Tải bản đầy đủ (.pdf) (375 trang)

Các giải pháp pháp lý nhằm giải quyết tốt hơn việc phá sản doanh nghiệp ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.45 MB, 375 trang )


BỘ TƯ PHÁP
VIỆN KHOA HỌC PHÁP LÝ
*****






ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ

“CÁC GIẢI PHÁP PHÁP LÝ NHẰM GIẢI QUYẾT TỐT HƠN
VIỆC PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM”








8221

Hà Nội - 2009

BỘ TƯ PHÁP
VIỆN KHOA HỌC PHÁP LÝ
*****





ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ

“CÁC GIẢI PHÁP PHÁP LÝ NHẰM GIẢI QUYẾT TỐT HƠN
VIỆC PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM”



Chủ nhiệm Đề tài: PGS.TS. Dương Đăng Huệ, Vụ trưởng
Vụ Pháp luật Dân sự - Kinh tế, Bộ Tư pháp
Thư ký Đề tài: Ths. Cao Đăng Vinh, Bộ Tư pháp






Hà Nội - 2009

DANH SÁCH BAN CHỦ NHIỆM VÀ CỘNG TÁC VIÊN THỰC HIỆN ĐỀ TÀI

STT
Họ và tên Địa chỉ công tác
1.
PGS.TS. Dương Đăng Huệ - Chủ
nhiệm Đề tài
Vụ trưởng Vụ Pháp luật Dân sự - Kinh tế,
Bộ Tư pháp - Chủ nhiệm Đề tài
2.

TS. Từ Văn Nhũ - Phó chủ nhiệm
Đề tài
Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao
3.
Ths. Cao Đăng Vinh Phó Trưởng phòng, Vụ Pháp luật Dân sự
- Kinh tế, Bộ Tư pháp - Thư ký Đề tài
4. TS. Nguyễn Thuý Hiền Thứ trưởng Bộ Tư pháp
5.
TS. Bùi Xuân Hải Trưởng Khoa Luật Thương mại, ĐH Luật
TP.HCM
6.
TS. Lê Đình Vinh Phó Ban Thư ký, Bộ Tư pháp
7.
TS. Nguyễn Thanh Thuỷ Tổng cục thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp
8.
Ngô Cường

Tổng Biên tập Tạp chí Toà án nhân dân,
Toà án nhân dân tối cao
9.
Ths. Nguyễn Hồng Tuyến Vụ Các vấn đề chung về XDPL, Bộ Tư
pháp
10.
Ths. Đậu Anh Tuấn Ban Pháp chế, Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam
11.
Đỗ Cao Thắng Nguyên Chánh Toà Kinh tế, Toà án nhân
dân tối cao
12.
Nguyễn Văn Quang Thẩm phán Tòa Kinh tế TANDTC

13. Phạm Tuấn Anh Chánh Toà Kinh tế, Toà án nhân dân TP.
Hà Nội
14.
Trần Văn Sự Chánh Toà Kinh tế, Toà án nhân dân TP.
Hồ Chí Minh
15.
Nguyễn Văn Phương Ban Pháp chế Ngân hàng Ngoại thương
Việt Nam
16.
Nguyễn Văn Trọng Tổng cục Đất đai, Bộ Tài nguyên và Môi
trường


MỤC LỤC

NỘI DUNG ĐỀ TÀI TRANG
PHẦN THỨ NHẤT: BÁO CÁO PHÚC TRÌNH ĐỀ TÀI
Lời mở đầu 01
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về phá sản và pháp luật phá
sản
07
1.1. Nguồn gốc và bản chất của phá sản
07
1.2. Đặc điểm của thủ tục giải quyết phá sản
11
1.3. Một số nội dung cơ bản của pháp luật phá sản
14
1.4. Kinh nghiệm giải quyết phá sản ở một số nước
29
Chương 2: Thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 2004 - Những tồn

tại, hạn chế và nguyên nhân
41
2.1. Những tồn tại, hạn chế trong quá trình triển khai thực hiện Luật Phá
sản
41
2.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong quá trình triển khai
thực hiện Luật Phá sản
47
2.2.1. Nguyên nhân từ phía pháp luật phá sản
48
2.2.2. Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản và
các chủ nợ tham gia giải quyết vụ phá sản
74
2.2.3. Nguyên nhân từ phía các cơ quan có thẩm quyền giải quyết việc
phá sản
77
2.2.4. Nguyên nhân từ phía cơ quan, tổ chức khác có liên quan
83
Chương 3. Kiến nghị giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết
phá sản doanh nghiệp ở nước ta.
85
3.1. Giải pháp trước mắt
85
3.1.1. Tiếp tục nghiên cứu sửa đổi và ban hành văn bản hướng dẫn thực
hiện Luật Phá sản năm 2004
85
3.1.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật khác có liên quan đến giải
quyết phá sản
92
3.1.3. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật phá sản

93
3.1.4. Tăng cường năng lực và trình độ đội ngũ cán bộ tham gia giải
quyết phá sản
94
3.1.5. Tăng cường vai trò của cơ quan quản lý tài sản
95
3.1.6. Các giải pháp khác
96
3.2. Giải pháp lâu dài
97
Kết luận 117
Tài liệu tham khảo 118
PHẦN THỨ HAI: CÁC CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ
TÀI

Chuyên đề số 1: “Những vấn đề lý luận chung về pháp luật phá sản -
Tổng quan về pháp luật phá sản các nước trên thế giới – Những bài học
kinh nghiệm cho việc hoàn thiện Luật Phá sản 2004” – PGS.TS. Dương
Đăng Huệ & Ths. Cao Đăng Vinh, Vụ PL Dân sự - Kinh tế, Bộ Tư pháp
121
Chuyên đề số 2: “Lý luận và thực tiễn của pháp luật phá sản - Một số
kinh nghiệm của nước ngoài” – TS. Bùi Xuân Hải, Trưởng Khoa Luật
Thương mại, ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh
142
Chuyên đề số 3: “Luật Phá sản năm 2004 - Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn” – Ngô Cường, Tổng Biên tập Tạp chí Toà án nhân dân, Phó
Viện trưởng Viện khoa học xét xử – Toà án nhân dân tối cao
162
Chuyên đề số 4: “Thi hành Luật Phá sản năm 2004 - Thực trạng và định
hướng hoàn thiện” - PGS.TS. Dương Đăng Huệ, Vụ PL Dân sự - Kinh

tế, Bộ Tư pháp
173
Chuyên đề số 5: “Các vướng mắc trong quá trình giải quyết yêu cầu
tuyên bố phá sản theo Luật Phá sản năm 2004 và Kiến nghị giải quyết” -
Đỗ Cao Thắng, Nguyên Chánh Toà Kinh tế, Toà án nhân dân tối cao
189
Chuyên đề số 6: “Vai trò của Toà án trong quá trình giải quyết yêu cầu
tuyên bố phá sản - Thực trạng pháp luật và phương hướng hoàn thiện” –
TS. Từ Văn Nhũ, Phó Chánh án TANDTC & Nguyễn Văn Quang, Thẩm
phán Toà Kinh tế, TANDTC
205
Chuyên đề số 7: “Các quy định của Luật Phá sản năm 2004 và việc bảo
vệ quyền lợi của chủ nợ có bảo đảm khi doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản” – TS. Nguyễn Thuý Hiền, Thứ trưởng Bộ Tư pháp
219
Chuyên đề số 8: “Vai trò của Tổ quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình
giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản - Thực trạng và kiến nghị hoàn
227
thiện” – TS. Nguyễn Thanh Thuỷ, Tổng cục Thi hành án dân sự, Bộ Tư
pháp
Chuyên đề số 9: “Địa vị pháp lý của các chủ nợ trong Luật Phá sản năm
2004 - Một vài kiến nghị hoàn thiện” – Ths. Cao Đăng Vinh, Vụ Pháp
luật Dân sự - Kinh tế, Bộ Tư pháp
239
Chuyên đề số 10: “Luật Phá sản năm 2004 của Việt Nam - Một số vấn
đề nhìn từ góc độ so sánh với pháp luật phá sản các nước trên thế giới” –
TS. Lê Đình Vinh, Phó Trưởng ban Thư ký, Bộ Tư pháp
253
Chuyên đề số 11: “Cơ quan thi hành án dân sự với việc thi hành quyết
định tuyên bố phá sản doanh nghiệp - Những khó khăn, vướng mắc và

kiến nghị hoàn thiện” – Ths. Nguyễn Hồng Tuyến, Vụ Các vấn đề chung
về Xây dựng pháp luật, Bộ Tư pháp
260
Chuyên đề số 12: “Cải cách pháp luật về phá sản để thúc đẩy các hoạt
động đầu tư kinh doanh” – Ths. Đậu Anh Tuấn, Ban Pháp chế, Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
276
Chuyên đề số 13: “Thu hồi nợ đối với doanh nghiệp bị phá sản nhìn từ
thực tiễn hoạt động của ngân hàng thương mại” – Ths. Nguyễn Văn
Phương, Ban Pháp chế Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
289
Chuyên đề số 14: “Xử lý quyền sử dụng đất của doanh nghiệp bị lâm
vào tình trạng phá sản - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn
thiện” - Nguyễn Xuân Trọng, Tổng cục Quản lý đất đai, Bộ Tài nguyên
và Môi trường
309
Chuyên đề số 15: “Tình hình thực hiện Luật Phá sản năm 2004 của
ngành Toà án nhân dân TP. Hà Nội” – Ths. Phạm Tuấn Anh, Chánh
Toà, Toà Kinh tế, Toà án nhân dân TP. Hà Nội
325
Chuyên đề số 16: “Tình hình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh
nghiệp ở Toà án nhân dân TP. Hồ Chí Minh - Kiến nghị sửa đổi, bổ
sung Luật Phá sản năm 2004” - Trần Văn Sự, Phó Chánh án Toà án
nhân dân TP. Hồ Chí Minh
336
Chuyên đề số 17: “Đặc thù trong việc giải quyết phá sản tổ chức tín
dụng - Một số kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị hoàn thiện pháp luật
phá sản của Việt Nam” – Ths. Cao Đăng Vinh, Vụ Pháp luật Dân sự -
Kinh tế, Bộ Tư pháp
350










PHẦN THỨ NHẤT
BÁO CÁO PHÚC TRÌNH ĐỀ TÀI


Trang 1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường, các loại hình doanh nghiệp khác nhau thuộc mọi
thành phần kinh tế được Nhà nước khuyến khích thành lập và tạo điều kiện hoạt động
một cách bình đẳng và cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật. Trong hoạt động sản
xuất kinh doanh, không thể tránh khỏi hiện tượng, bên cạnh những doanh nghiệp được
thành lập và kinh doanh có hiệu quả, tạo ra nhiều sản phẩ
m và công ăn việc làm cho
người lao động, góp phần cho sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội, còn có một bộ
phận không nhỏ những doanh nghiệp do nhiều nguyên nhân khác nhau đã và đang làm
ăn thua lỗ, kém hiệu quả, nợ nần chồng chất, không thể thanh toán được các nghĩa vụ
tài chính của mình. Đối với những doanh nghiệp mất khả năng thanh toán đó, pháp
luật các nước trên thế giới đã có một hệ th
ống pháp luật riêng để xử lý, đó là pháp luật
về phá sản. Phá sản trong nền kinh tế thị trường là hiện tượng và xu hướng tất yếu của
quá trình cạnh tranh, chọn lọc tự nhiên để loại bỏ những doanh nghiệp yếu kém, khẳng

định sự tồn tại và phát triển đối với doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả
.
Luật Phá sản doanh nghiệp (PSDN) đã được Quốc hội nước Cộng hoà XHCN
Việt Nam thông qua ngày 30/12/1993, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/1994 là
văn bản luật đầu tiên điều chỉnh toàn diện vấn đề phá sản doanh nghiệp. Tiếp đó, Luật
Phá sản (sửa đổi) đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày
15/10/2004 thay thế Luật PSDN năm 1993. Sau Luật Phá sản năm 2004 (sau đây gọi
tắt là Luật Phá sản), Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2005/NĐ-CP ngày
15/7/2005 về giải quyết quyền lợi của người lao động ở doanh nghiệp và hợp tác xã bị
phá sản, Nghị định số 67/2006/NĐ-CP ngày 11/7/2006 hướng dẫn việc áp dụng Luật
Phá sản đối với doanh nghiệp đặc biệt và tổ chức, hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý
tài sản, Nghị định số 114/2008/N
Đ-CP ngày 03/11/2008 hướng dẫn chi tiết thi hành
một số điều của Luật Phá sản đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh
vực bảo hiểm, chứng khoán và tài chính khác; Toà án nhân dân tối cao đã ban hành
Nghị quyết số 03/2005/NQ-TANDTC ngày 28/4/2005 hướng dẫn thi hành một số quy
định của Luật Phá sản, Quyết định số 01/2005/QĐ-TANDTC ngày 27/4/2005 về Quy
chế làm việc của Thẩm phán phụ trách tiến hành thủ tục phá sả
n. Tất cả các văn bản
này đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc áp dụng thủ tục phá sản, bảo vệ quyền và
lợi ích của chủ nợ, góp phần quan trọng vào việc hình thành một cơ chế pháp lý đồng
bộ cho hoạt động xử lý nợ của các doanh nghiệp, bảo đảm trật tự, kỷ cương trong lĩnh
vực tài chính, làm cho môi trường kinh doanh trở nên lành mạnh hơn.
Theo báo cáo tổ
ng kết của Toà án nhân dân tối cao, từ khi Luật Phá sản có hiệu
lực pháp luật đến nay, đã có 195 vụ phá sản được thụ lý. Tình hình thụ lý và giải quyết
đơn yêu cầu tuyên bố phá sản như sau:

Trang 2
- Năm 2005, toàn ngành Tòa án đã thụ lý mới 11 vụ. Năm 2004 chuyển qua 3

vụ, tổng cộng 14 vụ. Toà án đã giải quyết được 01 vụ (đạt 7,14%); còn tồn chuyển
sang năm 2006 là 13 vụ.
- Năm 2006, toàn ngành Toà án đã thụ lý 40 vụ; có 13 vụ từ năm 2005 chuyển
qua, tổng cộng là 53 vụ. Đã giải quyết được 16 vụ, đạt tỷ lệ 30,2%.
- Năm 2007, toàn ngành Toà án đã thụ lý mới 144 vụ phá sản, trong đó, Toà án
nhân dân c
ấp tỉnh thụ lý 120 vụ, Toà án nhân dân cấp huyện thụ lý 24 vụ. Năm 2006
chuyển qua là 31 vụ, tổng cộng là 175 vụ việc. Trong số đó, Toà án đã ra quyết định
mở thủ tục phá sản 164 vụ, quyết định không mở thủ tục phá sản 10 vụ, quyết định trả
lại đơn 01 vụ. Toà án nhân dân cấp huyện giải quyết xong 24 vụ đã thụ lý (đều quyết
định tuyên bố phá s
ản), đạt 100%. Còn lại 151 vụ phá sản do Toà án nhân dân cấp tỉnh
thụ lý được giải quyết như sau: quyết định trả lại đơn 01 vụ, quyết định không mở thủ
tục phá sản 10 vụ, quyết định tuyên bố phá sản theo thủ tục đặc biệt 04 vụ, quyết định
đình chỉ thủ tục phá sản 10 vụ, quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản 75 vụ, còn tồ
n lại
51 vụ đang được tiếp tục giải quyết.
- Năm 2008, toàn ngành Toà án đã thụ lý mới 136 vụ phá sản. Trong số đó, các
Toà án đã ra quyết định mở thủ tục phá sản
131 vụ, quyết định không mở thủ tục
phá sản 04 vụ và quyết định trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản 01 vụ.
Kết quả giải quyết các vụ phá sản trong thời gian qua, đặc biệt là kết quả giải
quyết năm 2007 của Toà án nhân dân cho thấy, đã có sự chuyển biến ngày càng tích
cực trong việc thực thi Luật Phá sản. Luật Phá sản đã bước đầu phát huy tác dụng
trong việc lành mạnh hoá môi trường hoạt động sản xuất, kinh doanh; khắc phục được
một phần tình trạng nhiều doanh nghiệp trên thực tế
đã mất khả năng thanh toán đáng
lẽ phải chấm dứt hoạt động nhưng vẫn tồn tại, gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động của
các doanh nghiệp khác như trước đây. Tình hình thụ lý và giải quyết yêu cầu mở thủ
tục phá sản doanh nghiệp theo Luật Phá sản năm 2004 đã được cải thiện nhưng vẫn

còn gặp nhiều khó khăn; hiệu quả
giải quyết việc phá sản ở các cấp Toà án vẫn chưa
đạt kết quả như mong muốn; tỷ lệ doanh nghiệp, hợp tác xã bị yêu cầu mở thủ tục phá
sản là rất nhỏ, chưa phản ánh đúng thực chất tình trạng hiện nay của các doanh nghiệp,
hợp tác xã; quá trình tiến hành thủ tục phá sản kéo dài, việc thụ lý và giải quyết yêu
cầu mở thủ tục phá sản đố
i với doanh nghiệp còn gặp những khó khăn, vướng mắc;
hiệu quả giải quyết phá sản còn kém.
Có thể nói, Luật Phá sản của nước ta hiện nay chưa đáp ứng được các yêu cầu
thiết yếu của một đạo luật nhằm giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán của con
nợ trong điều kiện kinh tế thị trường. Cũng giống như Luật PSDN 1993, Lu
ật Phá sản
2004 chưa đi vào cuộc sống như kỳ vọng của các nhà làm luật, giới kinh doanh và giới
luật sư, nó dường như cũng đang “lâm vào tình trạng phá sản”. Người ta đã bàn nhiều
và sẽ còn phải bàn nhiều về một câu hỏi: tại sao Luật Phá sản của chúng ta liên tiếp

Trang 3
kém hiệu quả trong thực tiễn? Lý do cơ bản của tình trạng này nằm ở chính các qui
định hiện hành về phá sản hay tại nền tư pháp Việt Nam quá yếu kém, không được
giới kinh doanh sử dụng như là công cụ để giải quyết các vụ việc mất khả năng thanh
toán trong hoạt động kinh doanh của họ hoặc họ không thích kiện tụng, không thích
mang việc đòi nợ ra tòa án theo thủ tục phá sản mà lựa chọ
n các hình thức đòi nợ khác
hiệu quả hơn, đỡ tốn kém thời gian và tiền bạc hơn? Đây là những câu hỏi mà các nhà
làm luật cũng như các thẩm phán, luật sư và giới nghiên cứu cần phải tìm ra câu trả
lời.
Tính kém hiệu quả của Luật Phá sản đã làm ảnh hưởng xấu đến môi trường
kinh doanh của nước ta. Theo kết quả công bố trong Doing Business 2008, về thủ tục
chấ
m dứt hoạt động kinh doanh (trong đó có thủ tục phá sản), Việt Nam xếp thứ 121

trên tổng số 178 nền kinh tế thế giới; thủ tục phá sản vẫn bị coi là kéo dài (trung bình
là 5 năm), hiệu quả thấp (thông thường chủ nợ chỉ thu hồi khoảng 18% số nợ).
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu Đề tài "Các giải pháp pháp lý nhằm giải
quyết tốt việc phá sản doanh nghiệp ở
Việt Nam" là rất cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề pháp luật phá sản, có thể nói, không còn là vấn đề hoàn toàn mới mẻ ở
Việt Nam. Xung quanh vấn đề này, đã có nhiều công trình nghiên cứu nghiên cứu do
các nhà khoa học pháp lý, người làm công tác thực tiễn của Việt Nam thực hiện. Trong
những năm gần đây, khi việc xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường được
thực hiện thì pháp luật phá sản, một bộ phận không thể
thiếu của hệ thống pháp luật
kinh doanh cũng được chú trọng nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu về pháp luật
phá sản được thực hiện dưới nhiều hình thức với nhiều cấp độ khác nhau. Trong đó, có
công trình nghiên cứu toàn diện về các vấn đề liên quan đến pháp luật phá sản nhưng
cũng có công trình chỉ nghiên cứu một khía cạnh nhất định liên quan đến pháp luật phá
sản.
Tính từ sau khi Luật Phá sản ra đờ
i, có thể kể đến các công trình nghiên cứu
như: Công trình nghiên cứu “Pháp luật phá sản của Việt Nam” của PGS/TS. Dương
Đăng Huệ, Nhà xuất bản Tư pháp năm 2005. Công trình này nghiên cứu một cách
đồng bộ tất cả các nội dung của Luật Phá sản năm 2004, có đối chiếu, so sánh với Luật
PSDN năm 1993. Tuy nhiên, do tính bao quát của đề tài và đặc biệt là do Luật Phá sản
năm 2004 mới ban hành nên tác phẩm này chưa thể xem xét, đánh giá nó dưới giác độ
thực tiễn và cũng chính vì vậy mà chưa thể có ý kiến đề xuất gì lớn liên quan đến việc
sửa đổi, bổ sung Luật Phá sản năm 2004. Một tác phẩm cũng có tầm nghiên cứu một
cách toàn diện về phá sản và pháp luật phá sản ở nước ta là Luận án Thạc sĩ Luật học
của Nguyễn Trường Nhật Phượng với đề tài: “Chế độ pháp lý về phá sản - Thực tiễ
n
thi hành và hướng hoàn thiện” (được bảo vệ thành công tại Trường đại học Luật TP.

Hồ Chí Minh, tháng 8/2004). Tác phẩm dầy 154 trang này đã nghiên cứu một cách

Trang 4
tương đối toàn diện các vấn đề liên quan đến pháp luật về phá sản ở nước ta, trong đó
có Luật Phá sản năm 2004. Tuy nhiên, cũng do việc đề tài này được viết trong thời
gian Luật Phá sản năm 2004 mới được ban hành nên tác phẩm này cũng có điểm yếu
là chưa xem xét, đánh giá được sức sống (tính hiệu lực và hiệu quả) của Luật này trong
thực tiễn và vì vậy, cũng chưa đề xu
ất được nhiều kiến nghị có tính thực tiễn cao.
Bên cạnh những công trình có tính toàn diện như đã nêu ở trên, đã có một số
công trình đề cập đến từng khía cạnh cụ thể của Luật Phá sản năm 2004. Trong số
công trình đó, có Luận án Tiến sĩ của bà Nguyễn Thị Hồng Vân với tên gọi là “Hoàn
thiện các quy định liên quan đến quản lý và thanh lý tài sản phá sản” (được bảo vệ
thành công tại Khoa Lu
ật, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2008). Tác phẩm này là một
công trình nghiên cứu rất chuyên sâu về các hạn chế, yếu kém trong các quy định của
pháp luật có liên quan đến công tác quản lý và thanh lý tài sản phá sản và một thiết chế
rất quan trọng được quy định trong Luật Phá sản là Tổ quản lý và thanh lý tài sản. Như
vậy, các nội dung khác của Luật Phá sản chưa được đề cập tới trọng Luận án Tiến sĩ
này.
Tại Hội nghị về kế hoạch và ngân sách năm 2008, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ
đạo “Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Toà án nhân dân tối cao rà soát lại thủ tục phá
sản doanh nghiệp, trình Thủ tướng Chính phủ cải cách thủ tục này theo thông lệ quốc
tế trong quý II năm 2008” (Thông báo số 193/VPCP-ĐMDN ngày 09 tháng 01 năm
2008 của Văn phòng Chính phủ). Thực hiện nhiệm vụ được giao, Bộ Tư pháp đ
ã có
Báo cáo số 24/BC-BTP ngày 26 tháng 2 năm 2008 gửi Thủ tướng Chính phủ báo cáo
bước đầu về việc rà soát, đánh giá thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 2004. Đây là
công trình nghiên cứu một cách tương đối toàn diện về các mặt được và chưa được của
Luật Phá sản năm 2004. Tuy nhiên, do bị giới hạn bởi mục đích của Báo cáo nên Báo

cáo này cũng không thể đáp ứng được đầy đủ yêu cầu nghiên cứu mộ
t cách sâu sắc,
toàn diện về chế định phá sản ở nước ta.
Như vậy, cho đến nay, vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu, đánh giá một
cách toàn diện, đầy đủ về thực trạng thi hành Luật Phá sản năm 2004 và kiến nghị sửa
đổi, bổ sung Luật này để nâng cao hiệu quả thực thi cơ chế phá sản ở nước ta.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu, phân tích nh
ững vấn đề lý luận liên quan đến phá sản và thủ
tục phá sản như nguồn gốc và bản chất của phá sản, đặc điểm và vai trò của thủ tục
phá sản, những nội dung cơ bản của pháp luật phá sản các nước. Sau đó, Đề tài tập
trung nghiên cứu, đánh giá thực trạng thi hành Luật Phá sản trong thời gian vừa qua,
phát hiện những tồn tại, hạn chế củ
a Luật Phá sản, các văn bản pháp luật có liên quan
cũng như các yếu tố khác làm ảnh hưởng đến việc giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá
sản và từ đó, đưa ra những kiến nghị nhằm tháo gỡ vướng mắc, nâng cao hiệu quả giải
quyết phá sản ở nước ta.

Trang 5
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài.
Đề tài được tiến hành trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin, mà cụ thể là phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử.
Các phương pháp cụ thể được vận dụng trong quá trình nghiên cứu Đề tài này
là phương pháp phân tích, tổng hợp, chứng minh và đặc biệt là phương pháp luật học
so sánh.
5. M
ục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của Đề tài
5.1. Mục tiêu
Mục tiêu của Đề tài là trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá một cách cơ bản thực

trạng pháp luật về phá sản, thực trạng thi hành pháp luật phá sản trong thời gian qua,
tìm ra những nguyên nhân gây ra những tồn tại, hạn chế, tập thể tác giả đưa ra các
khuyến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về phá sản, góp phần nâng cao hiệu qu

giải quyết phá sản doanh nghiệp ở nước ta trong thời gian tới.
5.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được các mục tiêu nói trên, Đề tài có nhiệm vụ giải quyết một số
vấn đề cơ bản sau đây:
Một là, nghiên cứu một cách toàn diện các vấn đề lý luận liên quan đến phá sản
và pháp luật về phá sản;
Hai là, nghiên cứu để nắm được những nội dung cơ
bản của Luật Phá sản năm
2004;
Ba là, nghiên cứu thực tiễn thi hành Luật Phá sản, qua đó, phát hiện được
những hạn chế, yếu kém của pháp luật phá sản hiện hành của nước ta;
Bốn là, nắm được thực trạng, tình hình giải quyết các vụ việc phá sản ở nước ta;
Phát hiện những khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết các vụ việc phá sản
và nguyên nhân của chúng;
Năm là, nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp của một số nước trên thế giới về phá
sản và tìm ra các quy định, cơ chế có thể áp dụng một cách có hiệu quả vào việc sửa
đổi, bổ sung Luật Phá sản của nước ta trong thời gian tới.
6. Những thành công cơ bản của Đề tài
6.1. Qua việc nghiên cứu thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 2004, công trình
đã phát hiện được nhiều tồn tạ
i, hạn chế của Luật này.
6.2. Phát hiện và phân tích một cách toàn diện 4 nhóm nguyên nhân dẫn đến
việc Luật Phá sản năm 2004 kém hiệu quả và hiệu lực trong thực tiễn. Đây là điểm
mới cần được đánh giá ở chỗ, Đề tài khẳng định rằng, Luật Phá sản năm 2004 kém

Trang 6

hiệu lực và hiệu quả không chỉ do những hạn chế, bất cập, yếu kém của bản thân các
quy định trong Luật mà phần lớn còn do sự yếu kém ở nhiều lĩnh vực pháp luật khác
và nhiều thiết chế khác có liên quan. Từ nhận định này, Đề tài cho thấy, muốn nâng
cao hiệu quả và hiệu lực của Luật Phá sản thì cần phải hoàn thiện không chỉ bản thân
Luật Phá sản mà phải quan tâm s
ửa đổi, bổ sung các lĩnh vực pháp luật khác và các
thiết chế khác trong bộ máy nhà nước ta.
6.3. Đề tài đã kiến nghị được một loạt các giải pháp nhằm hoàn thiện Luật Phá
sản trong thời tới. Trong số các giải pháp này, đáng lưu ý nhất là kiến nghị về việc cần
phải xây dựng Luật Phá sản ở nước ta trên năm nguyên tắc mới, trong đó, có nguyên
tắc, theo đó, Luật Phá sả
n cần được thiết kế theo hướng phi nhà nước hoá việc giải
quyết một số vấn đề phát sinh trong quá trình giải quyết phá sản. Đây là nguyên tắc rất
cơ bản cần phải tuân thủ vì theo Đề tài thì một trong những nguyên nhân cơ bản nhất
dẫn đến tình trạng kém hiệu quả, hiệu lực của Luật Phá sản trong thời gian qua chính
là sự bao biện, làm thay, sự “Nhà nước hó” một số công việc mà l
ẽ ra phải là của các
chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ.
7. Bố cục Đề tài
Đề tài này được xây dựng theo bố cục sau đây:
Chương 1. Những vấn đề lý luận chung về phá sản và pháp luật phá sản.
Chương 2. Thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 2004 - Những tồn tại, hạn chế
và nguyên nhân.
Chương 3. Kiến nghị giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết phá sản
doanh nghi
ệp ở nước ta.

Trang 7

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ PHÁ SẢN VÀ PHÁP LUẬT PHÁ SẢN


1.1. NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT CỦA PHÁ SẢN
Có thể nói rằng, từ khi con người biết kinh doanh thì cũng xuất hiện nhu cầu
vay mượn vốn và phát sinh quan hệ nợ nần. Về nguyên tắc, người có món nợ phải
hoàn trả cho chủ nợ đầy đủ và đúng hạn theo cam kết, song không phải ở đâu và bao
giờ, họ cũng có khả năng làm được điều này. Vì vậy, không phải đợi đế
n khi ô tô, máy
bay xuất hiện thì loài người mới biết đến khái niệm “vỡ nợ” (insolvency). Vào thời
Hy Lạp cổ đại, khi một người vay nợ mà không thể hoàn trả được cho chủ nợ thì toàn
bộ tài sản của anh ta, từ nhà cửa, đất đai, nô lệ, thậm chí ngay cả vợ con của mình đều
có thể bị xiết nợ và bắt làm nô lệ cho đến khi chủ nợ thấy rằng đã thu hồi hay bù đắp
được số tiền bị nợ. Việc bỏ tù con nợ cũng là biện pháp xử lý nợ được chấp nhận rộng
rãi trong thời kỳ này. Tuy nhiên, nhiều thành phố của Hy Lạp thời bấy giờ cũng đưa ra
một số quy định nhằm hạn chế bớt những tổn thất to lớn của người vay nợ khi họ
không có khả năng trả nợ như: giới hạn th
ời gian bắt con nợ và người nhà làm nô lệ (
thường chỉ trong thời gian không quá 5 năm), bảo toàn mạng sống cho những người
này; nhưng, nô lệ của con nợ sẽ trở thành nô lệ của chủ nợ. Đến Thời trung cổ, xã hội
loài người vẫn chưa có luật về phá sản cho phép các thủ tục đòi nợ tập thể (collective
procedure) để quản lý và phân chia tài sản của con nợ theo một thứ tự nhấ
t định như
hiện nay. Tất cả các vấn đề liên quan đến đòi nợ đều do chủ nợ tự mình thực hiện.
Đến thế kỷ 16, những ý tưởng về đòi nợ tập thể lần đầu tiên đã xuất hiện trong
những đạo luật phá sản sơ khai ở châu Âu. Luật Phá sản Anh ban hành năm 1542 bởi
vua Henry VIII đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việ
c giải quyết quan hệ
nợ nần bằng việc quy định cho các chủ nợ được tiến hành đòi nợ tập thể. Đạo luật này

quy định những vấn đề pháp lý cho phép việc phân chia tài sản còn lại của con nợ cho
các chủ nợ theo nguyên tắc công bằng, nhưng nó lại chưa đưa ra qui định về cải tạo,
phục hồi con nợ và trách nhiệm của con nợ bị phá sản đối v
ới các khoản nợ chưa được
thanh toán đầy đủ.
1
Pháp luật hiện đại về phá sản công ty và phá sản cá nhân mặc dù
đã có xu hướng tách biệt, nhưng xét về phương diện lịch sử, chúng đều chung nguồn
gốc từ pháp luật phá sản cá nhân.
2
Luật phá sản của nước Anh cuối thế kỷ 16 đã có sự
phân biệt giữa nợ kinh doanh của thương nhân (traders) và của các chủ thể khác.

1
Vanessa Finc, Corporate Insolvency Law: Perspectives and Principles, Cambridge University Press, 2009, 2
nd

edition, tr. 8

Trang 8
Thương nhân được định nghĩa là những người kiếm sống bằng hoạt động mua và bán
(living by ‘buying and selling). Nếu một chủ thể không phải thương nhân (non-traders)
sẽ không được phá sản (bankruptcy for traders và insolvency for non-traders).
3
Đến
năm 1861, sự phân biệt phá sản giữa thương nhân và phi thương nhân đã bị xóa bỏ ở
nước Anh khi ban hành Luật phá sản (Bankruptcy Act 1861), mà theo đó phi thương
nhân cũng có thể được áp dụng thủ tục phá sản như thương nhân. Cũng trong thời gian
này, nhà nước Anh đã ban hành một số Luật liên quan đến phá sản như: Đạo luật về
con nợ năm 1869, (Debtors Act), chính thức “khai tử” việc bỏ tù con nợ trong pháp

luật Anh qu
ốc
4
và những luật về mất khả năng thanh toán (insolveny law) sơ khai chủ
yếu nhằm vào việc trừng phạt con nợ hơn là phục hồi, cải tạo lại con nợ - một ý tưởng
chỉ mới bắt đầu từ thế kỷ 18.
5

Nguồn gốc của luật phá sản công ty (corporate insolvency law) được bắt đầu từ
thế kỷ 19 với sự phát triển của các mô hình công ty ở Châu Âu và Mỹ.
6
Năm 1844,
Anh ban hành Luật về chấm dứt hoạt động công ty cổ phần (Joint Stock Companies
Winding-up Act 1844) cho phép công ty cũng có thể bị phá sản như cá nhân.
7
Tuy
nhiên, chỉ sau đó hơn 10 năm, nước Anh đã có luật về chế độ trách nhiệm hữu hạn
1855 (Limited Liability Act), theo đó các thành viên công ty là con nợ chỉ chịu trách
nhiệm hữu hạn trong phạm vi nhất định. Qui định chi tiết về chấm dứt tồn tại của công
ty (winding up) cũng lần đầu tiên xuất hiện trong đạo luật về công ty TNHH năm 1862
(Companies Act 1862). Điều này cũng đặt ra sự khác biệt nhất đị
nh giữa việc giải
quyết nợ của con nợ là công ty và thể nhân. Theo truỵền thống, luật pháp nước Anh
phân biệt giữa vỡ nợ cá nhân (bao gồm cả của hợp danh (partnership) và cá nhân kinh
doanh (sole trader)) và vỡ nợ công ty, mặc dù đạo luật về mất khả năng thanh toán gần
đây (Insolvency Act 1986) đã hạn chế rất nhiều sự khác nhau đó.
8

Khi nghiên cứu pháp luật phá sản nước ngoài, chúng ta thường gặp một số
phạm trù, khái niệm (concept) tiếng Anh liên quan đến vấn đề giải quyết việc mất khả

năng thanh toán (insolvency) của con nợ như bankruptcy, liquidation, winding-up,
reorganization … Hiểu đúng khái niệm, đúng nội hàm của mỗi khái niệm trong bối
cảnh cụ thể của mỗi hệ thống pháp luật nhất định là yêu cầu rất quan trọng khi nghiên
cứu pháp lu
ật phá sản nước ngoài. Ủy ban pháp luật thương mại của Liên hợp quốc

2
Vanessa Finc, Corporate Insolvency Law: Perspectives and Principles, Cambridge University Press, 2009, 2
nd

edition, tr. 7
3
Royston M. Goode, Principles of Corporate Insolvency Law, Thomson London, 2005, 3
rd
edition, tr.1
p. 7; Vanessa Finc, Corporate Insolvency Law: Perspectives and Principles, Cambridge University Press, 2009,
2
nd
edition, tr.8.
4
Vanessa Finc, Corporate Insolvency Law: Perspectives and Principles, Cambridge University Press, 2009, 2
nd

edition, tr 10
5
Vanessa Finc, Corporate Insolvency Law: Perspectives and Principles, Cambridge University Press, 2009, 2
nd

edition, tr 8; Royston M. Goode, Principles of Corporate Insolvency Law, Thomson London, 2005, 3
rd

edition,
tr.6
6
Royston M. Goode, Principles of Corporate Insolvency Law, Thomson London, 2005, 3
rd
edition, tr. 7.
7
Các luật tiếp theo về winding-up CTCP được ban hành 1848, 1849, 1857. Goode p 7.
8
Royston M. Goode, Principles of Corporate Insolvency Law, Thomson London, 2005, 3
rd
edition, tr.5.

Trang 9
(UNCITRAL) cũng nhấn mạnh rằng nội hàm và ngoại diên của các thuật ngữ
(concept) nói trên có những điểm khác nhau trong pháp luật của mỗi quốc gia.
9
Ngay
cả trong các nước theo truyền thống thông luật (common law), nói tiếng Anh, các khái
niệm này được qui định trong luật thành văn và áp dụng không giống nhau trong thực
tiễn, điển hình là sự khác nhau của khái niệm “bankruptcy” ở Mỹ với Anh, Úc, Ân độ,
Malaysia
“Bankruptcy” trong tiếng Anh bắt nguồn từ tiếng La tinh bancus (nghĩa là cái
bàn hay ghế ngồi) và ruptus (nghĩa là bị gãy); “bankrupt” bắt nguồn từ tiếng Ý banco
roto (broken bench) hay banca rotta tức là cái bàn của thươ
ng nhân cho vay tiền (hình
thức sơ khai của ngân hàng) bị gãy, bị hỏng. Ở các nước theo truyền thống thông luật
(common law), người ta thường đề cập đến cả hai khái niệm pháp lý bankruptcy law
và insolvency law. Trong khi insolvent (mất khả năng thanh toán – tức là con nợ không
có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn – unable to pay debts as they fall due)

hầu như được hiểu thống nhất ở khắp mọi nơi thì thuật ngữ bankruptcy (phá sản) lại
được qui đị
nh giống nhau trong pháp luật phá sản của các nước common law sử dụng
ngôn ngữ chính thức là tiếng Anh. Việc phá sản được hiểu là thủ tục tố tụng do tòa án
tiến hành nhằm thanh lý tài sản của con nợ (cá nhân hay công ty) bị mất khả năng
thanh toán, được tiến hành bởi người được tòa án chỉ định và con nợ được giải phóng
khỏi các trách nhiệm trả nợ sau này.
“Bankruptcy” có thể được hiểu dưới rất nhiều nghĩa khác nhau khi chúng ta
nhìn dưới những góc độ khác nhau, song nhìn dưới góc độ nào, nó cũng chỉ đến việc
một thể nhân hay một pháp nhân không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn.
Ở Mỹ, bankruptcy được hiểu là tuyên bố pháp lý về tình trạng mất khả năng thanh
toán nợ (insolvent) của một thể nhân hay một công ty.
10
Khác với Mỹ, pháp luật Anh
quy định khi cá nhân mất khả năng thanh toán (insolvent) thì người đó có thể bị tuyên
bố phá sản (bankrupt); nhưng, nếu các công ty lâm vào tình trạng tương tự thì có thể bị
Tòa án tuyên bố thanh lý (liquidation).
11
Tuy nhiên, ranh giới giữa “liquidation” và
“bankruptcy” khá mờ nhạt; bởi vậy, trên các phương tiện thông tin đại chúng, hay
trong ngôn ngữ phổ thông, hai thuật ngữ này đều được dùng để chỉ sự phá sản của
doanh nghiệp. Như vậy, bankruptcy, liquidation và winding-up dường như là sản
phẩm của giới luật học common law bảo thủ dùng để chỉ đến việc giải quyết tình trạng
của các loại con nợ (thể nhân hay công ty …) bị mất khả năng thanh toán. Ở Úc, các
sách luật về công ty thường khẳng định rằng liquidation cũng được hiểu như winding
up, tức việc thanh lý công ty cũng được hiểu là chấm dứt sự tồn tại của công ty.
Trong ngôn ngữ tiếng Việt, từ banqueroute trong tiếng Pháp hay bankruptcy
trong tiếng Anh đã sớm được các luật gia, thẩm phán dịch sang người Việt với nghĩa là

9

Ủy ban pháp luật thương mại Liên hợp quốc (United Nations Commission on International Trade Law –
UNCITRAL), Legislative Guide on Insolvency Law, tr. 3.
10
Royston M. Goode, Principles of Corporate Insolvency Law, Thomson London, 2005, 3
rd
edition, tr.1

Trang 10
“phá sản”. Trong cuốn “Danh từ pháp luật lược giải” xuất bản ở Sài Gòn 1965, Thẩm
phán Trần Thục Linh đã viết rằng:
“Banqueroute
Phá sản
Dù đã bị tuyên phán khánh tận hay không, một thương gia, lâm vào tình trạng
ngưng trả nợ do các điều 583 và kế tiếp của luật thương mại dự liệu, can phạm tôi phá
sản, thường gọi là vỡ nợ.
Tội phá sản có hai hạng nặng nhẹ tùy theo b
ị can có gian ý hay không: phá sản
gian và phá sản thường. Phá sản thường là vi phạm xảy ra khi thương gia sơ xuất
nặng hay bất cẩn thái quá, thí dụ: giữ sổ sách lôi thôi, chi phí ăn tiêu xa xỉ. Trong
trường hợp này, điều 402 đọan 3 Hình luật canh cải ấn định hình phạt tù từ một tháng
cho đến hai năm.
Phạm nhân chọi mọi hậu quả của sự tuyên bố khánh tận. Các đồng lõa nếu có
không bị liên can.
Phá sản gian là vi phạm x
ảy ra khi thương gia có những hành vi gian trá đặc
biệt nặng nề, ví dụ làm sổ sách gian, giấu của, phi tang ….Trong trường hợp vỡ nợ
gian tình, luật phạt tù từ 1 cho đến 5 năm. Các đồng lõa, nếu có, cũng chịu một hình
phạt như chính phạm. Phá sản gian dương nhiên đưa đến sự tuyên bố khánh tận.
12


Trong Bộ luật Thương mại Sài gòn 1972 – một đạo luật được xây dựng trên nền
tảng pháp luật dân sự-thương mại thời Pháp thuộc – đã có một số chương qui định về
xử lý tình trạng thanh toán nợ của thương gia khi “ở vào tình trạng không thanh toán
được nợ” – cũng giống như khái niệm insolvent – hay tình trạng phá sản trong luật phá
sản Việt Nam hiện nay. Khi thương gia mất khả năng thanh toán thì tùy theo từng
trường hợp, họ có thể:
(i) được hưởng “sự thanh toán tư pháp” nếu ngay tình, và phải nộp đơn xin tại
tòa án nơi cư ngụ;
13

(ii) bị tòa án tuyên án khánh tận đương nhiên hay theo đơn yêu cầu của chủ nợ
theo điều 1006 và 1007 Bộ luật Thương mại;
Nếu thương gia bị tuyên án khánh tận hay thanh toán tư pháp đều có thể bị truy
tố về “tội phá sản’ theo Chương thứ III, Quyển thứ 5 của Bộ luật này. Như vậy, Luật
thương mại chế độ cũ gắn “phá sản” với “tội phạm” trong luậ
t hình sự chứ không phải
là thủ tục xử lý tình trạng mất khả năng thanh toán của con nợ đơn thuần. Bộ luật
thương mại Sài Gòn qui định về hai loại tội phá sản: tội phá sản đơn thường và tội phá

11
Royston M. Goode, Principles of Corporate Insolvency Law, Thomson London, 2005, 3
rd
edition, tr.1.
12
Trang 146, 147.
13
Điều 996 Bộ luật TM SG 1972

Trang 11
sản gian trá bị xử phạt theo hình luật.

14
Tuy nhiên, người quản lý điều hành công ty bị
tòa tuyên án khánh tận hay cho hưởng thanh toán tư pháp đều có thể bị xử phạt tội phá
sản gian trá và bị hạn chế một số quyền dân sự như không thể được bổ nhiệm làm việc
cho cơ quan công quyền, không thể hành nghề luật sư, thừa phát lại, thanh toán viên.
15

Thuật ngữ “phá sản” đã được sử dụng trong Luật Công ty năm 1990 và Luật
Doanh nghiệp tư nhân năm 1990 với một qui định khá mơ hồ về thủ tục tuyên bố phá
sản. Đến năm 1993, Việt Nam ban hành Luật PSDN đầu tiên, đạo luật này đã xây
dựng hai phạm trù nền tảng: tình trạng phá sản và phá sản. Song, một hạn chế của đạo
luật này là không đưa ra một định nghĩ
a nào về phá sản ngoài khái niệm tình trạng phá
sản còn rất sơ sài. Luật Phá sản 2004 đưa ra khái niệm rõ nét hơn về tình trạng phá sản
(insolvent), nhưng cũng giống như Luật PSDN năm 1993, khái niệm về phá sản vẫn
chưa được đề cập. Cho đến nay, chúng ta vẫn rất mơ hồ về sự khác nhau giữa các khái
niệm phá sản, tình trạng phá sản, thanh lý, phục hồi trong vốn từ vựng pháp lý tiếng
Việ
t ít ỏi về phá sản.
Như vậy xét về mặt nguồn gốc, các khái niệm như bankruptcy hay winding-up
hoặc liquidation mà các quốc gia Mỹ, Anh, Úc, Malaysia …. sử dụng không nói lên sự
khác biệt đáng kể về phá sản trong pháp luật của họ. Liquidation được hiểu là phá sản
công ty, winding-up được hiểu là việc chấm dứt tồn tại của một công ty trong đó có
thể bao gồm liquidation, và cuối cùng, phá sản được hiểu là việc tòa án tuyên bố
một
con nợ - có thể là cá nhân hay công ty, bị mất khả năng thanh toán và cho thanh lý
toàn bộ tài tài sản của nó để thanh toán cho các chủ nợ theo một trật tự nhất định.
1.2. ĐẶC ĐIỂM CỦA THỦ TỤC GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN
Phá sản đã có từ lâu, nhưng với tư cách là một hiện tượng phổ biến thì nó chỉ
xuất hiện trong nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế này, cùng vớ

i các quyền cơ
bản khác của công dân, quyền tự do kinh doanh đã rất được Nhà nước tôn trọng, đề
cao và bảo vệ. Khác với thủ tục giải quyết một vụ kiện dân sự (tố tụng dân sự) hay thủ
tục giải quyết một vụ kiện kinh tế (tố tụng kinh tế), thủ tục giải quyết một vụ phá sản
(tố tụng phá sản) được coi là m
ột loại tố tụng tư pháp đặc biệt. Do tính chất đặc biệt
này nên trong pháp luật tố tụng các nước, thủ tục phá sản bao giờ cũng được điều
chỉnh bởi một hệ thống văn bản pháp luật riêng biệt. Tính chất đặc biệt của thủ tục phá
sản được thể hiện ở một số điểm sau đây:
1.2.1. Thủ tụ
c phá sản là một thủ tục đòi nợ tập thể.
Doanh nghiệp với tư cách là một chủ thể pháp luật có thể tham gia vào rất nhiều
quan hệ xã hội khác nhau, và do đó, có thể trở thành chủ thể của nhiều quyền và nghĩa
vụ pháp lý khác nhau. Ví dụ, khi ký hợp đồng với doanh nghiệp khác và bị doanh
nghiệp đó vi phạm hợp đồng thì doanh nghiệp bị hại có quyền làm đơn kiện ra Toà án

14
Xem điều 1010 và 1011 của Bộ Luật thương mại Sài gòn
15
Xem tiết 1, Chương thứ V, Quyển thứ Năm, Bộ Luật thương mại Sài gòn

Trang 12
một cách độc lập, riêng lẻ để nhờ Toà án can thiệp. Như vậy, đặc điểm nổi bật của tố
tụng dân sự và tố tụng kinh tế là ở chỗ, trong tố tụng này, các chủ nợ đòi nợ một cách
độc lập, riêng lẻ, nói một cách nôm na, nợ của ai thì người đó kiện ra Toà án mà đòi.
Khác với thủ tục đòi nợ thông thường này, thủ tục phá sản là th
ủ tục mà ở đó, việc đòi
nợ và thanh toán nợ được tiến hành một cách tập thể. Trong quá trình giải quyết vụ
việc phá sản, các chủ nợ không thể tự xé lẻ để đòi nợ riêng cho mình mà tất cả họ đều
phải được tập hợp lại thành một chủ thể pháp lý duy nhất, gọi là Hội nghị chủ nợ. Hội

nghị chủ nợ đạ
i diện cho tất cả các chủ nợ để tham gia vào việc giải quyết phá sản. Khi
bị áp dụng thủ tục thanh lý thì toàn bộ tài sản của con nợ được đưa vào một quỹ chung
dùng để trả cho các chủ nợ theo một thứ tự ưu tiên nhất định đã được Luật Phá sản quy
định trước. Nếu tài sản của con nợ không đủ để thanh toán tất cả các khoản nợ thì các
chủ
nợ được thanh toán theo tỷ lệ giữa khoản nợ mà doanh nghiệp phá sản còn thiếu
với số tài sản còn lại của doanh nghiệp.
1.2.2. Thủ tục phá sản là thủ tục đòi nợ được tiến hành trong một hoàn
cảnh đặc biệt, như một biện pháp cuối cùng của quá trình đòi nợ.
Nếu như thủ tục đòi nợ thông thường (đòi nợ thông qua việc khiếu kiện ra Toà
án) có thể được tiến hành bất cứ lúc nào thì thủ tục phá sản chỉ được áp dụng khi
doanh nghiệp con nợ đã lâm vào tình trạng tài chính bi đát, dường như không có lối
thoát mà người ta thường gọi là tình trạng phá sản. Nói cách khác, thủ tục phá sản là
thủ tục pháp lý không dễ được xảy ra; nó chỉ xuất hiện như một giải pháp cuối cùng
mà các chủ nợ phải sử dụng để đòi nợ khi mà doanh nghiệp con n
ợ đã không thể thanh
toán các món nợ của mình bằng các nỗ lực của riêng mình.
1.2.3. Thủ tục phá sản là thủ tục mà hậu quả của nó thường là sự chấm dứt
hoạt động của một thương nhân.
Trong tố tụng dân sự hoặc kinh tế, sau khi bản án của Toà án đã có hiệu lực
pháp luật thì con nợ đương nhiên có nghĩa vụ phải chấp hành. Đó là lẽ thông thường.
Điều
đáng nói là ở chỗ, sau khi trả nợ xong thì con nợ vẫn tồn tại và hoạt động một
cách bình thường. Cái đặc biệt của thủ tục phá sản là ở chỗ, thông thường, để giúp các
chủ nợ thu hồi được các món nợ của mình thì Toà án phải ra quyết định áp dụng thủ
tục thanh lý (thực chất là tuyên bố doanh nghiệp không được tiếp tục tồn tại) để rồi
nhân cơ hội đ
ó mà bán toàn bộ tài sản của con nợ để trả cho các chủ nợ. Nói cách
khác, cái đặc thù của thủ tục phá sản là ở chỗ, kết quả thực hiện nó thường dẫn đến sự

chấm dứt hoạt động của chính bản thân con nợ.
1.2.4. Thủ tục phá sản không chỉ thuần tuý là một thủ tục đòi nợ mà còn là
một thủ tục có khả năng giúp con nợ phục hồi.
Như phần trên đã nói, mặc dù thủ tục phá sản thực chất là một thủ tục đòi nợ
tập thể nhưng điều đó không có nghĩa là, khi con nợ bị mở thủ tục phá sản thì ngay lập
tức tài sản của nó sẽ bị dùng để thanh toán nợ cho các chủ nợ. Hiện nay, ngoài thủ tục

Trang 13
thanh lý, pháp luật phá sản ở nhiều nước trên thế giới đã đặt thêm một mục tiêu rất
quan trọng nữa cho thủ tục phá sản là mục tiêu giúp con nợ phục hồi khả năng thanh
toán nợ của mình. Mục tiêu này cần phải được đặt ra là vì Nhà nước nào cũng muốn
tránh được càng nhiều càng tốt những hậu quả xấu do việc phá sản gây ra. Việc tuyên
bố phá sản một doanh nghiệp sẽ không ch
ỉ ảnh hưởng xấu đến quyền và lợi ích hợp
pháp của bản thân các chủ nợ, con nợ, người lao động mà còn kéo theo nhiều hậu quả
bất lợi cho xã hội nói chung. Đối với các chủ nợ, trong trường hợp con nợ gặp khó
khăn, việc thanh lý ngay con nợ để nhận nợ không phải bao giờ cũng là giải pháp tối
ưu cho họ vì không phải doanh nghiệp nào lâm vào tình trạng phá sản cũng còn đủ tài
sả
n để thanh toán hết các món nợ của mình. Vì vậy, sẽ là tốt hơn nếu con nợ được giúp
đỡ để thoát khỏi tình trạng phá sản, tiếp tục hoạt động để có cơ hội tốt hơn cho việc trả
nợ. Đối với người lao động, việc doanh nghiệp nơi họ đang làm việc bị phá sản sẽ dẫn
tới việc hàng loạt người bị thất nghiệp và kéo theo
đó là những hậu quả xấu về mặt xã
hội như đói nghèo, tệ nạn xã hội, tội phạm … Đối với môi trường kinh doanh, việc phá
sản của các doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp lớn, có nhiều đối tác làm ăn
hoặc hoạt động trong những ngành nghề quan trọng đối với quốc kế dân sinh rất dễ
dẫn làm phát sinh tác động dây chuyền đến các lĩnh vực kinh tế khác cũ
ng như đến
hoạt động của các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế. Vì vậy, việc tạo điều kiện

phục hồi cho con nợ là một xu hướng ngày càng được khẳng định trong pháp luật phá
sản hiện đại.
Trong thủ tục phá sản, con nợ được Toà án tạo điều kiện tối đa cho việc phục
hồi hoạt động kinh doanh. Một trong những biện pháp để giúp con nợ thoát khoả
i tình
trạng phá sản là pháp luật cho phép con nợ được chủ động xây dựng phương án hoà
giải và giải pháp tổ chức lại hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Kế hoạch này sẽ
được trình lên Hội nghị chủ nợ để thông qua và nếu được thông qua thì về cơ bản,
doanh nghiệp con nợ được khôi phục lại vị trí pháp lý ban đầu, tiếp tục sản xuất, kinh
doanh một cách bình thường. Theo Luật phá sản c
ủa nhiều nước thì Toà án chỉ ra
quyết định áp dụng thủ tục thanh lý đối với những con nợ trong trường hợp đã có căn
cứ rõ ràng chứng minh về việc con nợ đã không thể phục hồi hoặc con nợ đã không
thành công trong việc thực hiện phương án phục hồi.
1.2.5. Thủ tục phá sản - một thủ tục pháp lý có tính chất tổng hợp.
So với tố tụng dân sự và kinh t
ế thì tố tụng phá sản phức tạp hơn nhiều. Tính
phức tạp của thủ tục này thể hiện ở chỗ, khi giải quyết việc phá sản, Toà án phải thụ lý
và xử lý rất nhiều công việc khác nhau về tính chất chứ không chỉ đơn thuần chỉ là các
công việc có tính chất tài sản như trong tố tụng dân sự và kinh tế thông thường. Ví dụ,
Toà án không chỉ giải quyết các vấn đề
về việc doanh nghiệp có mất khả năng thanh
toán nợ hay không, nợ bao nhiêu, nợ ai mà còn phải giải quyết nhiều vấn đề khác như:
việc phục hồi hoạt động của doanh nghiệp, việc quản lý tài sản của doanh nghiệp con
nợ, việc thành lập và điều hành hoạt động của thiết chế quản lý và thanh lý tài sản,

Trang 14
việc triệu tập và chủ trì Hội nghị chủ nợ … Việc phải xử lý một lúc nhiều công việc
phức tạp như vừa nêu trên đã làm cho tố tụng phá sản hoàn toàn khác với tố tụng dân
sự, kinh tế thông thường không chỉ về quy mô mà còn cả về tính chất. Điều này lý giải

tại sao tố tụng phá sản luôn luôn được điều chỉnh pháp luật riêng và trở thành một thủ
t
ục tố tụng tư pháp đặc biệt.
1.3. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT PHÁ SẢN
Nghiên cứu pháp luật phá sản của các nước cho thấy, pháp luật phá sản mỗi
nước có thể có những quy định khác nhau, nhưng nhìn chung, đều tập trung giải quyết
một số vấn đề cơ bản sau đây:
1.3.1. Phạm vi áp dụng của thủ tục phá sản.
Hiện nay, phạm vi áp dụ
ng của Luật phá sản ở các nước khác nhau được quy
định là khác nhau. Lý do của sự quy định khác nhau này thì có nhiều, nhưng cơ bản
nhất là do điều kiện kinh tế - xã hội và năng lực hoạt động của Toà án ở các nước là
không giống nhau. Những nước mà ở đó kinh tế kém phát triển, kinh nghiệm giải
quyết phá sản chưa nhiều, văn hoá pháp lý của các nhà kinh doanh chưa cao, bộ máy
Toà án chưa đủ tầm về con ng
ười và trang thiết bị làm việc thì chắc chắn sẽ không thể
mở rộng phạm vi áp dụng của Luật Phá sản như ở các nước tiên tiến. Cũng chính vì lý
do đó mà hiện nay nhìn chung, trên thế giới có 3 cách xử lý về vấn đề này.
Theo cách thứ nhất thì thủ tục phá sản chỉ áp dụng cho các chủ thể kinh doanh
(thương nhân), bao gồm thương nhân là pháp nhân (các công ty) và thương nhân là thể
nhân (cá nhân kinh doanh). Ví dụ: ở Latvia, thủ tục phá sản
được áp dụng đối với các
doanh nghiệp (khái niệm doanh nghiệp được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm tổ chức,
cá nhân có đăng ký kinh doanh)
16
. Trước năm 2002, theo 2 đạo luật của CHLB Nga là
Luật Mất khả năng thanh toán (Phá sản) Xí nghiệp năm 1991 và Luật Mất khả năng
thanh toán (Phá sản) năm 1998 thì việc phá sản cũng chỉ áp dụng cho các tổ chức kinh
tế có tư cách pháp nhân và các cá nhân kinh doanh mà thôi. Tuy nhiên, ngày
27/9/2002, Duma Quốc gia Nga (Quốc hội) đã ban hành và ngày 16/10/2002, Hội

đồng Liên bang (tức Thượng Viện) Nga đã đồng ý thông qua Luật Mất khả năng thanh
toán (Phá sản) mới, theo đó, phạm vi áp dụng c
ủa thủ tục phá sản ở CHLB Nga đã
được mở rộng ra cả các cá nhân tiêu dùng và đã dành hẳn một chương là Chương X để
quy định về việc phá sản đối với chủ thể này
17
.
Theo cách thứ hai thì, thủ tục phá sản chỉ áp dụng cho các doanh nghiệp, tức là
chỉ có con nợ nào được coi là doanh nghiệp thì mới có thể bị áp dụng thủ tục phá sản.
Như vậy là, các chủ thể kinh doanh khác, cho dù có đăng ký kinh doanh tại cơ quan

16
Xem Tài liệu Hội thảo khoa học pháp luật phá sản của Latvia tổ chức tại Bộ Tư pháp tháng 11/2003
17
Luật Mất Khả năng thanh toán (Phá sản) này có 12 chương, 223 điều. Tại khoản 2 Điều 1 Luật này đã quy
định rằng, Luật này áp dụng cho tất cả pháp nhân trừ các cơ quan nhà nước, các đảng phái chính trị và tổ chức
tôn giáo.

Trang 15
nhà nước có thẩm quyền nhưng không được gọi là doanh nghiệp thì cũng không thuộc
phạm vi áp dụng của thủ tục phá sản. Một trong số rất ít những nước có cách làm này
là Việt Nam. Theo pháp luật hiện hành (Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989 và Luật
Doanh nghiệp 1999) thì ở Việt Nam có 2 loại thương nhân và họ được gọi với hai tên
khác nhau là doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể. Theo Luật PSDN 1993 và Luật
Phá sản 2004

thì việc phá sản chỉ áp dụng cho một loại chủ thể kinh doanh duy nhất là
doanh nghiệp mà thôi, còn các hộ kinh doanh cá thể, khi không trả được các món nợ
đến hạn thì việc đòi nợ và trả nợ sẽ được thực hiện theo cơ chế thông thường tức là đòi
nợ thông qua tố tụng dân sự và tố tụng kinh tế

18
. Ngoài Việt Nam, còn có CHDCND
Lào là nước thứ hai cũng có cách quy định hẹp như vậy về phạm vi áp dụng của Luật
Phá sản
19
.
Theo cách thứ ba thì thủ tục phá sản không chỉ được áp dụng cho tất cả các loại
hình thương nhân (pháp nhân, cá nhân kinh doanh) mà còn cho cả cá nhân người tiêu
dùng. Sự mở rộng một cách tuyệt đối phạm vi áp dụng của Luật Phá sản như vậy là nét
đặc trưng trong Luật Phá sản của các nước tư bản phát triển như Anh, Pháp, Mỹ, Đức,
Thuỵ Điển, Hàn Quốc, Nhật Bản …
1.3.2. Khái niệm tình trạng phá sả
n.
Việc thương nhân lâm vào tình trạng phá sản là căn cứ để Toà án ra quyết định
mở thủ tục phá sản đối với nó. Quyết định này của Toà án gây ra hậu quả xấu về nhiều
mặt cho nhiều đối tượng, nhất là cho con nợ. Ví dụ, quyết định mở thủ tục phá sản có
thể ảnh hưởng xấu đến danh dự, uy tín của nhà kinh doanh, đồng thời hạn chế quyền
quản lý tài sản và quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của họ. Như vậy,
sự quan niệm sai, không phù hợp với bản chất của sự việc và thực tế khách quan thì
nhất định sẽ gây hại không những cho từng thương nhân cụ thể mà còn cho cả nền
kinh tế nói chung. Vì vậy, khái niệm tình trạng phá sản luôn được các nhà khoa học
pháp lý, nhất là các chuyên gia về luật phá sản các nước quan tâm nghiên cứu, xác
định. Thông thường, khái niệm này được Nhà nước ghi nhận ngay trong Luật Phá sản
để làm căn cứ pháp lý thống nhất và duy nhất cho Toà án áp dụng khi giải quyết vụ
việc phá sản.
Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia khác nhau, do xuất phát từ điều kiện kinh tế - xã hội
khác nhau nên có thể có các quan niệm khác nhau về “tình trạng phá sản”. Có nước,
khi xác định tình trạng phá sản, ngoài yếu tố chung, cơ bản, thiết yếu là mất khả năng
thanh toán n
ợ đến hạn còn phải có thêm một dấu hiệu nữa là thời hạn chậm thanh toán.

Ví dụ, theo Điều 3 Luật mất khả năng thanh toán (Phá sản) của CHLB Nga năm 2002
thì các thể nhân, pháp nhân chỉ bị coi là đã lâm vào tình trạng phá sản nếu sau 3 tháng,
kể từ ngày đến hạn phải trả mà họ không trả được các món nợ đến hạn đó. Sự quy định

18
Xem Tờ trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về dự thảo Luật Phá sản tại Quốc hội khoá XI tháng 10/2004.
19
Xem Luận án Tiến sĩ luật học của Nghiên cứu sinh Lào Xổm Xay Xỉ Hà Chắc tại Trường Đại học Luật Hà nội
năm 2000

Trang 16
thêm về thời gian chậm thanh toán có ý nghĩa nhất định, nhằm khẳng định thêm tính
trầm trọng của tình trạng mất khả năng thanh toán của con nợ. Ngoài ra, một số nước
còn bổ sung thêm một dấu hiệu nữa vào khái niệm tình trạng phá sản là con nợ không
thể thanh toán được một khoản tiền tối thiểu nào đó. Ví dụ, theo Luật Phá sản của
Singapore năm 1999 thì con nợ sẽ bị áp dụng thủ t
ục phá sản khi không trả được số nợ
đến hạn ít nhất là 5.000 $ Singapore; theo Luật Mất khả năng thanh toán (Phá sản) của
CHLB Nga năm 2002 thì số tiền đó đối với pháp nhân là không dưới 100.000 Rúp và
đối với cá nhân là không dưới 10.000 Rúp (Điều 6); ở Mỹ, số tiền này là không dưới
10.000 USD. Mục đích của việc quy định này là nhằm khuyến khích các chủ nợ và con
nợ tự tìm cách giải quyết êm thấm các vụ tranh chấp có quy mô nhỏ b
ằng những hình
thức khác thay vì đưa nó ra Toà án để giải quyết theo thủ tục phá sản nhằm giúp tiết
kiệm thời gian, công sức, tiền bạc cho các đương sự và Nhà nước.
1.3.3. Nộp đơn yêu cầu toà án mở thủ tục phá sản.
Cũng như mọi thủ tục tố tụng tư pháp khác, tố tụng phá sản chỉ có thể bắt đầu
bởi một đơn đề nghị của m
ột chủ thể có quyền hoặc nghĩa vụ nào đó. Vì vậy, việc nộp
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là một vấn đề tiếp theo, rất quan trọng mà Luật Phá

sản nước nào cũng phải quan tâm giải quyết. Nhà lập pháp các nước phải tuyên bố với
giới thương nhân, các cơ quan công quyền, các thiết chế xã hội khác cũng như mọi
công dân để họ biết được r
ằng, ai trong số họ mới có quyền hoặc nghĩa vụ làm việc
này. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế - xã hội của các nước khác nhau nên việc quy
định của pháp luật về phạm vi các chủ thể có quyền hoặc nghĩa vụ làm đơn yêu cầu
giải quyết phá sản cũng rất khác nhau. Mặc dù vậy, sau đây là những quy định có tính
chất phổ biến:
Thứ nhất, do bản chất pháp lý của t
ố tụng phá sản là việc giải quyết mối quan
hệ về mặt tài sản giữa con nợ và các chủ nợ nên người có quyền đầu tiên làm đơn yêu
cầu Toà án giải quyết việc phá sản không ai khác chính là các chủ nợ.
Thứ hai, do không ai biết đầy đủ, chính xác về tình hình tài chính của doanh
nghiệp bằng chính các con nợ; mặt khác, để nâng cao trách nhiệm của con nợ đối với
cộng đồng xã hội, nhất là cộng đồ
ng thương nhân nên Luật Phá sản các nước đều có
một quy định như nhau, đó là, con nợ phải có nghĩa vụ làm đơn ra Toà án để yêu cầu
Toà án tuyên bố chính mình bị phá sản. Trong khoa học pháp lý, người ta gọi đó là phá
sản tự nguyện, tức là, sự phá sản mà người khởi xướng ra nó chính là con nợ chứ
không phải là các chủ nợ. Bộ luật Thương mại của Việt Nam Cộng hoà năm 1972 đã
viết tạ
i Điều 865 như sau: “Nội trong 15 ngày, kể từ ngày ngưng trả nợ, thương gia
phải khai trình tại Phòng lục sự Toà án nơi cư sở”. Luật PSDN 1993 và Luật Phá sản
2004 của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng có những quy định tương
tự như vậy về nghĩa vụ của con nợ khi phát hiện ra mình đã lâm vào tình trạng phá
sản.

Trang 17
Trong vấn đề này, bên cạnh những quy định có tính chất chung như vừa nêu
trên, pháp luật các nước khác nhau cũng có cách giải quyết khác nhau. Ví dụ, có nước

không cho phép chủ nợ có bảo đảm quyền làm đơn yêu cầu Toà án giải quyết việc phá
sản như Luật PSDN 1993 và Luật Phá sản 2004 của Việt Nam. Luật Phá sản của Việt
Nam cũng không cho phép Toà án, Viện Kiểm sát, các cơ quan nhà nước khác tự mình
chủ động làm đơn yêu cầu giải quyế
t phá sản, trong khi đó, Luật Phá sản một số nước
như CH Pháp, CHLB Nga lại cho phép Toà án và Viện Công tố được làm việc này.
1.3.4. Thủ tục giải quyết phá sản
Khi một doanh nghiệp đã thực sự lâm vào tình trạng phá sản thì Toà án phải căn
cứ vào tình hình cụ thể mà áp dụng các biện pháp (thủ tục) cho phù hợp như áp dụng
thủ tục phục hồi, thủ tục thanh lý (thực chất là chấm dứt ho
ạt động của con nợ và nhân
cơ hội đó mà bán toàn bộ tài sản còn lại của nó để trả cho các chủ nợ). Các biện pháp
đó được gọi là các thủ tục phá sản.
Ở hầu hết các nước trên thế giới, trong trình tự giải quyết phá sản có 2 thủ tục:
(1) thủ tục khôi phục doanh nghiệp và (2) thủ tục thanh lý doanh nghiệp.
(1) Thủ tục phục hồi doanh nghiệp: Bản chất củ
a thủ tục này là khi một doanh
nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn thì doanh nghiệp đó
được Toà án dành cho một thời gian “đệm” nhất định nào đó nhằm tạo cơ hội cho nó
bằng cách tự mình hoặc với sự giúp đỡ của các chủ nợ áp dụng các biện pháp cần thiết
về tài chính, kinh tế, tổ chức để khôi phục lại hoạt động sản xuất kinh doanh củ
a mình.
Mục đích của cơ chế này là tạo cơ hội để doanh nghiệp mắc nợ vượt qua tình trạng mất
khả năng thanh toán nợ đến hạn, khôi phục lại hoạt động sản xuất kinh doanh, hạn chế
đến mức thấp nhất việc giải thể doanh nghiệp khi còn có hy vọng phục hồi nó.
Thời gian để tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp dài hay ngắ
n
tuỳ thuộc vào pháp luật của các nước. Tuy nhiên, nếu trong thời gian này mà doanh
nghiệp vẫn làm ăn thua lỗ, công việc sản xuất kinh doanh vẫn trì trệ, và lòng tin vào
khả năng phục hồi của doanh nghiệp đã không còn nữa thì các chủ nợ có quyền yêu

cầu Toà án ra quyết định áp dụng thủ tục thanh lý đối với doanh nghiệp.
Phần lớn pháp luật phá sản các nước quy định doanh nghiệp mắc nợ có nghĩa
vụ chu
ẩn bị phương án tổ chức lại hoặc động sản xuất, kinh doanh nhằm khôi phục lại
doanh nghiệp. Tuy nhiên, cũng có ngoại lệ, ví dụ, ở Anh, trên thực tế, kế hoạch tổ
chức lại do người được toà án chỉ định chuẩn bị chứ không phải là người quản lý công
ty. Theo quy định của pháp luật phá sản ở đa số các nước trên thế giới, Toà án không
chủ động đư
a ra phương án cơ cấu lại doanh nghiệp, cũng không nêu ra quan điểm của
mình về tính hợp lý hay không hợp lý, hiệu quả hay không hiệu quả của đề nghị cơ cấu
lại doanh nghiệp do các đương sự đưa ra vì lý do (1) Cơ cấu lại doanh nghiệp là công
việc của chủ nợ và những người có quyền và lợi ích liên quan, Toà án không có quyền
và không nên can thiệp, (2) Các Thẩm phán không được đào tạo chuyên sâu về lĩnh

Trang 18
vực hoạt động kinh tế, do đó không có kinh nghiệm và kiến thức để có thể cho ý kiến
xác đáng về các vấn đề chuyên môn, nghiệp vụ trong lĩnh vực kinh doanh, trong đó có
phương án cơ cấu lại doanh nghiệp.
Trong bối cảnh hiện nay khi mà tình trạng thất nghiệp cao, việc sản xuất kinh
doanh cần phải được duy trì bằng mọi biện pháp thì pháp luật phá sản trên thế giới có
xu hướng khuyến khích việc áp dụ
ng thủ tục phục hồi để cứu các công ty thoát khỏi
tình trạng khó khăn về tài chính.
(2) Thủ tục thanh lý: Bản chất của thủ tục thanh lý là việc Toà án tuyên bố
chấm dứt hoạt động của con nợ và nhân cơ hội đó mà thu hồi tài sản còn lại của nó,
bán đi và chia cho các chủ nợ theo một thứ tự ưu tiên nhất định. Như vậy, thủ tục
thanh lý liên quan đến 3 hoạt
động là thu hồi tài sản, bán đấu giá tài sản, thanh toán tài
sản. Ở các nước, thiết chế (cơ quan, tổ chức) để thực thi thủ tục này chủ yếu là do Toà
án chỉ định, còn ở Việt Nam, theo Luật PSDN 1993 thì thiết chế này lại do cơ quan thi

hành án dân sự thuộc Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ra quyết định
thành lập và chỉ đạo hoạt động. Tuy nhiên, dù thuộc cơ quan nào đi nữa thì thiế
t chế
thực thi thủ tục này cũng đều có nghĩa vụ thông báo cho các chủ nợ, kê biên tài sản,
bán tài sản và phân chia số tiền thu về từ việc bán tài sản của con nợ cho các chủ nợ
theo thứ tự ưu tiên. Việc bán tài sản doanh nghiệp phải tuân theo những thủ tục chặt
chẽ để tránh rơi vào tình trạng bán rẻ, gây thiệt hại cho các chủ nợ. Để đảm bảo thực
hiện tố
t mục tiêu này, pháp luật phá sản quy định chặt chẽ về trình độ chuyên môn, về
vốn, về thủ tục cấp giấy phép hoạt động cũng như về nguyên tắc trả thù lao cho các
thành viên tham gia việc quản lý, thanh lý tài sản.
1.3.5. Địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia thủ tục phá sản .
Như phần trên đã phân tích, thủ tục phá sản là một thủ tục đòi nợ đặc biệt,
không chỉ xét về
quy mô, về tính chất mà còn về cả thành phẩn chủ thể tham gia. Để
giải quyết xong một vụ phá sản, ít nhất phải có sự tham gia của các chủ thể như: Toà
án, hội nghị chủ nợ, thiết chế quản lý tài sản của con nợ và con nợ. Do có nhiều chủ
thể tham gia như vậy nên Luật Phá sản nước nào cũng phải dành một phần lớn các quy
định để xây dựng cho chúng những đị
a vị pháp lý nhất định, phù hợp với vai trò, vị trí,
chức năng của chúng trong thủ tục phá sản. Nói cách khác, Nhà nước phải bằng pháp
luật mà quy định rõ các chủ thể đó có quyền, nghĩa vụ như thế nào, được làm gì, phải
làm gì, mối quan hệ giữa họ với nhau ra sao để tránh tình trạng dẫm đạp, chồng chéo,
mâu thuẫn hoặc bỏ sót công việc.
Như vậy là, trong thủ tục phá sản, có sự tham gia củ
a nhiều chủ thể khác nhau,
trong đó, có 4 chủ thể quan trọng là: Toà án, con nợ, chủ nợ, người quản lý tài sản.
Nghiên cứu pháp luật phá sản các nước cho thấy, địa vị pháp lý của các chủ thể này
được quy định là hoàn toàn không giống nhau. Tuỳ theo điều kiện kinh tế - xã hội của
từng nước, mức độ ưu tiên của việc mở thủ tục phá sản (bảo vệ chủ nợ hay bả

o vệ con

×