BỘ TƯ PHÁP
VIỆN KHOA HỌC PHÁP LÝ
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP BỘ
CƠ CHẾ TIẾP NHẬN, XỬ LÝ VÀ PHẢN HỒI Ý KIẾN CỦA
NHÂN DÂN VỀ NHỮNG HOẠT ĐỘNG TRONG LĨNH VỰC
PHÁP LUẬT VÀ TƯ PHÁP MÀ NGÀNH TƯ PHÁP CHỊU
TRÁCH NHIỆM THỰC HIỆN HOẶC QUẢN LÝ
CHỦ NHIỆM: ThS. NGUYỄN QUANG HƯNG
THƯ KÝ: Ths. ĐINH CÔNG TUẤN
8989
HÀ NỘI – 2011
2
DANH SÁCH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
STT
Họ và tên Đơn vị Ghi chú
1.
ThS. Nguyễn Quang Hưng
Tập đoàn VNPT Chủ nhiệm
2.
ThS. Đinh Công Tuấn
Viện Khoa học Pháp lý Thư ký
3.
ThS. Dương Bạch Long
Viện Khoa học Pháp lý CTV
4.
ThS. Lê Anh Tuấn
Tổng cục Thi hành án dân sự CTV
5.
ThS. Lê Thiều Hoa
Viện Khoa học Pháp lý CTV
6.
CN. Trần Văn Lợi
Vụ Các vấn đề chung về xây
dựng pháp luật
CTV
7.
CN. Vũ Hồng Dương
Ban Thư ký Lãnh đạo Bộ CTV
8.
CN. Hòa Thị Thủy
Viện Khoa học Pháp lý CTV
9.
CN. Trương Hồng Quang
Viện Khoa học Pháp lý CTV
10.
CN. Nguyễn Như Sơn
Tổng cục Thi hành án dân sự CTV
3
BẢNG TỪ VIẾT TẮT
STT TỪ VIẾT TẮT GIẢI THÍCH
1
TTHC
Thủ tục hành chính
2
CCTP
Cải cách tư pháp
3
NQ
Nghị quyết
4
TP
Tư pháp
5
VB QPPL
Văn bản Quy phạm pháp
luật
6
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
4
MỤC LỤC
Mục Trang
Phần 1. BÁO CÁO PHÚC TRÌNH
PHẦN MỞ ĐẦU
7
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
11
I. CƠ CHẾ TIẾP NHẬN, XỬ LÝ VÀ PHẢN HỒI Ý KIẾN NHÂN DÂN
TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
11
1 Nhân dân và quyền giám sát, quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý
xã hội
11
2 Cơ chế tiếp nhận, xử lý và phản hồi ý kiến nhân dân trong quản lý nhà
nước
17
3 Quan điểm của Đảng và Nhà nước về việc thu hút ý ki
ến nhân dân trong
hoạt động quản lý nhà nước
20
II. CHỨC NĂNG CỦA NGÀNH TƯ PHÁP VÀ ĐẶC THÙ CỦA CƠ CHẾ
TIẾP NHẬN, XỬ LÝ VÀ PHẢN HỒI Ý KIẾN CỦA NHÂN DÂN
TRONG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ CỦA NGÀNH
24
1 Đặc thù hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp
trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và sự cần thiết của
công tác tiếp nhận, xử lý và ph
ản hồi ý kiến nhân dân đối với hoạt động
của Bộ Tư pháp
26
2 Cơ chế tiếp nhận, xử lý và phản hổi ý kiến nhân dân trong lĩnh vực pháp
luật và tư pháp
31
3 Đường lối của Đảng đối với việc tiếp nhận, xử lý và phản hồi ý kiến nhân
dân trong hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
36
III. THAM KHẢO KINH NGHIỆM CỦA MỘT S
Ố NƯỚC VỀ CƠ CHẾ
TIẾP NHẬN, XỬ LÝ VÀ PHẢN HỒI Ý KIẾN CỦA NHÂN DÂN
TRONG LĨNH VỰC XÂY DỰNG PHÁP LUẬT
37
1
Tham vấn ý kiến của nhân dân ở giai đoạn đánh giá tác động
khi ban hành luật
38
2
Các dự thảo bắt buộc phải được đăng tải
39
3
Thông tin và phản hồi
40
5
4
Công cụ và phương tiện chính thức để công khai dự thảo và
quá trình tham gia ý kiến của nhân dân
40
5
Tạo điều kiện cho các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của
dự thảo văn bản được thông tin và phát biểu ý kiến
43
6
Kinh nghiệm thu hút sự tham gia của chuyên gia, các nhà khoa
học vào quá trình xây dựng pháp luật
44
7
Một số đánh giá nhận xét
47
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CƠ CHẾ TIẾP NHẬN, XỬ LÝ VÀ PHẢN HỒI Ý
KIẾN CỦA NHÂN DÂN TRONG LĨNH VỰC PHÁP LUẬT VÀ TƯ
PHÁP CỦA NGÀNH TƯ PHÁP
50
I. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ TIẾP NHẬN, XỬ LÝ VÀ PHẢN HỒI Ý KIẾN
NHÂN DÂN TRONG LĨNH VỰC PHÁP LUẬT
50
1 Thực trạng các quy định của pháp luật về sự tham gia của nhân dân vào
quá trình xây dựng pháp luật ở Việt Nam
50
2 Th
ực trạng cơ chế tiếp nhận, xử lý và phản hồi ý kiến nhân dân trong lĩnh
vực xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của Bộ Tư pháp
55
3 Các điều kiện đảm bảo đối với việc thực hiện tiếp thu, xử lý và phản hồi ý
kiến nhân dân trong lĩnh vực pháp luật của Bộ Tư pháp
73
4 Những hạn chế, bất cập trong việc tiế
p thu, xử lý và phản hồi ý kiến nhân
dân trong lĩnh vực xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
86
II. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ TIẾP NHẬN, XỬ LÝ VÀ PHẢN HỒI Ý KIẾN
NHÂN DÂN TRONG LĨNH VỰC TƯ PHÁP THUỘC PHẠM VI QUẢN
LÝ CỦA NGÀNH TƯ PHÁP
90
1 Thực trạng cơ chế tiếp nhận, xử lý và phản hồi ý kiến nhân dân lĩnh vực
thi hành án dân sự
90
2 Thực trạng việ
c tiếp nhận, xử lý và phản hồi ý kiến nhân dân trong các
lĩnh vực khác thuộc phạm vi quản lý của Ngành Tư pháp
106
CHƯƠNG III
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ CỦA ĐỀ TÀI
116
I. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CƠ CHẾ TIẾP THU Ý
KIÊN CỦA NHÂN DÂN TRONG LĨNH VỰC XÂY DỰNG PHÁP
116
6
LUẬT VÀ THEO DÕI CHUNG VIỆC THI HÀNH PHÁP LUẬT
II MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TIẾP NHÂN, XỬ LÝ
VÀ PHẢN HỒI Ý KIẾN NHÂN DÂN TRONG LĨNH VỰC TƯ PHÁP
120
III MỘT SỐ KIẾN NGHỊ KHÁC 121
KẾT LUẬN
124
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
126
PHỤ LỤC
130
PHẦN 2. HỆ CÁC CHUYÊN ĐỀ CỦA ĐỀ TÀI
142 -250
7
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài.
Trong thời gian vừa qua, với chủ trương cải cách nền hành chính theo
hướng đơn giản hoá các thủ tục hành chính và xây dựng nền hành chính gần
dân, phục vụ nhân dân nên Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ chương, chính
sách,liên quan đến việc thúc đẩy sự tích cực của các cơ quan công quyền trong
việc tiếp thu các phản ánh, kiến nghị của nhân dân trong hoạt động quản lý nhà
nước và thực thi pháp luật. Liên quan đến các nội dung này có thể kể dến các
văn bản quan trọng như:
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX: Thực hiện tốt quy chế dân
chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tham gia
quản lý xã hội, thảo luận và quyết định những vấ
n đề quan trọng. Khắc phục
mọi biểu hiện dân chủ hình thức. Xây dựng Luật trưng cầu ý dân.
Nghị quyết sô 17-NQ/TW ngày 1/8/2007 Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương khoá X: Về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước tiếp tục khẳng định: Giải quyết tốt mối
quan hệ giữa cơ quan hành chính với nhân dân, huy động s
ự tham gia có hiệu
quả của nhân dân và xã hội vào hoạt động quản lý của các cơ quan hành chính
nhà nước.
Các quan điểm chỉ đạo của Đảng về tăng cường mối quan hệ giữa chính
quyền và nhân dân được thể chế hoá thành các văn bản pháp luật và đã được tổ
chức thực thi trong đời sống xã hội. Các văn bản chủ yếu đề cập đến những nội
dung này bao gồ
m: Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; Luật khiếu nại
tố cáo, Luật phòng chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm chống lãng phí;
Nghị định số 20/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm 2008 về việc tiếp nhận xử
lý phản ánh kiến nghị của cá nhân, tổ chức về quy định hành chính; Quyết định
số 22/2006/QĐ-TTg ngày 24 tháng 01 năm 2006 (hết hiệu lực) của Thủ tướng
Chính phủ về
việc tiếp nhận ý kiến của nhân dân và doanh nghiệp đối với các
thủ tục hành chính.
Các văn bản nói trên đã có đề cập đến sự cần thiết, nguyên tắc, nội dung,
hình thức và yêu cầu về phản ánh và kiến nghị, trách nhiệm của các cơ quan
nhà nước trong việc tiếp nhận xử lý ý kiến, phản ánh , kiến nghị của nhân dân
đối với hoạt động của Nhà nước.
Tuy nhiên, trong thực tế
, việc triển khai thực hiện các quy định này còn
nhiều điểm không thống nhất và lúng túng. Thực trạng này dẫn đến việc tiếp
nhận, xử lý và phản hồi ý kiến nhân dân trong hoạt động quản lý nhà nước còn
chưa đạt hiệu quả cao, sự phối hợp giữa các cơ quan tổ chức chưa có những
quy định cụ thể.
Trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp, Bộ Tư pháp là cơ
quan giúp Chính
phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác xây dựng pháp luật,
kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, thi hành án
dân sự, hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp và công tác tư pháp khác trong phạm
vi cả nước; thực hiện quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc phạm vi quản lý
của Bộ theo quy định của pháp luật. Để đảm bảo công khai, dân chủ trong việc
ti
ếp thu và xử lý các ý kiến của tổ chức, cá nhân đối với hoạt động quản lý của
8
Ngành, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành một số văn bản để đảm bảo thực
hiện các yêu cầu này. Các văn bản chủ yếu trong lĩnh vực này bao gồm: Quyết
định số 02/2007/QĐ-BTP về Ban hành Quy chế thực hiện dân chủ của Bộ Tư
pháp; Quyết định số 08/2008/QĐ-BTP về ban hành quy tắc công khai minh
bạch trong các lĩnh vực hoạt động của ngành Tư pháp; Quyết đị
nh số
05/2006/QĐ-BTP Ban hành Quy chế tiếp công dân của Bộ Tư pháp; Quyết
định số 220/2005/QĐ-BTP về việc ban hành Quy chế làm việc của Bộ Tư
pháp
Mặc dù vậy, trong thời gian vừa qua, việc tiếp thu ý, xử lý và phản hồi ý
kiến nhân dân trong hoạt động của ngành Tư pháp còn hạn chế. Có nhiều vấn
đề thuộc lĩnh vực này cơ quan quản lý bị đánh giá là chưa thực hiện tốt chứ
c
năng của mình. Trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, nhiều văn bản được ban
hành không lường trước hết được dư luận quần chúng nhân dân, gây giảm sút
niềm tin của nhân dân đối với cơ quan công quyền. Hoặc là việc tổ chức thực
hiện hoạt động công chứng chưa giải quyết được sức ép quá tải tại các đô thị
lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, công tác thi hành án dân s
ự còn nhiều
tồn đọng Tất cả các vấn đề trên đây ảnh hưởng rất lớn đối với ổn định xã hội
và sự tôn nghiêm của pháp luật. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên,
trong đó có việc chúng ta thiếu một cơ chế thống nhất và hữu hiệu trong việc
tiếp nhận ý kiến nhân dân, chưa nắm bắt được đầy đủ tâm tư nguyện vọng nhân
dân trong quá trình xây d
ựng và thực thi pháp luật và giải quyết các vấn đề liên
quan đến thủ tục pháp lý cho công dân, tổ chức, doanh nghiệp.
Việc thực hiện đề tài nghiên cứu: Cơ chế tiếp nhận, xử lý và phản hồi ý
kiến của nhân dân trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp mà ngành Tư pháp
thực hiện quản lý trong điều kiện hiện nay là cấp thiết vì nó trực tiếp phục vụ
cho yêu cầu quản lý nhà n
ước trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp, góp phần tạo
môi trường xã hội, môi trường đầu tư thông thoáng, an toàn, công khai, minh
bạch.
2.Mục đích nghiên cứu của đề tài
Thông qua việc nghiên cứu những vấn đề về cơ chế tiếp nhận, xử lý và
phản hồi ý kiến nhân dân, đề xuất các giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện
cơ chế , nâng cao hiệu quả việc thu hút ý kiến của nhân dân đối với các v
ấn đề
pháp luật và tư pháp thuộc phạm vi quản lý của Ngành Tư pháp; góp phần nâng
cao hiệu lực và hiệu quả, phát huy dân chủ, công khai minh bạch trong quản lý
của Nhà nước đối với lĩnh vực pháp luật và tư pháp.
Các mục tiêu cụ thể của đề tài:
- Làm sáng rõ những vấn đề lý luận về cơ chế tiếp nhận, xử lý và phản hồi ý
kiến của nhân dân đối với những hoạ
t động trong lĩnh vực pháp luật và tư
pháp.
- Đánh giá thực trạng việc tiếp nhận, xử lý và phản hồi ý kiến nhân dân trong
các hoạt động thuộc lĩnh vực pháp luật và tư pháp.
- Đề xuất các giải pháp pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện cơ chế tiếp nhận,
xử lý và phản hồi ý kiến nhân dân trong các hoạt động thuộc lĩnh vực pháp luật
và tư pháp
3.Nhu cầu kinh tế xã hội và
địa chỉ áp dụng
9
Đối với việc xây dựng đường lối, pháp luật, chính sách
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần tạo cơ sở khoa học phục vụ
công tác xây dựng đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước đối với
việc hàon thiện cơ chế tiếp nhận ý kiến của nhân dân nói chung trong quá trình
phát triển của đát nước và đối với lĩnh vực pháp luật và tư pháp nói riêng.
Đối vớ
i phát triển kinh tế - xã hội
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của việc
tiếp thu ý kiến nhân dân trong xây dựng, đưa pháp luật vào thực tiễn đời sống
xã hội. Từ đó, giúp chúng ta có được một hệ thống pháp luật thực sự của dân,
do nhân dân và vì lợi ích của nhân dân. Một hệ thống pháp luật như vậy sẽ tạo
lập môi trường kinh tế xã hộ
i ổn định và có tính cạnh tranh cao trong thu hút
đầu tư và đảm bảo xã hội ổn định.
Đối với nơi ứng dụng kết quả nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu sẽ là tài liệu tham khảo có giá trị, phục vụ việc thực
hiện các nhiệm vụ chính trị của các cơ quan, tổ chức được chuyển giao. Địa chỉ
ứng dụng kết quả nghiên cứu dự kiến gồ
m:
- Bộ Tư pháp: Là cơ quan giúp Chính phủ thực hiện việc quản lý nhà nước
đối với công tác pháp luật và hành chính tư pháp
- Các cơ quan Tư pháp địa phương
Đối với công tác đào tạo cán bộ khoa học (kể cả việc nâng cao năng lực nghiên
cứu của các cá nhân và tập thể khoa học thông qua việc thực hiện đề tài)
Việc triển khai nghiên cứu đề tài là cơ hội thuận lợi để phát triển khoa
h
ọc xã hội và nhân văn, phát triển các kiến thức kinh tế- xã hội, nâng cao kỹ
năng nghiên cứu của các luật gia
4.Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Với đề tài này, những vấn đề mới cần đặt ra nghiên cứu, giải quyết gồm:
- Những vấn đề lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu cơ chế tiếp nhận, xử lý và
phản hồi thông tin trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp,
Đề tài sẽ đưa ra hệ tiêu
chí cơ bản, để đánh giá mức độ phù hợp của cơ chế tiếp nhận và xử lý, phản hồi
thông tin của ngành Tư pháp;
- Những vấn đề về thực tiễn: Đề tài làm rõ thực trạng cơ chế thực hiện
việc tiếp nhận, xử lý, phản hồi ý kiến nhân dân trong lĩnh vực pháp luật và tư
pháp (Với phạm vi là hành chính – tư pháp). T
ừ đó chỉ ra những yếu tố tích cực
cần tiếp tục củng cố hoàn thiện cũng như nhận dạng những bất cập nguyên
nhân của cơ chế tiếp nhận, xử lý, phản hồi ý kiến nhân dân trong lĩnh vực pháp
luật và tư pháp.
- Bên cạnh đó, đề tài cũng thực hiện việc nghiên cứu các kinh nghiệm
của một số các quốc gia trong việc tiếp nh
ận ý kiến, xử lý và phản hồi ý kiến
nhân dân trong hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật, hành chính tư pháp;
nghiên cứu kinh nghiệm lấy ý kiến nhân dân và doanh nghiệp trong một số lĩnh
vực khác tại Việt Nam.
- Hệ thống giải pháp về thể chế và thiết chế, nhân sự, điều kiện đảm bảo
nhằm tăng cường khả năng tiếp nhận, xử lý và phản hồ
i ý kiến nhân dân trong
lĩnh vực pháp luật và tư pháp.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
10
Để thực hiện tốt đề tài và đạt được mục tiêu đã đề ra, trong quá trình
nghiên cứu, ngoài các phương pháp nghiên cứu cơ bản là phương pháp duy vật
biện chứng, phương pháp suy luận logic, đề tài sẽ tiến hành nghiên cứu bằng cả
một số phương pháp nghiên cứu đặc thù khác như:
- Phương pháp phân tích: Phân tích các điều kiện khách quan chủ quan,
vấn đề kinh tế, xã hội của Việt nam, phân tích các quy định pháp luật có liên
quan để
làm rõ cơ sở thực tiễn và khoa học lý luận để xây dựng và hoàn thiện
cơ chế tiếp nhận, xử lý và phản hồi ý kiến nhân dân về các hoạt động trong lĩnh
vực pháp luật và tư pháp
- Phương pháp so sánh: Nghiên cứu, so sánh quy định của pháp luật và
kinh nghiệm tổ chức việc tiếp nhận xử lý và phản hồi ý kiến nhân dân về các
hoạt động trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp của m
ột số quốc gia
- Phương pháp tổng hợp: Trên cơ sở những nghiên cứu lý luận và thực
tế, tổng hợp các kết quả thu được, đưa ra những kiến nghị trong việc xây dựng
và hoàn thiện các giải pháp pháp về cơ chế tiếp nhận, xử lý và phản hồi ý kiến
nhân dân về các hoạt động trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp
- Phương pháp xã hội học: Tổ chức
điều tra, khảo sát và nghiên cứu, phân
tích tình huống đối với các vấn đề liên quan.
6. Nội dung của đề tài
Chương 1. Những vấn đề lý luận chung
Chương 2. Thực trạng cơ chế tiếp nhận, xử lý và phản hồi ý kiến của nhân
dân trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp của ngành tư pháp
Chương 3. Một số đề xuất, kiến nghị của đề tài
Kết luậ
n của Đề tài:
11
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
I. CƠ CHẾ TIẾP NHẬN, XỬ LÝ VÀ PHẢN HỒI Ý KIẾN NHÂN DÂN
TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC.
1. Nhân dân và quyền giám sát, quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý
xã hội
Theo nghĩa thông thường, nhân dân là một cộng đồng người sinh sống
trên lãnh thổ của một quốc gia nhất định được hưởng những quyền và phải thực
hiện những nghĩa vụ do pháp luật củ
a quốc gia đó quy định. Theo nghĩa rộng
nhân dân là cộng đồng người sinh sống trên trái đất như nhân dân lao động trên
toàn thế giới. Như vậy nhân dân được hiểu là dân cư của một quốc gia hay của
tất cả các nước trên thế giới. Theo đó, nhân dân được đồng nghĩa với “dân cư”.
Theo nghĩa triết học, nhân dân được hiểu là một cộng đồng người thay
đổi trong lịch sử, bao gồm một b
ộ phận, những tầng lớp, những giai cấp dân cư
mà theo địa vị của mình, có khả năng cùng nhau tham gia giải quyết nhiệm vụ
phát triển của một quốc gia nhất định trong một thời kỳ nhất định
1
. Theo nghĩa
này, “nhân dân” được dùng như một phạm trù xã hội học và khái niệm “nhân
dân” phản ánh sự thay đổi kết cấu của xã hội.
Theo nhà tư tưởng J.J. Rousseau thì nhân dân được hiểu là “dân chúng”,
là “toàn dân”, là tập hợp của các cá nhân - “con người”, công dân, thành viên
xã hội.
Trong khoa học pháp lý, tùy theo từng ngữ cảnh mà nhân dân được giải
nghĩa theo cách tương ứng. Cụ thể như, với việc bầu cử các cơ quan đại diện
hay trưng cầu ý dân, nhân dân được hi
ểu là cử tri; đối với việc lấy ý kiến nhân
dân về dự án, dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật, nhân dân được hiểu
nghĩa là những đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản, trong khoa học
hình sự nhân dân được hiểu là công dân cá nhân đồng thời là chủ thể của quan
hệ pháp luật hình sự và pháp luật TTHS
Trong hoạt động quản lý của nhà nước, nhân dân ở
đây có nghĩa là từng
công dân, các hiệp hội người tiêu dùng, bảo vệ môi trường, bảo vệ người thiểu
số, các hiệp hội bảo vệ sức khoẻ cộng đồng, khoa học, giáo dục, chuyên ngành,
các tổ chức thương mại, công nghiệp, nông nghiệp, lao động. Nhân dân là bất
kỳ bên nào liên quan đến quyết định nhưng không phải là bên có quyền ra
quyết định.
Trong các xã hội hiện đại, thì tư tưởng xây dựng nhà nướ
c pháp quyền
được coi là cách thức/phương thức tổ chức nhà nước phổ biến nhất dựa trên
1
Từ điển triết học. NXB. Tiến bộ, Matxcova, 1975, Tr.401.
12
nền tảng dân chủ Trong đó tiêu chí đầu tiên quan trọng nhất của nhà nước
pháp quyền là toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân. Nhân dân là chủ thể tối cao
và duy nhất của quyền lực nhà nước, có quyền kiểm tra và giám sát việc thực
hiện quyền lực nhà nước. Hạt nhân của lý luận nhà nước pháp quyền là vấn đề
dân chủ. Dân chủ vừa là bản chất vừa là điều kiện là tiề
n đề để xây dựng nhà
nước pháp quyền. Dân chủ luôn gắn liền với pháp luật và được bảo đảm bằng
pháp luật. Dân chủ và phát huy dân chủ là nhiệm vụ trọng tâm của nhà nước
pháp quyền. Quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội chính là quá trình xây dựng
và hoàn thiện không ngừng của nhà nước pháp quyền.
Đối với Việt Nam, xuất phát từ bản chất dân chủ của chế độ và chủ trương
xây dựng Nhà nướ
c pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì Nhà nước ta là Nhà nước
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân (Điều 2 Hiến pháp 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001). Theo đó “Các
cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức Nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy
phục vụ nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân
dân” (Điều 8). Nhân dân cũng có thể giám sát nhà nước, xã hội thông qua Mặt
trận t
ổ quốc và các tổ chức thành viên, thông qua công đoàn (Điều 9, 10 Hiến
pháp 1992); “Công dân thực hiện quyền làm chủ của mình ở cơ sở bằng cách
tham gia các công việc của Nhà nước và xã hội” (Điều 11 Hiến pháp 1992).
Công dân cũng có thể “tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận
các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước,
biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu dân ý” (
Điều 53 Hiến pháp 1992)
Như vậy, cùng với quyền được tham gia quản lý nhà nước và xã hội của
người dân, quyền giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước, công chức, viên
chức nhà nước của người dân thì Nhà nước phải có nghĩa vụ lắng nghe ý
kiến của người dân, nghĩa vụ giải trì, nghĩa vụ tiếp nhận, xử lý và phản hồi ý
kiến của người dân
“Sự tham gia của nhân dân” đượ
c hiểu là bất kỳ một hoạt động nào của
các bên liên quan nhằm nâng cao khả năng nhân dân hiểu và tác động lên quá
trình ra quyết sách. Sự tham gia của nhân dân là bất kỳ quá trình nào nhằm tìm
hiểu các chuẩn mực trong nhân dân về vấn đề được đưa ra để quyết, thu hút sự
tham gia của nhân dân nhằm tối ưu hoá việc ra quyết định. Các cơ quan nhà
nước ra quyết sách có những hoạt động nhằm khuyến khích nhân dân tham gia
13
và phản hồi, đối thoại với nhân dân, để nhân dân tiếp cận được với nơi ra quyết
sách, tiếp nhận và chứng tỏ rằng những ý kiến và mối quan tâm của nhân dân
được lắng nghe và được tính đến. Trong đó, điều quan trọng nhất là sự đối thoại
- dòng thông tin chảy cả hai chiều.
Nếu không có sự tham gia này, các cơ quan nhà nước có nguy cơ sa vào
các vấn đề thuần tuý chuyên môn mà quên mất tầm chính sách, không có chủ
thuyế
t để theo; sự tham gia của nhân dân là yếu tố căn bản của chủ thuyết
“quản lý nhà nước tốt” (good government).
“Quản lý nhà nước tốt” có nghĩa là một chính phủ hoạt động có hiệu quả
cùng với việc ban hành các quyết định của mình đúng trình tự, quy định: quản
lý nhà nước bằng pháp luật; trách nhiệm giải trình; minh bạch và sự tham gia
của nhân dân. Quản lý bằng pháp luật có nghĩa là người ra văn bả
n khi ra quyết
định không được căn cứ trên trực giác hoặc ý tưởng ngẫu nhiên của họ, mà phải
căn cứ trên các chuẩn mực được chấp nhận, có lý lẽ và cơ sở thực tiễn vững
chắc. Trách nhiệm giải trình: người ra quyết định phải giải trình các quyết định
của họ một cách công khai, chịu sự giám sát của cơ quan có thẩm quyền cấp
trên và của cử tri.
Minh bạch: các công chức thi hành công việc nhà nước một
cách công khai để nhân dân và báo chí có thể biết và bàn bạc về công việc của
họ. Sự tham gia của nhân dân: những người chịu tác động của một quyết sách
sắp ban hành có cơ hội khả thi để đóng góp ý kiến hoặc tham gia vào quá trình
ra quyết định.
Sự tham gia của nhân dân cũng chứng tỏ quyền được nghe và yêu cầu
các cơ quan nhà nước công khai và có trách nhiệm. Nhân dân hiểu rõ họ cầ
n cái
gì, nên có thể mách bảo nhiều giải pháp tốt mà các chuyên gia cũng không ngờ
tới. Một lý do nữa để thu hút sự tham gia của nhân dân là khi được tham gia,
nhân dân thấy mình thực sự là một thành viên, có vai trò tích cực trong quá
trình làm ra văn bản, quyết định đó nên văn bản sẽ được tiếp nhận và ủng hộ
nhiều hơn sau khi ban hành, giúp cho việc thực hiện pháp luật thuận lợi hơn.
Trước khi tìm ra giải pháp, cần xác định đúng vấn
đề, sự tham gia của
nhân dân sẽ giúp làm được việc này; sự tham gia của nhân dân làm cho các
quyết định được tốt hơn, bao trùm được các quan điểm của những bên liên
quan; mang lại cách hiểu thông thường chung nhất về các vấn đề; đem lại sự
tôn trọng lẫn nhau giữa bên ra quyết định và bên chịu tác động của quyết định,
bên thi hành quyết định; làm cho quyết định dược hợp lý; mang lại sự tiếp nhận
và ủng hộ rộng rãi hơn; quyết định nếu có sự tham gia của nhân dân sẽ được tín
nhiệm cao hơn; sự tham gia của nhân dân hướng đến những giải pháp khả thi.
Nhân dân tham gia vào quá trình ra quyết định với nhiều cấp độ khác
nhau, mỗi cấp độ cần xác định rõ mục tiêu, mục tiêu cần phải được giải thích
cho tất cả đều hiểu; ứng với từng cấp độ cần gửi nh
ững thông điệp rõ ràng.
Cấp độ thông tin: cơ quan nhà nước ra quyết định cung cấp thông tin
nhiều chiều và khách quan để giúp nhân dân hiểu các vấn đề, những sự lựa
chọn và các giải pháp. Thông điệp gửi tới nhân dân ở cấp độ này là: các cơ
quan nhà nước đảm bảo sẽ luôn cung cấp thông tin cho nhân dân một cách đầy
14
đủ. Những công cụ thích hợp như thông qua phương tiện thông tin đại chúng,
thông qua phổ biến, giáo dục pháp luật
Cấp độ tư vấn: Mục đích nhằm nhận phản hồi của nhân dân và phản hồi
về các vấn đề đem ra hỏi ý kiến. Thông điệp gửi tới nhân dân ở cấp độ này là:
cung cấp thông tin, lắng nghe, tiếp nhận những mối quan tâm của nhân dân và
phản hồi lạ
i về việc ý kiến của nhân dân tác động lên quyết định công quyền
như thế nào. Những công cụ thích hợp như điều tra, gặp gỡ nhân dân, tổng hợp
ý kiến nhân dân đối với các vấn đề liên quan.
Cấp độ thu hút ý kiến nhân dân: Mục đích nhằm làm việc trực tiếp với
nhân dân trong cả quá trình để đảm bảo rằng các vấn đề và những mối quan tâm
của nhân dân được thông hiể
u. Thông điệp gửi tới nhân dân ở cấp độ này là:
chúng tôi sẽ làm việc trực tiếp với nhân dân để nhân dân tin chắc rằng các vấn
đề và mối quan tâm của nhân dân đã được phản ánh trực tiếp trong các phương
án khác nhau, chúng tôi sẽ phản hồi về việc sự tham gia của nhân dân đã tác
động lên quyết định như thế nào. Những công cụ thích hợp như hội thảo, phiếu
điều tra.
Cấp độ
cộng tác với nhân dân : Mục đích nhằm hợp tác với nhân dân
trên từng vấn đề nhỏ của quyết định, bao gồm cả việc phát triển các phương án
và tìm kiếm giải pháp tối ưu. Thông điệp gửi tới nhân dân ở cấp độ này là:
chúng tôi sẽ tìm đến nhân dân để nhận lời khuyên và tìm kiếm giải pháp, đưa
những lời góp ý và tư vấn của nhân dân vào quyết định càng nhiều càng tốt.
Những biện pháp thích hợp: chọn nhóm đại diện cho những người liên quan,
nhóm này thay mặt họ tham gia vào quá trình ra quyết định; kỹ thuật thương
thuyết để đạt sự nhất trí (consensus- building techniques).
Cấp độ trao quyền quyết định cho nhân dân: Mục đích nhằm trao quyền
quyết định cuối cùng vào tay nhân dân. Thông điệp gửi tới nhân dân ở cấp độ
này là: chúng tôi sẽ thực hiện những gì nhân dân quyết định. Những biệ
n pháp
thích hợp: chọn các nhóm nhỏ của những công dân trên một địa bàn để nghiên
cứu vấn đề, thẩm vấn những người liên quan, đề xuất kiến nghị với bên ra
quyết định; bỏ phiếu; uỷ quyền ra quyết định.
Để sự tham gia của nhân dân thành công, nên chú ý đến những điểm sau:
Thứ nhất. Thu hút ý kiến tham gia của nhân dân muốn thành công đòi
hỏi phải có sự đối thoại chứ không ph
ải độc thoại.
Nói cách khác, dòng thông tin phải chảy hai chiều giữa hai bên. Cơ quan
ra quyết định phải đưa thông tin đến từng người và đề nghị phản hồi. Nhân dân
phải có cơ hội tiếp cận ngược với cơ quan nhà nước thông qua một “điểm tiếp
xúc” (point of contact)- đó có thể là một người, một nhóm người, phòng ban.
Ví dụ, nếu cơ quan nhà nước thông báo đến người dân về một hành động nào
đó s
ắp thực hiện, thì việc thông báo đó chưa phải là sự tham gia của nhân dân.
Khâu bị bỏ qua ở đây là cái cách mà cơ quan nhà nước lắng nghe phản hồi của
những ai đã đọc thông báo. Để nhận được phản hồi, có thể cử người tiếp nhận
phản hổi với địa điểm, số điện thoại, đến thăm các cơ sở trong cộng đồng, tổ
chức các cuộc gặp, hội thảo về những vấn đề đã nêu trong thông báo. Dòng
15
phản hồi sẽ giúp cho cơ quan nhà nước theo dõi quyền lợi, mối quan tâm của
nhân dân, điều chỉnh các hoạt động của nhân dân, phản ứng nhanh nhạy và hiệu
quả trước những nhu cầu của nhân dân.
Tuy nhiên, nhận phản hồi chưa phải là hết. Các cơ quan ra quyết định có
thể làm theo hoặc không làm theo nhân dân, nhưng họ phải giải trình rõ tại sao
có, tại sao không. Đấy mới là sự phản hồi đầy đủ
. Lúc đó nhân dân mới thấy ý
kiến của họ đã được lắng nghe thực sự và lần sau họ mới quan tâm tham gia.
Thứ hai. Thiết lập lòng tin, sự tín nhiệm trong nhân dân thông qua sự
công khai, cởi mở:
Các cơ quan, cá nhân tham gia các hoạt động thu hút sự tham gia của
nhân dân cần thiết lập sự trao đổi thông tin cởi mở. Cởi mở và trung thực đem
lại lòng tin của các bên liên quan, cung cấp thông tin và tạo điều kiện cho cộng
đồng tham gia s
ẽ mang lại lòng tin ấy, ngược lại, lòng tin làm cho sự trao đổi
thông tin càng tốt hơn, làm cho công chúgn chú ý hơn đến các vấn đề. Các nhân
tố đem lại lòng tin gồm sự nhất quán, sự am hiểu, thái độ chăm chú, trung thực;
giải thích rõ về quá trình, xóa bỏ mọi lời đồn thổi; theo sát quá trình; chỉ hứa
những gì có thể làm, các lời hứa không mâu thuẫn với nhau; cung cấp những
thông tin mà nhân dân cần; tránh những cuộc tiếp xúc bí mật.
Thứ ba. Khuy
ến khích công dân tham gia đóng góp ý kiến
Khuyến khích công dân chủ động tìm kiếm thông tin, tiếp xúc với các
bên liên quan khác, thảo luận với các nhóm có cùng lợi ích cùng mối quan tâm.
Những hoạt động sau đây từ phía công dân giúp họ nắm thông tin tốt hơn và có
tác động hơn đến quá trình ra quyết sách: tiếp xúc sớm với cơ quan đầu mối
phụ trách việc thu hút sự tham gia của nhân dân, tốt nhất là nắm được họ tên cụ
thể; tìm hiểu những khía cạnh cơ
bản liên quan đến vấn đề muốn tham gia bằng
cách gặp gỡ với quan chức địa phương, tiếp xúc với các cơ sở nghiên cứu, đọc
tư liệu do cơ quan đầu mối cung cấp, liên hệ với các nhóm có liên quan khác;
mạnh dạn yêu cầu cơ quan đầu mối cung cấp các thông tin mình cần như: về
các hoạt động thường nhật, cấu trúc của quá trình ra quyết sách, các chính sách
và thủ tục hiện tại, dự
luật hoặc dự án tương lai có thích hợp với các vấn đề
chính sách lớn hơn hay không, về các phương án dự phòng; yêu cầu đưa tên
của bạn vào danh sách những người tham gia, các ý kiến của bạn được tiếp thu
thế nào; phản ánh với cơ quan đầu mối họat động nào thích hợp với bạn nhất,
cung cấp cho họ thông tin về sở thích thông tin của cộng đồng nơi bạn sống, địa
đi
ểm tốt nhất để tổ chức thu hút sự tham gia của nhân dân; gửi các ý kiến bằng
văn bản, theo luật ở các nước, các cơ quan đầu mối bắt buộc phải xem xét các ý
kiến gửi đến bằng văn bản; tham gia các buổi nghe ý kiến nhân dân và các buổi
gặp gỡ, nên nhớ rằng các buổi như vậy chỉ được tổ chức khi có yêu cầu của
công dân bằng văn bản, nếu công dân không rõ về
vấn đề nào đó, hoặc muốn
bày tỏ nỗi quan ngại nào đó, họ được khuyến khích gửi yêu cầu bằng văn bản
đến cơ quan hữu trách; theo dõi sát sao hoạt động của cơ quan đầu mối, các
quyết định cũng như phản ứng của họ trước những ý kiến của nhân dân, công
16
dân được nhắc nhở và khuyến khích rằng, họ có quyền đòi cân nhắc lại các
quyết định của cơ quan đầu mối.
Nói tóm lại, sự tham gia chủ động của từng cá nhân công dân có ý nghĩa
quan trọng đối với quá trình ra quyết sách. Tuy nhiên, tham gia như thế nào thì
tùy tong trường hợp cụ thể; và mỗi công dân nên liên hệ với những người,
những tổ chức có quan tâm khác để xác định cách thức tham gia nào là tối ưu.
Thứ t
ư. Cam kết với nhân dân về việc tiếp thu ý kiến.
Các cơ quan có liên quan phải thực hiện các nghĩa vụ đối với nhân dân:
giải thích những hệ quả cả việc tiếp thu hay không tiếp thu các kiến nghị của
nhân dân; giải thích cho nhân dân tham gia như thế nào; tạo ra sự bình đẳng cho
mọi tầng lớp nhân dân trong việc tiếp cận thông tin và các cơ quan ra quyết
định; tiếp nhận mọi nguồn ý kiến từ tất cả
các nhóm lợi ích liên quan
Thứ năm. Hỗ trợ các điều kiện cần thiết để nhân dân tham gia có ý kiến
một cách có hiệu quả.
Cung cấp thông tin: Thông tin sớm, kịp thời, dễ hiểu, có tiêu điểm, có
giải thích sự liên quan của vấn đề với những cộng đồng đặc biệt, sự phổ biến
thông tin đến từng người dân sẽ giúp ích rất nhiều trong việc nâng cao khả
năng, n
ăng lực tham gia của nhân dân.
Đơn giản hóa các vấn đề cần lấy ý kiến nhân dân: Cơ quan tổ chức cho
nhân dân tham gia vào việc ra quyết sách không nên giũ bỏ gánh nặng phân tích
chuyên môn lên vai công dân, mà cần phải chuyển những nội dung cần lấy ý
kiến trở thành đơn giản và có thể hiểu được, phù hợp với trình độ của từng đối
tượng muốn lấy ý kiến.
Tập huấnnhững kỹ n
ăng cần thiết cho nhân dân trong việc tham gia ý
kiến: Nhân dân cần được tập huấn về việc cần tham gia như thế nào vào các
hoạt động góp ý kiến. Theo những người được hỏi, công dân thường xa lạ với
các thủ tục tham gia, trong khi đó, nhiều khi cơ quan tổ chức lại áp dụng những
thủ tục chưa hề được giải thích ở đâu cả. Điều đó tạo ra sự b
ất bình đẳng giữa
nhân dân và cơ quan chính phủ.
Giáo dục pháp luật: công dân cần những kiến thức pháp lý cơ bản về vấn
đề cần tham gia để tăng năng lực tham gia. Vì vậy, khả năng tham gia của nhân
dân đối với hoạt động quản lý của nhà nước cũng phụ thuộc vào hiệu quả công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
Ngoài ra, cũng cần chú ý đến việc lập kế ho
ạch tính đến những thay đổi
về quyền lợi trong nhân dân; Hiểu và tôn trọng các quan điểm của những bên
liên quan khác; Có những bước đi để đảm bảo cơ hội bình đẳng cho tất cả
những ai quan tâm có thể nhận thông tin và tham gia vào quá trình
Theo kinh nghiệm của các nước về hoạt động thu hút sự tham gia của
nhân dân vào quá trình ra quyết sách của các cơ quan chính phủ, một tổ chức
17
phi chính phủ chuyên về sự tham gia của nhân dân đã tổng kết những xu
hướng sau đây khiến cho sự tham gia của nhân dân không thành công
2
:
(1)- Quá coi trọng mặt kỹ thuật, để kỹ thuật dẫn đường mà không theo lợi
ích. Điều này khiến người ta thường hay bỏ qua các bước quan trọng như xác
định mục tiêu và chuyển thông điệp đến nhân dân;
(2)- Sự tham gia của nhân dân bắt đầu khi quyết định đã được hình
thành. Lúc đó còn rất ít cơ hội để tác động lên quyết định, sự tham gia của nhân
dân như thế chỉ gây tranh cãi nhiều hơ
n là tìm giải pháp khả thi.
(3)- Sự tham gia của nhân dân không hòa cùng với quá trình ra quyết
định, thường được tiến hành song song chứ không như là một phần của việc ra
quyết định. Kết quả là nhân dân không tiếp nhận được thông tin, còn bên ra
quyết định không nhận được sự đóng góp của nhân dân một cách kịp thời;
(4)- Nhân dân thiếu thông tin, bởi vậy không hiểu và không nắm được
vấn đề nên không đóng góp được hiệu quả;
(5)- Thiếu đồng b
ộ về mặt tổ chức: Có lúc bộ máy trực tiếp tổ chức quá
trình thu hút sự tham gia của nhân dân không thể hiện được đầy đủ thiện ý, ý đồ
của những người ra quyết định. Kết quả là nhân dân cảm thấy bị thất hứa, ý
kiến tiềm tàng không được phát huy và họ thấy không còn tin tưởng vào việc
thu hút sự tham gia của họ nữa;
(6)- Quy mô nhỏ, lệch: Có lúc việc thu hút sự tham gia của nhân dân
không chú ý đế
n nhiều tầng lớp rộng rãi trong cộng đồng, tiếng nói đóng góp
không điển hình. Kết quả thu được không hiệu quả và có thể gây tranh cãi,
không phản ánh được các lợi ích thực sự của nhân dân
(7)- Quan niệm của nhân dân về tính hình thức: Nhân dân có thể có quan
niệm rằng, những đợt thu hút sự tham gia của nhân dân chỉ diễn ra cho có, một
cách hình thức, họ không có cách gì để tác động lên quyết sách của cơ quan
chính phủ. Nhiều người cho rằng c
ơ quan chính phủ “muốn làm gì chả được”,
nên những nỗ lực của người dân chỉ vô ích; rằng “cơ quan chính phủ thu thập
thông tin và ra quyết sách mà không tính đến những nỗi quan ngại của cộng
đồng dân cư”; các cơ quan chính phủ để cho nhân dân tham gia chẳng qua là
“vì phải làm thế”; cơ quan chính phủ chỉ nghe những “cộng đồng dễ bảo”
(regulated community); thông tin đưa ra là loại thông tin đã được chọn lọc, chỉ
nhằm thuyết phục ch
ứ không có tính chất trao đổi. Quan niệm này nhiều lúc có
cơ sở, có lúc chỉ là cảm tính, nhưng dù thế nào nó cũng cản trở quá trình thu hút
sự tham gia của nhân dân.
2. Cơ chế tiếp nhận, xử lý và phản hồi ý kiến nhân dân trong quản lý nhà
nước.
Trong một xã hội dân chủ, việc tham gia ý kiến của nhân dân luôn được
Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện nhằm làm cho hoạt động của Nhà
2
Nguồn .
18
nước đáp ứng được nguyện vọng của đông đảo quàn chúng nhân dân trong xã
hội.
Ý kiến nhân dân theo một nghĩa chung nhất là: Cách nhìn, cách nghĩ,
cách đánh giá riêng của mỗi người về sự vật, sự việc, về một vấn đề nào đó; Lời
phát biểu có tính chất nhận xét, phê bình
3
.
Ý kiến nhân dân trong hoạt động quản lý nhà nước nói chung có thể hiểu
là cách nhìn nhận, cách đánh giá của nhân dân đối với những hoạt động của các
cơ quan quản lý nhà nước trong việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của
mình. Với các nhà nước dân chủ, việc tiếp thu ý kiến nhân dân là một việc làm
có vai trò hết sức quan trọng đảm bảo hoạt động quản lý nhà nước nhằm phục
vụ nhân dân, mang l
ại lợi ích cao nhất cho nhân dân.
Cơ chế: là toàn bộ các nội dung, gồm: thiết chế, phương tiện, nguyên tắc,
hình thức, phương pháp, biện pháp tổ chức và thực hiện một hoạt động nhất
định.
4
Khái niệm cơ chế cũng bao gồm là tổng thể các bảo đảm về vật chất,
chính trị, tư pháp, pháp lý, tổ chức, nghiệp vụ cho việc thực hiện một quyền nào
đó hoặc một việc nào đó.
Cơ chế tiếp nhận, xử lý và phản hồi ý kiến nhân dân trong hoạt động
quản lý nhà nước có thể được hiểu với nghĩa chung nhất là toàn bộ các thiết
chế, nguyên tắc, hình thức, phương pháp và biện pháp tổ chức việc tiếp nhận,
những điều kiện đảm bảo thực hiện việc tiếp nhận, xử lý và phản hổi ý kiến
nhân dân trong hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước nhằm nâng cao hiệu
quả quản lý nhà nước và phát huy dân chủ.
Tùy theo tính chất của từng loại quan hệ quản lý, tính chất của từng loại
ý kiế
n nhân dân mà có các cơ chế tiếp nhận, xử lý và phản hồi khác nhau.
- Đối với hoạt động xây dựng chính sách, xây dựng pháp luật thì Nhà
nước phải là chủ thể chủ động trong việc huy động trí tuệ của nhân dân tham
gia vào việc hoạch định chính sách, pháp luật; phương thức và các hình thức để
nhân dân tham gia ý kiến cần đa dạng (thông qua việc đăng tải dự thảo trên các
phương tiện truyền thông, thông qua tham vấn trực tiến, thông qua các hộ
i thảo,
tọa đàm, thông qua các tổ chức trung gia như các tổ chức chính trị xã hội, các
tổ chức nghề nghiệp ) ở những quy mô khác nhau (toàn quốc, một số địa
phương, một số nhóm đối tượng ). Cơ chế xử lý, tiếp thu và phản hồi ý kiến
cho người dân cần linh hoạt, phù hợp với từng loại vấn đề và mang tính khái
quát, công khai cao (việc giải trình không nhất thiết phải giải trình cho từ
ng chủ
thể cụ thể và từng vấn đề cụ thể mà chỉ cần khái quát các vấn đề và giải trình
công khai trên các phương tiện truyền thông đại chúng hoặc thông qua trả lời
của người có thẩm quyền trong các diễn đàn phù hợp). Việc lấy ý kiến nhân dân
có thể được thực hiện ở giai đoạn trước khi xây dựng chính sách, trong quá
trình xây dựng chính sách, pháp luật hoặc trong quá trình tổ chức triển khai
việc th
ực hiện chính sách, pháp luật.
3
Từ điển tiếng Việt:
4
Từ điển Tiếng Việt (tr. 464 Nxb. Văn hóa - Thông tin, năm 1998)
19
Trong những trường hợp nêu trên, luật pháp của các nước thường quy
định khá chặt chẽ về cơ chế tham vấn nhân dân, trách nhiệm xử lý và phản hồi
của cơ quan nhà nước. Trong thực tiễn Việt Nam, cơ chế tiếp nhận, xử lý và
phản hồi ý kiến của người dân trong quá trình xây dựng pháp luật được quy
định cụ thể trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và Luật
ban hành văn bả
n quy phạm pháp luật của HĐND và UBND năm 2004.
- Đối với hoạt động quả lý Nhà nước trên từng lĩnh vực chuyên môn cụ
thể thì cơ chế tiếp nhận, xử lý và phản hồi ý kiến của nhân dân được thực hiện
khá linh hoạt. Tùy từng vấn đề cụ thể cơ quan quản lý nhà nước có thể chủ
động thăm dò ý kiến người dân (chẳng hạn như các giải pháp về giao thông
đườ
ng bộ, việc tham vấn ý kiến người dân về các dự án nhậy cảm ) hoặc
người dân cũng có thể chủ động đề xuất các giải pháp, biện pháp nhằm nâng
cao hiệu quả quản lý nhà nước một cách trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức
đại diện (Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên, hội nghề nghiệp ). Cơ
chế tiếp nhận, xử lý và phản hồi ý kiế
n nhân dân trong các trường hợp nên trên
rất linh hoạt, tùy từng trường hợp mà pháp luật có thể quy định những vấn đề
buộc phải tham vấn nhân dân và trách nhiệm giải trình cụ thể của cơ quan công
quyền (như việc xây dựng các dự án, công trình mang tính nhạy cảm ảnh hưởng
lớn đến đời sống của nhân dân hoặc có ý nghĩa quan trọng đối với lịch sử dân
tộc, đời sống văn hóa, tâm linh, tinh thầ
n của người dân ) hoặc không quy
định rõ cơ chế cứng, chặt chẽ cho việc tiếp nhận, xử lý và phản hồi ý kiến của
người dân (như các sáng kiến của người dân chủ động đề xuất một số giải pháp
cụ thể trong việc xử lý các công việc quản lý thường nhật của cơ quan, nhân
viên nhà nước ).
- Đối với các hoạt động quản lý nhà nước, hoặc các quan hệ pháp lu
ật cụ
thể mà người dân cho rằng quyền lợi của họ bị ảnh hưởng, bị xâm phạm hoặc
người dân phát hiện các sai phạm của cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước, các
vi phạm pháp luật của các chủ thể khác (cá nhân, tổ chức trong xã hội) thì cơ
chế tiếp nhận, xử lý, phản hồi thông tin cần phải được quy định hết sức chặt chẽ
và trách nhiệm giải trình ph
ải rõ ràng, trong thời hạn luật định và trực tiếp với
chính người cung cấp thông tin. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì việc
tiếp nhận các đơn thư khiếu nại, tố cáo của người dân cũng như việc xử lý, giải
trình kết quả xử lý đươc quy định cụ thể trong Luật khiếu nại, tố cáo; việc tiếp
nhận đơn thư của công dân liên quan đến tin báo tôi phạm đượ
c thực hiện theo
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; việc giải quyết các vụ án hình sự theo yêu
cầu của người bị hại được thực hiện theo quy định của Bộ luật hình sự và Bộ
luật tố tụng hình sự; việc thụ lý và giải quyết các vụ án dân sự, lao động, hành
chính được thực hiện theo quy định của Bộ luật tố tụng dân s
ự, Pháp lệnh thủ
tục giải quyết các vụ án hành chính
Theo công đoạn của quá trình xử lý thông tin, có thể chia quá trình tiếp
nhận, xử lý và phản hồi ý kiến của nhân dân thành các công đoạn:
- Tiếp nhận ý kiến của nhân dân: tùy theo hình thức và loại ý kiến có cơ
chế tiếp nhận khác nhau (ý kiến trực tiếp, ý kiến gián tiếp, ý kiến bằng văn bản,
ý kiến bằng lời nói ) với các trình tự, thủ tụ
c khác nhau;
20
- Phân loại ý kiến: Căn cứ vào tính chất của ý kiên và chức năng quản lý
của từng cơ quan để phân loại các ý kiến: các ý kiến góp ý, các ý kiến tư vấn,
các ý kiến thăm dò dư luận, các ý kiến khiếu nại, tố cáo ;
- Xử lý ý kiến: trên cơ sở phân loại ý kiến thì mỗi loại ý kiến có một cơ
chế xử lý khác nhau theo quy trình khác nhau: ý kiến góp ý, tư vấn chính sách
có quy trình xử lý riêng; ý kiến khiếu nại có quy trình xử
lý riêng; ý kiến tố cáo
có quy trình xử lý riêng ;
- Phản hồi ý kiến: cũng căn cứ vào từng loại ý kiến nhân dân mà cơ chế
phản hồi khác nhau: với các ý kiến tư vấn, góp ý, phản biện thì cơ quan nhà
nước có cơ chế tổng hợp khái quát từng vấn đề và phải hồi theo các nhóm vấn
đề trên các diễn đàn, phương tiện thông tin đại chúng; đối với các khiếu nại, tố
cáo thì phải có cơ chế
phản hồi đối với từng ý kiến cụ thể trong thời hạn luật
định.
Như vậy, tùy theo tính chất của từng loại quan hệ, theo tính chất của từng
loại ý kiến nhân dân mà có những cơ chế tiếp nhận, xử lý và phản hồi khác
nhau (cả về thủ tục thực hiện, hình thức đưa tin và tiếp nhận tin, chủ thể có
trách nhiệm, quyền và trách nhiệm của các ch
ủ thể liên quan )
3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về việc thu hút ý kiến nhân dân trong
hoạt động quản lý nhà nước.
Trong thời gian vừa qua, với chủ trương cải cách nền hành chính theo
hướng đơn giản hoá các thủ tục hành chính và xây dựng nền hành chính gần
dân, phục vụ nhân dân nên Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ chương, chính
sách, liên quan đến việc thúc đẩy sự tích cực của các cơ quan công quyền trong
việc tiế
p thu các phản ánh, kiến nghị của nhân dân trong hoạt động quản lý nhà
nước và thực thi pháp luật.
Nghị quyết lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII chỉ
khẳng định: “Cần phát huy vai trò của nhân dân tham gia quản lý nhà nước
cải tiến việc lấy ý kiến của nhân dân về các văn bản pháp luật theo hướng thiết
thực, tránh hình thức, lãng phí” thì Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc của
Đả
ng lần thứ IX đã chỉ rõ hơn: “ Đổi mới phương thức và quy trình xây dựng
thể chế, cải tiến sự phối hợp giữa các ngành, các cấp có liên quan, coi trọng sử
dụng các chuyên gia liên ngành và dành vai trò rất quan trọng cho tiếng nói
của nhân dân, của doanh nghiệp”.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX khẳng định: Thực hiện tốt
quy chế dân chủ, mở rộ
ng dân chủ trực tiếp ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân
tham gia quản lý xã hội, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng.
Khắc phục mọi biểu hiện dân chủ hình thức. Xây dựng Luật trưng cầu ý dân.
Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 01/8/2007 Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương khoá X: Về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước tiếp tục khẳng định: Giải quyết tốt mối
quan hệ giữa cơ quan hành chính với nhân dân, huy động sự tham gia có hiệu
quả của nhân dân và xã hội vào hoạt động quản lý của các cơ quan hành chính
nhà nước.
21
Các quan điểm chỉ đạo của Đảng về tăng cường mối quan hệ giữa chính
quyền và nhân dân được thể chế hoá thành các văn bản pháp luật và đã được tổ
chức thực thi trong đời sống xã hội.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX khẳng định: Thực hiện tốt
quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trực ti
ếp ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân
tham gia quản lý xã hội, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng.
Khắc phục mọi biểu hiện dân chủ hình thức. Xây dựng Luật trưng cầu ý dân.
Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 01/8/2007 Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương khoá X: Về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả qu
ản lý của bộ máy nhà nước tiếp tục khẳng định: Giải quyết tốt mối
quan hệ giữa cơ quan hành chính với nhân dân, huy động sự tham gia có hiệu
quả của nhân dân và xã hội vào hoạt động quản lý của các cơ quan hành chính
nhà nước.
Việc trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân trong quản lý
hành chính nhà nước là một hình thức có ý nghĩa quan trọng để nhân dân lao
động phát huy vai trò làm chủ của mình.
Ðây là nguyên t
ắc được nhà nước ta thừa nhận và bảo đảm thực hiện.
Nguyên tắc này thể hiện bản chất dân chủ sâu sắc giữ vai trò quan trọng thiết
yếu trong quản lý hành chính nhà nước. Nhân dân không chỉ có quyền giám sát
đối với hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước; thực hiện khiếu nại tố cáo
nếu cho rắng cán bộ hành chính nhà nước vi phạm quyền lợi của họ hoặc thực
hiện không đ
úng đắn, mà còn có quyền tự mình tham gia vào hoạt động quản lý
nhà nước, trực tiếp thể hiện quyền lợi của toàn thể nhân dân lao động. Ðiều này
này khẳng định vai trò hết sức đặc biệt của nhân dân lao động trong quản lý
hành chính nhà nước, đồng thời xác định những nhiệm vụ mà nhà nước phải
thực hiện trong việc đảm bảo những điều kiện cơ bản để nhân dân lao động
được tham gia vào quản lý hành chính nhà nước. Ðiểm thú vị về mặt lý luận
của nguyên tắc vì vậy chỉ có ý nghĩa khi được bảo đảm thực hiện trên thực tế.
Có thể mở rộng, tăng cường quyền của công dân trong hoạt động quản lý,
nhưng không được phép hạn chế, thu hẹp những gì mà Hiến pháp đã định.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói “Giữ chặt mối liên hệ vớ
i dân chúng
và lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và
nhờ đó mà Đảng thắng lợi”. Việc tiếp nhận, xử lý và phản hồi ý kiến nhân dân
là một hình thức biểu hiện trực tiếp của mối quan hệ giữa nhân dân với Nhà
nước. Cơ quan nhà nước phải thực hiện việc tiếp nhận, xử lý và phản hồi ý kiến
nhân dân tốt thì nhân dân mớ
i thấy rõ Đảng và Nhà nước luôn giữ chặt mối liên
hệ với nhân dân, luôn lắng nghe ý kiến của nhân dân, quan tâm lo lắng đến
quyền lợi của họ. Do đó việc quan tâm làm tốt công tác tiếp nhận, xử lý và phản
hồi ý kiến nhân dân là thể hiện bản chất dân chủ, là biện pháp củng cố mối
quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Đồng thời, việc tiếp nhận, xử lý
và phản hồ
i ý kiến nhân dân là một kênh thông tin quan trọng để kiểm tra, giám
sát, đánh giá cán bộ. Thêm nữa, đây cũng là một kênh thông tin để đánh giá
tính khả thi của các chính sách, hiệu quả quản lý nhà nước. Đánh giá chính sách
là việc xem xét, nhận định về giá trị các kết quả thu được khi thực thi chính
sách. Đánh giá chính sách được tiến hành trên cơ sở một chính sách đã được
22
hoạch định, thực thi và có sự phản ánh kết quả trở lại. Đánh giá tính khả thi của
chính sách, tức là trả lời câu hỏi: việc thực thi chính sách có đạt được mục tiêu
đề ra hay không, có đáp ứng được mong muốn, nguyện vọng của các nhóm đối
tượng của chính sách hay không? Các chính sách, cũng như hoạt động quản lý
Nhà nước được thực thi trên thực tế sẽ tác động trực tiếp đến cuộc số
ng của
người dân. Do vậy, cần có sự phản hồi của người dân để đánh giá chính sách.
Trên cơ sở các thông tin thu được qua, các nhà hoạch định chính sách cũng như
các nhà quản lý có được các thông tin về kết quả triển khai thực hiện các mục
tiêu của chính sách, có căn cứ để xác định xem việc tồn tại chính sách có hợp lý
hay không, kịp thời điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện chính sách và tìm
kiếm các biện pháp qu
ản lý thích hợp và hiệu lực để thực thi chính sách đó. Đặc
biệt, tiếp nhận, xử lý và phản hồi ý kiến nhân dân tạo điều kiện cho nhân dân
thực hiện quyền tự do, dân chủ, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội, giảm
bức xúc, xung đột trong xã hội.
Thực hiện đường lối, chính sách của Đảng về tăng cường sự tham gia của
nhân dân trog hoạt động quản lý nhà n
ước. Trong thời gian qua, đã có nhiều
văn bản được ban hành nhằm thể chế hóa chủ chương này. Các văn bản chủ yếu
đề cập đến những nội dung này bao gồm: Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001); Luật
Tổ chức Quốc hội 2002; Luật tổ chức Chính phủ 2002;Luật Tổ chức HĐND và
UBND 2003;Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008; Luật khiếu nại
tố cáo; Luật phòng chố
ng tham nhũng; Luật thực hành tiết kiệm chống lãng
phí;Nghị định số 20/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm 2008 về việc tiếp nhận
xử lý phản ánh kiến nghị của cá nhân, tổ chức về quy định hành chính;
Theo quy định của các văn bản pháp luật hiện hành: Nhà nước Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai c
ấp công nhân,
giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Việc tham gia đông đảo của nhân dân
vào quản lý hành chính nhà nước thông qua các hình thức như sau:
* Tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước
Các cơ quan trong bộ máy nhà nước là công cụ để thực hiện quyền lực
nhà nước, việc nhân dân tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước là
hình thức tham gia tích cực, trực tiếp và có hiệu quả nhất trong quản lý hành
chính nhà nước. Nhân dân nếu đáp ứng các yêu cầu c
ủa pháp luật đều có thể
tham gia một cách trực tiếp hay gián tiếp vào công việc quản lý hành chính nhà
nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Nhân dân có thể tham gia trực tiếp vào cơ quan quyền lực nhà nước với
tư cách là thành viên của cơ quan này - họ là những đại biểu được lựa chọn
thông qua bầu cử hoặc với tư cách là các viên chức nhà nước trong các cơ quan
nhà nước. Khi ở cươ
ng vị là thành viên của cơ quan quyền lực nhà nước, người
lãnh đạo trực tiếp xem xét và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước,
của từng địa phương trong đó có các vấn đề quản lý hành chính nhà nước. Khi
ở cương vị là cán bộ viên chức nhà nước thì nhân dân sẽ sử dụng quyền lực nhà
nước một cách trực tiếp để thực hiện vai trò người làm chủ đất nướ
c, làm chủ
23
xã hội, có điều kiện biến những ý chí, nguyện vọng của mình thành hiện thực
nhằm xây dựng đất nước giàu mạnh.
- Ngoài ra, nhân dân có thể tham gia gián tiếp vào hoạt động của các cơ
quan nhà nước thông qua việc thực hiện quyền lựa chọn những đại biểu xứng
đáng thay mặt mình vào cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương hay địa
phương. Ðây là hình thức tham gia rộng rãi nhất của nhân dân vào hoạt
động
quản lý hành chính nhà nước.
Tham gia vào hoạt động của các tổ chức xã hội:
- Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân lao động tham gia tích
cực vào hoạt động của các tổ chức xã hội. Các tổ chức xã hội là công cụ đắc lực
của nhân dân lao động trong việc thực hiện quyền tham gia vào quản lý hành
chính nhà nước. Thông qua các hoạt động của các tổ chức xã hội, vai trò chủ
động sáng tạ
o của nhân dân lao động được phát huy. Ðây là một hình thức hoạt
động có ý nghĩa đối với việc bảo đảm dân chủ và mở rộng nền dân chủ ở nước
ta.
* Tham gia vào hoạt động tự quản ở cơ sở:
- Ðây là hoạt động do chính nhân dân lao động tự thực hiện, các hoạt
động này gần gủi và thiết thực đối với cuộc sống của người dân như hoạt động
b
ảo vệ an ninh trật tự, vệ sinh môi trường, Những hoạt động này xảy ra ở nơi
cư trú, làm việc, sinh hoạt nên mang tính chất tự quản của nhân dân.
- Thông qua những hoạt động mang tính chất tự quản này nhân dân là
những chủ thể tham gia tích cực nhất, quyền tham gia quản lý nhà nước, quản
lý xã hội của họ được tôn trọng và bảo đảm thực hiện.
* Trực tiếp thực hiện các quyền và ngh
ĩa vụ của công dân trong quản lý
hành chính nhà nước
- Ðiều 53-Hiến pháp 1992 quy định công dân có quyền tham gia quản lý
nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận những vấn đề chung của cả nước và địa
phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội hay chính người
dân trực tiếp thực hiện.
- Kiểm tra các cơ quan quản lý nhà nước.
- Tham gia trực tiếp với tư cách là thanh viên không chuyên trách trong
hoạt động cơ quan qu
ản lý, các cơ quan xã hội.
- Tham gia với tư cách là thành viên của tập thể lao động trong việc giải
quyết những vấn đề quan trọng của cơ quan
Như vậy, với đường lối chính sách của Đảng và sự đảm bảo của pháp
luật hiện hành, nhân dân có thể tham gia quản lý nhà nước với nhiều cách thức
khác nhau. Một trong các cách thức đó chính là việc nhân dân có ý kiến, phát
biểu quan điểm, suy nghĩ của mình mộ
t cách trực tiếp hoặc thông qua các thiết
chế đại diện đối với hoạt động của nhà nước.
Việc tiếp nhận, xử lý và phản hồi các ý kiến của nhân dân có ý nghĩa rất
quan trong nhằm làm cho hoạt động của nhà nước đáp ứng được mong muốn
nguyện vọng của nhân dân, phục vụ lợi ích của nhân dân. Đó cũng chính là thể
hiện bản chất nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
24
II. CHỨC NĂNG CỦA NGÀNH TƯ PHÁP VÀ ĐẶC THÙ CỦA CƠ CHẾ
TIẾP NHẬN, XỬ LÝ VÀ PHẢN HỒI Ý KIẾN CỦA NHÂN DÂN TRONG
HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ CỦA NGÀNH.
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX khẳng định đường lối
“Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng” đồng thời
nêu yêu cầu “Cải cách tổ chức, nâng cao chất lượ
ng và hoạt động của các cơ
quan tư pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cơ quan và cán bộ tư
pháp ”
5
.
Trong giai đoạn tới, tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo; thực hiện tốt chức năng
quản lý kinh tế, quản lý xã hội; giải quyết đúng mối quan hệ giữa Nhà nước
với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, với nhân dân, với thị
trường.
Nâng cao năng lực quản lý và điều hành của Nhà nước theo pháp luật, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật, kỷ cương. Nhà nước chăm lo,
phục vụ nhân dân, bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của mọi người dân.
Nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành cụ thể để bảo
đảm nguyên tắc tất cả quyền l
ực nhà nước thuộc về nhân dân và nguyên tắc
quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát
giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước phù hợp với yêu
cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục hoàn
thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách
để vận hành có hiệu quả nền kinh
tế và thực hiện tốt các cam kết quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc.
Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật, trước
hết là quy trình xây dựng luật, pháp lệnh; luật, pháp lệnh cần quy định cụ thể,
tăng tính khả thi để đưa nhanh vào cuộc sống. Thực hiện tốt hơn nhiệm vụ
quy
ết định và giám sát các vấn đề quan trọng của đất nước, nhất là các công
trình trọng điểm của quốc gia, việc phân bổ và thực hiện ngân sách; giám sát
hoạt động của các cơ quan tư pháp, công tác phòng, chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí.
Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây
dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo
v
ệ quyền con người. Hoàn thiện chính sách, pháp luật về hình sự, dân sự, thủ
tục tố tụng tư pháp và về tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp, bảo đảm tính
khoa học, đồng bộ, đề cao tính độc lập, khách quan, tuân thủ pháp luật của từng
cơ quan và chức danh tư pháp. Đổi mới hệ thống tổ chức toà án theo thẩm
quyền xét xử, bảo đảm cải cách hoạt động xét x
ử là trọng tâm của cải cách hoạt
động tư pháp; mở rộng thẩm quyền xét xử của toà án đối với các khiếu kiện
5
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX
25
hành chính. Viện kiểm sát được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức toà án,
bảo đảm tốt hơn các điều kiện để viện kiểm sát nhân dân thực hiện hiệu quả
chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp; tăng
cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động
điề
u tra. Sắp xếp, kiện toàn tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra theo
hướng thu gọn đầu mối; xác định rõ hoạt động điều tra theo tố tụng và hoạt
động trinh sát trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tiếp tục đổi mới và kiện
toàn các tổ chức bổ trợ tư pháp. Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và
đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ t
ư pháp và bổ trợ tư pháp. Tăng cường
các cơ chế giám sát, bảo đảm sự tham gia giám sát của nhân dân đối với hoạt
động tư pháp
6
.
Như vậy, trong giai đoạn hiện nay, yêu cầu cải cách đồng bộ về thể chế, về
tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp và đội ngũ cán bộ, các chức danh
tư pháp đã được đặt ra như một bộ phận của nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Xuất phát từ bản chấ
t, từ các đặc trưng của nhà nước pháp quyền XHCN
đã và đang được đúc kết qua thực tiễn cách mạng Việt Nam và thế giới trong
suốt 65 năm qua, đặc biệt là trong 25 năm đổi mới, Bộ Chính trị BCH Trung
ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/6/2006 về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 xác đinh mục tiêu, quan điểm, phương
hướng và nhiệm vụ cả
i cách tư pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Tuy nhiên, vấn đề khó khăn nhất đặt ra là chúng ta chưa có chủ thuyết
khoa học về nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của một Đảng cầm
quyền lại cũng chưa có tiền lệ trên thực tế về mô hình tổ chức các cơ quan lập
pháp, hành pháp, tư pháp trong nhà nước pháp quyền XHCN mà ta đang hướng
tới. Vì vậy, từ góc độ khoa họ
c, các quan điểm, nhiệm vụ trong Chiến lược là
định hướng chính trị quan trọng cho những nghiên cứu tiếp theo nhằm giải
quyết thấu đáo nhiều vấn đề còn vướng mắc về lý luận và thực tiễn của cải cách
tư pháp trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Mục tiêu phát tri
ển của ngành tư pháp trong giai đoạn tới là là làm cho hệ
thống tư pháp của ngành thích nghi và hoạt động hiệu quả trong điều kiện kinh
tế thị trường thòi kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế, xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đáp ứng được tốt hơn chức
năng quản lý nhà nước trên các lĩnh vực xây dựng pháp luật, bổ
trợ tư pháp và
hành chính tư pháp và các lĩnh vực quản lý khác. Cụ thể:
Thứ nhất, đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành tư pháp phải xuất phát
từ nhu cầu và điều kiện kinh tế- xã hội cụ thể trong từng giai đoạn phát triển
6
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng