Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Thực trạng của việc thực hiện chính sách lãi suất tín dụng ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.44 KB, 38 trang )

lời nói đầu
Trong nền kinh tế thị trờng tồn tại nhiều phạm trù kinh tế-tài chính,trong
đó lãi suất tín dụng ngân hàng là một trong những phạm trù quan trọng. Nếu
xác định lãi suất hợp lí sẽ là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sản xuất, lu thông
hàng hoá phát triển và ngợc lại. Vì vậy, lãi suất ngân hàng vừa là công cụ quản
lí vĩ mô của Nhà nớc vừa là công cụ vi mô của các NHTM. Một chính sách lãi
suất có hiệu quả là chính sách đợc áp dụng nhất quán trong một lãnh thổ và đọc
NHNN điều chỉnh chặt chẽ, mềm dẻo theo từng thời kì cho phù hợp với nhu cầu
huy động vốn và cung ứng vốn nhằm thu hút đợc nguồn vốn nhàn rỗi trong dân
c phục vụ phát triển kinh tế đất nớc, đồng thời bảo đảm đợc cho hoạt động của
các NHTM thực sự có hiệu quả.
Trong nền kinh tế thị trờng, tín dụng ngân hàng phản ánh quan hệ giữa các chủ
thể sở hữu và các chủ thể sử dụng đối với các nguồn vốn trong nền kinh tế trên
nguyên tắc hoàn trả có kèm theo lãi.Nhờ có hoạt động tín dụng mà một bộ phận
lớn vốn của xã hội dới dạng hiện kim hoặc hiện vật đợc vận động từ nơi tạm
thời d thừa sang nơi thiếu để đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các chủ thể
trong nền kinh tế.Đối với chủ thể thừa vốn ,tín dụng mang đến cho họ cơ hội
không những bảo toàn đợc vốn mà còn thu lãi.Đối với các chủ thể thiếu
vốn ,tín dụng giúp cho họ bổ sung vốn để đáp ứng các nhu cầu sản xuất,kinh
doanh hoặc phục vụ cho đời sống sinh hoạt .
Công cụ và là đòn bẩy quan trọng không thể thiếu đợc cho hoạt động tín dụng
ngân hàng chính là lãi suất tín dụng ngân hàng.Chính nhờ lãi suất tín dụng tác
động đến lợi ích của các chủ thể ,mà các quan hệ tín dụng đợc xác lập và vận
động.Nếu không có lãi suất tín dụng ,hoặc có nhng không hợp lý thì nó sẽ làm
triệt tiêu các quan hệ tín dụng ,làm giảm đi vai trò tích cực vốn có của tín dụng
đối với sự phát triển của nền kinh tế . Nh vậy, xây dựng một chính sách lãi suất
là cơ bản để giải quyết mối quan hệ này mang lại sự ổn định và hiệu quả kinh tế
-xã hội.
Sau hơn 10 năm đổi mới, ngành ngân hàng đã đạt đợc những thành tựu nhất
định, góp phần không nhỏ vào những thành quả chung của nền kinh tế. Cùng
với quá trình từng bớc chuyển sang nền kinh tế thị trờng, các nghiệp vụ ngân


hàng đã không ngừng đợc đổi mới và phát triển để phù hợp với điều kiện thực
tiễn của nớc ta. Trong nhiệm vụ thực hiện xây dựng và điều hành chính sách
1
tiền tệ, NHNN đã rất chú trọng đến việc đổi mới các công cụ điều tiết. Nhng
quan trọng nhất vẫn là công cụ quản lí lãi suất. Lãi suất đợc coi là công cụ nhạy
cảm nhất, có ảnh hởng trực tiếp lớn nhất. Thời gian qua, từ thực tế sử dụng công
cụ lãi suất, chúng ta đã đúc rút đợc khá nhiều kinh nghiệm, đặc biệt là việc
chuyển sang cơ chế lãi suất thực dơng. Tuy cách thức áp dụng vẫn còn mang
nhiều tính chất áp đặt, trực tiếp. Chính vì vậy, vấn đề điều hành lãi suất cần phải
đợc cải tiến để phù hợp hơn trong thời gian tới.
Trong đề tài này , em xin trình bày những vấn đề xoay quanh chủ đề trên. Tuy
nhiên , với sự hiểu biết về những kiến thức chuyên ngành còn hạn chế, đề án
chắc chắn còn nhiều sai sót. Em mong nhận đợc sự nhận xét , góp ý của các
thầy, các cô để hoàn thiện thêm vốn kiến thức của bản thân
Phần Một
Lí luận chung về lãi suất

1. Lãi suất - cấu trúc,Chức năng và vai trò của lãi
suất
1. Định nghĩa lãi suất
Có nhiều cách định nghĩa về lãi suất tín dụng .Lãi suất tín dụng nh nhiều
ngời nói là giá cả của tín dụng hay nói một cách khác là tỷ lệ phần trăm tính
theo một thời gian xác định (ngày ,tuần ,tháng ,quí ,năm ) dùng làm căn cứ để
tính toán số lợi tức tín dụng mà các chủ thể đi vay phải trả hoặc các chủ thể cho
vay phải nhận đợc,nhằm điều hoà lợi ích kinh tế giữa các chủ thể tham gia quan
hệ tín dụng .
Lãi suất cao hay thấp do quan hệ cung cầu vốn quyết định. Khi cung lớn
hơn cầu thì lãi suất giảm , khi cầu lớn hơn cung thì lãi suất tăng. Lãi suất vơn
tới một mức cân bằng sao cho tổng cầu về vốn trên thị trờng với lãi suất đó bằng
2

tổng cung về vốn đợc cung ứng trên thị trờng đó ứng với lãi suất đó. Vậy thì lãi
suất phải là bao nhiêu mới là hợp lý? Trong lý luận về t bản cho vay C.Mác đã
khẳng định rằng: Tiền không đẻ ra tiền ,tiền chỉ có thể đẻ ra tiền một khi tiền
đợc đa vào sử dụng dể sản xuất ,lu thộng hàng hoá ,ông khẳng định lợi tức tín
dụng (tiền lãi ) là một bộ phận của lợi nhuận mà ngời đi vay tạo ra trong sản
xuất kinh doanh nhờ sử dụng vốn tín dụng ,và phân phối lại cho ngời cho vay d-
ới hình thức lợi tức.Từ lập luận này cho phép ta khẳng định giới hạn tối đa của
lãi suất nói chung là tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế ,còn giới hạn
tối thiểu của lãi suất chính là chỉ số lạm phát ,bởi vì nó làm cho ngời gửi ít nhất
cũng bảo toàn đợc vốn .Nói chung ,để lãi suất tín dụng trở thành đòn bẩy kích
thích và mở rộng quan hệ tín dụng trong nền kinh tế thì phải đảm bảo lãi suất
tín dụng phải đợc kiểm soát trong khung giới hạn sau đây:
Tỷ lệ lạm phát <=Lãi suất tín dụng <= Tỷ suất lợi nhuận bình quân
Vợt qua giới hạn trên ,lãi suất tín dụng nói riêng và tín dụng nói chung sẽ gây
tác động tiêu cực tới nền kinh tế-xã hội ,hệ thống ngân hàng sẽ rơi vào tình
trạng bất ổn rối loạn .
2.Cấu trúc của lãi suất
a.Cấu trúc rủi ro của lãi suất
Khái niệm:Tính tơng quan giữa những loại lãi suất của những công cụ nợ
có cùng kỳ hạn thanh toán gọi là cấu trúc rủi ro của lãi suất
Các yếu tố gây ra hiện tợng này là:
*Rủi ro vỡ nợ
Rủi ro vỡ nợ là khả năng ngời đi vay không trả đủ tiền lãi,tiền gốc hoặc
cả hai khi đến hạn trả. Rủi ro vỡ nợ là một thuộc tính của các công cụ nợ nhng
không phải mọi công cụ nợ đều có thuộc tính này .Ví dụ chứng khoán của
chính phủ không có rủi ro vỡ nợ .Khoảng cách (chênh lệch) giữa lãi suất của
một công cụ nợ có rủi ro với lãi suất của một công cụ nợ không có rủi ro đợc
gọi là mức bù rủi ro .Rủi ro vỡ nợ càng cao thì mức bù rủi ro càng lớn .Đối với
những công cụ có rủi ro vỡ nợ sẽ luôn có mức bù rủi ro dơng và một sự tăng rủi
ro vỡ nợ của nó sẽ làm tăng mức bùi rủi ro này.

*Tính lỏng
Tính lỏng của một tài sản là nói tới khả năng có thể chuyển đổi nó
thành tiền mặt một cách nhanh chóng và ít tốn kém.Tính lỏng có ảnh hởng đến
lãi suất vì một tài sản càng lỏng ,càng đợc a chuộng (điều kiện :mọi yếu tố khác
không đổi ),cầu về nó tăng lên so với cung nên làm lãi suất giảm xuống .Một
công cụ nợ càng kém lỏng ,lãi suất của nó sẽ càng cao so với những công cụ
3
lỏng hơn .Khoảng cách lãi suất giữa công cụ nợ kém lỏng so với công cụ
lỏng hơn cũng gọi là mức bù rủi ro ,đôi khi còn gọi là mức bù tính lỏng
*Qui chế thuế thu nhập
Nếu qui chế thuế thu nhập qui định :có những công cụ nợ phải
chịu thuế thu nhập khi thanh toán tiền lãi thì thuế thu nhập là một yếu toó tạo
nên sự khác nhau trong lãi suất của công cụ nợ .Đối với những công cụ nợ mà
tiền thanh toán lãi của nó đợc miễn ,thuế thu nhập có lãi suất thấp hơn lãi suất
của công cụ nợ chịu thuế thu nhập .Sở dĩ nh vậy vì :Do không phải chịu thuế
thu nhập nên có lợi tức dự tính sau thuế cao hơn so với công cụ nợ phải chịu
thuế thu nhập khiến cho nó đợc a chuộng hơn ,cầu về nó tăng so với cung làm
lãi của nó giảm xuống thấp hơn so lãi suất của công cụ nợ phải chịu thuế thu
nhập .
Nh vậy ,Cấu trúc rủi ro của lãi suất đợc giả thích bằng ba yêú tố
:
Rủi ro vỡ nợ ,tính lỏng và qui chế thuế thu nhập đối với công cụ nợ .Khi rủi ro
vỡ nợ của một công cụ nợ tăng khoảng cách giữa lãi suất của nó với lãi suất của
công cụ nợ không có vỡ nợ tăng lên (mức bù rủi ro tăng lên).Khi tính lỏng của
một công cụ nợ đợc cải thiện ,lãi suất của nó giảm xuống.Nếu một công cụ nợ
đợc hởng một qui chế thu nhập thuận lợi thì lãi suất của nó sẽ thấp hơn lãi suất
của những công cụ nợ so sánh không có những thuận lợi về thuế này.
b.Cấu trúc kỳ hạn của lãi suất
-Khái niệm :Tính tơng quan giữa những lãi suất của các công cụ nợ có
cùng đặc tính rủi ro ,tính lỏng và thuế thu nhập nhng có kỳ hạn thanh toán khác

nhau gọi là cấu trúc kỳ hạn của lãi suất.
*Giả thuyết về dự tính:
Giả thuyết hình thành xuất phát từ tiền đề cho rằng những ngời mua
công cụ nợ không u tiên nhngx công cụ nợ có kỳ hạn thanh toán này hơn là
những công cụ nợ có một hạn kỳ thanh toán khác mà họ u tiên cho những công
cụ nợ nào có tỷ suất lợi tức cao hơn bất kể kỳ hạn của nó ngắn hạn hay dài .
Giả thuyết về dự tính coi lãi suất dài hạn của một công cụ nợ bằng trung
bình của những lãi suất ngắn hạn tơng lai đợc trông đợi xuất hiện trong suốt
thời gian tồn tại của công cụ nợ dài hạn đó. Nội dung của giả thuyết dự tính có
thể cụ thể hoá bằng công thức sau:
i
t
+ i
e

t+1
+ i
e
t+2
+ . . . . .+ i
e

t+n-1

i
nt
=
n
Trong đó :
4

i
nt
:Lãi suất hôm nay(tại thời điểm t) của công cụ n giai đoạn.
i
t
:Lãi suất hôm nay(tại thời điểm t) của một công cụ nợ loại1
giai đoạn
i
e
t+1
,i
e

t+2
,. . . ,i
e

t+n-1
:Lãi suất của một công cụ nợ loại 1các giai đoạn
dự tính tiếp theo
Giả thuyết dự tính giải thích về cấu trúc kỳ hạn của lãi suất bao
gồm :
+Giải thích lãi suất của những công cụ nợ có kỳ hạn thanh toán khác nhau thì
khác nhau chín là do những lãi suất ngắn hạn đợc trông đợi là có những giá trị
khác nhau trong tơng lai.
+Gải thích các đờng lãi suất có hình dạng khác nhau là thể hiện cấu trúc có kỳ
hạn của lãi suất
Đờng lãi suất dốc lên là do lãi suất ngắn hạn đợc trông đợi tăng lên trong tơng
lai.
Đờng lãi suất dốc xuống lá do trung bình của các lãi suất ngắn hạn tơng lai đợc

trông đợi sụt giảm .
Đờng lãi suất nằm ngang là do các lãi suất ngắn hạn không đợc trông đợicó sự
thay đổi tính theo trung bình trong tơng lai.
+Giả thích vì sao những lãi suất của những công cụ nợ có kỳ hạn thanh toán
khác nhau diễn biễn theo nhau .
-Ưu điểm của giả thuyết :Mang lại sự giải thích giản đơn về hình thái diễn biến
của cấu trúc kỳ hạn của lãi suất .
-Nhợc điểm :Không giải thích đợc hiện tợng xảy ra trên thực tế là các lãi suất
ngắn hạn có khả năng sụt giảm nh khả năng tăng lên.
*Lý thuyết thị trờng phân cách :
Lý thuyết này xuất phát từ tiền đè cho rằng lãi suất của những công cụ nợ có kỳ
hạn thanh toán khác nhau hoàn toàn không thể thay thế cho nhau.Theo lý thuyết
này lãi suất cho một công cụ nợ lúc đó đợc xác định theo lợng cung và cầu đối
với công cụ nợ hạn kỳ đó và không chịu tác dụng của lợi tức dự tính của những
công cụ nợ có kỳ hạn khác.Lợng cung và cầu về các công cụ nợ có kỳ hạn
thanh toán khác nhau thì khác nhau ,cụ thể :
Các đờnglãi suất dốc lên vì lợng cầu về những công cụ nợ ngắn hạn tơng đối
cao hơn so với lợng cầu về những công cụ nợ dài hạn .Công cụ nợ ngắn hạn có
giá cao hơn và lãi suất thấp hơn công cụ dà hạn
Các đờng cong lãi suất dốc xuống là vì lợng cầu về công cụ nợ ngấn hạn là tơng
đối cao hơn .
-Ưu điểm : Giải thích đợc tại sao đờng lãi suất thờng có xu hớng dốc lên.
5
-Nhợc điểm :Không giải thích đợc trờng hợp xảy ra trong thực tiễn là những lãi
suất của những công cụ nự khác nhau có diễn biến theo nhau.
*Lý thuyết môi trờng u tiên:
Lý thuyết này xuất phát từ cả hai tiền đề của cả hai lý thuyết trên.Lý thuyết giải
thích những công cụ nợ có kỳ hạn thanh toán khác nhau lại diễn biến theo nhau
qua thời gian là do một sự tăng các lãi suất ngắn hạn chỉ ra rằng các lãi suất
ngắn hạn ,tính trung bình ,sẽ cao hơn trong tơng lai và các lãi suất dài hạn sẽ

tăng theo chúng
Lý thuyết này coi các lãi suất dài hạn là bằng trung bình của những lãi suất
ngắn hạn tơng lai đợc trông đợi xảy ra trong suốt thời gian tồn tại của một trái
khoán dài hạn cộng với một mức bù hạn kỳ ,mức bù này phản ánh mức cung và
cầu về những trái khoán có những kỳ hạn khác nhau.Lý thuyết này cho phép ta
suy ra những dự tính của thị trờng về những những diễn biến của những lãi suất
ngắn hạn tơng lai dựa trên đờng lãi suất hoàn vốn.
Một đờng dốc mạnh cho biết rằng các lãi suất ngắn hạn đợc trong đợi trong t-
ơng lai tăng lên .Một đờng dốc lên thoai thoải cho biết rằng các lãi suất ngắn
hạn đợc trông đợi sẽ gữ nguyên không đổi .Một đờng nằm ngang cho biết lãi
suất đợc trông đợi sẽ giảm nhẹ .Một đờng dốc xuống cho biết sự giảm sút
nghiêm trọng của các lãi suất ngắn hạn đợc trông đợi trong tơng lai .
-Ưu điểm :Lý thuyết môi trờng u tiên đã kết hợp các đặc điểm của các giả
thuyết trớc đó nên nó có một cách giải thích khá hoàn hảo các sự việc xảy ra
trên thực tế về cấu trúc kỳ hạn của lãi suất .nó là lý thuyết đợc chấp nhận rộng
rãi nhất trong việc giải thích cấu trúc có kỳ hạn của lãi suất.Mặt khác ,nó chỉ ra
cho nhà đầu t biết những dự đoán của thị trờng về diễn biến lãi suất ngắn hạn
trong tơng lai chỉ bằng cách nhìn vào hớng dốc của các đờng lãi suất hoàn vốn.
3.Chức năng
a. Phân phối
Trong chức năng này, các lãi suất giúp cho nền kinh tế phân bổ khoản tiết
kiệm vào những cách sử dụng khác nhau. Đối với những ngời có tiền tiết kiệm
thì lãi suất là tiền thởng cho việc hạn chế tiêu dùng và chờ đợi tiêu dùng vào
thời gian trong tơng lai. Lãi suất tiết kiệm càng cao càng khuyến khích đợc
nhiều ngời gửi tiền tiết kiệm.
Đối với những ngời đi vay, lãi suất là cái giá phải trả cho số tiền vay để
đầu t hay tiêu dùng. Lãi suất cho vay càng cao, ngời ta vay mợn để đầu t hay
tiêu dùng càng ít. Trờng hợp một gia đình vay tiền để mua nhà thì lãi suất tiền
vay là lãi suất cầm cố. Những ngời vay tiền để kinh doanh, khi quyết định đầu t
6

bao nhiêu phải so sánh lãi suất phải trả cho khoản vay với số tiền kiếm đợc từ
các dự án đầu t.
b. Kiểm soát
Lãi suất có vai trò trung tâm trong chính sách tiền tệ của chính phủ.
Trong nền kinh tế hiện đại, chính sách tiền tệ của chính phủ sử dụng lãi suất nh
một công cụ quan trọng để tác động vào nền kinh tế, kiểm soát lợng cung ứng
tiền tệ. Khi mức cung ứng tiền tăng lên, nếu đem số tiền tạm thời thừa ra cho
vay, đầu t thì lãi suất sẽ hạ xuống. Khi lãi suất giảm, giá thành đầu t giảm theo,
các doanh nghiệp lại tăng đầu t, nhu cầu đầu t và tiêu dùng tăng lên, lãi suất lại
tăng lên.
Lãi suất có vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Thông qua sự biến động
của lãi suất, ngời ta có thể dự đoán đợc nền kinh tế đang phát triển hay đang
suy thoái.
Lãi suất là một trong những biến số đợc theo dõi chặt chẽ nhất trong nền
kinh tế vì nó trực tiếp tác động đến đời sống hàng ngày của mỗi ngời cũng nh
sức khoẻ của nền kinh tế.
Lãi suất tác động đến những quyết định cá nhân nh chi tiêu hay để dành,
mua nhà , mua chứng khoán hay gửi tiết kiệm ngân hàng.
Lãi suất cũng tác động đến những quyết định kinh tế của các doanh
nghiệp hoặc gia đình nh dùng vốn đầu t vào nhà máy mới, mua thêm t liệu sản
xuất, đầu cơ chứng khoán hay gửi tiết kiệm ngân hàng. Mỗi mức lãi suất đều có
tác động trực tiếp đến tiết kiệm, đầu t, sản xuất, tiêu dùng, giá cả, tỷ giá hối
đoái và lạm phát. Khi lãi suất ổn định, nhu cầu tiêu dùng và đầu t ổn định, nền
kinh tế phát triển theo kế hoạch. Khi lãi suất tăng, nhu cầu tiêu dùng và đầu t
tăng, việc làm tăng, sản lợng tăng, thu nhập tăng. Tóm lại , lãi suất là một trong
những vấn đề trung tâm của nền kinh tế vì nó tác động đến chi phí đầu t, quyết
định tổng mức đầu t và tổng mức cầu tiền tệ.
4.Vai trò :
Lãi suất đóng một vai trò hết sức to lớn trong nền kinh tế ,thể hiện:
-Trong nền kinh tế có những chủ thể thừa vốn hoặc không đa vốn vào kinh

doanh ,khiến cho số vốn đó nằm im trong túi và trở thành vốn chết .
Ngợc lại ,lại có những chủ thể muốn đi vào kinh doanh nhng không có vốn
,thiếu vốn .Thật là có lợi nếu nh hai chủ thể đó trao đổi cho nhau .Vậy cơ sở nào
để có thể tiến hành sự trao đổi ?Lãi suất chính là điểm gặp của những ngời tiết
kiệm (thừa vốn ,có vốn nhàn rỗi ) với những nhà đầu t (thiếu vốn ,cần vốn ).Lãi
7
suất làm dung hoà lợi ích của các bên .Ngời tiết kiệm ,nếu đem tiền của mình
cho ngời khác vay,họ sẽ nhận đợc một khoản lãi nhất định đợc tính theo lãi suất
ngân hàng hoặc lãi suất do hai bên tự thoả thuận .Ngời đầu t đem khoản tiền
vay đợc đó đi vào kinh doanh ,biến số tiền đó thành vốn .Khi sản xuất kinh
doanh phát triển ,làm ăn có lãi ,ngoài việc họ trả đợc số tiền vay ,họ còn thu đợc
thêm lợi nhuận .Nh vậy họ đã biết cách dùng tiền của ngời khác để tạo ra tiền
cho mình .
-Mặt khác ,vì là lãi suất đem lại lợi ích cho nhà tiết kiệm ,nên với mức lãi suất
hợp lý sẽ khuyến khích tiết kiệm trong nền kinh tế.Theo một mô thức logic ,tiết
kiệm tăng sẽ khiến cho đầu t cũng tăng và thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển .
-Một vai trò không thể thiếu là :lãi suất là một công cụ quan trọng để nhà nớc
có thể điều tiết vĩ mô nền kinh tế .Thông qua lãi suất ,nhà nớc thực hiện chính
sách tiền tệ cũng nh chính sách tài khoá của mình .Đối với chính sách tiền tệ
,khi lãi suất tăng sẽ làm cho cung tiền giảm và ngợc lại .
Đối với chính sách tài khoá ,lãi suất cao sẽ tác động gián tiếp tới cung cầu của
thị trờng hàng hóa.Lãi suất tiền gửi tăng sẽ kéo theo sự tăng lãi suất cho vay.Sự
tăng lãi suất sẽ đẩy giá bán của hàng hoá lên.Giả sử ban đầu nền kinh tế đang
cân bằng (cung hàng hoá bằng cầu hàng hoá ),khi lãi suất tăng dẫn tới giá cả
hàng hoá tăng sẽ làm cho cầu về hàng hoá đó giảm,nền kinh tế trở nên d cung
hàng hoá ,các nhà sản xuất phải thu hẹp sản lợng .Ngợc lại ,lãi suất thấp sẽ dẫn
tới giá bán hàng hoá giảm ,kích thích tiêu dùng , làm cho cầu về hàng hoá đó
tăng .Cầu tăng ,trong khi cung không đổi sẽ dẫn tới tình trạng d cầu hàng
hoá .Để đáp ứng nhu cầu về hàng hoá của xã hội ,các nhà sản xuất có thể đẩy đ-
ợc giá bán lên hoặc tiếp tục mở rộng sản xuất ,tạo ra hàng hoá ngày càng đa

dạng cho thị trờng
-Ngoài ra ,lãi suất còn có tác động rất lớn tới chế độ tỉ giá .Nếu lãi suất trên thế
giới lớn hơn lãi suất trong nớc thì nguồn vốn của t bản nớc ngoài đổ vào trong
nớc ,làm cho cung ngoại tệ tăng lên ,tỉ giá giảm .Ngợc lại ,nếu lãi suất thế giới
nhỏ hơn lãi suất trong nớc sẽ dẫn tới hiện tợng nguồn vốn trong nớc chảy ra nớc
ngoài ,làm cho cung ngoại tệ giảm ,tỉ giá tăng.
Nh vậy ,lãi suất là một công cụ không thể thiếu đợc trong bất kỳ nền kinh tế
của nớc nào .

2. Nguyên tắc cơ bản hình thành lãi suất
1. Nguyên tắc
8
- Nguyên tắc bảo toàn giá trị đồng tiền: đòi hỏi lãi suất ít nhất phải bằng tỷ
lệ lạm phát.
- Nguyên tắc bảo đảm thu nhập hợp lí cho ngời gửi tiền
Lãi suất tiền gửi = Tỷ lệ lạm phát + Tỷ lệ nhất định
- Nguyên tắc bảo đảm thu nhập hợp lí cho các tổ chức tín dụng
Lãi suất cho vay = Lsuất tiền gửi + Chi phí + Thuế + Tỷ lệ nhất định
- Nguyên tắc bảo đảm thu nhập hợp lí cho ngời vay vốn ngân hàng
Tỷ lệ lạm phát < Lsuất tiền gửi < Lsuất cho vay<Mức sinh lợi bình quân
2. Hình thức lãi suất
Lãi suất tín dụng của NHNN : là công cụ vĩ mô của Nhà nớc, điều chỉnh
cung cầu tiền tệ, điều chỉnh cơ cấu đầu t trong nền kinh tế. Đâycó thể là lãi suất
tái chiết khấu, tái cấp vốn căn cứ vào nhiều tiêu thức, yếu tố nhng cơ bản là mục
tiêu chính sách tiền tệ thời kì đó.
Lãi suất tín dụng của NHTM: là công cụ kinh tế vi mô, bao gồm lãi suất
đầu vào, lãi suất đầu ra hay gồm lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của NHTM.
3. Chính sách lãi suất
Đây là một bộ phận cấu thành của chính sách tiền tệ quốc gia. Vì thế, tr-
ớc hết nó phải hớng tới những mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia. Đó là

ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát và kích thích tăng trởng kinh tế. Thứ hai,
chính sách tiền tệ ở nớc ta hiện nay phải nhằm tiến tới hình thành một thị trờng
tiền tệ, tạo sự cạnh tranh lành mạnh và công bằng giữa các tổ chức tín dụng, xoá
bỏ sự khác biệt về lãi suất giữa các khu vực. Thứ ba, chính sách lãi suất phải tạo
điều kiện để giảm chi phí hoạt động tín dụng, tránh tình trạng biến tớng chi phí
của các TCTD vào giá thành sản xuất của xã hội. ngoài ra, đối với các TCTD,
chính sách lãi suất còn phải đảm bảo có sự chênh lệch lãi suất đủ để duy trì và
phát triển hoạt ddộng kinh doanh.
3. Sự phân biệt
1. Lãi suất và lợi tức
Nhiều ngời nghĩ rằng lãi suất của một trái khoán cho họ biết đủ những gì
cần thiết về việc họ đã khá lên nh thế nào do sở hữu nó. Một ngời thu lợi nh thế
nào khi nắm giữ một trái khoán hay một chứng khoán bất kì khác qua một
khoảng thời gian nhất định sẽ đợc lợng định một cách chính xác bằng lợi tức .
9
Đối với một chứng khoán bất kì, tỷ suất lợi tức đợc định nghĩa là tiền trả cho
chủ sở hữu nó cộng với sự thay đổi về giá trị của chứng khoán đó rồi chia cho
giá mua.
Lợi tức của một trái khoán không nhất thiết bằng lãi suất của nó. Tuy
hiên, trong nhiều trờng hợp, lợi tức và lãi suất có quan hệ chặt chẽ với nhau.
2. Lãi suất thực tế và lãi suất danh nghĩa
Trong thời kì lạm phát, cần phân biệt giữa lãi suất thực tế và lãi suất danh
nghĩa.
Lãi suất danh nghĩa là lãi suất bằng tiền trên các tài sản bằng tiền.
Lãi suất thực tế là lãi suất tính theo giá trị thực tế của hàng hoá và dịch vụ. Nó
đợc chỉnh lại theo những thay đổi về mức giá, phản ánh đúng chi phí thật của
việc vay tiền. Đây là một cách tính toán chính xác cho những ngời muốn đi vay
hoặc muốn cho vay. Lãi suất thực tế bằng lãi suất danh nghĩa trừ đi mức lạm
phát.
Theo Fisher, lạm phát tăng lên 1% sẽ kéo lãi suất danh nghĩa tăngthêm

1%. Lãi suất danh nghĩa thờng tăng ngang với mức lạm phát để giữ nguyên lãi
suất thực tế. Mức chênh lệch giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa càng lớn
có nghĩa là lạm phát càng cao. Lãi suất danh nghĩa tăng hay giảm liên quan mật
thiết tới lạm phát dự kiến.
Lãi suất danh nghĩa không phải lúc nào cũng cho biết lãi suất thực tế là d-
ơng. Trờng hợp này đã từng có ở Việt Nam trong những năm 80, khi trong
nhiều năm liền lãi suất tiền gửi tiết kiệm luôn thấp hơn mức lạm phát.
Iv.Phân loại lãi suất:
1.Căn cứ vào thời hạn tín dụng :
Lãi suất đợc chia thành 3 loại chính sau:
Lãi suất ngắn hạn áp dụng đối với các khoản tín dụng ngắn hạn .
Lãi suất trung hạn áp dụng đối với các khoản tín dụng trung hạn.
Lãi suất tín dụng áp dụng đối với các khoản tín dụng dài hạn .
2.Căn cứ vào các loại hình tín dụng :
a.Lãi suất tín dụng thơng mại (TDTM):
Mệnh giá thơng phiếu-Giá cả hàng hoá trả ngay
Lãi suất TDTM=
Mệnh giá thơng phiếu
b.Lãi suất tín dụng ngân hàng:
10
Lãi suất tiền gửi :là lãi suất trả cho các khoản tiền gửi.Mức lãi suất tiền
gửi phụ thuộc vào thời hạn ,qui mô tiền gửi .
Lãi suất tiền vay :là lãi suất mà ngời đi vay phải trả cho ngân hàng do
việc sử dụng vốn vay của ngân hàng.
Lãi suất chiết khấu:áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay dới hình
thức chiết khấu thơng phiếu hoặc các chứng từ có giá khác cha đến hạn thanh
toán của khách hàng.Nó đợc tính bằng tỉ lệ % trên mệnh giá của chứng từ có
giá và đợc khấu trừ ngay khi ngân hàng phát tiền vay cho khách hàng .Nh vậy
nếu nếu xét trong quan hệ giữa ngân hàng với ngời vay chiết khấu,lãi suất chiết
khấu đợc trả trớc cho ngân hàng chứ không trả sau nh lãi suất thông thờng.

Mệnh giá thơng phiếu-giá bán thơng phiếu
Lãi suất chiết khấu=
Mệnh giá thơng phiếu

Phần hai
Thực trạng của việc sử dụng lãi suất tín dụng ở Việt Nam
I. Nhận định khái quát về quá trình đổi mới chính sách
lãi suất ở việt nam

1. Giai đoạn 1988-1992: Thời kì lãi suất âm
Nghị định 53/HĐBT ngày 26//3/88 và hai Pháp lệnh về Ngân hàng
(1/10/90) tách hệ thống ngân hàng 1 cấp thành 2 cấp, từng bớc cuyển hoạt động
ngân hàng sang cơ chế thị trờng. Tuy nhiên, do lạm phát còn ở mức cao nên
chính sách lãi suất cha thực hiện đợc lãi suất dơng mà vẫn theo lãi suất âm.
NHNN qui định cụ thể các loại lãi suất tiền gửi và cho vay để các NHTM thực
hiện. Lãi suất âm có đặc điểm:
- Lãĩ suất tiền gửi thấp hơn lạm phát
- Lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động và thấp hơn lạm phát.
2. Giai đoạn cuối năm 1992 :chuyển từ lãi suất âm sang lãi suất d ơng:
Khi lạm phát đã đợc kiềm chế và đẩy lùi tơng đối thấp, có điều kiện thực
hiện chính sách lãi suất dơng tức là lãi suất cho vay cao hơn lãi suất huy động
và lãi suất tiền gửi tiết kiệm cao hơn lạm phát. Tháng 10/92, NHNN bắt đầu
từng bớc thực hiện lãi suất dơng và đến tháng 3/93 thì thực hiệ lãi suất dơng
11
hoàn toàn, nhng NHNN vẫn qui định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể
có sự phân biệt lãi suất giữa các thành phần kinh tế: cho vay đối với doanh
nghiệp Nhà nớc thấp hơn doanh nghiệp ngoài quốc doanh, lãi suất cho vay ngắn
hạn còn cao hơn lãi suất cho vay trung, dài hạn, lãi suất tiền gửi tiết kiệm cao
hơn lãi suất tiền gửi các tổ chức kinh tế.
3. Giai đoạn vừa qui định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể ,

vừa cho vay theo lãi suất thoả thuận:
Từ 1/10/93, NHNN qui định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể,
vừa cho phép các tổ chức tín dụng cho vay theo lãi suất thoả thuận vợt mức lãi
suất cho vay cụ thể ( Quyết định 184/QĐ-NH1 ngày 28/9/93)
- Lãi suất giai đoạn này có hai loại: lãi suất cho vay doanh nghiệp nhà nớc
và lãi suất cho vay kinh tế ngoài quốc doanh.
- Lãi suất cho vay theo thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng: nếu vốn
huy động tiết kiệm và tiền gửi theo các mức lãi suất qui định mà không đủ
để cho vay thì các TCTD đợc phép phát hành kì phiếu với lãi suất cao hơn
lãi suất tiết kiệm cùng kì hạn tối đa là 0,2%/tháng và cho vay với lãi suất
cao hơn trên cơ sở thoả thuận với khách hàng theo phơng châm: ngân hàng
kinh doanh đợc và ngời vay chấp nhận đợc. Cơ chế lãi suất cho vay thoả
thuận có ngời gọi đó là đã tự do hoá lãi suất một nửa.
Từ cơ chế cho vay theo lãi suất thoả thuận, các NHTM đã cho vay với tỷ lệ
khá cao: từ 30-60% d nợ và đối tợng chịu lãi suất thoả thuận chủ yếu là các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hộ nông dân . Điều đó cũng nói lên một thực
tế khách quan là lãi suất đã theo nhu cầu vốn ở nông thôn lớn hơn và chi phí
hoạt động ngân hàng ở nông thôn cao hơn.
Thời kì này, các ngân hàng đạt mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay và
lãi suất huy động cao, phổ biến là từ 0,7%-1%/tháng, cho nên, hầu hết các
NHTM đều có mức lợi nhuận cao, trong khi các doanh nghiệp lại gặp khó khăn
về tài chính. Từ thực trạng này , Quốc hội khoá IX, kì họp thứ 8 tháng 10/95 đã
thông qua nghị quyết bỏ thuế doanh htu hoạt động tín dụng ngân hàng, đồng
thời yêu cầu các NHTM phải tiết giảm chi phí để giảm lãi suất cho vay. Đồng
thời khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động
0,35%/tháng. Đó là lí do để chuyển sang một giai đoạn thực hiện chính sách
trần lãi suất.
4. Từ 1/1/96 là giai đoạn thực hiện chính sách trần lãi suất
12
Trên cơ sở Nghị quyết của quốc hội về bỏ thuế doanh thu hoạt động tín

dụng , yêu cầu ngân hàng giảm chi phí để hạ lãi suất cho vay và khống chế
chênh lệch bình quân giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động ở mức
0.35%/tháng, nên NHNN đã quyết định điều hành chính sách lãi suất theo trần
lãi suất nhằm khống chế lãi suất cho vay tối đa và các NHTM chỉ đợc hởng
chênh lệch 0,35%/tháng bao gồm cả phí, thuế, lợi nhuận thay cho việc qui định
các mức lãi suất cụ thể và xoá bỏ lãi suất cho vay theo thoẻ thuận . Chính sách
điều hành lãi suất vừa qui định trần lãi suất vừa khống chế chênh lệch nên có
quan điểm cho rằng thực chất của nó là vừa qui định trần, vừa qui định sàn lãi
suất.
Trần lãi suất cho vay đợc qui định nhiều mức trần khác nhau, xuất phát từ
đặc điểm có nhiều loại hình thức tổ chức tín dụng hoạt động trên các địa bàn
khác nhau, cung cầu vốn khác nhau, qui mô khác nhau và do đó chi phí hoạt
động khác nhau, nên qui định nhiều mức trần cho vay khác nhau. Lúc đầu có 4
loại :
- Trần lãi suất cho vay ngắn hạn ( áp dụng cho khu vực thành thị)
- Trần lãi suất cho vay trung , dài hạn
- Trần lãi suất áp dụng cho các tổ chức tín dụng cho vay trên địa bàn nông
thôn
- Trần lãi suất cho vay của quĩ tín dụng nhân dân
Giữa các trần lãi suất này lúc đầu có mức chênh lệch với nhau khá xa nhng
sau mỗi lần điều chỉnh khoảng cách này đã rút ngắn lại và chỉ còn chênh lệch ít.
Một thực tế khách quan của cơ chế thị trờng là nơi có chi phí cao , cho
vay món nhỏ chi phí lớn, rủi ro cao, thiếu vốn là khu vực nông thôn có nhu cầu
vốn lớn nhng huy động tại chỗ đợc rất ít và chi phí hoạt động ngân hàng ở đây
cao, nên NHNN qui định trần lãi suất cho vay nông thôn cao hơn thành thị
nhằm thu hút vốn từ thành thị về nông thôn cho vay bằng công cụ lãi suất và
bảo đảm cho các NHTM ở nông thôn bù đắp đợc chi phí. Nhng nhiều quan
diểm cho rằng lãi suất cho vay nông thôn phải thấp hơn hoặc bằng thành thị
mới u đãi nông nghiệp, mới khuyến khích nông nghiệp phát triển. Cho nên, với
quyết định số 39/1998/QĐ/NHNN1 của Thống đốc NHNN từ 21/1/98 đã xoá

bỏ sự cách biệt về lãi suất cho vay giữa thành thị và nông thôn, rút từ 4 mức trần
cuống còn 3, khoảng cách giữa chúng cũng không xa nhau nh trớc và không qui
định chênh lệch 0,35%/tháng. Qui định này có u việt là giảm sự chênh lệch lãi
suất cho vay sản xuất kinh doanh ở thành thị với mức lãi suất cho hộ nông dân
13
vay nhng ở nông thôn lại thiếu vốn và không bảo đảm an toàn hệ thống các tổ
chức tín dụng nhất là ở khu vực nông thôn.
Đối với lãi suất cho vay ngoại tệ, NHNN cũng khống chế trần lãi suất cho
vay và khi có sự biến động tỷ giá, đã phối hợp chặt chẽ giữa công cụ lãi suất và
tỷ giá nh khống chế trần lãi suất tiền gửi các doanh nghiệp để tăng cờng quản lí
ngoại tệ và chống hiện tợng đôla hoá.
5.Nhìn lại diễn biến lãi suất tín dụng năm 1999 vừa qua:
Năm 1999 ,NHNN tiếp tục thực hiện việc quản lý và điều hành chính sách
lãi suất tín dụng theo cơ chế lãi suất trần và lãi suất tái cấp vốn đối với các
TCTD ;trong khôn khổ trần lãi suất cho vay ,TCTD đợc phép qui định các mức
lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi cụ thể phù hợp với quan hệ cung cầu về vốn
tín dụng từng giai đoạn ,nhằm mở rộng tín dụng ,góp phần quan trọng vào việc
kích thích tăng trởng kinh tế trong năm vừa qua.
Trần lãi suất trong năm 1999 đợc NHNN điều chỉnh liên tục ,phù hợp với chỉ số
lạm phát ,quan hệ cung cầu vốn tín dụng tại từng thời điểm và góp phần thực
hiện giải pháp kích cầu về đầu t của Chính phủ thông qua cơ chế nới lỏng lãi
suất tín dụng.Có thể nói đây là năm NHNN điều chỉnh lãi suất tín dụng nhiều
nhất từ trớc đến nay ,lãi suất năm 1999 luôn co sxu hớng giảm sau các lần điều
chỉnh ,cụ thể nh sau :
Ngày 17/1/1999 ,Thống đốc NHNN có chỉ thị 01/1999/Ct-NHNN1 điều chỉnh
giảm lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam của các NHTM quốc doanh đối với
khách hàng ở khu vực thành thị từ 1.2-1.25% /tháng xuống 1.1-
1.15%/tháng;các TCTD khác vẫn thực hiẹntheo mức trần 1.2%/tháng đối với
cho vay ngắn hạn và 1.25%/tháng đối với cho vay trun gvà dài hạn.
Ngày29/05/1999 do nền kinh tế đang có dấu hiệu thiểu phát ,tăng trởng kinh tế

chậm lại ,sức mua giảm sút .,Thống đốc NHNN đã có Quyết định 184/199/QĐ-
NHNN1 về việc điều chỉnh giảm trần lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam từ
1.2-1.25%/tháng xuống mức 1.15%/tháng áp dụng chung cho các TCTD cho
vay trên địa bàn thành thị và nông thôn .Cùng với việc giảm trần lãi suất cho
vay ,NHNN còn giảm lãi suất tái cấp vốn của NH từ 1%/tháng và lãi suất tái
cấp vốn về cho vay chỉ định thu mua tạm trữ xuất khẩu 0.9%/tháng xuống
thống nhất một mức là 0.85%/tháng.Nh vậy ,từ tháng 6/1999 từ chỗ nhiều trần
lãi suất ngắn ,trung ,dài hạn ,trần lãi suất cho vay khu vực thành thị và nông
thôn khác nhau đã thống nhất một trân fáp dụng chung cho các TCTD ,không
phân biệt quốc doanh hay cổ phần .
Tháng 9/1999,Thống đốc NHNN có chỉ thị 05/1999/CT-NHNN1 điều chỉnh
giảm lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam của các NHTM qốc doanh đối với
14
khách hàng ở khu vực thành thị từ 1.05%/tháng xuống 0.95%/tháng Đây là một
bớc tiến chính trong chính sách lãi suất ,tạo thế chủ động hơn cho các TCTD
trong việc ấn định lãi suất tiền gửi và cho vay phù hợp với điêù kiện về chi
phí ,cung cầu với trên từng vùng khác nhau và mức độ rủi ro của từng khoản
vay ,tạo tiền đề cho việc áp dụng cơ chế điều hành chính sách lãi suất của
NHNN theo lãi suất cơ bản
II. Tình hình điều hành lãi suất
1. Những sai lầm cũ
Trong thời kì quan liêu trì trệ trớc năm 1988, lãi suất của Việt Nam
không theo qui luật lãi suất thực nên lãi suất âm do NHNN áp đặt là một trong
những nguyên nhân gây ra và kéo dài lạm phất phi mã. Đến tháng 3.89, qui luật
lãi suất thực mới đợc công nhận nhng t tởng lãi suất ngân hàng phải áp sát lãi
suất thị trờng đã dẫn đến lãi suất tiết kiệm cực kì cao 12%/tháng mặc dù tỷ lệ
lậm phát nửa cuối năm 1988 chỉ còn 7%/tháng , tháng 5/89 còn 0,87%. Lãi suất
cực kì cao vẫn còn ảnh hởng tâm lí đến ngày nay, ngời gửi tiền đòi hỏi lãi suất
cao.
Năm 1994, NHNN công bố chủ trơng hạ lãi suất trong cuộc họp Giám

đốc đầu năm. Nhng chủ trơng này không đợc thực hiện với lí do tỷ lệ lạm phát
bị đẩy cao lên gấp đôi năm 1993. Trong 3 năm chậm hạ lãi suất, tiền gửi các
ngân hàng chỉ sử dụng hết một nửa.
Các doanh nghiệp đã è cổ ra gánh một lãi suất cao để trả cho những ngời
nớc ngoài đem ngoại tệ vào đổi lấy VND để gửi tiết kiệm với lãi suất cao gấp 4-
5 lần lãi suất thế giới trong hàng loạt sổ tiết kiệm hàng tỷ đồng một sổ.
Vì vậy, khi dồn dập hạ 3 lần lãi suất trong năm 1996, số d nguồn vốn tiền
gửi đã giảm đột ngột vào quí 4 năm đó, chuyển các NHTM từ vị thế thừa vốn
sang thiếu vốn. Cộng với cái vô lí là bắt các NHTM phải gánh chịu số lỗ do
thực hiện chính sách hạ lãi suất, và áp đặt chênh lệch lãi suất 0,35%, các
NHTM và nhất là các ngân hàng cổ phần đã bị giảm lợi nhuận nặng nề. Tài
chính vẫn duy trì mức thuế lợi tức 45% và cho rằng tỷ lệ đó vẫn phù hợp, cộng
với việc tính thuế không cho ghi các khoản chi phí trích trớc đã dồn các ngân
hàng vào tình trạng hầu nh không tích luỹ đợc vốn. Việc tăng vốn điều lệ vì vậy
hầu nh không thực hiệ đợc. Các NHTM đã yếu và để nợ quán hạn, nợ xấu tăng
cao lại bị suy yếu thêm vì những chính sách dồn các NHTM vào chỗ khong duy
trì đợc tỷ suất lợi nhuận bình quân.
15
Năm 1997, lãi suất cho vay trần lại đợc hạ xuống còn 1% để kích thích
kinh tế phát triển, nhng các ngân hàng cổ phần không tán thành vì các nớc láng
giềng phải nâng lãi suất tiền gửi lên để chống làn sóng rút tiền gửi ra khỏi ngân
hàng để mua USD.Để phòng ngừa cơn bão tiền tệ có thể lớt qua, các ngân hàng
trong nớc cũng phải giữ lãi suất gần nh cũ, đến mức lãi suất tiền gửi có kì hạn
chỉ còn chênh với lãi suất cho vay từ 0,05% đến 0,1% ggây lỗ về tín dụng
Cộng thêm vào đó, tin tức các vụ Epco, Minh Phụng làm cho một số ngời gửi
tiền đổ xô vào rút tiền gửi ở các ngân hàng mà họ nghi là có cho 2 công ty này
vay. Các ngân hàng này bị một phen hú vía phải vay cao , vay cấu bên ngoài để
đối phó kịp thời và khi đã giải thích làm dịu cơn sốt rút tiền thì đã phaỉ tăng chi
phí đến mức tỷ suất lợi nhuận giảm hẳn. NHNN đã không có loại tín dụng điều
chỉnh nh ở Mỹ để ứng phó cho vay tiếp quĩ kịp thời vào nhãng lúc khó khăn nh

vậy lại thờ ơ với tình trạng phải giảm mạnh lợi nhuận nên các NHTM đã phản
ứng khá mạnh. Vì vậy, đầu năm 1998, NHNN đã phải nâng lãi suất trần lên
1,2%, làm cho chênh lệch lãi suất tiền gửi và cho vay có đợc cải thiện hơn nhng
vẫn còn quá thấp không đủ đảm bảo tỷ suất lợi nhuận ngành Ngân hàng xấp xỉ
lợi nhuận bình quân và không hấp dẫn ngời mua cổ phiếu ngân hàng. Một ngân
hàng quốc doanh nâng ngầm lãi suất bằng cách trả lãi trớc, lên đến 1,167% và
1,357% sát nút và vợt lãi suất trần cho vay trong một đợt huy động vốn đột xuất
đầu năm 1998 càng làm cho cuộc chạy đua nâng lãi suất tiền gửi lên đến mức
nguy hiểm.
2. Đặc điểm của thị tr ờng tín dụng Việt Nam
Nớc ta đổi mới xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu khi
kinh tế thị trờng mới thoát ra khỏi mức sản xuất của chế độ phong kiến. Vì vậy,
thị trờng tín dụng vẫn bao hàm cả thị trờng cho vay nặng lãi ở vùng nông thôn
rộng lớn và ngay cả ở các chợ ở thành phố. Lãi suất cho vay ở các chợ thành
phố là 3%-4%, lãi suất tiền gửi là 1,5-2%. ở nông thôn, lãi suất thị trờng cũng là
3-4%. Vì vậy, nông dân rất mừng khi đợc vay với lãi suất sé rào tới 3-3,3%
năm 1996 của các ngân hàng nông thôn.
Tỷ lệ ngời gửi tiền ngân hàng ở nớc ta , năm 1994, đợc một tài liệu nớc
ngoài ớc tính chỉ có 6% dân số. Đặc biệt ở nông thôn miền Nam, ngời nông dân
có thói quen mua vàng cất trữ. Miền Bắc đã có phongtrào gửi tiết kiệm khá cao
ở nông thôn hồi kháng chiến chống Mỹ với các hợp tác xã tín dụng xã. Nhng
phong trào này đã tan vỡ vì lãi suất âm trong thời kì lạm phát phi mã và cha hồi
phục. Tình hình này tạo ra đặc điểm: thị trờng tín dụng ở nớc ta không đồng
nhất và tự nhiên tồn tại những lãi suất khác biệt khá xa ở các vùng khác nhau,
16
do cung cầu tín dụng khác nhau. Nó đã dẫn tới tình trạng có lúc lãi suất tiền gửi
của một vài ngân hàng ở thành phố cao hơn cả lãi suất cho vay của các ngân
hàng khác gây ra tình trạng phải đồng loạt nâng lãi suất để tránh bị hút mất tiền
gửi.
Nớc ta mới có từng mảnh thị trờng tài chính và tiền tệ nh thị trờng tín

phiếu kho bạc hoạt động không thờng xuyên và cung cấp không đủ lợng tín
phiếu cho thị trờng liên ngân hàng qua những đấu thầu quá ít ỏi. Thị trờng liên
ngân hàng đã có từ lâu nhng hầu nh không hoạt động vì các ngân hàng ít vay
mợn lẫn nhau hoặc vay mợn trực tiếp qua bảo đảm bằng tín phiếu kho bạc . Đến
khi lợng tín phiếu kho bạc cạn dần do không phát hành thêm thì hầu nh thị tr-
ờng liên ngân hàng không còn hoạt động. NHNN sử dụng vốn phát hành qua tín
dụng bằng cách cung ứng nguồn vốn trực tiếp cho các ngân hàng quốc doanh để
thực hiện những loại cho vay u đãi nh cho vay mua gạo xuất khẩu. Đó là trở
ngại rất lớn của việc hình thnàh lãi suất thị trờng có sự chỉ đạo của lãi suất cơ
bản.
Thị trờng chứng khoán sắp hình thành thí điểm ở Việt Nam trong bối
cảnh khủng hoảng tiền tệ diễn ra trên các châu lục và những đòi hỏi phải cải
cách thị trờng tài chính thế giới khiến ta phải cảnh giác và thận trọng . Nhng
suy từ hoạt động của thị trờng chứng khoán các nớc, có thể hình dung ra hai h-
ớng mua bán chứng khoán sẽ xảy ra khi khai trơng 2 trung tâm giao dịch chứng
khoán:
- Hớng thứ nhất là việc cạnh tranh mua những cổ phiếu có cổ tức cao hơn lãi
suất tiết kiệm. Ngời mua nhiều, ngời bán ít ( vì muốn giữ lấy để hởng cổ
tức cao) sẽ đẩy giá cổ phiếu này lên cao hơn mức bình thờng.
- Hớng thứ hai là bán tống tháo những cổ phiếu có cổ tức thấp hơn lãi suất
tiết kiệm. Thị giá cổ phiếu hạ thấp quá có thể gây đổ vữ ngân hàng.
Nh vậy sẽ lập tức hình thành lãi suất tự phát của thị trờng tiền tệ mà ảnh
hởng của nó tới lãi suất tín dụng sẽ không nhỏ.
3. Những mặt đ ợc cơ bản của chính sách lãi suất trần
Điều hành lãi suất theo trần là NHNN chỉ quản lí lãi suất cho vay tối đa,
dần từng bớc tự do hoá lãi suất theo định hớng của Nghị quyết Tw 4. Trong
phạm vi trần lãi suất đã qui định, các TCTD đợc tự do ấn định các mức lãi suất
cho vay và tiền gửi cụ thể một cách linh hoạt, phù hợp với đặc điểm hoạt động,
tình hình cung cầu vốn , chính sách khách hàng và cạnh tranh của từng TCTD
và phù hợp với đặc điểm, chi phí hoạt động ngân hàng giữa các vùng khác nhau.

17
Điều hành chính sách lãi suất theo trần khuyến khích các TCTD trong
việc cạnh tranh lành mạnh và tăng cờng vai trò tự chủ trong kinh doanh tiền tệ ,
chủ động trong việc điều hoà quan hệ cung cầu về vốn kinh doanh bằng công cụ
lãi suất một cách linh hoạt, nhạy bén theo cơ chế thị trờng.
Việc qui định cho vay theo trần lãi suất tạo ra mặt bằng chung về lãi suất
cho vay trong phạm vi cả nớc, xoá bỏ tình trạng cho vay theo lãi suất thoả thuận
vợt xa các mức lãi suất do NHNN qui định.
Các TCTD không cho vay với lãi suất vợt trần, bảo vệ đợc lợi ích của ng-
ời vay, tạo mặt bằng về phân phối lợi nhuận giữa các thành phần kinh tế với các
TCTD và ngời gửi tiền.
Đảm bảo đợc vai trò quản lí Nhà nớc của NHNN về lãi suất và tạo điều
kiện thuận lợi cho công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính
sách lãi suất của NHNN.
4. Những hạn chế của chính sách trần lãi suất
Việc qui định cho vay theo trần lãi suất của NHNN, thực chất là các
TCTD đợc cho vay theo mức trần tối đa. Vì vậy một số TCTD đã có xu hớng
luôn cho vây hết trần lãi suất để đạt mức lợi nhuận tối đa. Không phân biệt các
mức lãi suất khác nhau giữa các vùng có điều kiện khó khăn thuận lợi và cung
cầu về vốn khác nhau.
Việc qui định chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn là
0,35%/tháng trong thời kì đầu đã tạo nên sự gò bó, cứng nhắc và triệt tiêu tính
cạnh tranh, tính chủ động tự chủ trong kinh doanh của các TCTD.
III. Thực trạng của việc giảm lãi suất trong chính sách
kích cầu ở Việt Nam hiện nay.
1. Nguyên nhân tại sâo NHNN đã giảm lãi suất trần đến 4 lần mà mục
tiêu kích cầu vẫn ch a thực hiện đ ợc?
a. Tình hình kinh tế thế giới
Theo báo cáo mới nhất của IMF ,trong năm 1998, nền kinh tế thế giới
tăng trởng chậm lại ở tốc độ hơn 2% so với mức 3,5% của năm 1997 và ở từng

khu vực đều có những khó khăn trong tăng trởng kinh tế.
Châu á đang lún sâu hơn vào tình trạng suy thoái kinh tế khi nền kinh tế
của cả Ma-lai-xia, Hàn quốc bị giảm sút trong 3 quí liên tiếp. Hai nớc này đã
gia nhập nhóm các nớc và khu vực suy thoái kinh tế.
18
Sự hỗn loạn về ngoại hối đã dẫn đến sự giảm sút đột ngột về xuất khẩu,
các thị trờng cổ phiếu và bất động sản suy sụp, thất nghiệp tràn lan, mức tiêu
dùng giảm mạnh, những vụ phá sản và số công ty bị đóng cửa tăng lên. Theo
các nhà nghiên cứu kinh tế hàng đầu tại Viện nghiên cứu Nhật Bản: Cuộc
khủng hoảng kinh tế ở châu á đang ngày càng nghiêm trọng. Trong khi đó, nề
kinh tế Trung Quốc- động lực thúc đẩy đối với nền kinh tế châu á- đang sa sút
vì xuất khẩu và nhu cầu trong nớc giảm đáng kể do ảnh hởng tiêu cực của nạn
lụt và khủng hoảng từ các nớc châu á khác.
Tình hình kinh tế yếu kém ở châu á đã ảnh hởng đến nền kinh tế Nhật
Bản trong khi mức tăng trởng âm của Nhật lại tác động trở lại châu á. Nếu Nhật
không phục hồi nền kinh tế của mình, nớc này và châu á có thể gây ra một cuộc
suy thoái trên toàn thế giới. Đây là điều đặc biệt đáng lo ngại nếu nền kinh tế
Mỹ bắt đầu suy yếu trớc khi Nhật bắt đầu phục hồi. Theo IMF, tăng trởng kinh
tế châu á năm 1998 chỉ đạt khoảng 1,8%.

b. Xu h ớng giảm lãi suất trên thế giới
Giảm lãi suất đợc xem là một phơng thức truyền thêm sinh khí cho nền
kinh tế thế giới đang suy yếu hiện nay qua kích thích nhu cầu tiêu dùng. IMF
cảnh báo tăng trởng kinh tế thế giới đang ngày càng giảm sút và đa ra lời kêu
gọi các quốc gia hàng đầu hãy sẵn sàng giảm lãi suất để chống lại nguy cơ suy
thoái.
Chính sách tiền tệ thắt chặt do IMF sắp đặt và sự phá giá cạnh tranh ở các
nớc thị trờng mới nổi đã làm lãi suất thực ở đây lên quá cao, các ngân hàng
không cho vay, các doanh nghiệp đang đi vào phá sản. Chính sách tiền tệ thắt
chặt sai lầm của IMF đang làm cho tình hình vốn đã tồi tệ càng trở nên tồi tệ

hơn nhiều. Tại các nớc phơng Tây và Nhật, lậm phát tiêu dùng đã giảm mạnh
nhng các NHNN vẫn giữ nguyên lãi suất cơ bản ngắn hạn, thậm chí còn tăng lãi
suất này. Vì vậy, lãi suất thực trung bình ở Nhật, Anh, Pháp đã tăng gấp 2 lần
từ tháng đầu của năm 97, từ mức 1,2 lên 2,4%.
Theo các nhà kinh tế cần có sự phối hợp giảm lãi suất trên toàn cầu mà
ngời đứng đầu phải là Mỹ, điều này sẽ là hành động duy nhất quan trọng để ổn
định sự suy thoái toàn cầu, và bây giờ chính là thời điểm hành động.
Tại Mỹ: trong vòng 2 tháng qua, Mỹ đã 3 lần liên tiếp giảm lãi suất.
Tại châu á: đồng tiền các nớc châu á đang dần đợc phục hồi, là cơ sở để
các nớc này giảm lãi suất, khuyến khích tăng trởng kinh tế.
Tại Thái Lan, theo Bộ trởng tài chính, lãi suất cơ bản sẽ giảm ít nhất là
1,5% vào cuối năm nay. Lãi suất cơ bản hiện nay ở Thái Lan là 14,25% và thị
19
trờng đang kêu gọi giảm lãi suất. Ông cho biết cuối năm nay lãi suất có thể sẽ ở
mức dới 13%.
Tại Trung Quốc , ngày7/12/98, NHTƯ quyết địng cắt giảm 0,5% lãi suất
tiền gửi và lãi suất cho vay. Đây là lần thứ 3 NHTƯ Trung quốc cắt giảm lãi
suất trong năm 99 nhằm hỗ trợ cho khu vực doanh nghiệp quốc doanh kém hiệu
quả , ngăn chặn nguy cơ giảm phát.
c. Nguyên nhân trong n ớc
Nguyên nhân của các đợt điều chỉnh là tình trạng thiểu phát diễn ra trong
nền kinh tế từ đầu năm nay: loại trừ hai tháng đầu năm chỉ số giá tiêu dùng
tháng sau tăng so với tháng trớc do nhu cầu tiêu dùng của dân c tăng lên trong
dịp Tết Nguyên đán; từ tháng 3 tới tháng 8, chỉ số giá tiêu dùng liên tục giảm
xuống và so với thời điểm cuối tháng 12/98, chỉ số giá tiêu dùng chỉ tăng 0,8%.
Mặt khác, do chỉ số giá tiêu dùng thấp dẫn đến tiền gửi của dân c vào hệ
thống ngân hàng tăng lên khá mạnh, trong khi đó đầu ra của cácNHTM lại gặp
nhiều khó khăn, vốn ứ đọng trong hệ thống ngân hàng khá lớn do tình hình sản
xuất và tiêu dùng trong nền kinh tế bị định trệ. Thậm chí trong trờng hợp các
TCTD đã buộc phải giảm lãi suất huy động thì khối lợng tiền gửi tiết kiệm cũng

tăng khá mạnh, bởi vì trong khi lạm phát 6 tháng đầu năm chỉ là 2,3%/năm thì
trần lãi suất tiền gửi ngắn hạn là 0,85%/tháng ( !0,2%/năm),nh vậy ngời gửi tiết
kiệm vẫn thu đợc lãi thực lên đến 7,9%/năm. Đâylà một tỷ lệ lợi nhuận hấp dẫn
và an toàn trong điều kiện đầu t vào sản xuất kinh doanh hiện nay đang gặp
nhiều khó khăn, lợi nhuận thấp và rủi ro kinh doanh lớn.
Bên cạnh nguyên nhân lãi suất thực vẫn còn cao, còn các nguyên nhân
khác nh: đối với những ngời có lợng tiền tiết kiệm nhỏ, không có khả năng kinh
doanh thì dù lãi suất có thấp thì vẫn là có lãi , vốn vẫn đợc bảo toàn. Những ng-
ời có lợng tiền tiết kiệm lớn thì không có cơ hội đầu t do đầu t vào sản xuất kinh
doanh có tỷ suất lợi nhuận thấp, rủi ro cao, trong khi ngợc lại gửi tiền vào ngân
hàng thì rủi ro thấp và lợi nhuận cao, chi dùng cũng không lớn vì đa số thoả
mãn đợc nhu cầu trung bình tối thiểu hiện nay; cho dù lãi suất cho vay đã giảm
khá mạnh song các doanh nghiệp vẫn không dám vay vì tỷ suất lợi nhuận của
họ vẫn thấp hơn so với tỷ lệ lãi suất cho vay của ngân hàng, do vậy, nếu tiếp tục
vay vốn ngân hàng để sản xuất kinh doanh thì với việc lợi nhuận không đủ để
trả lãi ngân hàng sẽ làm tình trạng nợ nần của doanh nghiệp càng nặng thêm
( thêm vào đó là sự giảm giá hàng tiêu dùng liên tục trong thời gian qua càng
làm khả nâng thua lỗ tăng lên) . Với một phép tính đơn giản chúng ta có thể dễ
dàng tính ra đợc mức trần lãi suất cho vay hiện nay vào khoảng 10-11%/năm,
20
liệu có bao nhiêu phần trăm doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay kinh doanh
đạt tỷ suất lợi nhuận cao hơn mức lãi suất cho vay của ngân hàng để dám vay
vốn ngân hàng mở rộng sản xuất kinh doanh; đối với khu vực nông thôn, cho dù
nhu cầu tiêu dùng , nhất là hàng tiêu dùng đối với các loại hàng t liệu sản xuất
là rất lớn song cũng không thể vay đợc vì thủ tục quá ohức tạp, không có vật
cầm cố để thế chấp và cũng gần nh không có khả năng trả nợ do tỷ lệ lãi suất
cho vay cha hợp lí.
Tóm lại, do sự nghèo nàn về chủng loại các sản phẩm đầu t tài chính đã
dẫn đến tình trạng tiền gửi tiết kiệm ngân hàng vẫn tăng trong khi lãi suất huy
động liên tục giảm xuống.

2. Mục đích của việc giảm lãi suất
Các quan chức ngân hàng cho răng đây là một quyết định quan trọng
nhằm khắc phục tình trạng ắch tắc đầu ra tín dụng trong tình hình nền kinh tế
đang có nhiều hớng đi xuống nh hiện nay; góp phần kích thích phát triển nền
kinh tế tạo sự chủ động hơn cho các tổ chức tín dụng trong việc ấn định lãi suất
huy động tiền gửi và cho vay phù hợp với điều kiện về chi phí , cung cầu vốn
trong từng vùng khác nhau và mức độ rủi ro của từng khoản vay.
21
Phần ba:
Xu hớng giải pháp để đổi mới và hoàn thiện
chính sách tín dụng.
I. Một số vớng mắc pháp lí giữa
lãi suất ngân hàng với các qui định về lãi suất
Trong cácvăn bản pháp luật.
1. Các qui định liên quan đến lãi suất cho vay trong Bộ luật dân sự
Mức trần lãi suất cho vay của các TCTD hiện nay đợc NHNN qui định t-
ơng đối rõ ràng, tơng ứng với 2 loại thời hạn: cho vay ngắn hạn và trung- dài
hạn. Nhng khi lấy nó làm căn cứ để thực hiện các qui định về thời hạn và lãi
suất cho vay theo các văn bản pháp luật khác lại phát sinh không ít vớng mắc.
Khoản 1 điều 473 Bộ luật dân sự qui định lãi suất cho vay do các bên
thoả thuận nhng không đợc vợt quá 50% của lãi suất cao nhất do NHNN qui
định đối với loại cho vay tơng ứng.
Theo quyết định số 39/1998/QĐ-NHNN1 ngày 17/1/98 của Thống đốc
NHNN, qui định về lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam thì hiện nay có 2 mức
lãi suất cao nhất : cho vay ngắn hạn là 1,2%/tháng và cho vay trung-dài hạn là
1,25%/tháng . Nhng theo điều 10 qui chế cho vay củaTCTD đối với khách hàng
ban hành kèm theo quyết định 324/1998/QĐ-NHNN1 ngày 30/9/98 của Thống
đốc NHNN, thì cho vay ngắn hạn và cho vay trung, dài hạn đều có thể là 12
tháng. Không hiểu lí do gì mà thời hạn cho vay lại có sự thay đổi, dẫn đến 1
thời điểm trùng lặp khi phải áp dụng lãi suất theo điều 473 Bộ luật dân sự.

Từ trớc đến nay, trong các thể lệ và văn bản liên quan về tín dụng của
NHNN đều qui định: cho vay ngắn hạn là loại cho vay có thời hạn không quá
12 táng . Nhng đối với 1 số ngành , khi vận dụng các văn bản của NHNN lại
xác định và hớng dẫn khác về thời hạn cho vay. Tại điểm b, mục 1, phần I
Thông t liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/97 của Toà án nhân dân tối cao,
Viên Kiểm sát nhân dân tối cao Bộ t pháp và Bộ tài chính, hớng dẫn việc xét xử
và thi hành án về tài sản.
Theo quyết định số 26/QĐ-NH1, lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa là
1,25%/tháng, tức lãi suất quá hạn tối đa là 1,875%/tháng chứ không phải là
2,025%/tháng theo nh hớng dẫn của thông t liên tịch.
22
2. Các qui định liên quan đến lãi suất tiết kiệm trong Bộ luật lao động
và Bộ luật dân sự
Trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, kể từ ngày 1/1/96, việc NHNN không
còn qui định cụ thể về các mức lãi suất tiết kiệm là hoàn toàn đúng đắn. Nhng
hiện nay vẫn còn nhiều qui định pháp luật căn cứ vào lãi suất tiền gửi tiết kiệm
do NHNN qui định: Khoản 1 điều 59 Bộ luật lao động qui định ngời lao động
đợc trả lơng trực tiếp, đầy đủ, đúng thời hạn và tại nơi làm việc. Trong trờng
hợp đặc biệt phải trả lơng chậm thì không đợc chậm quá 1 tháng và ngời sử
dụng lao động phải đền bù cho ngời lao động một khoản tiền ít nhất bằng lãi
suất tiền gửi tiết kiệm do NHNN công bố tại thời điểm trả lơng. Điều 6 Nghị
định 197CP ngày 31/12/94 của Chính phủ qui định chi tiết và hớng dẫn thi hành
1 số điều của Bộ luật lao động về tiền lơng đã xác định, lãi suất nói trên là loại
lãi suất tiền gửi tiết kiệm không ì hạn.
Khoản 4 , điều 471, Bộ luật dân sự qui định về nghĩa vụ trả nợ của bên
vay trong trờng hợp vay không có lãi nh sau: Trong trờng hợp vay không có
lãi mà khi đến hạn, bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên vay
phải trả lãi đối với khoản nợ chậm , trả theo lãi suất tiết kiệm có kì hạn của
NHNN tơng ứng với thời hạn chậm trả tại thời điểm chậm trả nếu có thoả
thuận.

Khoản 2 điều 473, Bộ luật dân sự về lãi suất cũng qui định: Trong trờng
hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi trong việc vay, nhng không xác định rõ
lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất, thì áp dụng lãi suất tiết kiệm có kì hạn do
NHNN qui định tơng ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.
Nhng liên quan đến lãi suất tiết kiệm nói riêng và lãi suất huy động vốn
nói chung, NHNN chỉ qui định ; Tỷ lệ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi
suất huy động vốn bình quân là 0,35%/tháng. Từ 1996 đến nay , NHNN đã bãi
bỏ việc công bố lãi suất tiết kiệm và lãi suất tiết kiệm do mấy chục NHTM tự
quyết định với nhiều mức khác nhau. Cho nên, cả về mặt pháp lí cũng nh thực
tế không thể xác định đợc đâu là lãi suất tiết kiệm do NHNN công bố. Nh vậy,
vô hình chung, các qui định về lãi suất nói trên của Bộ luật Lao động và Bộ luật
dân sự đã bị vô hiệu hoá. Để những vấn đề quan trọng và phát sinh rất phổ biến
nh trên không bị rơi vào bế tắc, hoặc là NHNN cần quay trở lại việc ấn định cụ
thể từng mức lãi suất tiết kiệm hoặc là phải nhanh chóng thay đổi qui định của
luật lệ liên quan.
Điều đáng nói là điều bất cập đó đã tồn tại mấy năm qua, trong khi các
văn bản hớng dẫn lại không quan tâm giải quyết. Tại điểm d, mục4, phần I của
TTLT số 01/TTLT nói trên vẫn tiếp tục hớng dẫn: Trong trờng hợp các bên có
23
thoả thuận về việc trả lãi trong việc vay nhng không xác định rõ laĩ suất hoặc có
tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất tiết kiệm có kì hạn do NHNN qui định
tơng ứng với thời hạn vay tại thời điểm xét xử sơ thẩm theo qui định tại khoản
2, điều 413 Bộ luật dân sự. Hớng dẫn này chỉ thay đổi thời điểm trả nợ trong
diều 473 Bộ luật dân sự thành thời điểm xét xử sơ thẩm. Nh vậy, thông t đã
phần nào sửa đổi qui định trong bộ luật, vì 2 thời điểm này thờng khác nhau.
Có lẽ, lí do đơn giản dẫn đến việc thay đổi thời điểm là do , khi xét xử, toà án
chỉ có thể xác định đợc thời điểm xét xử sơ thẩm, chứ khó có thể xác định đợc
thời điểm trả nợ. Tuy nhiên dù có thay đổi thời điểm tính lãi suất , thì cũng
không thể xác định đợc đâu là lãi suất tiết kiệm có kì hạn do NHNN qui định.
Còn về lý thuyết thì lãi suất tiết kiệm có kì hạn trong giai đoạn này có thể nằm

trong khoảng từ lớn hơn 0% cho đến nhỏ hơn, bằng hoặc thậm chí cao hơn trần
lãi suất cho vay.
3. Kết luận và kiến nghị
a. Về trách nhiệm của NHNN
Điều 43, pháp lệnh NHNN Việt Nam trớc đây qui định NHNN công bố
lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tối thiểu về tiền gửi, tối đa về cho vay của các
TCTD . Còn điều 18, Luật NHNN Việt Nam hiện nay qui định: NHNN xác
định và công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn. Và khoản 12 điều 9 của
Luật đã định nghĩa: Lãi suất cơ bản là lãi suất do nHNN công bôs làm cơ sở
cho các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh. Nh vậy, về mạt pháp lí, theo Pháp
lệnh cũ hay theo Luật hiện hành, NHNN không có trách nhiệm trực tiếp trong
việc xác định các mức lãi suất để áp dụng trong các lĩnh vực khác.
Tuy nhiên, trong thực tế, ngoài vấn đề huy động vốn , cho vay và dịch vụ
trong các hoạt động nghiệp vụ ngân hàng, Lãi suất do NHNN qui định đơng
nhiên còn đang nằm trong các mối quan hệ khá phức tạp của luật pháp đa
ngành. Hay nói cách khác, qui định về lãi suất của NHNN đang và sẽ còn liên
quan chặt chẽ đến nhiều qui phạm pháp luật thuộc các lĩnh vực kinh tế xã hội
khác nhau. Cụ thể, lãi suất do NHNN qui định để làm căn cứ xác định các lãi
suất dới đây:
- Lãi suất cho vay trong các hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự;
- Lãi suất cho vay cầm đồ
- Lãi suất chậm thanh toán trong các hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự và
hợp đồng lao động;
24
- Lãi chậm thanh toán trong thi hành án về tài sản bao gồm án kinh tế, án
dân sự, án lao động, án hành chính và phần tài sản trong các vụ án hình sự;
- Lãi suất làm căn cứ truy tố, xét xử một loại tội phạm về kinh tế ( tội cho
vay nặng lãi)
b. Yêu cầu hoàn thiện các qui định pháp luật về lãi suất
Nếu giữ nguyên các qui định về lãi suất của pháp luật liên quan nh đã

trình bày ở trên, thì NHNN sẽ tiếp tục phải qui định và qui định thêm các mức
lãi suất sau:
- Mức trần lãi suất cho vay ngắn hạn và trung- dài hạn
- Mức trần lãi suất cho vay cầm đồ
- Mức lãi suất tiết kiệm loại không kì hạn, loại có kì hạn ngắn hạn và trung-
dài hạn
- Mức lãi suất quá hạn cụ thể
- Và một số mức lãi suất cụ thể trong một vài trờng hợp riêng biệt khác.
Điều này sẽ không đúng với tinh thần của Luật NHNN Việt Nam, không
hợp lí trong giai đoạn trớc mắt cũng nh lâu dài. Đã đến lúc NHNN cần bỏ việc
qui định các mức lãi suất nh hiện nay, mà chỉ cần qui định lãi suất cơ bản để
làm căn cứ xác định các mức lãi suất liên quan. Tất nhiên, các qui định về lãi
suất trong các văn bản pháp luật thuộc các lĩnh vực khác cũng cần phải đợc sửa
đổi, bổ sung theo hớng tính theo các tỷ lệ ổn định nào đó dựa trên cơ sử lãi suất
cơ bản.
Vấn đề là cần có sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan để xây dựng đợc
các qui phạm pháp luật về lãi suất một cách đồng bộ, thống nhât, tránh tình
trạng mâu thuẫn, sơ hở nh hiện nay. Trớc mắt, các cơ quan có trách nhiệm cần
nhanh chóng hớng dẫn các vớng mắc trên để có thể hiểu, thực hiện và giải
quyết các vụ việc liên quan đến lãi suất ngân hàng một cách chính xác và đúng
pháp luật.
II. Định hớng điều hành lãi suất
theo ý tởng của Luật NHNN.
1. Trong những năm tr ớc mắt: vừa áp dụng lãi suất trực tiếp vừa áp dụng
lãi suất gián tiếp, nhng tạm thời nghiêng về phía áp dụng lãi suất trựctiếp là
25

×