Tải bản đầy đủ (.pdf) (138 trang)

Đổi mới cơ chế giải quyết tố cáo hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 138 trang )

THANH TRA CHÍNH PHỦ









BÁO CÁO TỔNG HỢP KẾT QUẢ ĐỀ TÀI CẤP BỘ

ĐỔI MỚI CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TỐ CÁO HIỆN NAY


Chủ nhiệm đề tài:
Đỗ Gia Thư












7891



HÀ NỘI - 2009


1
MỞ ĐẦU
I. TÍNH CẤP THIẾT, MỤC TIÊU VÀ NỘI DUNG, PHẠM VI
NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân được ghi
nhận tại Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1992. Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm tới việc giải
quyết có hiệu quả các tố cáo phát sinh trong các lĩnh vự
c của đời sống xã
hội. Nhiều chỉ thị, nghị quyết của Đảng được ban hành nhằm tăng cường
trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc giải quyết tố cáo, bảo
đảm việc giải quyết tố cáo chính xác, kịp thời.
Để cụ thể hoá quyền tố cáo trong Hiến pháp, tại kỳ họp thứ 4, Quốc
hội khoá X đã thông qua Luật Khiếu nại, tố cáo, trong đ
ó xác định rõ thẩm
quyền và trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo. Sau khi có Luật này, các cấp,
các ngành đã nhận thức được tầm quan trọng của công tác giải quyết tố
cáo, xác định rõ đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần
bảo đảm ổn định chính trị, phát triển kinh tế xã hội ở các bộ, ngành và địa
phương. Do vậy, nhiều vụ việc tố cáo phức tạ
p đã được giải quyết dứt
điểm, nhiều hành vi vi phạm pháp luật đã được xử lý nghiêm minh. Qua
hoạt động giải quyết tố cáo đã kịp thời bảo vệ được lợi ích Nhà nước, lợi
ích hợp pháp của tập thể và công dân. Mặc dù vậy, thực tiễn cũng cho thấy
công tác giải quyết tố cáo còn nhiều hạn chế, bất cập; hiệu quả giải quyế

t
các vụ việc tố cáo chưa cao; nhiều vụ việc tố cáo và giải quyết tố cáo kéo
dài, không dứt điểm; việc thực hiện pháp luật về tố cáo và giải quyết tố
cáo chưa nghiêm.
Nguyên nhân của thực trạng trên là do các quy định pháp luật về tố
cáo và giải quyết tố cáo còn nhiều hạn chế, bất cập. Luật Khiếu nại, tố cáo
chưa thực sự tạo
điều kiện thuận lợi cho người dân trong quá trình thực
hiện quyền tố cáo như yêu cầu phải tố cáo đến đúng cơ quan có thẩm
quyền giải quyết, quy định trách nhiệm người tố cáo phải ghi rõ họ

2
tên chưa khuyến khích, động viên người dân báo cho các cơ quan nhà
nước về hành vi vi phạm pháp luật. Luật Khiếu nại, tố cáo quy định về
phạm vi tố cáo thì rất rộng (quy định công dân có quyền tố cáo với cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về hành vi trái pháp luật của bất cứ
cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi
ích của Nhà nước, quyề
n, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ
chức), nhưng lại chỉ tập trung điều chỉnh những quy định về giải quyết tố
cáo hành chính.
Các cơ quan giải quyết tố cáo bị phân tán; công tác quản lý nhà
nước về tố cáo còn bị buông lỏng; hoạt động thanh tra, kiểm tra đôn đốc
thiếu thường xuyên, liên tục. Việc phân định thẩm quyền giải quyết tố cáo
như hiện nay d
ẫn tới có quá nhiều đầu mối các cơ quan tiếp nhận và giải
quyết tố cáo. Những quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo và quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự còn chồng chéo, không tách bạch giữa tố cáo các
hành vi vi phạm pháp luật với các tin báo tội phạm. Hệ quả của vần đề này
là đơn tố cáo phát sinh tràn lan, các cơ quan tiếp nhận, giải quyết tố cáo

còn đùn
đẩy trách nhiệm, nhiều tố cáo vượt cấp, hiệu quả công tác giải
quyết tố cáo chưa cao làm mất lòng tin của nhân dân vào cơ quan giải
quyết tố cáo nói riêng và các cơ quan nhà nước nói chung.
Ngoài ra, còn có một nguyên nhân khác là những quy định về tố cáo
và giải quyết tố cáo trong Luật Khiếu nại, tố cáo và các văn bản hướng
dẫn thi hành còn rất chung chung, sơ sài. Do đó, người tố cáo không nhận
thức hết quyền và nghĩa vụ củ
a mình trong việc thực hiện quyền tố cáo;
các cơ quan nhà nước thiếu căn cứ pháp lý để giải quyết tố cáo theo thẩm
quyền, việc thực hiện các quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết
tố cáo của các cơ quan nhà nước không thống nhất. Bên cạnh đó có không
ít trường hợp do các quy định pháp luật về tố cáo còn lỏng lẻo mà người
giải quyết tố cáo bỏ lọt người có hành vi vi phạ
m pháp luật, thậm chí
người có trách nhiệm giải quyết tố cáo còn lợi dụng những sơ hở của pháp
luật thông đồng với người bị tố cáo để có biện pháp đối phó với người tố
cáo…

3
Những tồn tại, bất cập trên không chỉ là vấn đề ý thức pháp luật của
người tố cáo, trách nhiệm của người có thẩm quyền giải quyết tố cáo mà
quan trọng và trước hết là phải xem xét lại cơ chế giải quyết tố cáo ở nước
ta trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân và vì dân, phù hợp với xu thế hội nhập qu
ốc tế, từ đó kiến
nghị sửa đổi pháp luật đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
T ừ những vấn đề đặt ra trên đây cho thấy, việc nghiên cứu “đổi mới
cơ chế giải quyết tố cáo hiện nay” là vấn đề hết sức cần thiết.
2. Quá trình thực hiện Đề tài

Ngay sau khi có quyết định phê duyệt của Tổng Thanh tra, Ban Chủ
nhiệm Đề
tài đã khẩn trương xây dựng đề cương, triển khai kế hoạch
nghiên cứu. Trên cơ sở đó, Ban chủ nhiệm đã lựa chọn và ký hợp đồng
nghiên cứu với các chuyên gia trong và ngoài cơ quan Thanh tra Chính
phủ. Sau một thời gian nghiên cứu khẩn trương và tích cực, toàn bộ 10
chuyên đề của Đề tài đã được hoàn thành để Ban chủ nhiệm tiến hành xây
dựng đề cương và nội dung Báo cáo tổng thuật. Vào tháng 3 và tháng 5
năm 2009, Ban ch
ủ nhiệm đã tổ chức hai cuộc hội thảo về những nội dung
quan trọng thuộc phạm vi nghiên cứu của Đề tài; đồng thời cũng đã bảo vệ
đề tài trước Hội đồng cơ sở Thanh tra Chính phủ vào đầu tháng 6/2009.
Thông qua nhiều ý kiến đóng góp của các đại biểu là đại diện các Cục, Vụ
của Thanh tra Chính phủ, đặc biệt là của những cán bộ có nhiều n
ăm công
tác thực tiễn về tiếp nhận đơn thư tố cáo, giải quyết tố cáo và một số
chuyên gia của cơ quan nhà nước có liên quan và của Hội đồng khoa học
cơ sở, Ban chủ nhiệm đã tiến hành chỉnh sửa, hoàn thiện Báo cáo tổng
thuật để đưa kết quả nghiên cứu ra báo cáo trước Hội đồng khoa học theo
đúng tiến độ.
3. Mục tiêu của đề tài
- Đ
ánh giá thực trạng cơ chế giải quyết tố cáo hiện nay, từ đó tìm ra
những nguyên nhân hạn chế, bất cập để khắc phục.
- Đề xuất các giải pháp, xây dựng luận cứ khoa học cho việc đổi
mới cơ chế giải quyết tố cáo, làm cơ sở xây dựng Luật tố cáo và giải quyết
tố cáo.

4
4. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu về cơ chế giải quyết tố cáo của các cơ
quan hành chính nhà nước, bao gồm việc giải quyết tố cáo đối với cán bộ,
công chức trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ và giải quyết tố cáo đối với
những người có hành vi vi phạm trật tự quản lý hành chính.
5. Nội dung của đề tài
Trên cơ sở nội dung đăng ký đ
ã được phê duyệt, đề tài tập trung
nghiên cứu những nội dung sau :
- Một số vấn đề cơ bản về cơ chế giải quyết tố cáo; quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về tố cáo và công tác giải quyết tố cáo;
- Các quy định của pháp luật về cơ chế giải quyết tố cáo của các cơ
quan hành chính nhà nước; thực trạng tình hình giải quyết tố cáo của các

quan hành chính, những khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết tố
cáo hiện nay; nguyên nhân làm cho hiệu quả công tác giải quyết tố cáo
chưa cao;
- Những quan điểm, nguyên tắc và giải pháp nhằm hoàn thiện cơ
chế giải quyết tố cáo hành chính ở nước ta hiện nay.
II. KẾT CẤU BÁO CÁO TỔNG THUẬT VÀ NHỮNG SẢN
PHẨM CHÍNH CỦA ĐỀ TÀI
1. Kết cấu báo cáo tổng thuật
Báo cáo tổng thuật gồm: ph
ần mở đầu, phần kết luận và 3 chương
nghiên cứu về những nội dung có tính lý luận, thực trạng và phương
hướng hoàn thiện cơ chế giải quyết tố cáo ở nước ta hiện nay.
* Phần mở đầu:
Đề cập đến tính cấp thiết của đề tài, mục tiêu, nội dung, phạm vi
nghiên cứu của đề tài; báo cáo quá trình thực hiện việc nghiên cứu và kết
quả tổng quát c
ủa đề tài.



5
* Chương 1: Một số vấn đề lý luận về cơ chế giải quyết tố cáo
Tập trung nghiên cứu làm rõ các khái niệm tố cáo, đặc điểm của tố
cáo trong lĩnh vực hành chính; khái niệm giải quyết tố cáo và cơ chế giải
quyết tố cáo; quan điểm của Đảng và Nhà nước về tố cáo và giải quyết tố
cáo; kinh nghiệm của một số nước trên th
ế giới về tiếp nhận và giải quyết
tố cáo.
* Chương 2: Thực trạng cơ chế giải quyết tố cáo hành chính ở
nước ta hiện nay
Chương này tập trung làm rõ thực trạng của cơ chế giải quyết tố cáo
hành chính ở nước ta, trong đó bao gồm: quy định của pháp luật hiện hành
về tố cáo và giải quyết tố cáo; tình hình thực hiện công tác giải quyết tố
cáo hành chính theo quy
định của pháp luật - những khó khăn, vướng mắc,
bất cập và nguyên nhân.
* Chương 3: Phương hướng đổi mới cơ chế giải quyết tố cáo
Ngoài việc nêu ra và phân tích các yêu cầu khách quan của việc đổi
mới cơ chế giải quyết tố cáo và quán triệt các quan điểm, nguyên tắc cơ
bản hoàn thiện cơ chế giải quyết tố cáo, chương này chú trọng đến các
biện pháp cấp bách cầ
n đổi mới và hoàn thiện của cơ chế giải quyết tố cáo
hành chính, từ đó đưa ra các kiến nghị góp phần tích cực vào việc xây
dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật nói chung, pháp luật về tố
cáo và giải quyết tố cáo nói riêng.
2. Những sản phẩm chính của đề tài
- 10 chuyên đề với 200 trang của 10 tác giả.
- Báo cáo tổng thuật kết quả nghiên cứu.

- Báo cáo tóm tắt kết quả nghiên cứu.
- Nh
ững kết luận và kiến nghị khoa học của đề tài.
Sau đây là những nội dung cụ thể của đề tài:

6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TỐ CÁO

1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TỐ
CÁO
1.1.1. Khái niệm về tố cáo, giải quyết tố cáo và cơ chế giải quyết
tố cáo
1.1.1.1. Khái niệm về tố cáo
Theo Từ điển tiếng Việt thì tố cáo là “báo cho mọi ngườ
i hoặc cơ
quan có thẩm quyền biết người hoặc hành động phạm pháp nào đó”, hay
“tố cáo là vạch rõ tội lỗi của kẻ khác trước cơ quan pháp luật hoặc trước
dư luận” [34, tr.1663]. Từ “báo” hoặc “vạch rõ tội lỗi” là những động từ
đều chỉ hành động nhưng khác nhau ở mức độ. Khi nói tố cáo là báo cho
ai tức là khái niệm được sử dụng theo nghĩa thông thường, hiểu theo nghĩa
chung nhất. Khi nói tố cáo là vạch tội lỗi thì được hiểu việc tố cáo này là
khá nghiêm trọng, theo đó người tố cáo cho rằng người bị tố cáo đã vi
phạm pháp luật hình sự. Nói chung, những khái niệm này đã phản ánh
được bản chất của tố cáo, song chưa đầy đủ, chưa thể hiện hết sự phức tạp
và đa dạng của tố cáo phát sinh trong đời sống xã hội. Với tư
cách là đạo
luật “gốc” về lĩnh vực khiếu nại và tố cáo, lần đầu tiên Luật Khiếu nại, tố
cáo năm 1998 đã quy định khái niệm tố cáo: “Tố cáo là việc công dân theo
thủ tục do Luật này quy định, báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm

quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức cá
nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hạ
i lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức ” (Khoản 2, Điều
2). Theo định nghĩa này, tố cáo là quyền của công dân; công dân có quyền
tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức cá nhân nào
với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

7
Như vậy, tố cáo hiểu theo nghĩa chung nhất là báo cho người (hoặc
cơ quan) có thẩm quyền biết về hành vi được coi là vi phạm pháp luật của
cá nhân hoặc tổ chức nào đó và yêu cầu xử lý người có hành vi vi phạm.
Tố cáo phát sinh khi một người cho rằng lợi ích của Nhà nước, quyền
hoặc lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức đã bị xâm hại hoặc
có thể bị xâm hạ
i và người đó báo với cơ quan nhà nước. Tố cáo là hành
động nhằm bảo vệ và ngăn chặn khả năng vi phạm lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Những việc làm
trái pháp luật không phải chỉ của cán bộ, công chức nhà nước mà của cả
các cơ quan, tổ chức. Thông qua việc tố cáo vi phạm pháp luật, Nhà nước
có được một nguồn thông tin về nh
ững hành vi vi phạm pháp luật diễn ra
trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, qua đó cơ quan nhà nước,
người có thẩm quyền kiểm tra, xem xét để có biện pháp xử lý phù hợp.
Tố cáo khác với tin báo vi phạm pháp luật và kiến nghị, phản ánh ở
yếu tố chủ thể. Chủ thể của tố cáo là chủ thể được xác định cụ thể và phải
chịu trách nhiệm v
ề thông tin do mình đưa ra. Mặt khác khi công dân thực
hiện quyền tố cáo đã phát sinh một quan hệ pháp luật về tố cáo, trên cơ sở
đó, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có nghĩa vụ giải quyết và trả lời cho

người tố cáo biết. Còn tin báo vi phạm pháp luật và kiến nghị, phản ánh
thì chủ thể có thể xác định hoặc không xác định, nội dung của tin báo,
kiến nghị, phản ánh chỉ là thông tin tham khảo, nếu có că
n cứ thì cơ quan
nhà nước có thẩm quyền sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.
Trong thực tế hiện nay có sự phân biệt tố cáo trong các lĩnh vực
khác nhau như: tố cáo trong lĩnh vực tư pháp, hành chính, lao động…hoặc
phân biệt theo đối tượng bị tố cáo như tố cáo người dân có hành vi vi
phạm pháp luật, tố cáo cán bộ, công chức, tố cáo đảng viên…Theo pháp
luật hiện hành, căn cứ vào đối tượng bị t
ố cáo, mức độ hành vi vi phạm
pháp luật và sự phân cấp quản lý cán bộ, công chức mà mỗi loại hình tố
cáo này được giải quyết theo các trình tự, thủ tục khác nhau.
Từ những phân tích khái niệm tố cáo nói trên có thể đưa ra khái
niệm về tố cáo lĩnh vực hành chính như sau:

8
Tố cáo trong lĩnh vực hành chính là việc công dân báo tin cho cơ
quan, người có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật xảy ra trong
lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt
hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan,
tổ chức.
Tố cáo trong lĩnh vực hành chính khác với tố cáo trong các lĩnh vực
khác bởi những đặc điểm sau
đây:
+ Đối tượng bị tố cáo là cán bộ, công chức trong hệ thống cơ quan
hành chính nhà nước và người có hành vi vi phạm trật tự quản lý hành
chính.
+ Hành vi bị tố cáo xảy ra trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà
nước.

+ Thẩm quyền giải quyết tố cáo trong lĩnh vực này thuộc người
đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước.
Việc làm rõ khái niệm và những đặc điểm tố cáo trong lĩnh vực
hành chính có ý nghĩa quan trọ
ng, góp phần xác định được thẩm quyền,
trình tự, thủ tục giải quyết và hình thức chế tài áp dụng đối với hành vi vi
phạm. Đây cũng là vấn đề trọng tâm mà đề tài tập trung nghiên cứu.
1.1.1.2. Khái niệm về giải quyết tố cáo
Để phát huy được quyền tố cáo của công dân nhằm phát hiện và
xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân, cơ
quan, tổ chức, góp phần làm trong sạch bộ máy nhà
nước và ổn định tình hình trật tự xã hội thì các cơ quan nhà nước cần phải
thực hiện tốt công tác giải quyết tố cáo. Tuy nhiên, giải quyết tố cáo được
tiến hành như thế nào, cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết, trách nhiệm
đến đâu thì trước hết chúng ta phải làm rõ khái niệm giải quyết tố cáo. Do
tính phức tạp của công tác giải quyết t
ố cáo nên trên hiện nay còn có nhiều
ý kiến khác nhau về vấn đề này. Có ý kiến cho rằng việc giải quyết tố cáo
bao gồm nhiều vấn đề liên quan trong việc chỉ đạo, tổ chức, thực hiện, bao

9
gồm việc thẩm tra, xác minh nội dung tố cáo; việc kết luận, kiến nghị các
biện pháp xử lý; việc quyết định xử lý của người có thẩm quyền; việc
kiểm tra, đôn đốc thực hiện quyết định xử lý về tố cáo đó trên thực tế và
cả việc kiểm tra giám sát hoạt động giải quyết tố cáo, thi hành quyết định
xử lý tố cáo Bên cạnh
đó cũng có ý kiến không hoàn toàn thống nhất
như vậy, mà cho rằng việc thẩm tra, xác minh là công việc đương nhiên
phải làm trong quá trình giải quyết vụ việc tố cáo và việc kiểm tra, đôn

đốc thực hiện quyết định xử lý về tố cáo là các công việc của các cơ quan
quản lý nhà nước; giám sát hoạt động giải quyết tố cáo, việc xử lý của cơ
quan nhà nước đối với người có hành vi vi phạm không nằ
m trong chu
trình của hoạt động giải quyết tố cáo. Vì vậy, theo các ý kiến này, suy cho
cùng giải quyết tố cáo là việc xử lý của nhà nước đối với người có hành vi
vi phạm.
Theo Luật Khiếu nại, tố cáo thì giải quyết tố cáo “là việc xác
minh, kết luận về nội dung tố cáo và việc quyết định xử lý của người giải
quyết tố cáo”. Với khái niệm này thì việc giải quyết tố cáo là khá h
ẹp,
chưa bao hàm giai đoạn đầu và giai đoạn cuối của quá trình giải quyết tố
cáo, đó là việc tiếp nhận, thụ lý tố cáo và việc thi hành quyết định xử lý tố
cáo, kiểm tra, giám sát hoạt động giải quyết tố cáo.
Nghiên cứu những vấn đề liên quan tới nội dung giải quyết tố cáo
nói trên, chúng tôi cho rằng giải quyết tố cáo là việc cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyề
n xem xét hành vi của đối tượng bị tố cáo (bị người tố
cáo cho là có hành vi trái pháp luật), xử lý đối với người có hành vi vi
phạm và đưa ra những biện pháp khắc phục hậu quả do hành vi sai trái đó
gây ra nhằm giữ gìn kỷ cương, trật tự an toàn xã hội. Như vậy, giải quyết
tố cáo phải bao hàm từ khâu tiếp nhận tố cáo cho đến khâu kiểm tra, giám
sát việc giải quyết tố cáo, xử lý người có hành vi vi phạ
m.
Giải quyết tố cáo là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước. Tuy
nhiên, do sự đa dạng, phức tạp của các hành vi bị tố cáo có thể là hành vi
vi phạm pháp luật hành chính, hình sự, kinh tế, lao động…nên việc giải
quyết tố cáo thuộc thẩm quyền của nhiều cơ quan khác nhau và do rất

10

nhiều văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh. Việc giải quyết tố cáo được
áp dụng theo những thủ tục nhất định tuỳ vào tính chất, mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi vi phạm. Những hành vi vi phạm ở mức độ nhẹ thì
bị xử lý bằng biện pháp hành chính và sẽ do cơ quan hành chính tiến hành,
còn những hành vi vi phạm có tính chất nguy hiểm cho xã hội được quy
định trong B
ộ luật hình sự thì phải được các cơ quan tố tụng tiến hành
theo trình tự, thủ tục chặt chẽ đã được pháp luật về tố tụng quy định.
Chính vì vậy Luật Khiếu nại, tố cáo hiện hành chỉ tập trung điều chỉnh về
việc tố cáo và giải quyết tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ
quan hành chính nhà nước (sau đây gọi tắ
t là tố cáo hành chính và giải
quyết tố cáo hành chính).
Giải quyết tố cáo hành chính là việc kiểm tra, xác minh, kết luận về
tính hợp pháp của hành vi bị tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ
quan hành chính nhà nước để có biện pháp giải quyết theo quy định của
pháp luật nhằm bảo vệ lợi ích Nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, cơ quan, tổ chức
Căn cứ vào tính chấ
t, mức độ nguy hiểm cho xã hội và đặc điểm
của hành vi bị tố cáo và đối tượng bị tố cáo mà pháp luật quy định thẩm
quyền giải quyết tố cáo hành chính. Luật Khiếu nại, tố cáo hiện hành đã
phân định thẩm quyền giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính nhà
nước như sau:
- Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm quy định về nhiệm vụ,
công vụ của ng
ười thuộc cơ quan, tổ chức nào thì Thủ trưởng cơ quan, tổ
chức đó có trách nhiệm giải quyết. Nếu người bị tố cáo là người đứng đầu
cơ quan, tổ chức thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp
của cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm giải quyết.

- Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật mà nội dung liên quan đến chức
năng qu
ản lý nhà nước của cơ quan nào thì cơ quan đó có trách nhiệm giải
quyết.

11
Quy định thẩm quyền giải quyết tố cáo của cơ quan hành chính
nhà nước xuất phát từ cơ sở: tố cáo phát sinh trong quá trình các cơ quan
hành chính nhà nước thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành, quản lý
nhà nước, thực hiện quyền hành pháp. Do đó, trước hết các cơ quan hành
chính nhà nước phải có trách nhiệm giải quyết những vấn đề phát sinh do
chính hoạt động quản lý của mình gây ra. Hơn nữa, trách nhiệ
m này xuất
phát từ chính yêu cầu tự thân của quản lý hành chính nhà nước và vai trò
của hoạt động giải quyết tố cáo đối với hoạt động chấp hành và điều hành.
1.1.1.3. Cơ chế giải quyết tố cáo
Theo Đại từ điển tiếng Việt thì “Cơ chế là cách thức sắp xếp tổ
chức để làm đường hướng, cơ sở theo đó mà thực hiện” [34, tr. 464]. Có ý
kiến cho r
ằng: Cơ chế là cách thức vận hành, là phương pháp hay quá
trình để làm một việc gì đó; hoặc cơ chế là cách sắp xếp, bố trí các bộ
phận cấu thành một tổ chức nào đó. Có ý kiến khác lại cho rằng, cơ chế
thực ra là toàn bộ các quy định của pháp luật điều chỉnh một vấn đề nào
đó.
Từ những quan niệm khác nhau về cơ chế như trên dẫn đế
n có
nhiều cách hiểu khác khác nhau về cơ chế giải quyết tố cáo.
Có ý kiến cho rằng, cơ chế giải quyết tố cáo là cách thức nhà nước
tổ chức việc giải quyết tố cáo, bao gồm cách thức tiếp nhận tố cáo, bảo vệ
người tố cáo; cách thức giải quyết tố cáo, thi hành quyết định xử lý về tố

cáo; cách thức kiểm tra, giám sát việc giải quyết tố cáo, thi hành quyế
t
định xử lý tố cáo. Đồng thời cho rằng cơ chế giải quyết tố cáo chỉ được
xác định trong những quy định của pháp luật hay nói cách khác cơ chế
giải quyết tố cáo là các quy định của pháp luật về việc tổ chức giải quyết
tố cáo của nhà nước.
Cách tiếp cận trên mới chỉ xác định nội dung cơ chế giải quyết tố
cáo đã đượ
c ghi nhận trong các văn bản pháp luật thực định, song lại chưa
đề cập đến các bộ phận cấu thành và sự vận hành của các thành tố trong
cơ chế đó (xét trong chỉnh thể thống nhất) cũng như sự phối kết hợp giữa

12
các bộ phận, thành tố thuộc cơ chế trong quá trình giải quyết tố cáo, đồng
thời cũng chưa đề cập đến những điều kiện cần thiết để các bộ phận, thành
tố vận hành trong cơ chế đó.
Để phản ánh đầy đủ toàn diện các nội dung, khía cạnh của cơ chế,
Chúng tôi cho rằng: Cơ chế giải quyết tố cáo là tổng thể
những vấn đề về
cách thức tổ chức việc giải quyết tố cáo; mối quan hệ phối hợp giữa các cơ
quan, tổ chức trong quá trình giải quyết tố cáo và các biện pháp bảo đảm
để các cơ quan, tổ chức thực hiện việc giải quyết tố cáo.
Như vậy, cơ chế giải quyết tố cáo hành chính tổng thể những vấn đề
về cách th
ức tổ chức việc giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm của
cán bộ, công chức trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, công vụ và hành vi
vi phạm trật tự quản lý hành chính của công dân; mối quan hệ phối hợp
giữa các cơ quan hành chính, giữa các cơ quan hành chính với các cơ quan
tư pháp và các cơ quan, tổ chức khác trong quá trình giải quyết tố cáo và
các biện pháp bảo đảm để các cơ quan, tổ chức thực hi

ện việc giải quyết tố
cáo.
1.1.2. Nội dung của cơ chế giải quyết tố cáo
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về nội dung của cơ chế nói chung
và cơ chế giải quyết tố cáo nói riêng, chẳng hạn cách tiếp cận đi từ vấn đề
bộ máy đến con người và cách thức vận hành bộ máy đó. Tuy nhiên, để
đạt mục đích nghiên cứu mà đề tài đã
đặt ra, chúng tôi tiếp cận nội dung
cơ chế giải quyết tố cáo với ba vấn đề cơ bản, đó là các quy định của pháp
luật về tố cáo và giải quyết tố cáo; việc tổ chức thực hiện các quy định
pháp luật này trên thực tế và các điều kiện đảm bảo cho việc tổ chức và
hoạt động giải quyết tố cáo.
Nội dung của cơ ch
ế giải quyết tố cáo nói chung đã được quy định
trong nhiều văn bản pháp luật ở nước ta, trong đó phải kể đến những văn
bản quan trọng như Luật Khiếu nại, tố cáo, Luật Phòng, chống tham
nhũng, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật Lao động. Các văn bản pháp luật
điều chỉnh về tố cáo và giải quyết tố cáo trong từng l
ĩnh vực này có những

13
đặc thù riêng như Bộ luật Tố tụng hình sự tập trung quy định về tin báo, tố
giác tội phạm, kiến nghị khởi tố và tố cáo về hành vi vi phạm của người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Luật Khiếu nại, tố cáo với tư cách là đạo
luật gốc quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo, vì vậy ngoài những quy
định chung về tố cáo, nguyên tắc xác
định thẩm quyền, Luật này đi sâu
quy định về giải quyết tố cáo thuộc trách nhiệm của các cơ quan hành
chính. Mặc dù có sự khác nhau về đối tượng, phạm vi điều chỉnh, nội
dung của từng văn bản pháp luật cũng như cách thức tổ chức thực hiện

việc giải quyết…nhưng xét trên bình diện chung thì nội dung của cơ chế
giải quyết tố cáo bao g
ồm:
1.1.2.1. Hành lang pháp lý thực hiện quyền tố cáo và giải quyết tố
cáo
- Việc tổ chức tiếp nhận tố cáo, việc bảo đảm an toàn cho người tố
cáo, bao gồm:
+ Phân biệt các loại tố cáo trong các lĩnh vực hành chính, hình sự,
lao động… để điều chỉnh, giải quyết theo các trình tự khác nhau;
+ Những hình thức để công dân thực hiện việc tố cáo với cơ quan
nhà nước (tố cáo trực tiế
p, bằng văn bản, bằng điện thoại, mạng thông tin
điện tử …);
+ Xác định quyền và nghĩa vụ của người tố cáo;
+ Các biện pháp giữ bí mật và bảo vệ người tố cáo, nhất là khi họ bị
đe dọa trả thù, trù dập.
- Quy định việc tổ chức giải quyết tố cáo:
+ Xác định thẩm quyền giải quyết của các cơ quan trong việc giải
quyết tố cáo: nguyên tắc xác định thẩm quyền trong Luật khiếu nại, tố cáo,
Bộ luật hình sự, Bộ luật lao động, đặc biệt là trong Luật khiếu nại, tố cáo;
thẩm quyền giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính trong đó có vai
trò của các cơ quan Thanh tra trong việc giải quyết tố cáo;

14
+ Quy định trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo: việc thụ lý, xác minh,
kết luận kiến nghị;
+ Việc xử lý của các cơ quan có thẩm quyền đối với người có hành
vi vi phạm: xử lý hành chính, hình sự, bồi thường dân sự;
+ Các biện pháp tổ chức thi hành quyết định xử lý của cơ quan có
thẩm quyền;

1.1.2.2. Việc tổ chức thực hiện pháp luật về giải quy
ết tố cáo
- Trách nhiệm tổ chức thực hiện của các cơ quan, các ngành, các
cấp; tổng kết, đánh giá việc thực hiện các quy định của pháp luật về tc và
giải quyết tố cáo.
- Mối quan hệ giữa cơ quan hành chính với cơ quan, tổ chức khác
trong việc giải quyết tố cáo.
+ Mối quan hệ giữa cơ quan hành chính với cơ quan tư pháp: Giữa
cơ quan Thanh tra với cơ quan Đ
iều tra, Viện kiểm sát; giữa cơ quan có
thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính với cơ quan Công an, Viện kiểm
sát.
+ Mối quan hệ giữa cơ quan hành chính với cơ quan, tổ chức khác
(Ủy ban kiểm tra đảng, của các tổ chức đoàn thể ), nhất là việc giải quyết
tố cáo đối với cán bộ, công chức nói chung và cán bộ, công chức là đảng
viên.
- Việc giám sát công tác giải quyết tố cáo: giám sát hoạ
t động giải
quyết tố cáo, việc thi hành quyết định xử lý tố cáo của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền - việc xử lý đối với hành vi vi phạm, người có hành vi vi
phạm. Đây là hoạt động hết sức quan trọng và cần thiết nhằm làm cho việc
giải quyết tố cáo khách quan, hiệu quả. Hiện nay, ở nước ta có các hình
thức giám sát sau:
+ Giám sát của các cơ quan nhà nước (Quốc hội, Hội đồng nhân
dân các cấp).

15
+ Giám sát của các tổ chức đoàn thể (Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các tổ chức thành viên của Mặt trận).
+ Giám sát của nhân dân thông qua Ban thanh tra nhân dân.

1.1.2.2. các điều kiện đảm bảo cho sự vận hành của cơ chế giải
quyết tố cáo
- Điều kiện về cơ sở vật chất; trang thiết bị và các điều kiện cần
thiết khác để phụ
c vụ việc giải quyết tố cáo, bảo vệ người tố cáo.
- Điều kiện về con người: tiêu chuẩn, năng lực, phẩm chất, ý thức
trách nhiệm của cán bộ làm công tác tiếp dân, giải quyết tố cáo; chế độ
chính sách đãi ngộ đối với người làm nhiệm vụ giải quyết tố cáo.
- Chế độ khen thưởng đối với những người có thành tích và các chế
tài xử
lý đối với những người vi phạm pháp luật về tố cáo và giải quyết tố
cáo.
Như vậy, có thể thấy cơ chế giải quyết tố cáo đã được quy định trong
nhiều văn bản quy phạm pháp luật và việc thực Tuy nhiên, để phục vụ
cho việc xây dựng Luật tố cáo và giải quyết tố cáo, trong phạm vi của đề
tài, chúng tôi đi sâu nghiên cứu về cơ chế
giải quyết tố cáo trong lĩnh vực
hành chính, đồng thời có nghiên cứu về mối quan hệ và sự phối hợp giữa
cơ quan hành chính và cơ quan tư pháp trong việc xem xét, giải quyết tố
cáo có dấu hiệu tội phạm; giữa cơ quan hành chính với các tổ chức chính
trị trong việc xem xét, giải quyết tố cáo đối với cán bộ, công chức là đảng
viên, thành viên của các tổ chức đoàn thể.
1.2. QUAN ĐI
ỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA VỀ TỐ CÁO
VÀ GIẢI QUYẾT TỐ CÁO
1.2.1. Tố cáo là công cụ sắc bén và hiệu quả để chống tham
nhũng, lãng phí và các hành vi vi phạm pháp luật khác
Ngay sau khi giành được chính quyền, Đảng và Nhà nước đã rất quan
tâm tới việc giải quyết hiệu quả các khiếu nại, tố cáo nói chung và việc


16
giải quyết tố cáo nói riêng, coi việc thực hiện quyền tố cáo là phương thức
thể hiện dân chủ trực tiếp để nhân dân tham gia quản lý Nhà nước, quản lý
xã hội và bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức và công dân, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và các
vi phạm pháp luật khác. Xuất phát từ quan điểm đó, ở mỗi giai đoạn phát
triể
n đất nước, Đảng và Nhà nước đều có các chỉ thị, nghị quyết, ban hành
các văn bản pháp luật về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, trong đó
quy định cụ thể về việc tố cáo và giải quyết tố cáo của công dân.
Ngày 23 tháng 11 năm 1945, Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà đã ban hành Sắc lệnh số 64/SL về việc thành lập Ban Thanh tra đặc
biệt: “Điều thứ
nhất - Chính phủ sẽ lập ngay một Ban thanh tra đặc biệt,
có uỷ nhiệm là đi giám sát tất cả các công việc và các nhân viên của uỷ
ban nhân dân và các cơ quan của Chính phủ cần thiết cho việc giám sát
Điều thứ hai - Ban thanh tra đặc biệt có toàn quyền:…Nhận các
đơn khiếu nại của nhân dân…”
Đây là văn bản pháp lý đầu tiên quy định về giải quyết khiếu nại,
trong văn bản này chưa thấy xuất hiện khái ni
ệm tố cáo hoặc khái niệm
tương tự như: tố giác, phản ánh, tin báo tội phạm… Nhưng vẫn có thể
khẳng định quy định này liên quan đến việc giải quyết tố cáo, vì xuất
phát từ sự phân tích bối cảnh và mục tiêu của việc ra đời Ban thanh tra
đặc biệt cũng như các quyền hạn trao cho Ban này trong Sắc lệnh số 64
là “điều tra, hỏi chứng…đình chức, bắt giam bất cứ
nhân viên nào …
Tịch biên hoặc niêm phong những tang vật và dùng mọi cách điều
tra…Truy tố tất cả các việc…” thì có thể thấy rằng Ban thanh tra được
trao những quyền hạn hết sức rộng lớn với mục đích là giám sát hoạt

động của bộ máy nhà nước, nhân viên nhà nước và đương nhiên là có
quyền tiếp nhận và giải quyết các tố giác của người dân đối với hành vi
vi phạm pháp luật của những người trong bộ
máy chính quyền. Điều này
càng được khẳng định khi chúng ta xem xét hoạt động của Ban thanh tra
đặc biệt: “Nhiệm vụ của Ban thanh tra đặc biệt là thường xuyên nghiên
cứu và giải quyết các đơn thư khiếu nại, phản ánh của các tầng lớp nhân

17
dân từ khắp các địa phương gửi lên Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí
Minh…”. Những hoạt động như vậy chính là việc giải quyết các vụ việc
tố cáo hiện nay mà các cơ quan nhà nước đang tiến hành.
Năm 1946 Hiến pháp đầu tiên của nước ta được ban hành, trong
đó có khẳng định các quyền và tự do, dân chủ hoàn toàn của người Việt
Nam. Tuy chưa có điều khoản cụ thể nào quy định v
ề quyền tố cáo của
công dân song cơ chế dân chủ mà Hiến pháp tạo dựng đã là nền tảng cơ
bản hình thành quyền tố cáo của công dân trên thực tế.
Hiến pháp năm 1959 lần đầu tiên quy định quyền khiếu nại, tố cáo
của công dân tại Điều 29: “Công dân nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà
có quyền khiếu nại, tố cáo với bất cứ cơ quan nào của nhà nước về nh
ững
hành vi vi phạm của nhân viên cơ quan nhà nước. Những việc khiếu nại
và tố cáo phải được xét và giải quyết nhanh chóng. Người bị thiệt hại vì
hành vi phạm pháp của nhân viên cơ quan nhà nước có quyền được bồi
thường”.
Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 quyền tố cáo của công
dân tiếp tục được khẳng định và phát triển. Điều 74 Hiến pháp năm 1992
quy định: “Công dân có quyền khiếu nại, t
ố cáo với cơ quan nhà nước có

thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá
nhân nào.
Việc khiếu nại, tố cáo phải được xem xét và giải quyết trong thời
hạn pháp luật quy định.
Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền lợi chính
đáng, quyền và lợi ích hợ
p pháp của tập thể và của công dân phải được kịp
thời xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về
vật chất và phục hồi danh dự.
Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng
quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác.”

18
Quan niệm tố cáo là một công cụ sắc bén và hiệu quả để chống
tham nhũng, lãng phí và các hành vi vi phạm pháp luật, từ sau cách mạng
tháng Tám đến nay Đảng ta rất quan tâm đến vấn đề này. Quan điểm của
Đảng luôn thể hiện xuyên suốt trong các Nghị quyết, Văn kiện và trong
thực tiễn chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Đặc biệt là kể từ khi đất nước phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành ph
ần, vận hành theo cơ chế thị
trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, những biểu hiện tiêu cực thuộc
mặt trái của cơ chế thị trường ngày càng phức tạp. Bốn nguy cơ mà Đảng
ta đã từng chỉ rõ-tụt hậu xa hơn về kinh tế, chệch hướng xã hội chủ nghĩa,
nạn tham nhũng và tệ quan liêu, “diễn biến hòa bình” do các thế lực thù
địch gây ra vẫ
n tồn tại. Điều cần nhấn mạnh là: tình trạng tham nhũng và
sự suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán
bộ, đảng viên đang cản trở việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, gây bất bình và làm giảm lòng tin trong nhân dân. Bàn về

phương hướng và các giải pháp hạn chế và đẩy lùi tình trạng trên, Văn
kiệ
n Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX khẳng định: “phát huy dân chủ,
giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế… giải quyết kịp thời
khiếu nại, tố cáo của công dân” [9, tr. 49].
Đấu tranh chống tham nhũng là một sự nghiệp to lớn, khó khăn,
phức tạp và đầy cam go, quyết liệt của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta,
nhằm bảo vệ chế độ. Sự nghi
ệp này không phải kết thúc một sớm, một
chiều, để giành thắng lợi phải tiến hành bằng nhiều phương thức khác
nhau: tăng cường tổ chức và cơ chế, tiếp tục cuộc đấu tranh chống tham
nhũng trong bộ máy nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị ở các cấp, các
ngành từ trung ương đến cơ sở; gắn chống tham nhũng với chống lãng phí,
quan liêu, đặc biệt ch
ống các hành vi lợi dụng chức quyền để làm giàu bất
chính; tiếp tục xóa bỏ các thủ tục hành chính phiền hà, nhất là những lĩnh
vực, những khâu dễ xảy ra tham nhũng, sách nhiễu; thanh tra, kiểm tra,
kiểm kê, kiểm soát, bảo đảm tính minh bạch trong việc sử dụng ngân sách
nhà nước, tài sản công, tài chính các doanh nghiệp nhà nước, các quỹ do
nhân dân đóng góp và do nước ngoài tài trợ. Coi trọng các hình thức giám

19
sát, kiểm tra, tố cáo những kẻ tham nhũng Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX khẳng định: “các đảng viên và chi bộ đảng, Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể nhân dân, các cơ quan thông tin đại chúng và toàn xã
hội có trách nhiệm giám sát, kiểm tra cán bộ, công chức, phát hiện, tố cáo,
lên án những kẻ tham nhũng. Xử lý nghiêm minh theo pháp luật và theo
Điều lệ Đảng những cán bộ, đảng viên, công chức
ở bất cứ cấp nào, lĩnh
vực nào lợi dụng chức quyền để tham nhũng.” [9, tr. 136].

Như vậy, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân
được khẳng định các Văn kiện của Đảng và được cụ thể hóa trong các
Hiến pháp, các văn bản pháp luật- một quyền có tính chất chính trị, pháp
lý của công dân, là công cụ sắc bén và hiệu quả để chống tham nhũng,
lãng phí và các hành vi vi phạm pháp lu
ật.
1.2.2. Giải quyết tố cáo góp phần đề cao vai trò làm chủ của
nhân dân
Bản chất dân chủ của Nhà nước ta thể hiện một cách toàn diện trên
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa và xã hội. Đại hội Đảng
lần thứ VII khẳng định: tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước theo phương
hướng Nhà nước thực sự là của dân, do dân, và vì dân; Nhà nước quản lý
xã hội bằng pháp lu
ật, dưới sự lãnh đạo của Đảng; tổ chức hoạt động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện thống nhất quyền lực nhưng phân
công, phân cấp rành mạch; bộ máy tinh giản, gọn nhẹ và hoạt động có chất
lượng cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật, quản lý
[7, tr. 91].
Quyền tố cáo của công dân là quyền Hiến định được ghi nhận tại
các bản Hiến pháp của nước ta và được cụ thể hóa bằng nhiều văn bản
pháp luật mà quan trọng nhất là Luật Khiếu nại, tố cáo, Luật Phòng chống
tham nhũng, Bộ luật tố tụng hình sự. Đó là bước tiến mới trong quan hệ
bình đẳng hai chiều về quyền giữa cơ quan công quyền và người dân, phát
huy quyền lực nhân dân, làm cho bộ máy nhà nước gần dân hơn, phục vụ
nhân dân tốt hơn, đồng thời công dân cũng thật sự được thực hiện quyền

20
kiểm tra, giám sát các hoạt động của các cơ quan nhà nước, công chức nhà
nước, góp phần đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, vi phạm pháp luật
trong bộ máy nhà nước. Thời gian gần đây việc tố cáo của công dân có

nhiều diễn biến phức tạp, hàng năm, số người trực tiếp đến cơ quan nhà
nước tố cáo tăng. Nhân dân không còn thờ ơ với công việc của Nhà nước,
đã ý thức được trách nhi
ệm của mình và biết phải làm như thế nào để đấu
tranh góp phần xây dựng Nhà nước ta thật sự trong sạch, vững mạnh. Mặt
khác người dân đã nhận thức rõ quyền và nghĩa vụ hợp pháp của mình,
trong đó có quyền tố cáo. Chủ động tích cực thực hiện các quyền tố cáo là
phát huy vai trò làm chủ của mình trong đấu tranh chống các hành vi vi
phạm pháp luật. Như vậy, có thể khẳng định quyền t
ố cáo chính là một
trong những quyền cơ bản của công dân, là một hình thức biểu hiện của
dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đó là quyền dân chủ trực tiếp- một chế định của
nền dân chủ để nhân dân thông qua đó thiết thực tham gia vào việc quản
lý nhà nước, quản lý xã hội.
Nhân dân với tư cách là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước,
nhân dân thực hiện quyề
n lực của mình thông qua việc kiểm tra, giám sát
hoạt động của các cơ quan Nhà nước hoặc trực tiếp trình bày các yêu cầu,
kiến nghị của mình đối với Nhà nước. Thông qua việc tố cáo nhân dân
thực hiện quyền giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, cán bộ,
công chức và đó chính là thực hiện quyền làm chủ của mình.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng đề cao vai trò giám
sát của quần chúng
đối với cơ quan nhà nước và công chức, viên chức
nhà nước. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Người viết “Kiểm soát
có hai cách, một cách là trên xuống. Tức là người lãnh đạo kiểm soát kết
quả những công việc của cán bộ mình. Một cách nữa là từ dưới lên. Tức
là quần chúng và cán bộ kiểm soát sự sai lầm của người lãnh đạo và bày
tỏ cái cách sửa chữa sự sai lầm đó. Cách này là cách tốt nhất
để kiểm

soát các nhân viên”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nước ta là
một nước dân chủ. Mọi công việc đều vì lợi ích của dân mà làm Khi ai
có điều gì oan ức thì có thể do các đoàn thể tố cáo lên cấp trên. Đó là

21
quyền dân chủ của tất cả công dân Việt Nam. Đồng bào cần hiểu rõ và
khéo dùng quyền ấy” [29, tr. 65-66]. Người còn căn dặn: “Cán bộ cấp
trên phải luôn luôn đôn đốc và kiểm tra công việc cán bộ cấp dưới. Nhân
dân thì giúp Chính phủ và đoàn thể kiểm tra công việc và hành vi của các
cán bộ”. Quan điểm này đã được thể hiện rõ nét trong các Chỉ thị, Nghị
quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Trong tình hình hiệ
n nay, tham
nhũng đã và đang trở thành quốc nạn thì quyền dân chủ của công dân
trong lĩnh vực tố cáo và trách nhiệm của nhà nước trong việc giải quyết
tố cáo càng được coi trọng. Chính vì vậy, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X của Đảng đã khẳng định: “phải kiên trì thực hiện tốt vừa
xây, vừa chống trong phòng, chống tham nhũng
Xử lý nghiêm minh, kịp th
ời cán bộ, công chức tham nhũng,
không phân biệt chức vụ và địa vị xã hội còn đương chức hay đã nghỉ
việc. Thiết lập cơ chế khuyến khích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của những người phát hiện và tố cáo; đồng thời xử lý nghiêm những
người bao che tham nhũng, ngăn cản việc chống tham nhũng ”. Để làm
tốt các công việc trên, Văn kiện chỉ rõ: “khẩn tr
ương triển khai đồng bộ
Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí, Luật Khiếu nại và tố cáo.”[12, tr. 257].
Thể chế hóa tư tưởng của Đảng ta về coi trọng đấu tranh, phát
hiện, tố cáo những hành vi tiêu cực, tham nhũng từ bản Hiến pháp đầu
tiên đến Hiến pháp 1959, 1980 và 1992 đều coi trọng vấn đề tố cáo và

giải quyết tố cáo, xem đó là một điề
u kiện cơ bản bảo đảm quyền dân
chủ của công dân. Điều 8 Hiến pháp 1992 quy định: “Các cơ quan nhà
nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục
vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự
giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí
và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch và cửa quyền.”.
Tính chất giám sát trong công tác giải quyết tố cáo được bi
ểu hiện
ở chỗ khi tố cáo, nhân dân đã chuyển đến cho Nhà nước những thông tin,
phát hiện về những việc làm vi phạm pháp luật, xâm hại đến lợi ích của

22
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân để trên cơ sở đó Nhà
nước kiểm tra lại hành vi của các cơ quan và các viên chức của mình
thông qua việc giải quyết tố cáo. Qua đó, Nhà nước phát hiện được hành
vi tham nhũng, quan liêu, tiêu cực cũng như các biểu hiện vi phạm pháp
luật của cán bộ, công chức để kịp thời giáo dục, xử lý, làm cho bộ máy
nhà nước trong sạch, vững mạnh. Trong tình hình hiện nay, việ
c giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân là một trong những yêu cầu cấp
bách và quan trọng, nhằm góp phần vào việc ngăn chặn, bài trừ tệ nạn
tham nhũng, buôn lậu, tiêu pha lãng phí của cán bộ, công chức và công
dân.
Như vậy, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về trách nhiệm giải
quyết tố cáo của cơ quan nhà nước có thẩm quyền chính là phương thức,
biện pháp đề cao vai trò làm chủ củ
a nhân dân.
1.2.3. Giải quyết tố cáo góp phần bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước
Theo quan điểm của Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh,

giải quyết tố cáo chính là một biện pháp quan trọng và thiết thực để củng
cố lòng tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Giải quyết tố cáo là một
hình thức biểu hiện trực tiếp của mối quan hệ giữa nhân dân và Nhà nước.
Nếu nh
ư tố cáo được các cơ quan nhà nước giải quyết một cách chính xác,
khách quan, kịp thời thì Nhà nước thực sự đã là của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân, bởi lẽ Nhà nước đã tôn trọng, lắng nghe, quan tâm đến
quyền lợi của người dân cũng như của Nhà nước. Nhưng ngược lại, nếu
những người có thẩm quyền không quan tâm đến ý kiến, phản ánh của họ
thì sẽ tạo nên một tâm trạng "bất mãn", thi
ếu tin tưởng và dẫn đến xu
hướng xa lánh, không tin vào Đảng và Nhà nước vì thái độ thờ ơ, vô trách
nhiệm của những người đại diện cho Nhà nước. Mặt khác, coi trọng việc
tố cáo đúng sự thật và giải quyết triệt để các tố cáo là điều kiện, cơ hội để
đảng viên, Cán bộ, công chức nhà nước tự nhìn lại mình, tự khắc phục
những tồn tại, yếu kém, phấ
n đấu vươn lên trở thành người cán bộ tin yêu
của nhân dân. Bản thân nhà nước cũng có cơ hội làm trong sạch đội ngũ,

23
trong sạch bộ máy, tiệm cận chân lý : “Nhà nước thực sự là của dân, do
dân và vì dân".
Như vậy, để củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước,
làm cho mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước ngày càng gắn
bó bền chặt thì việc giải quyết tố cáo phải nhanh chóng, đúng pháp luật và
việc khôi phục kịp thời quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xử lý
nghiêm minh những hành vi sai phạm. Hồ Chủ t
ịch đã nói: "Giữ chặt mối
liên hệ với dân chúng và luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là
nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi" [29, tr.199] .

Người cũng đã nhiều lần chỉ rõ ý nghĩa của công tác giải quyết tố cáo. Để
củng cố mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, cần phải làm
tốt công tác giải quyết tố cáo. Minh ch
ứng là từ trước đến nay, quan điểm
của Đảng và Nhà nước ta luôn thống nhất trong việc tạo mọi điều kiện
thuận lợi để người dân trình bày những ý kiến, tố cáo. Luật Khiếu nại, tố
cáo cũng quy định các cơ quan nhà nước phải có trách nhiệm bố trí nơi
tiếp công dân thuận tiện, chu đáo, bố trí cán bộ có phẩm chất, năng lực
làm công tác tiếp dân.
Quan đ
iểm của Đảng và Nhà nước ta về việc giải quyết tố cáo là
nhằm bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước và bảo vệ chế độ còn được biểu hiện
qua việc giải quyết tố cáo phải nhanh chóng, kịp thời để giúp cho nhân
dân thấy rõ Đảng và Nhà nước đã quan tâm lo lắng đến quyền lợi của họ,
từ đó củng cố thêm mối quan hệ giữa nhân dân v
ới Đảng và Nhà nước.
Trong Luật Khiếu nại, tố cáo hiện hành thì thẩm quyền giải quyết tố cáo
thuộc thẩm quyền của Thủ trưởng các cơ quan hành chính Nhà nước.
Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đối với việc tiếp dân, giải
quyết tố cáo là trách nhiệm, nghĩa vụ thường xuyên của người lãnh đạo,
người quản lý. Qua đó góp phần bảo vệ Đảng, bảo v
ệ Nhà nước và bảo vệ
chế độ.
Các Hiến pháp 1959, 1980, 1992 đã quy định việc giải quyết tố cáo
phải được cơ quan nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp

24
luật quy định. Các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng khi đề cập đến công tác
giải quyết tố cáo cũng xem việc giải quyết phải nhanh chóng, kịp thời.
Thông tri số 210/TT-TW ngày 22/12/1967 của Ban bí thư về việc tăng

cường tổ chức Ủy ban kiểm tra của Đảng và đẩy mạnh công tác thanh tra
của các cơ quan nhà nước khi đề cập đến tác hại của việc giải quyết không
kịp thời các khiếu nại, tố cáo đã nhấn mạnh : “Nhiều việc khiếu nại, tố cáo
trong Đảng và của nhân dân, nhất là những vụ đảng viên, cán bộ làm sai
đường lối, chính sách, vi phạm đến quyền lợi chính trị và kinh tế của nhân
dân chưa được giải quyết tốt hoặc để ứ đọng, bê trễ, gây ảnh hưởng không
tốt đến lòng tin của đảng viên và nhân dân đối với cơ quan củ
a Đảng và
Nhà nước". Chỉ thị số 176/CT-TW ngày 18/4/1970 của Ban Bí thư về việc
tăng cường công tác kiểm tra, kiểm sát, thanh tra và giải quyết các vụ
khiếu nại, tố cáo đã yêu cầu các cấp, các ngành phải coi trọng việc xét và
giải quyết nhanh, tốt các đơn khiếu nại, tố cáo của quần chúng, cố gắng
khắc phục tình trạng để các khiếu tố ứ đọng lại nhiều và lâu ngày, hoặc
chuy
ển đơn khiếu tố cho cấp dưới mà không theo dõi, kiểm tra cách giải
quyết.
Thể chế hóa quan điểm đó của Đảng và Nhà nước, Pháp lệnh Khiếu
nại, tố cáo của công dân năm 1991, cũng như Luật Khiếu nại, tố cáo năm
2004 đều quy định thủ tục giải quyết tố cáo phải nhanh chóng, kịp thời
nhằm chống các hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, việc giải quyết
phả
i đảm bảo chất lượng của quá trình giải quyết.
Những quy định nêu trên thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta trong việc xác định giải quyết tố cáo, là trách nhiệm, nghĩa vụ
thường xuyên của người lãnh đạo, người quản lý và yêu cầu phải giải
quyết nhanh chóng, kịp thời các tố cáo góp phần củng cố lòng tin của nhân
dân đối với Đảng và Nhà nước, huy động tối đ
a sự tham gia xây dựng Nhà
nước của nhân dân, bảo vệ Đảng và bảo vệ chế độ.
Tóm lại, trong mỗi giai đoạn lịch sử Đảng và Nhà nước ta đều rất

quan tâm đến vấn đề tố cáo và giải quyết tố cáo của công dân, xem đó là
nhiệm vụ quan trọng để làm trong sạch bộ máy nhà nước và tôn trọng

×