một số vùng lãnh thổ như Virgin Islands, Greenland và một số quốc gia
độc lập như Panama sử dụng USD hoặc đồng tiền nước khác làm đồng tiền
chính thức, trong đó có nước không còn đồng nội tệ, có nước vẫn duy trì đồng
nội tệ, nhưng đóng vai trò phụ thuộc. Điển hình là ngày 9/1/2000, Tổng thống
Ecuado công bố quyết định lấy USD làm đồng tiền chính thức của nước này.
Đến năm 2001 thì có thêm El Salvador công bố chính thức đô-la hoá nền kinh
tế. Trên thực tế, các nước này chỉ áp dụng đô-la hoá chính thức sau khi thất
bại trong việc thực thi các chính sách ổn định kinh tế. Lợi ích chủ yếu của đô-
la hoá chính thức là loại trừ rủi ro của việc phá giá tiền tệ.
1.3 Nguyên nhân của tình trạng đô-la hoá

Nhìn ở nhiều khía cạnh khác nhau đô-la hoá bắt nguồn từ nhiều nguyên
nhân nhưng có thể nói rằng nguyên nhân sâu xa nhất dẫn đến tình trạng đô-la
hoá là nền kinh tế có tỷ lệ lạm phát cao, giá trị đồng nội tệ giảm liên tục làm
mất lòng tin của người dân vào đồng nội tệ. Từ đó người dân có xu hướng
chuyển sang những ngoại tệ ổn định, có tính chuyển đổi cao để tiện cho việc
giao dịch, cất giữ và tránh rủi ro khi đồng nội tệ bị mất giá.
Bên cạnh đó xu thế hiện nay là toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới. Sự
phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại sẽ là cầu nối

các quốc gia với nhau trên lĩnh vực kinh tế - tiền tệ. Vì vậy đòi hỏi các quốc
gia phải mở rộng quan hệ quốc tế, đặc biệt là ngoại thương. Một khi quan hệ
ngoại thương phát triển đòi hỏi phải có một đồng tiền chung để giao dịch.
Sẵn với vai trò, vị trí của mình đồng đô-la Mỹ đã đảm nhiệm vai trò đó. Trong
quan hệ đối ngoại nhất thiết đòi hỏi mỗi nước phải có một cơ chế quản lý
ngoại hối để quản lý và kiểm soát các nguồn thu ngoại tệ nói chung và đồng
đô-la Mỹ nói riêng. Khi việc xây dựng và thực hiện cơ chế quản lý ngoại hối

7

còn chưa hoàn thiện và còn nhiều bất cập thì xu thế tất yếu sẽ xảy ra hiện
tượng đô-la hoá.
Mặt khác, các quốc gia có nền kinh tế mạnh và phát triển đặc biệt là
Mỹ luôn tìm cách để tăng cường và áp đặt sức mạnh kinh tế - chính trị lên
toàn thế giới và nâng cao hơn nữa vai trò, vị trí của đồng tiền nước mình trong
hệ thống kinh tế - tiền tệ thế giới. Do đó ảnh hưởng của đô-la Mỹ đối với nền
kinh tế của các quốc gia trên thế giới nói chung và với Việt Nam nói riêng là
điều không thể tránh khỏi.
Mức độ đô-la hoá ở mỗi nước khác nhau phụ thuộc vào nhiều yếu tố
như trình độ phát triển nền kinh tế, trình độ dân trí, tâm lý người dân, trình độ
phát triển của hệ thống ngân hàng, chính sách tiền tệ và cơ chế quản lý ngoại
hối, khả năng chuyển đổi của đồng nội tệ, Những yếu tố trên ở mức độ càng
thấp thì tình trạng đô-la hoá của quốc gia đó càng cao.
Đối với Việt Nam, ngoài những yếu tố trên chúng ta cần để cập đến
một số nguyên nhân quan trọng khác góp phần gia tăng tình trạng đô-la hoá ở
nước ta trong những năm gần đây.
Đầu tiên, phải kể đến nguyên nhân mang tính lịch sử đó là cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ Châu Á 1997 – 1998. Mặc dù cuộc khủng hoảng này
không tác động trực tiếp đến nền kinh tế Việt Nam, nhưng đã tác động mạnh
mẽ đến tâm lý của người dân Việt Nam. Hơn thế nữa, sau một thời gian ổn

định, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) ngày một tăng nhanh khiến người dân không
mấy mặn mà trong việc chuyển từ ngoại tệ sang VND. Người ta thích dùng
đô-la Mỹ không chỉ vì tính ổn định mà còn vì tính gọn nhẹ, tiện lợi của nó.
Thêm vào đó nguồn ngoại tệ tiền mặt ở nước ta ngày càng tăng nhanh,
đặc biệt là USD bởi vì chúng ta có rất nhiều nguồn huy động:
 Nguồn kiều hối ngày càng có xu hướng tăng mạnh với mức tăng bình
quân 10%/năm và tới năm 2010 dự tính sẽ lên tới 5 tỷ USD, chưa kể

8

đến lượng ngoại hối được chuyển ngoài luồng, ngoại tệ tiền mặt mà
Việt kiều mang theo người khi nhập cảnh.
 Lượng ngoại tệ chi tiêu ở Việt Nam của khách du lịch nước ngoài cũng
tăng nhanh cùng với lượng du khách quốc tế đến Việt Nam.
 Tiền lương và thu nhập của người Việt Nam làm việc trong các dự án
liên doanh, dự án 100% vốn đầu tư nước ngoài, dự án quốc tế, cơ quan
nước ngoài tại Việt Nam được trả bằng ngoại tệ.
 Số lượng người nước ngoài đến Việt Nam làm việc, sinh sống, làm ăn,
học tập v.v ngày càng gia tăng, chi tiêu ngoại tệ tiền mặt rất lớn, nhất
là tiền thuê nhà của các hộ gia đình người Việt Nam và chi trả các dịch
vụ khác.
 Tiền viện trợ không hoàn lại, tiền của các tổ chức tài chính vi mô, tổ
chức từ thiện quốc tế, tổ chức phi chính phủ nước ngoài v.v Bên cạnh
đó là nguồn vốn tài trợ của các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế, Chính
phủ các nước.
 Hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam bao gồm cả đầu tư trực tiếp
và đầu tư gián tiếp đang không ngừng tăng lên trong những năm gần
đây.
 Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ngày một gia tăng cùng với sự phát
triển của nền kinh tế

 Ngoại tệ từ các hoạt động buôn lậu và một số nguồn ngoại tệ qua các
hoạt động kinh tế ngầm khác mà chính phủ Việt Nam chưa thể quản lý
được.
Với lượng tiền mặt ngoại tệ lớn như vậy đang ồ ạt đổ vào buộc Việt
Nam phải đối mặt với tình trạng đô-la hoá nền kinh tế ngày càng trầm trọng.
Bên cạnh đó, mối quan hệ giữa lãi suất nội tệ và ngoại tệ, xu hướng
biến đổi tỷ giá VND/USD là nguyên nhân quan trọng của xu hướng tích trữ

9

và gửi tiền bằng USD. Giai đoạn từ 1999 – 2008 lãi suất tiền gửi bằng USD
luôn ở mức cao, thậm chí có lúc lên tới 6,5%/năm. Điều này càng khiến người
dân và các doanh nghiệp sử dụng USD nhiều hơn trong việc cất trữ, gửi tiết
kiệm.
Việc người dân và các doanh nghiệp ưa chuộng USD hơn tiền đồng còn
vì tính gọn nhẹ của nó. Đồng tiền Việt Nam mệnh giá còn nhỏ, cao nhất là tờ
500.000 đồng mới được đưa vào lưu thông năm 2003. Trong khi đó tờ 100
USD hiện nay lại có trị giá gần 2 triệu đồng. Bởi vậy trong các giao dịch
mang giá trị lớn như mua bán nhà cửa, đất đai, ô tô, USD vẫn chiếm lợi thế
hơn.
1.4 Tác động của tình trạng đô-la hoá đến nền kinh tế

Có quan điểm cho rằng đô-la hoá là một căn bệnh hiểm nghèo, cần phải
triệt tận gốc, nhưng cũng có ý kiến lại cho rằng đô-la hoá là phương thuốc
màu nhiệm đối với các quốc gia đang và chậm phát triển. Cả hai quan điểm
này đều chưa hoàn toàn đúng. Bởi vì đô-la hoá có những mặt tích cực nhưng
cũng có những mặt tiêu cực. Chúng ta phải nhìn nhận rõ mặt lợi, mặt hại để
có hướng phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của
tình trạng này đối với nền kinh tế.
1.4.1 Những tác động tích cực của đô-la hoá

(i) Việc sử dụng đồng đô-la sẽ tạo cho nền kinh tế một cái “van giảm
áp" của những mất cân đối, kết quả của tính không hiệu quả dưới cơ chế kế
hoạch hoá tập trung, đồng thời cung cấp cho các tác nhân kinh tế một công
cụ tự bảo vệ chống lại lạm phát và phương tiện để mua hàng hoá trên thị
trường phi chính thức cũng như phương tiện thanh toán hiệu quả.
Từ những năm 80, USD đã xuất hiện và được sử dụng rộng rãi ở Việt
Nam. Sau thất bại của "cuộc cải cách" và sự đổ vỡ của các tổ chức tín dụng.
Lạm phát không ổn định và gia tăng ở mức cao kéo theo VND cũng bất ổn và
mất giá, đánh mất lòng tin của công chúng làm cho đô-la hoá tăng cao. Một

10
mặt, đô-la hoá cao hơn là hậu quả của những yếu kém và mất cân đối kinh tế
vĩ mô. Mặt khác, đô-la hoá lại được xem như "một cái van" nhằm giảm áp lực
đối với những mất cân đối này.
Khi sử dụng USD thay thế cho VND, các cá nhân và tổ chức kinh tế đã
hạn chế được rủi ro giảm giá trị tài sản do lạm phát cao và thường xuyên biến
động. Ngoài ra, USD được sử dụng công khai như một phương tiện thanh toán
hiệu quả trên thị trường tự do, đặc biệt là đối với những động sản cá nhân nhập
khẩu có giá trị cao như ôtô, tủ lạnh, máy vi tính và những linh kiện khác.
Ở các nước đô-la hoá chính thức, bằng việc sử dụng đồng ngoại tệ họ
sẽ duy trì được tỷ lệ lạm phát gần với mức lạm phát thấp làm tăng sự an toàn
đối với tài sản tư nhân, khuyến khích tiết kiệm và cho vay dài hạn. Hơn nữa,
ở những nước này Ngân hàng trung ương sẽ không còn khả năng phát hành
nhiều tiền và gây ra lạm phát. Đồng thời ngân sách Nhà nước sẽ không thể
trông chờ vào nguồn phát hành này để trang trải thâm hụt ngân sách, kỷ luật
về tiền tệ và ngân sách sẽ được thắt chặt. Do vậy các chương trình ngân sách
sẽ mang tính tích cực hơn.
(ii) Đô-la hoá tiền gửi giúp ngân hàng có được khoản lớn ngoại tệ để
mở rộng các hoạt động đối ngoại, tạo công cụ liên kết thị trường nội địa với
thị trường thế giới. Khi đó, ngân hàng sẽ có thêm điều kiện thuận lợi để thực

hiện cho vay ngoại tệ đối với nền kinh tế, như thế sẽ hạn chế được vay nợ
nước ngoài và cũng tăng được tầm kiểm soát luồng ngoại tệ của NHTW.
Nếu các NHTM không huy động được vốn ngoại tệ sẽ gây khó khăn
cho các đề án hiện thời đòi hỏi vốn ngoại tệ để nhập khẩu máy móc, trang
thiết bị, nguyên liệu đầu vào chiến lược . Khi vay vốn ngoại tệ từ các NHTM
trong nước, lãi suất tương đối thấp (bằng lãi suất SIBOR 6 tháng cộng chênh
lệch 0,8 - 1,2%/ năm).





Tạp chí Kinh Tế, số 78, năm 2005

11
Sở dĩ NHTM có thể cho vay với lãi suất thấp như vậy là vì nó có khả
năng huy động vốn ngoại tệ lãi suất thấp trong dân cư. Nếu các NHTM không
huy động được vì xét thấy không thuận lợi thì chắc chắn các đề án trên sẽ
phải chịu lãi suất cao hơn. Lý do là các ngân hàng sẽ phải vay vốn từ nước
ngoài. Nếu không thì các doanh nghiệp cũng phải trực tiếp đi vay. Trong cả
hai trường hợp, doanh nghiệp sẽ phải chịu mức lãi suất ít nhất là bằng lãi suất
SIBOR cộng với 1,8 - 2%/năm.
Từ tháng 11/2000, quy định tín dụng đã mở rộng đối tượng được vay
vốn ngoại tệ hỗ trợ cho việc nhập khẩu còn có các dự án đầu tư được phê
duyệt, dự án sản xuất, giao dịch phục vụ cho việc mở rộng thị trường xuất
khẩu, đi lao động ở nước ngoài, Việc mở rộng đối tượng khách hàng tạo
điều kiện thuận lợi để tăng các khoản vay ngoại tệ. Tỷ lệ vay vốn ngoại tệ
tăng từ 16,1% năm 1999 lên 21% năm 2001.



Như vậy, việc huy động vốn ngoại tệ cho phép mở rộng tín dụng cho
nền kinh tế, giảm được rủi ro tỷ giá và phí tổn lãi suất, điều quan trọng hơn là
giảm được sự lệ thuộc vào nguồn vốn nước ngoài.
(iii) Đô-la hoá cũng giúp giảm các chi phí giao dịch và mức độ mở
cửa sẽ lớn hơn.
Vì sử dụng USD trong thanh toán những giao dịch nhất định, chi phí
như chênh lệch giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán trong việc chuyển đổi từ đồng
tiền này sang đồng tiền khác giảm đáng kể. Những chi phí nhằm chống lại rủi
ro tỷ giá cũng được giảm. Điều này giúp giảm tổng chi phí nói chung, từ đó
thúc đẩy tự do hoá thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và bên ngoài. Ví dụ
như, thông qua việc chấp nhận USD, Việt Nam có thể giảm được lượng lớn
chi phí giao dịch với Nhật Bản hay các quốc gia Châu Á khác vì một bộ phận
nhất định của quy trình chuyển đổi từ VND sang USD và ngược lại được loại



Tạp chí Ngân Hàng, số 5/2004

12
bỏ. Kết quả cho thấy thương mại của Việt Nam liên tục tăng trưởng trong giai
đoạn gần đây.
Đô-la hoá góp phần thúc đẩy thương mại và đầu tư. Các nước thực hiện
đô-la hoá chính thức có thể loại bỏ rủi ro cán cân thanh toán và những kiểm
soát mua ngoại tệ, khuyến khích tự do thương mại và đầu tư quốc tế. Các nền
kinh tế đô-la hoá chính thức có thể được hưởng chênh lệch lãi suất đối với các
khoản vay nợ nước ngoài thấp hơn, nhờ đó sẽ giảm chi ngân sách nhà nước,
thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng kinh tế.
Cuối cùng, khi một quốc gia đô-la hoá ở mức độ sâu rộng sẽ rút ngắn
chênh lệch giữa tỷ giá thị trường ngoại hối chính thức và thị trường ngoại hối
phi chính thức (thị trường chợ đen). Khi tỷ giá trên hai thị trường này sát nhau

thì sẽ tạo động cơ để các hoạt động trên thị trường chợ đen (thị trường bất hợp
pháp) chuyển sang thị trường chính thức (thị trường hợp pháp). Điều này giúp
Nhà nước và các cơ quan chức năng dễ dàng hơn trong việc kiểm soát, quản
lý các hoạt động diễn ra trên thị trường.
1.4.2 Những tác động tiêu cực của đô-la hoá
Bên cạnh một số tác động tích cực trên, hiện tượng đô-la hoá còn mang
lại nhiều tác động tiêu cực đến nền kinh tế.
(i) Thách thức lớn nhất của đô-la hoá liên quan đến tính an toàn của hệ
thống ngân hàng và sự quản lý thận trọng. Hạn chế vai trò "cứu cánh cho vay
cuối cùng" của NHTW.
Đô-la hoá có thể làm tăng tính dễ bị tổn thương của hệ thống ngân
hàng, xuất phát từ sự bất tương xứng giữa khoản tiền gửi và hoạt động cho
vay, và từ rủi ro tín dụng và hối đoái. Khoản ngoại tệ cho vay khó đòi trên
tổng vốn cho vay đã xấp xỉ 2 lần chỉ tiêu này đối với tiền đồng.
Nhất là đối với NHTM quốc doanh, những biến động tiềm ẩn của FCDs
có thể làm tăng tính nan giải của bài toán tính lỏng và việc tái xuất hiện yêu
cầu dự trữ chính thức của Việt Nam. Khoản bảo đảm cho FCDs bằng tổng dự

13
trữ chính thức thực sự đã giảm trong hơn 5 năm qua từ hơn 140% vào cuối
năm 1996 xuống 60% vào cuối tháng 8/2001.


Trong trường hợp tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ của dân cư cao như hiện nay,
ngân hàng sẽ phải đối mặt với những khó khăn trong việc cân đối vốn khi có
những biến động bất ngờ làm người dân đổ xô đi rút USD hoặc chuyển sang
VND trong khi số ngoại tệ này đã được ngân hàng cho vay, đặc biệt là cho
vay dài hạn. Do đó, để giải quyết vấn đề cân đối vốn, nó cần phải vay mượn
và đương nhiên khả năng thanh toán của ngân hàng phụ thuộc khả năng vay
mượn này. Hơn nữa, nó cần phải tính đến rủi ro lãi suất tức là lãi suất này có

thể cao hơn lãi suất mà ngân hàng đã cam kết cho vay dài hạn. Ngoài ra, vốn
tự có của ngân hàng Việt Nam còn ở mức thấp. Tuy nhiên mọi người tin
tưởng vào sự an toàn của khoản tiền gửi tại ngân hàng vì có sự bảo lãnh ngầm
của NHNN đối với các khoản vay này. Sự bảo đảm này chỉ có thể thực hiện
được đối với VND còn USD thì không. Không có khả năng phát hành USD,
NHTW không thể thực hiện chức năng "người cho vay cuối cùng" khi hệ
thống ngân hàng lâm vào tình trạng khó khăn. Rõ ràng một khi chức năng
"người cho vay cuối cùng" bị vô hiệu, khu vực ngân hàng càng trở nên dễ bị
tổn thương hơn khi ngân hàng ngừng kinh doanh hay phá sản.
(ii) Đô-la hoá làm giảm hiệu quả của việc kiểm soát tiền tệ của NHTW.
Đô-la hoá không chính thức ở Việt Nam làm cho nhu cầu nội tệ không
ổn định và dễ nhạy cảm hơn với những thay đổi từ bên ngoài. Một khi mọi
người giữ lượng lớn tiền gửi ngoại tệ, lãi suất trong nước hay quốc tế thay đổi
có thể gây ra chuyển dịch lớn từ đồng tiền này sang đồng tiền khác tạo nên
khó khăn cho NHTW trong việc dự đoán tổng phương tiện thanh toán, dẫn
đến không đưa ra được những quyết định kịp thời và chính xác về việc tăng



Ngân hàng Nhà nước Việt Nam:

14
hoặc giảm cung tiền. Kết quả là chính sách tiền tệ bị phụ thuộc và bị ảnh
hưởng lớn bởi những thay đổi từ bên ngoài.
Trong một nền kinh tế có tỷ trọng ngoại tệ lớn, việc hoạch định các
chính sách kinh tế vĩ mô đặc biệt là chính sách tiền tệ sẽ không được độc lập
mà chịu nhiều ảnh hưởng bởi diễn biến kinh tế quốc tế. Hệ thống ngân hàng
tổ chức rộng rãi việc huy động USD dưới mọi hình thức, cạnh tranh nhau đưa
lãi suất huy động hấp dẫn với người gửi, đồng thời sử dụng USD để cấp tín
dụng cho các doanh nghiệp bao giờ cũng gắn liền với SIBOR, LIBOR. Còn

SIBOR hoặc LIBOR lại do chính sách tiền tệ của Mỹ quyết định.
Thêm vào đó, một khoản tiền gửi ngoại tệ là một bộ phận của M2
nhưng có nhiều nhân tố tác động tới tiền gửi ngoại tệ mà NHNN không thể
kiểm soát được hết các nhân tố này. Vì lẽ đó, trong quá trình điều hành chính
sách tiền tệ, mục tiêu trung gian của M2 sẽ bị bóp méo, sai lệch. Thứ nhất, vì
nó chịu ảnh hưởng của cán cân thanh toán quốc tế: cán cân thanh toán của
Việt Nam thặng dư/thâm hụt dẫn đến vốn USD chảy vào/chảy ra và tăng/giảm
tổng phương tiện thanh toán của Việt Nam.
Ngoài ra, chiến lược huy động vốn của NHTM, danh mục đầu tư của
các doanh nghiệp và hành vi tiết kiệm của hộ gia đình đều thay đổi. Tiền gửi
ngoại tệ của các doanh nghiệp thì có thể dự đoán được thông qua chính sách
kết hối ngoại tệ

. Tuy nhiên NHTW khó có thể đoán trước được thay đổi
trong hành vi tiết kiệm của hộ gia đình. Do đó, sự dao động thất thường của
FCDs nằm ngoài tầm kiểm soát của NHNN.
(iii) Đô-la hoá trên thị trường tự do càng tăng, thị trường ngoại tệ liên
ngân hàng hoạt động càng kém sôi động, gây ảnh hưởng đến sự cân đối cung
cầu ngoại tệ.



Là quy định của Nhà nước yêu cầu doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ phải bán lại một phần hoặc toàn bộ
cho ngân hàng.

15
Thị trường ngoại hối chủ yếu là mua bán ngoại tệ. Nhưng đô-la hoá làm
cho lượng ngoại tệ bị sức hút vào cất giữ trên các tài khoản của NHTM.
Lượng ngoại tệ này cũng là vốn khả dụng mà chủ sở hữu là người gửi tiền
nên ngân hàng không thể đưa ra thị trường liên ngân hàng để mua bán. Mặt

khác, các NHTM lại cho vay trực tiếp bằng ngoại tệ, rất ít liên quan đến thị
trường mua bán ngoại tệ. Chính vì vậy mà thị trường ngoại hối không có sự
hoạt động nhộn nhịp.
Ngoài ra đô-la hoá còn làm cho thị trường này rất dễ rơi vào trạng thái
mất cân bằng (thường là khan hiếm ngoại tệ). Điều đó cho thấy sự bất hợp lý
trong luân chuyển ngoại tệ. Đô-la hoá ngoài hệ thống ngân hàng cũng đồng
nghĩa với việc nguồn ngoại tệ bị phân tán, không tập trung qua hệ thống ngân
hàng để đáp ứng cho nền kinh tế. Xét trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế, cung
cầu ngoại tệ không khó khăn nhưng do đô-la hoá làm cho hiện tượng căng
thẳng ngoại tệ diễn ra khá phổ biến. Do ngoại tệ trên thị trường khan hiếm,
các ngân hàng chưa có đủ ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu thanh toán của doanh
nghiệp nên cũng không có dư để bán trên thị trường. Khi cầu ngoại tệ tăng
mạnh mà cung ngoại tệ lại không tăng thì thị trường ngoại hối sẽ trở nên căng
thẳng. Theo số liệu thống kê năm 2000 về xuất nhập khẩu, kiều hối, nguồn
phi thương mại, chiếm khối lượng lớn thì cán cân vãng lai của Việt Nam
thặng dư. Tuy nhiên căng thẳng ngoại tệ vẫn tiếp tục kéo dài. Nguyên nhân là
do bộ phận dân cư nhận được kiều hối thì muốn rút USD tiền mặt rồi bán trên
thị trường tự do mà không bán cho ngân hàng, vì tỷ giá ở thị trường tự do vẫn
hấp dẫn hơn. Nguồn thu ngoại tệ của hệ thống doanh nghiệp cũng chiếm tỷ
trọng lớn nhưng các doanh nghiệp cũng không bán cho ngân hàng nên các
ngân hàng cũng khan hiếm ngoại tệ, nên khó đáp ứng cho nhu cầu mua ngoại
tệ của các đơn vị khác. Còn nguồn thu ngoại tệ của Nhà nước phần lớn là từ
việc bán dầu thô nhưng lại tập trung vào Bộ Tài chính, sau đó Bộ Tài chính
mới bán lại một phần cho NHNN để bán cho NHTM phục vụ nhập khẩu xăng

16
dầu. Nhu cầu mua USD và gửi USD tại các NHTM ngày càng tăng cao, ai
cũng muốn đô-la hoá phần tài sản của mình và đó là nguyên nhân của sự căng
thẳng cung cầu ngoại tệ trong thời gian vừa qua.
(iv) Đô-la hoá hạn chế tác động của chính sách tiền tệ nhằm thúc đẩy

tăng trưởng, hạn chế tác dụng của tỷ giá như một công cụ khuyến khích xuất
khẩu.
Nỗ lực của NHTW nhằm kích cầu/giảm cầu thông qua tăng/giảm tín
dụng sẽ mang lại ít hiệu quả khi sự thay đổi lãi suất ngoại tệ ảnh hưởng trực
tiếp đến quyết định phân phối tài sản của người giữ USD. Nói cách khác, sự
thay đổi lãi suất ngoại tệ ít nhiều ảnh hưởng đến tổng cầu nội địa vì khi lãi
suất ngoại tệ tăng/giảm người giữ USD có xu hướng hạn chế/mở rộng tiêu
dùng và đầu tư.
Do đó khi NHTW thực thi chính sách lãi suất thấp trong trường hợp
kinh tế suy thoái chưa chắc đã khuyến khích được tiêu dùng và đầu tư mà lại
dẫn đến tâm lý chuyển đổi từ VND sang USD để hưởng "lãi kép". Năm 2000,
thực thi chủ trương kích cầu của Chính phủ lãi suất VND được duy trì ở mức
thấp, đồng lúc với lãi suất USD trên thị trường quốc tế đang tăng cao. Các
NHTM cũng đồng loạt đẩy lãi suất huy động USD làm cho tiền gửi USD của
người dân trong hệ thống ngân hàng tăng rất nhanh. Do đó càng làm trầm
trọng thêm tình trạng giảm phát, chính sách kích cầu không phát huy tác dụng
và hàng ngàn tỷ đồng nằm "chết" trong hệ thống ngân hàng, gây ra sự lãng
phí vốn nghiêm trọng (cả nội tệ lẫn ngoại tệ) trong khi nền kinh tế lại đang
thiếu vốn để đầu tư.
Cũng tương tự, trong khi sử dụng công cụ tỷ giá để khuyến khích xuất
khẩu thì đô-la hoá lại làm tăng phản ứng phụ của chính sách phá giá. Chính
sách phá giá theo hướng làm giảm giá trị đồng bản tệ để cho các nhà xuất
khẩu khi thu được ngoại tệ chuyển đổi qua đồng bản tệ sẽ được hưởng một
giá trị lớn hơn cộng thêm lãi suất tiền gửi nội tệ, thu nhập của các nhà xuất

17
khẩu tăng cao tạo ra khả năng cạnh tranh giá cả hàng hoá trên thị trường quốc
tế. Nhưng vì giai đoạn phá giá lại trong nền kinh tế bị đô-la hoá nên đã tạo ra
phản ứng tiêu cực là càng khuyến khích sự găm giữ tích trữ ngoại tệ, tạo áp
lực lên sự mất cân đối cung cầu ngoại tệ.

(v) Đô-la hoá càng nặng, cơ hội để đồng nội tệ trở thành đồng tiền
chuyển đổi càng xa vời.
Sự khác nhau có tính quyết định giữa đồng tiền mạnh và đồng tiền yếu
là dựa trên cơ sở sự ổn định danh nghĩa của nó. Tiêu thức này liên quan đến
chức năng làm phương tiện cất giữ và thanh toán. Ở Việt Nam, đô-la hoá làm
cho VND bị lấn át về chức năng này. VND không làm được trọn vẹn chức
năng của mình, đô-la hoá làm VND phải "cạnh tranh" trong thế yếu so với
một đồng tiền mạnh như USD.
(vi) Đô-la hoá đồng nghĩa với việc NHTW bị mất đi một khoản doanh
thu từ việc phát hành tiền hay còn gọi là thuế đúc tiền.
Trong khi có thể có được một số ưu quyền tiền tệ từ dự trữ ngoại tệ bắt
buộc của NHTM tại NHTW thì nó lại bị mất đi khi nó lưu thông ngoài hệ
thống ngân hàng. Như được đề cập ở trên, không có số liệu cụ thể về lượng
ngoại tệ trong lưu thông tại Việt Nam. Tuy nhiên, giả định tỷ lệ ngoại tệ trong
lưu thông trên tiền gửi ngoại tệ là tương đương tỷ lệ tiền đồng trong lưu thông
trên tiền gửi bằng đồng, ngoại tệ trong lưu thông sẽ xấp xỉ 42 nghìn tỷ đồng,
chiếm khoảng 10%GDP (tính theo số liệu cuối năm 2000). Với tổng tiền dự
tính tăng trung bình 20%, khoản doanh thu mất đi theo cách này sẽ là khoảng
2%GDP mỗi năm.


Mặt khác, cho lưu thông đồng thời hai đồng tiền sẽ dẫn đến lượng
VND phát hành sẽ nhỏ hơn khi chỉ có duy nhất VND được lưu thông. Điều
này cũng dẫn đến việc giảm doanh thu từ phát hành tiền. Ví dụ chi phí để in



Tổng cục Thống kê Việt Nam:

18

1000 tờ VND là 200 VND nhưng Chính phủ có thể mua hàng hoá trị giá
1000VND. Đó là lợi nhuận ròng từ việc phát hành tiền. Khi phát hành ít tiền
hơn, lợi nhuận ròng sẽ nhỏ hơn.
Khi phát hành tiền, Ngân hàng trung ương của quốc gia đó sẽ thu về
được một khoản lợi nhuận không nhỏ từ việc phát hành các loại giấy bạc và
tiền kim loại. Khi một quốc gia bị đô-la hoá thì đồng đô-la giữ vai trò áp đảo
hơn so với đồng nội tệ trong việc thực hiện ba chức năng của đồng tiền. Chính
vì thế, khoản thu nhập mà lẽ ra Ngân hàng trung ương nước đó có được từ
việc phát hành tiền sẽ chảy về Cục dự trữ liên bang Mỹ, nơi phát hành ra đồng
đô-la Mỹ. Chính phủ Mỹ hàng năm thu về khoảng 25 tỷ đô-la từ nghiệp vụ
phát hành tiền. Khi người dân các nước khác giữ đồng đô-la Mỹ trong tay, thì
chính là đang góp phần làm giàu cho Bộ tài chính Mỹ. Ví dụ tại Argentina –
quốc gia có mức độ đô-la hoá cao hàng năm đã bị thiệt hại hơn 750 triệu đô-la
Mỹ từ việc phát hành giấy bạc. Con số này quả là không nhỏ, nó chiếm tới
2% tổng thu nhập quốc dân của Argentina vào cùng thời điểm. Đã có những
cuộc thảo luận về việc chia lợi nhuận thu được từ ưu quyền tiền tệ cho các
nước thực hiện đô-la hoá, nhưng cho đến nay việc này vẫn chỉ là dự thảo.
(vii) Một nhược điểm nữa của đô-la hoá là lo sợ tiền giả mà ngay cả
Mỹ cũng khó phân biệt được tiền giả.
Ngoài việc sản xuất cocaine, Colombia còn nổi tiếng về các “nhà máy”
sản xuất đô-la. Rủi ro về chính trị cũng có thể xảy ra. Khi El Salvador tiến
hành đô-la hoá, đảng đối lập gọi đó là hành động bán mình cho đế quốc.
Thuyết phục người dân bản xứ sử dụng một loại tiền không quen thuộc cũng
không phải dễ. Một trong những khó khăn Argentina gặp phải khi quyết định
đô-la hoá sẽ là văn hoá: đô-la hoá có thể được coi là thua chủ nghĩa thực dân,
là dâng nộp biểu tượng niềm tự hào của đất nước.

19
(viii) Khi một quốc gia bị ảnh hưởng của tình trạng đô-la hoá cao thì
nền kinh tế của quốc gia đó sẽ bị phụ thuộc nhất định vào nền kinh tế Mỹ.

Các chính sách về tỷ giá và lãi suất của Cục dự trữ liên bang Mỹ - FED
sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến mọi hoạt động của quốc gia đó. Và khi đồng đô-la
dao động so với các đồng tiền khác trên thế giới (và việc này xảy ra thường
xuyên), đôi lúc khá mạnh, thì sẽ không có cách nào để đối phó với những
khủng hoảng như vậy. Vì nước thực hiện đô-la hoá hoàn toàn trao quyền kiểm
soát và quyền đưa ra một chính sách tiền tệ tập trung và độc lập cho Ngân
hàng trung ương của nước phát hành tiền. Cục Dự trữ Liên bang Mỹ sẽ chỉ
đưa ra những quyết định có lợi cho Mỹ và không quan tâm mấy đến tình hình
ở các nước thực hiện đô-la hoá.
Cũng từ nguyên nhân trên, nước thực hiện đôla hoá sẽ không thể đối
phó với các cú sốc kinh tế, ví dụ như dao động của giá dầu trên thị trường thế
giới, bằng cách thay đổi tỉ giá hối đoái. Đô-la hoá sẽ vô hiệu hoá phương thức
sử dụng chính sách tỉ giá hối đoái. Các cú sốc ngoại biên, dao động của đồng
đô-la chỉ là một trong số đó, sẽ không thể được đồng nội tệ hấp thụ bớt mà sẽ
được truyền thẳng vào các hoạt động kinh tế.
Thực tế thì các nước đang phát triển và Mỹ có chu kỳ tăng trưởng kinh
tế không giống nhau, vì thế các quốc gia này cần phải có chính sách tiền tệ,
lãi suất độc lập mới có thể giúp nền kinh tế tăng trưởng bền vững. Như chúng
ta đã biết cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á 1997-1998 bên cạnh lý
do là sự yếu kém của hệ thống tài chính – ngân hàng thì một nguyên nhân
không kém phần quan trọng là các nước châu Á này cố định đồng nội tệ của
mình vào đô-la Mỹ. Vì thế khi FED tăng lãi suất, làm cho đồng đô-la tăng giá
mạnh, dòng vốn đầu tư ở châu Á ồ ạt đổ về Mỹ. Khi đó các nước châu Á đã
không kiểm soát được lượng đô-la Mỹ trên thị trường, không đưa ra được

×