Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Đổi mới cơ chế quản lý các tổ chức sự nghiệp công trong lĩnh vực giáo dục & đào tạo.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (453.27 KB, 91 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với quá trình cải cách nền hành chính, Việt Nam đang đẩy mạnh
công cuộc cải cách khu vực dịch vụ công, trong đó có việc đổi mới cơ chế
quản lý của Nhà nước đối với các tổ chức sự nghiệp công luôn được gắn với
vai trò chính yếu của Nhà nước. Mục đích chính của những cải cách trong
lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp công tại Việt Nam thời gian qua không gì khác là
hướng tới bảo đảm nguồn ngân sách của Nhà nước dành cho lĩnh vực này
được sử dụng hiệu quả hơn, mọi người dân Việt Nam ngày càng được hưởng
những dịch vụ công tốt hơn, công bằng hơn, với chất lượng đảm bảo.
Nhưng thực tế hiện nay việc đổi mới cơ chế quản lý các TCSN công vẫn
rất chậm, không đồng bộ và không bắt nhịp cùng với quá trình cải cách nền
kinh tế đất nước trong giai đoạn vừa qua. Việc Nhà nước quá ôm đồm và cơ
chế bao cấp chàn lan, tài trợ ngân sách chưa đúng mục đích và đúng đối tượng
và Nhà nước vẫn chưa có quan điểm rõ ràng về vai trò của mình và vai trò của
thị trường trong việc đảm bảo cung ứng dịch vụ sự nghiệp công, đó những
nguyên nhân chính làm cho các đơn vị sự nghiệp công hoạt động không hiệu
quả.
Cùng với quá trình phát triển kinh tế, thì việc đảm bảo có một cơ chế
quản lý phù hợp để tạo điều kiện và phát huy hoạt động hiệu quả của các
TCSN công là yêu cầu cấp bách quá trình phát triển đất nước. Đặc biệt trong
lĩnh vực giáo dục & đào tạo, giáo dục luôn là vấn đề trung tâm của đời sống
xã hội vì nó quyết định tương lai của mỗi người và của cả xã hội. Thực trạng
nhức nhối của nền giáo dục Việt Nam hiện nay - nguyên nhân làm trì trệ sự
phát triển của Việt Nam.
Đảng và Nhà nước ta khẳng định giáo dục là quốc sách hàng đầu, và để
có thể thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước trong giai đoạn mới này vai trò của giáo dục và đào tạo
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
là rất lớn. Việc chấn chỉnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của


ngành là một vấn đề tất yếu mà Đảng và Nhà nước cần phải làm trong bối
cảnh hiện nay. Trước những yếu cầu đòi hỏi của quá trình đổi mới, Nhà nước
cần có một cơ chế quản lý mới phù hợp với tình hình thực tế, để có thể nâng
cao hiệu quả hoạt động của ngành, là một nhiệm vụ tất yếu phải làm. Trong
đó có việc cải cách, đổi mới cơ chế quản lý của ngành là một mấu chốt quyết
định, trong đó đặc biệt là cơ chế quản lý tài chính.
Xuất phát từ thực tế và nhận thức được tầm quan trọng, của giáo dục &
đào tạo trong thời đại mới, trong khuân khổ chuyên đề thực tập em đã chon đề
tài nghiên cứu của mình là “Đổi mới cơ chế quản lý các tổ chức sự nghiệp
công trong lĩnh vực giáo dục & đào tạo”
Đề tài” Đổi mới cơ chế quản lý các tổ chức sự nghiệp công trong lĩnh
vực giáo dục và đào tạo”, tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận cho việc đổi mới
cơ chế quản lý và phân tích đánh giá các chủ trương, chinh sách của Nhà
nước cho việc đổi mới cơ chế quản lý các TCSN công trong lĩnh vực giáo dục
& đào tạo. Trên cơ sở đó sẽ đề xuất một số khuyến nghị về cải cách.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: đề tài chỉ giới hạn đối với các TCSN
công trong lĩnh vực GD-ĐT, và tập trung vào cơ chế nhân sự và cơ chế tài
chính.
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu kết hợp các phương pháp phân tích tổng hợp số liệu, thống kê, so
sánh, bảng biều
Kết cấu đề tài
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Chuyên đề được trình bày trong ba
chương với các nội dung chính sau đây:
Chương I: Một số vấn đề lý luận cho việc đổi mới cơ chế tổ chức và
quản lý các tổ chức sự nghiệp công.
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chương II: Thực trạng cơ chế tổ chức và quản lý các tổ chức sự nghiệp
công trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo

Chương III: Một số kiến nghị giải pháp về đổi mới cơ chế quản lý các
tổ chức sự nghiệp công trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN VỀ ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ CÁC
TỔ CHỨC SỰ NGHIỆP CÔNG
1.1. Cơ sở lý thuyết về đổi mới cơ chế quản lý các tổ chức sự nghiệp
công
1.1.1. Khái niệm hàng hóa và dich vụ công, vai trò của nhà
nước trong việc cung cấp loại hàng hóa này trong nền kinh tế thị trường
1.1.1.1. Khái niệm hàng hóa và dịch vụ công
Khái niệm hàng hóa và dịch vụ công hay vẫn được gọi là hàng hóa
công cộng, từ lâu đã có nhiều học giả nghiên cứu và có nhiều quan điểm về
nó. Ở Việt Nam, thuật ngữ hàng hóa công mới được đưa vào sử dụng và
nghiên cứu trong những năm gần đây.
Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về hàng hóa công cộng như
theo S.A.Sammuelson và W.D.Nordhaus thì cho rằng: Hàng hóa công cộng
là một loại hàng hóa có thể cho moi người ( trong một nước hoặc trong một
thành phố) được hưởng với một giá không lớn hơn cái giá đòi hỏi để cung cấp
nó cho một người. Việc hưởng thụ hàng hóa đó không thể chia cắt được và
không thể loại trừ ai. Đối chiếu với hàng hóa tư nhân, như bánh mỳ, nếu mà
một người đã tiêu dùng thì người khác không thể tiêu dùng được
1
.
Có tác giả lại cho: Hàng hóa công cộng là hàng hóa mà khi một ai đó
tiêu dùng thì nó không làm giảm mức tiêu dùng hàng hóa đó của người khác,
là hàng hóa mà mọi người đều cần dùng, và khi nó đã được sản xuất ra thì
không thể ngăn cản người dân tiêu dùng hàng hóa đó ( an ninh, trật tự xã hội,
1

S.A.Sammuelson và W.D.Nordhaus - Kinh tế học tập 2, ĐH KTQD, Hà nội 1989, trang
712
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
quốc phòng, giáo dục...)
2
.
Có quan điểm hàng hóa công
3
: là một hàng hóa hay dịch vụ mà nếu
được cung cấp cho một người thì vẫn tồn tại cho những người khác mà không
phát thêm chi phí nào. Đây là điểm phân biệt với hàng hóa tư nhân, việc tiêu
dùng hàng hóa tư nhân của người này sẽ ngăn cản việc tiêu dùng cùng hàng
hóa đó của người khác. Vì vậy một hàng hóa công cộng thuần túy phải hội tụ
hai thuộc tính đó là “ không cạnh tranh hay không thể loại trừ” và “không có
tính loại trừ trong tiêu dùng”. Tính không loại trừ chỉ rõ hàng hóa công cộng
khi đã cung cấp cho một người thì nó có thể phục vụ thêm cho nhiều người
mà không tao thêm chi phí (chi phí cận biên cho thêm một người sử dụng
bằng không). Còn thuộc tính không cạnh tranh trong tiêu dùng được hiểu là
hàng hóa công cộng có thể cung cấp phục vụ không hạn chế và cho bất kỳ
người tiêu dùng nào trong xã hội
4
, nó không thể ngăn cản bất kỳ ai tiêu dùng
nó. Chính lý do này dẫn đến xuất hiện kẻ ăn không, kẻ ăn không được hiểu là
những người tìm cách hưởng thụ lợi ích của HHCC mà không đóng góp một
đồng nào cho chi phí sản xuất và cung cấp nó. Cũng có thể sử dụng một số
biện pháp để loại trừ kẻ ăn không, nhưng việc áp dụng các biện pháp này có
thể dẫn đến một trạng thái không đạt hiệu quả Pareto. Vì việc có thêm nhiều
người khác hưởng thụ HHCC thuần túy sẽ không làm lợi ích của bất kỳ ai
trong xã hội bị giảm đi, và việc loại trừ kẻ ăn không cũng đòi hỏi nguồn lực

để thực hiện.
Khi HHCC chỉ hội tụ một trong hai thuộc tính trên thì nó thuộc loại
HHCC không thuần túy, như giáo dục, y tế, cứu hỏa.v.v...Bản thân nó có sự
2
PGS.TS.Mai Văn Bưu – Giáo trình Quản lý học ĐH KTQD, tập 1, NXB Khoa học và Kỹ
thuật, Hà nội 2001
3
Theo từ điển Kinh tế học hiện đại – Macmillan (Daivid W.Pearce). Trong chuyên đề này,
các khái niệm “hàng hóa công cộng”, “hàng hóa công” và “dịch vụ công” được hiểu và sử
dụng như nhau.
4
GS.TS. Đỗ Hoàng Toàn – Bài giảng Chính trị học trong Quản lý công(2007), ĐH KTQD
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
kết hợp giữa HHCC và hàng hóa tư, cho đến này thực tế thuật ngữ hàng hóa
và dịch vụ công thường được dùng chung cho cả hai loại HHCC thuần túy và
cả không thuần túy.
Như vậy ở đây chúng ta có thể hiểu hàng hóa công cộng là những loại
hàng hóa, những tiện ích được đem trao đổi để sử dụng chung mà thỏa mãm
được ít nhất một trong hai thuộc tính: không có tính loại trừ và không có tính
canh tranh trong tiêu dùng.
1.1.1.2. Các hình thức cung ứng dịch vụ công và vai trò của nhà nước
Hiện nay có nhiều hình thức cung ứng hàng hoá và dịch vụ công, trong
đó Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng, nhà nước đảm bảo cho các hàng
hóa và dịch vụ công được cung cấp cho người dân. Hiện có một số hình thức
cung ứng đã được sử dụng như sau:
- Chính phủ là cung ứng trực tiếp hàng hoá, dịch vụ công.
- Chính phủ chuyển trách nhiệm cung ứng cho chính quyền địa phương.
- Chính phủ ký hợp đồng thuê khu vực tư nhân, các tổ chức phi chính
phủ cung cấp dịch vụ công.

- Nhà nước có thể bán, nhượng quyền kinh doanh sang cho khu vực tư
nhân.
- Nhà nước thu hút sự tham gia của cộng đồng xã hội hoặc nhà nước hỗ
trợ trực tiếp cho các hộ gia đình.
Ví dụ: Một số hình thức cung ứng dịch vụ giáo dục và đào tạo được
chia theo nhà cung ứng xem trong Bảng sau.
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Bảng 1: Một số hình thức cung ứng dịch giáo dục chia theo nhà
cung ứng.
Hình thức sở hữu
Loại hình tổ chức
của nhà cung ứng
Dịch vụ giáo dục
Khu vực công Bộ/sở/vụ/văn phòng Trường trực thuộc Bộ giáo dục&đào
tạo (quốc gia, tỉnh, huyện)
Công ty tự chủ
thuộc khu vực công
Trường đại học tự chủ
Khu vực không vì
lợi nhuận
Cộng đồng sở hữu Trường không chính thống
Tổ chức phi lợi
nhuận
Trường do các tổ chức phi chính
phủ, các tổ chức tôn giáo điều hành
Khu vực tư nhân
vì lợi nhuận
Các doanh nghiệp
nhỏ

Trường tư phi tôn giáo
Các doanh nghiệp
lớn
Nguồn: Ngân hàng Thế giới
Như vậy, khá phong phú về hình thức cung ứng các dịch vụ công, như
bảng trên ta thấy có các loại tổ chức khác nhau, các loại hình sở hữu khác
nhau tham gia cung cấp một loại dịch vụ giáo dục. Điều này hoàn toàn không
làm mờ đi vai trò của nhà nước trong việc cung ứng dịch vụ công, mà lại làm
cho việc cung ứng các dịch vụ này trở nên linh hoạt và hiệu quả hơn nhiều.
Nhà nước đảm bảo việc hàng hoá và dịch vụ công phải được cung cấp cho
người dân, nhưng không nhất thiết nhà nước phải là người duy nhất và trực
tiếp cung ứng dịch vụ công. Đặc biệt đối với các hàng hoá và dịch vụ công
“không thuần tuý” như giáo dục, y tế v.v... nên để khu vục khác tham gia
cung ứng, do tính có tính loại trừ trong tiêu dùng của các hàng hoá này.
Nhưng sẽ là sai lầm nếu để thị trường hoàn toàn điều tiết việc cung ứng các
dịch vụ công. Vì vậy Nhà nước, cần đảm bảo chức năng điều tiết thị trường
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
đối với hàng hoá và dịch vụ đặc biệt này, đảm bảo về mặt thể chế để thị
trường hoạt động. Ngoài ra, khi phân phối dịch vụ công nhà nước cần đảm
bảo các đối tượng dễ bị tổn thương, khu vực vùng sâu vùng xa, vùng còn
nghèo khó phải được tiếp cận, đảm bảo phúc lợi xã hội và công bằng xã hội.
Nhưng nếu chỉ do nhà nước trực tiếp cung ứng hoàng hoá và dịch vụ
công không thuần tuý thì cũng chưa chắc đảm bảo sẽ đạt được tính hiệu quả
xã hội. Vì khi đó nhà nước hoàn toàn đảm nhiệm việc cung ứng nên tính hiệu
quả không cao, cứng nhắc và thiếu tính cạnh tranh trong cung ứng các hàng
hoá và dịch vụ này. Vì vậy cần phải chuyển đổi đa dạng hoá và mở rộng diện
các nhà cung cấp, đặc biệt là các nhà cung cấp tư nhân là cần thiết. Tuy nhiên,
vẫn phải nhấn mạnh vai trò điều tiết của nhà nước để đảm bảo cho thị trường
về các hàng hoá và dịch vụ công được vận hành một cách có hiệu quả.

1.2. Một số vấn đề lý luận về đổi mới cơ chế tổ chức và quản lý của
các tổ chức sự nghiệp công
1.2.1. Lĩnh vực sự nghiệp và tổ chức sự nghiệp công.
1.2.1.1. Lĩnh vực sự nghiệp
Thuật ngữ lĩnh vực sự nghiệp đã được sử dụng ở Việt Nam từ nhiều
năm nay, từ thời kỳ kế hoạch hóa tập trung lẫn trong thời kỳ chuyển sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Thuật ngữ này vẫn
được dùng thông dụng để chỉ những hoạt động liên quan tới việc cung ứng
dịch vụ công, phục vụ nhu cầu thiết yếu và đảm bảo chất lượng cuộc sống của
con người. Lĩnh vực sự nghiệp bao gồm những lĩnh vực như giáo dục & đào
tạo, y tế, văn hóa, thể dục thể thao, bảo hiểm xã hội, nghiên cứu khoa học và
phát triển công nghệ v.v. Trong hệ thống danh mục thống kê quốc gia và
trong danh mục các tổ chức được ngân sách nhà nước cấp kinh phí hoạt động
của nước ta, lĩnh vực sự nghiệp được xếp cùng nhóm với "khu vực dịch vụ",
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
có lúc còn được ghép cùng với hoạt động quản lý hành chính nhà nước để trở
thành lĩnh vực "hành chính-sự nghiệp". Tuy nhiên thực chất lĩnh vực sự
nghiệp có phạm vi hẹp hơn, chỉ giới hạn trong một số hoạt động cung ứng,
chứ không phải cung ứng tất cả các loại dịch vụ công cho xã hội.
Dịch vụ công là một khái niệm rộng, bao gồm 3 nhóm dịch vụ chính
như dịch vụ hành chính công, dịch vụ sự nghiệp công và dịch vụ công ích. Ở
Việt Nam ta nhận thức và cách hiểu về dịch vụ công hiện vẫn chưa thật rõ
ràng, còn có nhiều ý kiến khác nhau. Chính vì sự thiếu thống nhất như vậy
gây ra sự rắc rối cho xây dựng chính sách liên quan, đây là một vấn đề mang
đậm nét Việt Nam.
Trong danh mục phân loại các dịch vụ do Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO) xây dựng có đưa ra 10 nhóm dịch vụ chính và có tới 150 loại
dịch vụ trong khuân khổ Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS).
Trong đó, những hoạt động thuộc lĩnh vực sự nghiệp được đưa vào các nhóm

như được trình bày trong Hộp 1 dưới đây.
Các hoạt động sự nghiệp thường có một số đặc điểm chung là:
(1) Cung cấp các dịch vụ công;
(2)Thường mang tính chuyên môn (như y tế, giáo dục, thể thao, khoa
học và công nghệ...), không vì mục tiêu lợi nhuận mà vì mục tiêu phát triển
con người, mục tiêu đảm bảo phúc lợi xã hội và công bằng cho con người;
(3) Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm sao cho các
dịch vụ này được cung cấp cho người dân của mình
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Hộp 1: Phân loại một số lĩnh vực sự nghiệp liên quan trong danh
mục của WTO về dịch vụ

1.1.2.2. Tổ chức sự nghiệp.
1.2.1.2. Tổ chức sự nghiệp
10
1. Dịch vụ kinh doanh
a. Dịch vụ nghiên cứu triển khai (R&D)
b. Dịch vụ R&D về khoa học tự nhiên
c. Dịch vụ R&D về khoa học xã hội và nhân văn
d. Các dịch vụ R&D khác
2. Dịch vụ giáo dục và đào tạo
a. Dịch vụ giáo dục mầm non & tiểu học
b. Dịch vụ giáo dục phôt thông
c. Dịc vụ giáo dục cao học
d. Dịch vụ giáo dục cho người lớn
e. Dịch vụ giáo dục khác
3. Dịch vụ về môi trường
a. Dịch vụ thoát nước
b. Dịch vụ thu gom chất thải

c. Các dịch vụ vệ sinh và liên quan khác
4. Cá dịch vụ liên quan về y tế và xã hội
a. Dịch vụ y tế bệnh viện
b. Các dịch vụ khác liên quan tới sức khỏe con người
c. Cá dịch vụ xã hội khac
5. Dịch vụ giải trí, văn hóa và thể thao
a. Dịch vụ giải trí ( nhà hát, xiếc, ban nhạc...)
b. Dịch vụ thông tấn báo chí
c. Dịch vụ thư viện, lưu trữ, bảo tàng, và các dịch vụ văn hóa
khác
d. Dịch vụ thể thao và giải trí khác
(Trích từ trang web: ; danh mục phân loại các dịch vụ
của GATS trong khuân khổ WTO)
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Ở Việt Nam ta, những đơn vị do Nhà nước hay các tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội hoặc tư nhân thành lập với mục đích hoạt
động là nhằm mục đích thúc đẩy sự tiến bộ chung của xã hội và phát triển
toàn diện của con người thì được gọi là tổ chức sự nghiệp
5
. Những tổ chức sự
nghiệp ở Việt Nam bao gồm:
- Các tổ chức sự nghiệp hoạt động về y tế, cứu trợ xã hội như các bệnh
viên, trạm xá, y tế cơ quan, phòng khám y tế, kế hoạch hóa gia đình, hoạt
động cứu trợ, các đơn vị hoạt động vệ sinh phòng dịch, hoạt động thú y...
- Các tổ chức sự nghiệp hoạt động về giáo dục như: các cơ sở giáo dục
mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và sau
đại học...
- Các tổ chức sự nghiệp hoạt động về văn hóa, thể thao, báo chí, truyền
hình, nghiên cứu khoa học công nghệ, lưu trữ, thư việ, bảo tàng; về sân khấu,
điện ảnh, âm nhạc, biểu diễn nghệ thuật...

Theo loại hình sở hữu, các tổ chức sự nghiệp được phân thành bốn
nhóm chính sau
6
.
(1) Tổ chức sự nghiệp công: là những tổ chức sự nghiệp do Nhà nước
thành lập, kinh phí hoạt động chủ yếu bằng nguồn ngân sách Nhà nước cấp.
(2) Tổ chức sự nghiệp bán công: là những tổ chức sự nghiệp thành lập
trên cơ sở liên kết giữa Nhà nước và tổ chức ngoài Nhà nước để cùng nhau
xây dựng cơ sở vật chất, quản lý, điều hành mọi hoạt động theo qui định của
pháp luật.
(3) Tổ chức sự nghiệp do tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội
thành lập.
(4) Tổ chức sự nghiệp dân lập: là tổ chức do một tổ chức hoặc cá nhân
thành lập theo quy định của pháp luật.
5
Tổng cục Thống kê. Tổng điều tra các đơn vị kinh tế, hành chính, sự nghiệp năm 2002
6
Tổng cục Thống kê. Tổng điều tra các đơn vị kinh tế, hành chính, sự nghiệp năm 2002
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Trong khuân khổ chuyên đề này chỉ đề cập tới các TCSN công hoạt
động trong lĩnh vực y tế và giáo dục đao tạo, đây là những lĩnh vực mang tính
quyết sách hàng đầu của Đảng và nhà nước ta hiện nay.
1.2.1.3. Tổ chức sự nghiệp công
TCSN công trước hết phải là một TCSN, được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền thành lập và được quản lý theo qui định của pháp luật. Ngoài ra,
TCSN công được ngân sách nhà nước tài trợ để thực hiện các nhiệm vụ được
giao.
Tùy vào lĩnh vực hoạt động, tính chất của lĩnh vực và nguồn thu mà
các TCSN công có thể thuộc vào một trong hai nhóm: TCSN công có thu và

TCSN công không có thu. TCSN công có thu được hiểu là ngoài nguồn tài
chính hoạt động từ ngân sách nhà nước cấp, các TCSN công còn được pháp
luật cho phép thu phí, lệ phí từ người sử dụng "dịch vụ công" mà tổ chức đó
cung cấp để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình.
Sự có mặt của các TCSN công thể hiện việc thực hiện vai trò và trách
nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm cung cấp dịch vụ phúc lợi xã hội
thiết yếu cho mọi người dân của mình, thông qua các tổ chức do nhà nước lập
ra .Đây cũng là một việc làm tất yếu mà nhà nước khó có thể chối từ. Sự cung
ứng này là để sửa chữa các khuyết tật của thị trường và đảm bảo phúc lợi xã
hội. Dịch vụ công rất cần thiết đối với cuộc sống của con người, song tư nhân
thường không muốn hoặc không có khả năng cung cấp. Tuy nhiên, như đã
phân tích ở trên
7
, không phải bất cứ lĩnh vực sự nghiệp nào cũng phải do trực
tiếp Nhà nước thực hiện. Mà nhà nước cần phải nghiên cứu xác định làm rõ
loại dịch vụ công nào thực sự cần thiết phải trực tiếp cung ứng, phạm vi đến
đâu để tránh ôm đồm quá với khả năng cho phép, nhất là về tài chính và bộ
7
Mục 1.1.1.2. Các hình thức cung ứng dịch vụ công và vai trò của nhà nước
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
máy nhân sự. Xu hướng chung của thế giới hiện nay là Nhà nước chỉ trực tiếp
thực hiện cung ứng những dịch vụ công cộng nào mà xã hội không thể làm
được hoặc không muốn làm. Trong điều kiện Việt Nam, Nhà nước vừa đẩy
mạnh xã hội hoá các loại dịch vụ công về giáo dục, y tế, văn hoá, xã hội đồng
thời phân cấp mạnh, cụ thể cho các cấp chính quyền địa phương trực tiếp quản
lý và thực hiện các loại dịch vụ công liên quan trực tiếp đến đời sống công dân,
cộng đồng. Chính phủ, các Bộ chỉ trực tiếp thực hiện cung cấp những loại dịch
vụ quan trọng. Ngoài ra các dịch vụ công mà xã hội có thể đảm nhận được nhà
nước thực hiện chuyển giao, khuyến khích, tạo điều kiện cho các tổ chức xã

hội, tổ chức kinh tế, tư nhân thực hiện trong sự định hướng và hỗ trợ của nhà
nước.
Trong khuân khổ chuyên đề thực tập này, sẽ chỉ đề cập đến các TCSN
công trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Đây là lĩnh vực mang tính quyết sách
hàng đầu của Đảng và nhà nước ta hiện nay. Giáo dục, đào tạo là linh vực tạo
ra nguồn lực quyết định cho sự phát triển đất nước trong tương lai, mang lại
lợi ích chung cho toàn xã hội và lĩnh vực chi phí cho tương lai. Nhà nước và
xã hội phải quan tâm nếu muốn một tương lai tốt đẹp hơn đối với đất nước
mình.
1.2.2. Cơ chế quản lý các tổ chức sự nghiệp công
1.2.2.1. Khái niệm
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Cơ chế quản lý các tổ chức sự nghiệp công đó là phương thức quản lý
của nhà nước đối với các TCSN, để các TCSN công hoạt động có hiệu quả,
dịch vụ sự nghiệp đáp ứng được yêu cầu của xã hội, cả về số lượng và chất
lượng dịch vụ. Mà nhà nước quản lý thông qua các chính sách, qua các văn
bản quy phạm pháp luật để điều tiết, quản lý các tổ chức sự nghiệp công này.
Cơ chế ở đây đó là các chính sách của nhà nước, do vây khi xem xét cơ
chế quản lý các tổ chức sụ nghiệp công là ta xem xét đến các chính sách của
nhà nước đối với các tổ chức này.
Các TCSN công do nhà nước thành lập, là một bộ phận của bộ máy nhà
nước nên cơ chế quản lý của các tổ chức này không khác gì nhiều so với cơ
chế của các tổ chức hành chính nhà nước khác. Tức là, nhà nước đầu tư cơ sở
vật chất kỹ thuật, giao nhiệm vụ cần làm kèm theo cấp kinh phí thường xuyên
để các tổ chức này hoạt động, đánh giá kết quả đạt được...
Về hình thức pháp lý: Thông thường hoạt động của các TCSN công được điều
chỉnh theo một bộ luật riêng, chẳng hạn như luật về các TCSN, luật về dịch
vụ công. Tuy nhiên, ở nhiều nước khác, những qui định về hoạt động của các
TCSN công được thể hiện trong luật hành chính và hoặc không có luật riêng

nào điều chỉnh . Các TCSN công của Việt Nam rơi vào trường hợp thứ hai,
tức là chưa có luật riêng điều chỉnh các hoạt động sự nghiệp nói chung và
TCSN công nói riêng.
1.2.2.2. Nội dung
Cơ chế quản lý các tổ chức sự nghiệp công tuỳ thuộc vào từng loại hình
dịch vụ, nhưng nhìn chung nội dung cơ chế quản lý các tổ chức sự nghiệp
công có đặc điểm chủ yếu như sau:
- Thường Nhà nước quản lý chặt chẽ các tổ chức này theo cơ chế
hành chính, nhưng nhà nước có thể trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối
với các TCSN công. Các TCSN công được Nhà nước cấp kinh phí để xây
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
dựng cơ sở vật chất ban đầu cũng như chi thường xuyên để trả lương cho cán
bộ.v.v. Thì phải hoạt động theo sự phân công nhiệm vụ và quản lý hành
chính của cơ quan chủ quản cấp trên.
- Kế hoạch và chương trình hoạt động của các TCSN công thường
được các cơ quan nhà nước giao cụ thể, kèm theo đó là nguồn tài chính tương
ứng được ngân sách cấp để các tổ chức này có thể thực hiện nhiệm vụ được
giao.
- Cơ chế quản lý nguồn nhân lực của TCSN công là tuyển nhân viên
theo cơ chế tuyển chọn cạnh tranh, sau đó xếp lương theo qui định của nhà
nước về thang bảng lương đã được xác định sẵn, ví dụ căn cứ vào trình độ và
thâm niên công tác, loại hình dịch vụ.v.v.
- Cơ chế quản lý tài chính các TCSN công là các tổ chức này có thể
được trao quyền tự chủ tài chính, nhưng thường là chịu sự quản lý tương đối
chặt chẽ theo những chuẩn mực của nhà nước qui định về tài chính do nhận
nguồn tài trợ từ NSNN. Nhà nước có thể tiến hành kiểm tra, giám sát và kiểm
toán tài chính các TCSN công, đồng thời tiến hành đánh giá hoạt động của
các tổ chức này.
- Cơ chế quản lý giá cả dịch vụ sự nghiệp (bất kể chất lượng dịch vụ

đó tốt hay không) thường do nhà nước xác định hoặc kiểm soát.
Cơ chế quản lý nói trên của các TCSN công đã phát huy tác dụng rất
tốt trong thời kỳ sau chiến tranh thế giới thứ hai và phát triển kinh tế thị
trường tại các nước trong nhiều thập kỷ của thế kỷ trước. Ở các nước có nền
kinh tế kế hoạch tập trung trước đây, cơ chế này cũng đã phát huy tác dụng và
được coi là một trong những ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Sở dĩ như
vậy vì mọi người đều được hưởng các dịch vụ công như y tế, giáo dục miễn
phí một cách bình đẳng, không phụ thuộc vào mức thu nhập của họ.
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1.2.3.4. Yêu cầu
Cơ chế quản lý các tổ chức sự nghiệp công không còn phù hợp với tình
hình, xu thế phát triển của thế giới hiện nay. Cơ chế quản lý đó cần phải được
thay đổi và đáp ứng được những yêu cầu sau:
Thứ nhất, cơ chế quản lý các TCSN công phải linh hoạt hơn, tăng tính
tự chủ cho các đơn vị này. Nhà nước cũng cần phải thay đổi vai trò của mình
từ "nhà nước trực tiếp cung ứng" chuyển sang "nhà nước bảo đảm cho các
dịch vụ công được cung ứng tới người dân" một cách hiệu quả và có thể đưa
cơ chế thị trường vào một số lĩnh vực, để tăng tính cạnh tranh trong cung ứng
dịch vụ.
Cơ chế phải tạo được mối liên hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước với
người dân và mối liên hệ giữa TCSN công với người dân - người trực tiếp sử
dụng dịch vụ. Các cơ quan nhà nước phải tạo dựng được mối liên hệ chặt chẽ
với người dân (người sử dụng dịch vụ) của mình để có những thông tin kịp
thời về cách thức cung ứng cũng như chất lượng dịch vụ được cung ứng, để từ
đó thể đưa ra cơ chế chính sách và cách thức cung ứng phù hợp với người sử
dụng. Hiện nay xu thế chung, người dân - những cử tri, ngày càng tham gia
nhiều hơn vào quá trình xây dựng chính sách, giám sát thực hiện chính sách,
từ đó tạo sức ép đối với Chính phủ các nước phải thực hiện cải cách, đổi mới
các TCSN công.

Thứ hai, cơ chế phải đảm bảo sao cho các TCSN công hoạt động linh
hoạt hơn, không có tính chất bị động, xơ cứng. Vì hầu hết các TCSN công là
nơi tập trung những chuyên gia có chuyên môn, các nhà khoa học có trình độ
cao. Do vậy cơ chế hoạt động lam sao phải phát huy được sự chủ động và sức
sáng tạo của họ và để sử dụng đội ngũ lao động có trình độ làm việc một cách
có hiệu quả.
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Thứ ba, phải tách biệt rõ cơ chế quản lý đối với các TCSN công và các
cơ quan quản lý hành chính, vì hai loại hình hoạt động là khác nhau, các
TCSN công có chức năng trực tiếp cung ứng dịch vụ sự nghiệp công, còn các
cơ quan hành chính nhà nước chức năng quản lý hành chính. Cơ chế chính
sách của nhà nước phải nhất quán.
Thứ tư, cơ chế phải tăng quyền tự chủ hoạt động thực sự cho các cơ sở
công về các vấn đề tổ chức nội bộ, nhân sự, cơ chế trả lương và đặc biệt là cơ
chế tài chính. Kinh phí của Nhà nước chi cho lĩnh vực dịch vụ công chỉ có
hạn, lại không được sử dụng hiệu quả, nhiều khi không đúng đối tượng. Phân
bổ nguồn kinh phí để thực hiện các dịch vụ công có sự bất hợp lý, dẫn đến sự
cách biệt lớn về cung ứng dịch vụ công giữa các nhóm dân cư - giữa nhóm
người có thu nhập cao và người có thu nhập thấp.
Thứ tư, cơ chế quản lý của nhà nước phải kiểm soát và giám sát được
chất lượng dịch vụ được cung ứng. Cơ chế quản lý hiện rất chi tiết, cụ thể
nhiều hoạt động nội bộ của tổ chức. Việc đánh giá các TCSN công phải dựa
trên cơ sở kết quả và tác động thực tế tới xã hội, chú không thể đánh giá một
cách thiếu khách quan dựa trên cơ sở hành chính bao cấp.
Thứ năm, cơ chế quản lý phải hướng các TCSN công hoạt động hướng
tới “người sử dụng" trong hoạt động của mình, bảo đảm sao cho dịch vụ do
họ cung ứng thực sự thoả mãn nhu cầu người sử dụng. Cơ chế hiện nay người
sử dụng thường không thoả mãn với dịch vụ do các TCSN công cung ứng,
nhưng lại không có nhiều khả năng lựa chọn.

Thứ sáu, hiện nay ngoài các TCSN công, đã xuất hiện hệ thống các
TCSN không phải của nhà nước, thuộc tư nhân hoặc của các tổ chức xã hội,
tạo nên sự cạnh tranh mạnh mẽ đối với các TCSN công về chất lượng, giá cả
dịch vụ.
17
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Người sử dụng dịch vụ giờ đây đã có thể và có quyền lựa chọn những
dịch vụ do nhiều loại TCSN cung ứng, tuỳ vào nhu cầu và khả năng chi trả
chứ không chỉ dựa vào các dịch vụ do các TCSN công cung cấp như trước
đây. Do vậy cơ chế quản lý của nhà nước phải khuyến khích và tạo điều kiện
để các tổ chức sự nghiệp ngoài công lập cùng tham gia cung ứng dịch vụ.

1.2.3. Tổ chức sự nghiệp giáo dục và đào tạo
1.2.3.1. Khái niệm giáo dục và đào tạo
Con người là trung tâm của mọi sự phát triển, là vốn quý nhất của xã hội. Con
người sáng tạo ra xã hội, làm cho xã hội phát triển đến những đỉnh cao của
nền văn minh nhân loại. Trong quá trình phát triển, con người luôn luôn biết
tự hoàn thiện mình, trở thành con người có trí tuệ cao và cách sống văn minh
hơn.
Trong các nguồn lực phát triển của mỗi quốc gia, nguồn lực con người là
nhân tố quyết định đối với sự phát triển, đồng thời nó cũng là mục tiêu của sự
phát triển hướng tới. Đặc biệt đối với nước ta, trong quá trình phát triển đất
nước, khi các nguồn lực khác còn hạn hẹp thì nguồn lực con người là nguồn
lực quý báu nhất để phát triển đất nước.
Nguồn lực con người trước hết là sức mạnh trí tuệ, tay nghề của họ. Sức mạnh
của mỗicon người xét cho cùng là bắt nguồn từ những trí thức mà họ có được,
từ khả năng vận dụng kiến thức đó vào hành động nhằm giải quyết các vấn đề
thực tế. Song những trí tuệ và kỹ năng làm việc của con người nó không tự
nhiên mà có được. Mà nó là kết quả của giáo dục và đào tạo và sự tự rèn
luyên lâu dài của mỗi con người. Cthể nói giáo dục luôn là mối quan tâm

hàng đầu của mỗi quốc gia, của cả nhân loại, nhằm đào tạo ra một nguồn
nhân lực có trí tuệ cao, đáp ứng được những yếu cầu của sự phát triển của đất
nước.
18
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Như vậy giáo dục và đào tạo là gì?
Có thể hiểu giáo dục theo một khái niệm khái quát nhất là một quá trình bao
gồm tất cả các hoạt động hướng vào sự phát triển và rèn luyện năng lực (trí
thức, kỹ năng, kỹ sảo) và phẩm chất (niềm tin, đạo đức, thái đội ...) ở con
người để phát triển nhân cách đầy đủ và trở lên có giá trị tích cực đối với xã
hội
8
Còn có thể hiểu giáo dục là quá trình được tổ chức một cách có mục đích, có
kế hoạch nhằm truyền đạt va lĩnh hội những kinh nghiệm của xã hội loài
người.
Ở đây ta hiểu giáo dục theo một nghĩa hẹp hơn, giáo dục được tiến hành trong
một phạm vi không gian hẹp hơn, nó gắn với hệ thống trường lớp. Trong
khuân khổ chuyên đề này chỉ dừng lại nghiên cứu giáo dục ở phạm vi hẹp
hơn.
Đi cùng với khái niệm giáo dục thì còn có khái niệm đào tạo. Đào tạo thì
được hiểu nó là một dạng đặc thù của của giáo dục và nó hướng về kỹ năng,
chuyên môn nghiệp vụ nghề nghiệp. Đào tạo là quá trình phát triển hệ thống
tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và thái độ, tư cách... đòi hỏi ở mỗi cá nhân để thực
hiện một nhiệm chuyên môn nghề nghiệp nhất định.
Như vậy ta có thể hiểu, giáo dục và đào tạo là lĩnh vực hoạt động truyền đạt
và cung cấp cho con người những kiến thức, kỹ năng lao động của xã hội loài
người, tạo cho họ có khả năng biến kiến thức và kỹ năng đó thành hành động
thực tế.
1.2.3.2. Đặc điểm của giáo dục, đào tạo
Giáo dục và đào có những đặc điểm chính sau:

8
Giáo trình Chính sách kinh tế xã hội, Khoa Khoa học quản lý, NXB Khoa học và kỹ thuật,
Hà nội 2006
19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Giáo dục, đào tạo một lĩnh vực không tạo ra sản phẩm để có thể
hưởng thụ được ngay, mà nó là lĩnh vực chi phí cho tương lai, tạo ra lợi ích
trong tương lai. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho tương lai của xã hội. Vì
vậy giáo dục cần phải có tầm nhìn xa hơn, ở mỗi quốc gia để chuẩn bị trước
cho sự phát triển kinh tế ở mỗi giai đoạn nhất định thì giáo dục luôn đi trước
một bước, để có thể bắt nhịp và đáp ứng được sự phát triển kinh tế ở giai đoạn
đó.
- Kết quả của giáo dục và đào tạo, nó là sản phẩm có tính chất vô
hình, tạo tiềm năng cho sự phát triển của xã hội, nó không phải là một sản
phẩm vật chất cụ thể (hữu hình) để tiêu dùng.
- Giáo dục và đào tạo được thực hiện bằng nhiều hình thức khác
nhau, rất đa dạng: Do các tổ chức chuyên trách của nhà nước và xã hội trực
tiếp đảm nhận thông qua việc giảng dạy theo trường lớp. Gián tiếp qua sách
vở và các kênh thông tin ...
- Giáo dục và đào tạo ngoài mang lại lợi ích trực tiếp cho người được
hưởng giáo dục và đào tạo đó, mà còn mang lại lợi ích cho những người
không trực tiếp được hưởng, nó mang lại lợi ích chung cho toàn xã hội. Chính
vì vậy, Nhà nước với vai trò đại diện cho lợi ích của toàn xã hội, phải chịu
trách nhiệm đảm bảo dịch vụ giáo dục và đào tạo được cung ứng cho người
dân.
1.2.3.3. Mục đích, vai trò của giáo dục và đào tạo
Cùng với quá trình phát triển của cả nhân loại, thì nền văn minh, các thành
tựu khoa học – công nghệ, những trí thức của nhân loại luôn được tồn tại và
phát triển. Khi đó giáo dục và đào tạo với sứ mệnh của mình giúp con người
tiếp cận nền tảng tri thức của nhân loại và có được tri thức, kỹ năng. Giúp con

chuyển giao nền văn minh, các thành tựu khoa học - công nghệ , những hiểu
20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hiết, những tri thức về quy luật tự nhiên và xã hội.v.v. cho các thế hệ sau, giáo
dục tiếp tục giúp các thế hệ sau phát triển dựa trên nền tảng tri đã có.
Giáo dục và đào tạo giúp con người làm quen, tiếp nhận các giá trị và chuẩn
mực của xã hôi, để từ đó con người có được cơ chế kiểm soát và điều chỉnh
hành vi của mình trong cuộc sống xã hội.
Giáo dục và đào tạo là cơ sở phát triển nhân lực, tạo ra nguồn nhân lực quyết
định cho sự phát triển đất nước trong tương lai, nó gắn liền với mục tiêu chiến
lược phát triển, cơ cấu kinh tế của đất nước...Vì vậy, nếu nhà nước không có
những biện pháp thích hợp để định hướng công tác giáo dục và đào tạo thì sẽ
dẫn đến một cơ cấu đào tạo ngành nghề bất hợp lý ghê gớm, làm trệch hướng
phát triển của đất nước so với các mục tiêu đã đề ra.
1.2.3.4. Các loại hình tổ chức sự nghiệp công trong giáo dục và đào
tạo
Hiện nay các tổ chức sự nghiệp trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo được chia
thành 4 loại hình chủ yếu sau:
(1). Cơ sở giáo dục công lập: Do nhà nước thành lập và được quản lý theo qui
định của pháp luật được nhà nước tài trợ ngân sách để thực hiện các nhiệm
vụi được giao
(2). Cơ sở giáo dục bán công: do Nhà nước thành lập trên cơ sở huy
động các tổ chức, cá nhân, thuộc mọi thành phần kinh tế cùng đầu tư xây
dựng cơ sở vật chất. Trường bán công thuộc sở hữu nhà nước, do các cơ quan
nhà nước cấp TƯ, tỉnh, quận/huyện, xã quản lý, nhưng mọi chi phí hoạt động
được trang trải bằng lệ phí do học sinh đóng góp.
(3). Cơ sở giáo dục dân lập: do các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp,
tổ chức kinh tế xin phép thành lập và tự đầu tư bằng nguồn vốn ngoài NSNN.
Các trường dân lập do các tổ chức phi Chính phủ hoặc hiệp hội như công
21

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
đoàn, hợp tác xã, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ...sở hữu và quản lý. Cũng
giống như cơ sở bán công, các trường này tự trang trải toàn bộ chi phí.
(4). Cơ sở giáo dục tư thục: do cá nhân hay một nhóm cá nhân xin phép thành
lập và đầu tư. Các cơ sở này do các cá nhân sở hữu và quản lý.
Tất cả các cơ sở giáo dục bán công, dân lập, tư thục được gọi chung là cơ sở
giáo dục ngoài công lập. Hoạt động của các tổ chức này trong những năm qua
đã đóng góp một phần rất quan trọng vào sự nghiệp giáo dục nước nhà. Việc
xã hội hoá và đa dạng hoá các loại hình giáo dục đã góp phần mở rộng cơ hội
học tập cho người dân, nhiều trẻ em, học sinh, sinh viên được đến trường và
tiếp cận với kiến thức, đã góp phần nâng cao mặt bằng dân trí của đất nước.
1.2.3.5. Cơ chế quản lý các tổ chức giáo dục và đào tạo
Hệ thống giáo dục-đào tạo của Việt Nam trong thời kỳ kế hoạch hoá
tập trung hầu như chỉ bao gồm các cơ sở công lập. Khi đó Nhà nước đảm
nhận việc cung ứng dịch vụ giáo dục các cấp cho xã hội, Nhà nước cấp tài
chính và tổ chức cung cấp dịch vụ theo kế hoạch. Nhà nước nắm quyền kiểm
soát mọi hoạt động của nhà trường, các cơ sở nghiên cứu phát triển khoa học
công nghệ và các đơn vị sản xuất trang thiết bị giáo dục-đào tạo. Những
người làm trong ngành giáo dục (giảng viên, giáo viên, công chức, cán bộ
quản lý và công nhân làm việc tại các cơ sở sản xuất thiết bị dạy học...) đều
thuộc biên chế nhà nước. Quan niệm về đơn vị sự nghiệp công trong lĩnh vực
giáo dục và đào tạo trong báo cáo này chỉ giới hạn cho các đơn vị công lập
cung cấp dịch vụ giáo dục-đào tạo hoạt động bằng nguồn ngân sách (toàn bộ
hoặc một phần), cụ thể hơn là các trường công thuộc hệ giáo dục mầm non và
phổ thông, giáo dục dạy nghề và giáo dục đại học.
Khi đất nước đổi mới, nền kinh tế chuyển sang nền kinh tế thị trường
và thực hiện chủ trương đa dạng hóa các loại hình trường thuộc sở hữu ngoài
22
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nhà nước đòi hỏi phải hình thành khung pháp lý cho hoạt động của các tổ

chức công nói riêng và của hệ thống giáo dục nói chung. Trước yêu cầu của
thực tế hành lang pháp lý này tuy nhiên ra đời chậm, bắt đầu bằng Luật giáo
dục năm 1998 và hoạt động của các cơ sở công chịu sự điều chỉnh trực tiếp và
chịu ảnh hưởng gián tiếp của nhiều văn bản pháp quy, quan trọng nhất là Luật
giáo dục năm 1998, sau này là Luật giáo dục 2005 và quy định về tự chủ tài
chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu.
The cơ chế hiện hành, tất cả loại hình trường hoạt động trong khuôn
khổ pháp luật và có quyền bình đẳng trước pháp luật. Các cơ sở giáo dục và
đào tạo, không phân biệt loại hình sở hữu, chịu sự quản lý hành chính trực
tiếp hoặc gián tiếp của các cơ quan hành chính nhà nước trung ương và địa
phương phù hợp với chức trách, nhiệm vụ và phạm vi do chính phủ phân cấp.
Trường liên kết-liên doanh với nước ngoài và trường nước ngoài hoạt động có
thể vì mục tiêu lợi nhuận hoặc không vì mục tiêu lợi nhuận. Các cơ sở vì mục
tiêu lợi nhuận hoạt động theo quy định của Nghị định số 06/2000/NĐ-CP,
trong khi cơ sở không vì mục tiêu lợi nhuận hoạt động theo quy định của
Nghị định số 18/2000/NĐ-CP.
Khung pháp lý hiện hành cũng quy định thực hiện phân cấp triệt để về
quản lý đối với các trường công. Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm
chung xây dựng và triển khai thực hiện chính sách trong toàn ngành giáo dục
và đào tạo. Bộ Lao động -Thương binh và Xã hội có trách nhiệm quản lý hệ
thống các cơ sở dạy nghề. Nếu phân theo loại trường, các cơ sở giáo dục đại
học và một phần chủ yếu giáo dục nghề nghiệp thuộc quyền quản lý của các
Bộ. Cấp tỉnh quản lý các cơ sở giáo dục trung học và cấp huyện/quận và xã
quản lý giáo dục tiểu học và mầm non. Cơ chế phân cấp đang thực hiện việc
giảm dần sự chi phối của cấp trung ương bằng việc tăng quyền chủ động cho
các cơ sở giáo dục-đào tạo, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính.
23
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Cơ sở để thành lập một cơ sở giáo dục công phụ thuộc vào quy hoạch
phát triển ngành nhằm đạt các chỉ tiêu giáo dục đã được Chính phủ thông qua.

Cơ sở pháp lý quy định việc thành lập, sáp nhập, chia tách, hình thức tổ chức
và hoạt động của các trường được thực hiện theo Nghị định 43/CP năm 2000.
Theo đó, cơ sở giáo dục công lập do Nhà nước thành lập, bổ nhiệm cán bộ
quản lý và giao chỉ tiêu biên chế. Đồng thời Nhà nước quản lý, đầu tư về cơ
sở vật chất, cấp kinh phí cho các nhiệm vụ chi thường xuyên. Về nguyên tắc,
trường đại học do cấp Bộ GD&ĐT và trường cao đẳng do Ủy ban nhân dân
các tỉnh thẩm định và quyết định thành lập. Tổ chức và quy chế hoạt động của
từng loại trường lại được quy định riêng và theo thẩm quyền đã phân cấp. Tuy
nhiên, các văn bản này chủ yếu bao gồm các quy định mang tính chuyên
ngành (như tuyển sinh, quy chế dạy, đào tạo v.v.) và hoạt động của các trường
công chịu ảnh hưởng của nhiều cơ chế và chính sách được quy định tại các
văn bản khác. Do đó, đánh giá hiệu quả hoạt động của các tổ chức này đòi hỏi
phải xem xét cả các cơ chế chính sách khác đó.
24
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG II
THỰC TRANG CƠ CHẾ QUẢN LÝ CÁC TỔ CHỨC SỰ NGHIỆP
CÔNG TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
2.1. Một vài nét về các tổ chức sự nghiệp công ở Việt Nam.
Trong công cuộc đổi mới kinh tế và phát triển đất nước trong hơn hai
thập kỷ qua, cùng với quá trình phát triển kinh tế mạnh mẽ nền kinh tế đất
nước liên tục tăng trưởng cao (trung bình từ 7- 8% năm), nước ta cũng đã đạt
được những kết quả khá ấn tượng trong việc cải thiện đời sống và phúc lợi xã
hội của người dân. Hệ thống dịch vụ phúc lợi xã hội đã và đang được đổi mới
và ngày càng phát triển, đáp ứng phần nào nhu cầu ngày càng tăng của người
dân về cáo loại hình dịch vụ giáo dục, y tế, văn hoá, bảo vệ môi trường.v.v.
Theo kết quả đánh giá tại Báo cáo phát triển con người của Liên hợp quốc,
chỉ số phát triển con người HDI của Việt Nam không ngừng được cải thiện và
luôn được xếp hạng cao hơn so với trình độ phát triển kinh tế. Nếu như chỉ số
HDI của Việt Nam năm 1992 mới đạt 0,539 và đứng thứ 120/174 nước thì

đến năm 2000, HDI của Việt Nam là 0,688, đứng thứ 109/173 nước. Năm
2005, HDI của Việt Nam là 0,733, xếp thứ 105/177 nước trong khi xếp hạng
theo chỉ số GDP (theo GDP bình quân đầu người theo ngang giá sức mua-
PPP) cùng năm là 113/177 nước
9.

Những điều kiện tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân đã
được cải thiện đáng kể trong hai thập kỷ qua. Theo đánh giá của nhiều tổ chức
quốc tế, nước ta đã và đang đạt được những thành tích ấn tượng trong quá trình
thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ (MDG) mà LHQ đã khởi xướng. Theo đó, Việt
Nam sẽ đạt được nhiều chỉ tiêu phát triển của thiên niên kỷ vào thời điểm trước
thời hạn năm 2015 (xem Bảng 2).
9
Báo cáo Phát triển con người 2007/2008 của Liên hợp quốc.
25

×