HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
BÁO CÁO
TỔNG HỢP KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ NĂM 2011
Mã số: B.11.13
Tên đề tài:
DỊCH CHUYỂN LAO ĐỘNG TỪ KHU VỰC NHÀ NƯỚC
SANG TƯ NHÂN TỪ 2005 ĐẾN NAY
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Cơ quan chủ trì: Viện Kinh tế
Chủ nhiệm đề tài: TS Phạm Ngọc Dũng
Thư ký đề tài: Hoàng Thị Hường
9107
HÀ NỘI -2011
CỘNG TÁC VIÊN
TS Phạm Ngọc Dũng
PGS.TS An Như Hải
PGS.TS Nguyễn Thị Như Hà
HVCH Nguyễn Thi Liên Hương
NCS Trần Thị Lan
TS Ngô Tuấn Nghĩa
PGS.TS Nguyễn Khắc Thanh
PGS.TS Nguyễn Thị Thơm
TS Đoàn Xuân Thủy
HVCH Lê Nguyễn Thành Trung
Phạm Đức Thuận
TS Nguyễn Minh Quang
HVCH Lê Hải Yến
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BNV Bộ Nội vụ
CKNN Chứng khoán Nhà nước
CNVC Công nhân viên chức
CCHC Cải cách hành chính
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
ĐCSVN Đảng Cộng sản Việt Nam
HCNN Hành chính nhà nước
KH&CN Khoa học & công nghệ
KH-ĐT Kế hoạch - đầu tư
LLSX Lực lượng sản xuất
NHNN Ngân hàng Nhà nước
THVN Truyền hình Việt Nam
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
TCT Tổng công ty
TP.HCM Thành phố Hồ Chí Minh
TTTON Thụ tinh trong ống nghiệm
UBTVQH Uỷ ban Thường vụ Quốc hộ
i
UNDP Chương trình Phát triển Liên hợp quốc
PVS Phỏng vấn sâu
VAFI Hiệp hội Các nhà đầu tư tài chính
VBQPPL Văn bản quy phạm pháp luật
VINASHIN Tập đoàn Tàu thuỷ Việt Nam
VNPT Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu
1
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DỊCH CHUYỂN
LAO ĐỘNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
8
1.1
Lý luận về chuyển dịch lao động 8
1.2
Một số quy luật và lý thuyết liên quan đến dịch chuyển lao động
trong nền kinh tế thị trường
18
1.3
Một số kinh nghiệ
m khắc phục chuyển dịch lao động từ khu vực
nhà nước ra ngoài nhà nước
29
Chương 2
THỰC TRẠNG DỊCH CHUYỂN LAO ĐỘNG TỪ KHU VỰC
NHÀ NƯỚC SANG TƯ NHÂN Ở NƯỚC TA TỪ 2005 ĐẾN NAY
44
2.1
Một số đặc điểm lao động khu vực nhà nước ở Việt Nam 44
2.2
tình hình lao động khu vực nhà nước dịch chuyển sang tư nhân 49
2.3
Nguyên nhân lao động khu vực nhà nướ
c dịch chuyển sang tư
nhân ở việt Nam
70
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ ĐỐI SÁCH KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG
DỊCH CHUYỂN LAO ĐỘNG TỪ KHU VỰC VỰC NHÀ
NƯỚC SANG TƯ NHÂN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
88
3.1
Quan điểm đối sách về vấn đề dịch chuyển lao động từ khu vực
nhà nước sang tư nhân
88
3.2
Một số đối sách đối với vấn đề
dịch chuyển lao động từ khu vực
nhà nước sang tư nhân ở Việt Nam hiện nay
97
Kết luận
109
Danh mục tài liệu tham khảo 111
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Dịch chuyển nguồn nhân lực từ khu vực này sang khu vực khác là hiện
tượng thường thấy trên thị trường lao động ở nhiều nước trên thế giới. Ngày
nay, do sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học và công nghệ, hiện
tượng dịch chuyển này đã và đang diễn ra với mức độ, quy mô ngày càng lớn.
Sự mở ra c
ủa thị trường quốc tế và khu vực, dòng đầu tư trong và ngoài nước
luân chuyển, vận hành, còn làm xuất hiện hoạt động dịch chuyển lao động qua
lại giữa thị trường trong nước với thị trường nước ngoài hoặc với khu vực lao
động có vốn đầu tư nước ngoài. Đây không chỉ thuần tuý là hiện tượng kinh tế,
mà nó còn mang màu sắc xã hội. Để phản ánh hiện tượng này, ngườ
i ta dùng
thuật ngữ “dịch chuyển” hay “di động” (move) lao động. Dịch chuyển lao động
là hiện tượng người lao động thay đổi công việc, nơi làm việc từ cơ quan, tổ
chức này sang cơ quan, tổ chức khác. Tuỳ thuộc vào ai được hưởng lợi hay ai bị
phương hại do các dịch chuyển động đó gây ra, mà người ta có thể nhìn nhận
việc dịch chuyển đó là tích cực hay tiêu cực.
Ở nước ta, trướ
c kia cũng đã có hiện tượng này, trong đó có tình trạng
người lao động từ khu vực nhà nước (khu vực công - public sector) chuyển sang
làm việc ở khu vực khác (khu vực tư nhân - private sector). Hoạt động dịch
chuyển của những người này, khi đó gọi là “từ quan”. Ngày nay, cùng với việc
chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế,
việc dịch chuyển lao động đ
ã trở nên phổ biến hơn. Ngoài tình trạng những người
lao động được đào tạo hoặc làm việc trong khu vực Nhà nước, nhất là những
người có trình độ và làm việc trong khu vực hành chính sự nghiệp chuyển sang
làm việc ở khu vực khác, còn có tình trạng một bộ phận nguồn nhân lực từ các
khu vực khác di chuyển vào làm việc ở khu vực Nhà nước.
Trong các hiện tượng trên, dịch chuyển lao động từ khu vực Nhà nướ
c sang
khu vực tư nhân đang là một vấn đề kinh tế - xã hội. Chúng ta không khó để tìm
2
thấy trên báo chí những thông tin về tình trạng này. Đã có không ít số người,
trong đó có cả cán bộ quản lý cấp phòng, cấp vụ sở, ban, ngành cấp tỉnh, thành
phố và Trung ương làm việc trong khu vực Nhà nước nộp đơn xin thôi việc để
chuyển ra làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân hoặc tự lập ra doanh nghiệp
riêng để kinh doanh.
Gần đây, khuynh hướng này còn gia tăng và thường thấy ở đội ngũ cán bộ
trẻ có chuyên môn sâu, k
ỹ thuật cao. Đã có không ít cơ sở thuộc khu vực Nhà
nước phải đối phó với hiện tượng này bằng cách đưa ra quy chế về tuyển dụng,
đào tạo để “giữ chân” người lao động trong cơ sở của mình. Ngược lại, cũng đã
có không ít cơ sở kinh tế thuộc khu vực tư nhân, nhất là các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài đã biết lợi dụng thị trườ
ng lao động để “thu hút “chất xám” từ
các cở thuộc khu vực Nhà nước. Đồng thời, cũng đã có người đang làm việc từ
các cơ sở ngoài khu vực Nhà nước tìm cách để có được biên chế trong khu cực
nhà nước.
Dịch chuyển lao động từ khu vực Nhà nước sang tư nhân đã và đang là một
thực tế khách quan. Nó không chỉ tác động đến việc khai thác và sử dụng các
nguồn lực cho sự tăng tr
ường và phát triển kinh tế, liên quan đến tính hiệu quả
của một nền kinh tế, mà còn là một vấn đề có quan hệ đến sự ổn định và phát
triển xã hội, vấn đề liên quan đến chất lượng đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt
động của bộ máy Nhà nước ở nước ta hiện nay. Hiện tượng này cần được giải
thích về mặt lý luận, phân tích về mặt thực tiễn m
ột cách có hệ thống, tìm rõ căn
nguyên và tác động của nó trong đời sống kinh tế - xã hội để chủ động vận dụng
và điều chỉnh. Đề tài mà tác giả lựa chọn để nghiên cứu là: “Dịch chuyển lao
động từ khu vực Nhà nước sang tư nhân ở Việt Nam từ 2005 đến nay - thực trạng
và giải pháp” được đặt ra bắt nguồn từ yêu cầu có tính thời sự nêu trên.
2. Tình hình nghiên cứ
u liên quan đến đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Hiện tượng dịch chuyển lao động từ nơi này sang nơi khác đã được nhiều
nhà kinh tế, chính trị xã hội như Adam Smith, Các Mác, After Marshall, John
3
Bates Clark, J. M. Keynes, Paul Samuelson… đã nghiên cứu. Các ông đã đưa ra
những định lý, lý thuyết về tính hiệu quả của thị trường (Efficlent markets), thu
nhập, tiền công, tiền lương, việc làm, … và đều khẳng định dịch chuyển lao động
là quy luật của thị trường, mà một trong tín hiệu quan trọng của nó là giá cả sức
lao đông. Đặc biệt, từ khi Alfred Marshall tiếp thu lý luận của Ricardo, bổ sung
bằng các lý luận về thỏa dụ
ng và tính thỏa dụng cận biên, Leon Walras
và Vilfredo Pareto và Francis Ysidro Edgeworth đã phát triển kỹ thuật phân
tích cân bằng tổng thể; lý luận về đường bàng quan và hiệu quả (Efficlent) đã
phân tích, đánh giá hiện tượng dịch chuyển lao động trong nền kinh tế thị trường
một cách khoa học.
Gần đây có nhiều bài, tin ở các nước về dịch chuyển lao đông như bài Hiện
đại hóa, toàn cầu hóa và vấn đề chảy máu chất xám của Tr
ần Hữu Dũng
(www.tudies.info/THDung/braindrain.htm) đăng trên Dayton, ngày 15 tháng 12
năm 2001; bài On the move? Labour migration in times of recession (về việc dịch
chuyển ? lao động di cư trong thời suy thoái) của Janet Dobson, Alan Latham &
John Salt, đăng trên policy-network.net, Ngày 06 Tháng Bảy 2009; dịch chuyển
lao động từ London sang Australia đăng trên vietnamplus.vn, ngày 23/04/2010;
Bài Dự báo về ‘chảy máu chất xám’chuyên gia nông nghiệp
1
Brigid Andersen,
bài Brain Drain Is Not Inevitable (Chảy máu chất xám là không thể tránh khỏi)
của Joan Dassin đăng trên
Tóm lại, các nghiên cứu lý luận và thực tiễn nêu trên đã nêu lên được những
nhận thức và thực chất về dịch chuyển lao động trong nền kinh tế thị trường bất kể là
ở Mỹ, ở Anh hay ở Pháp, Trung Quốc. Qua nghiên cứu họ đã khẳng định: dịch
chuyển lao động giữa các doanh nghiệp, các vùng, các nước trong nề
n kinh tế thị
trường là một quy luật; Tình hình dịch chuyển lao động thường xuyên xảy ra và
trong hoàn cảnh cụ thể từng doanh nghiệp, từng vùng, từng quốc giá, thường là
lao động chuyên môn, kỹ thuật cao ở các nước đang phát triển sang các nước phát
1
Scientists predict agricultural brain drain
4
triển; Các tác giả đã vận dụng lý thuyết kinh tế, lý luận về lãnh đạo quản lý để
giải thích, đánh giá các hiện tượng dịch chuyển lao động, đồng thời đưa ra các đối
sách để khắc phục. Đây là nguồn tài liệu quan trọng về lý luận, thực tiễn để
nghiên cứu vấn đề dịch chuyển lao động từ khu vực Nhà nước sang khu vực tư
nhân ở Vi
ệt Nam hiện nay.
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Sau hơn 25 năm đổi mới, nước ta đã chuyển đổi thành công từ thể chế kinh
tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Ðường lối đổi mới của Ðảng đã được thể chế hóa thành Hiến pháp,
tạo hành lang pháp lý cho nền kinh tế thị trường phát triể
n. Các loại thị trường đã
ra đời và từng bước phát triển gắn với thị trường khu vực và thế giới. Đại hội x
của Đảng Cộng sản Việt Nam (2006) khẳng định, tiếp tục hoàn thiện thể chế thị
trường, “phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường
theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh”
2
: thị trường hàng hóa và dịch vụ; thị trường tài
chính; thị trường bất động sản; thị trường khoa học & công nghệ và thị trường
sức lao động. Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã đi vào cuộc
sống, mọi doanh nhân được tự chủ kinh doanh và cạnh tranh lành mạnh để phát
triển. Trong những năm qua, sự dịch chuyển lao động trong thị trường đã
được
Đảng và Nhà nước quan tâm, đã tổ chức các cuộc hội thảo khoa học và được khảo
sát và nhiều người nghiên cứu:
2.2.1. Về hội thảo khoa học:
Hội thảo khoa học “Di chuyển lao động trong nền kinh tế thị trường”
3
, do
Bộ Lao động - Thương binh phối hợp với Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn
tổ chức vào ngày 18/12/2007. Hội thảo khoa học về “Hoạch định nguồn nhân lực
hiệu quả” do Hội Doanh nghiệp Trẻ thành phố Hồ Chí Minh tổ chức. Hội thảo
lấy ý kiến về đề án "Phát triển thị trường lao động Việt Nam giai đoạn 2011 -
2020" do Bộ Lao động - Thương binh & Xã hộ
i phối hợp với Tổ chức Lao động
Thế giới (ILO) tổ chức vào ngày 12/4/2010.
2
Đảng cộng sản Việt Nam (2006): Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ x, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
tr.80.
3
.
5
2.2.2. Khảo sát nghiên cứu thực tế và luận văn:
Công ty Talentnet đã khảo sát 200 doanh nghiệp cho thấy những doanh
nghiệp phát triển như bán hàng, tiếp thị, nhân sự, tài chính, thì lao động sẽ dịch
chuyển đến, trong đó cấp chuyên viên và cấp quản lý là những vị trí sẽ được trả
lương cao cùng nhiều chính sách ưu đãi để thu hút” lao động. Trung tâm Dự báo
nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động thành phố Hồ
Chí Minh tiến
hành khảo sát về thực trạng sử dụng lao động tại 27.000 doanh nghiệp cũng cho
kết quả như vậy. Cán bộ, công chức xin thôi việc ở nước ta: Những vấn đề lý luận
và thực tiễn, luận văn thạc sỹ do Lê Minh Hương nghiên cứu năm 2009.
2.2.3. Các bài báo đăng trên các tạp chí:
Trong thời gian gần đây đã có nhiều bài báo viết về dịch chuyển lao động
t
ừ khu vực nhà nước sang khu vực tư nhân, Chẳng hạn như bài Chảy máu chất
xám thật không của Le Tien Dung đăng trên cynosura.org; bài Khi Ngân hàng
Nhà nước bị 'rút lõi' chất xám của Vân Anh đăng trên vietnamnet.vn, ngày
18/01/2008; bài Kiểm toán Nhà nước vất vả lo giữ chân người tài của Hà Yên
đăng trên ietnamnet.vn/kinhte, ngày 25/01/2008; bài Công chức 'cộng sinh' và
những nẻo đường ly tán của TS Ngô Thành Can, đăng trên vietnamnet.vn, ngày
14/09/2008; bài “Chảy máu chất xám Ngân hàng NN: Người ra đi nói gì?” của
VietNamNet đăng ngày 19/01/2008; bài Xu hướ
ng chuyển dịch lao động chuyên
môn cao quốc tế của TS Phạm Thị Thanh Bình; bài thành phố Hồ Chí Minh:
Người giỏi quay lưng khu vực Nhà nước của Phạm Cường; bài Đừng ngăn chảy
máu chất xám của Nguyễn Quang A; bài Đà Nẵng: chống "chảy chất xám" của
hcm.24h.com; thư ngỏ của một cán bộ Ngân hàng Nhà nước: 'Nếu không cải
thiện, tôi cũng đành ngậm ngùi ra đi'… Tóm lạ
i, qua các cuộc hội thảo, điều tra
khảo sát, các bài báo về dịch chuyển lao động bước đầu đã bàn đến:
a) Khái niệm về dịch chuyển lao động, tính hiệu quả của phát triển kinh tế
nhờ dịch chuyển lao động trong nền kinh tế thị trương;
b) Tình hình thực tế lao động khu vực nhà nước xin nghỉ việc trong những
năm qua ở trong nước và dịch chuyển lao động giữ
a các nước. Đồng thời, cũng
6
nêu lên những nguyên nhân dẫn đến sự dịch chuyển lao động đang phát triển ở
châu Phi, châu Á, châu Mỹ La tinh và các nước phát triển OECD;
c) Ở các hội thảo và sách báo bước đầu đã đưa ra các đối sách khắc phục
hiện tượng đó. Từ tình hình nghiên cứu, chúng tôi cho rằng, nghiên cứu khoa học
đề tài đã nêu ở trên có thể thực hiện được.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài:
a) Mục tiêu của đề tài là,
đánh giá đúng thực trạng dịch chuyển lao động từ
khu vực nhà nước sang khu vực tư nhân ở Việt Nam hiện nay. Xác định rõ
nguyên nhân, tìm ra các đối sách có ý nghĩa thực tiễn khắc phục hiện tượng đó.
b) Nhiệm vụ của đề tài:
Một là, hệ thống hóa để làm rõ cơ sở lý luân và thực tiễn của vấn đề dịch
chuyển lao động trong nền kinh tế thị trường;
Hai là
, đánh giá thực trạng sự dịch chuyển lao động từ khu vực nhà nước
sang khu vực tư nhân ở Việt Nam từ năm 2005 đến nay;
Ba là, đưa ra các đối sách thực thi khắc phục hiện tượng bỏ việc từ khu vực
nhà nước sang khu vực tư nhân trong nền kinh tế thị định hướng xã hội chủ nghĩa
vào những năm tiếp theo.
4. Phương pháp nghiên cứu:
4.1. Phương pháp luận: Đề
tài lấy quan điểm phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Quán triệt quan điểm,
đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta. Những quan điểm chủ yếu được sự
dụng trong nghiên cứu của đề tài là: quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm vận
động và phát triển; quan điểm về m
ối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn; coi trọng
tính thiết thực trong nghiên cứu tình huống.
4.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể:Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên
cứu của kinh tế học (trong đó có kinh tế chính trị học), của xã hội học và của khoa
học quản lý nhất là quản lý nhân sự trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường.
Kế thừa k
ết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế và xã hội học trên các nguồn tài liệu
7
và thông tin, các cuộc hội thảo khoa học, sách, báo, tạp chí có liên quan đến đối
tượng nghiên cứu. Đồng thời, sử dụng các phương pháp đối chiếu và so sánh,
phương pháp phân tích và tổng hợp để giải quyết nội dung nghiên cứu của đề tài.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp khảo sát, phân tích thực
tế di động lao động ở một số địa bàn trong nước bằng cách phỏng vấn và trắc
nghiệm phù h
ợp với tính chất nghiên cứu của đề tài.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài:Đề tài có ý nghĩa quan trọng về
lý luận và thực tiễn.
- Về lý luận, góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về bản chất, hình thức biểu
hiện và hệ quả của di động lao động giữa hai khu vực nhà nước và tư nhân trong
điều kiện phát triển nền kinh tế th
ị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.
- Về thực tiễn, đề tài là tài liệu tham khảo bổ ích góp phần hoàn thiện cơ
chế quản lý vĩ mô và vi mô về lao động; nâng cao nhận thức của người lao động
trong cơ chế mới; đồng thời là tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm nghiên
cứu, giảng dạy và xử lý vấn đề này.
Với ý nghĩa trên, nhóm tác giả s
ẽ sử dụng kết quả nghiên cứu để xã hội hóa
từng phần trên các phương tiện thông tin đại chúng và cố gắng đưa xuất bản
thành sách toàn bộ nội dung để phục vụ bạn đọc gần xa trong nước.
6. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và kết cấu của đề tài Đối tượng nghiên
cứu của đề tài là dịch chuyển lao động từ khu vực nhà nước sang tư nhân. Phạm vi
nghiên cứu là dịch chuyển lao động từ khu vực nhà nước sang tư nhân giai đoạn từ
năm 2005 đến năm 2010 ở Việt Nam. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các
tài liệu tham khảo, đề tài tập trung nghiên cứu 3 chương cơ bản sau đây:
8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DỊCH CHUYỂN
LAO ĐỘNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. LÝ LUẬN VỀ DỊCH CHUYỂN LAO ĐÔNG
1.1.1. Khái niệm về dịch lao động: Sức lao động, mà nền kinh tế hiện đại
gọi là vốn con người đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của mọi tổ chức
kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hộ
i. Nhà kinh tế học Gary Becker
4
(2/12/1930-
4/10/2009) khẳng định: học vấn, đào tạo, kỹ năng và thậm chí cả sức khoẻ của
con người tạo nên khoảng 75% sự giàu có của một nền kinh tế hiện đại; không
phải kim cương, nhà cửa, dầu mỏ hay ngân quỹ mà chính những thứ chúng ta
đang có trong đầu mới là vốn quý. Theo C.Mác khả năng con người có “tính vô
tận”
5
. Do đó, cần khai thác tốt khả năng của con người. Việc quản lý vồn con
người đòi hỏi sự hiểu biết về con người ở nhiều khía cạnh và quan niệm đúng đắn
rằng, con người là yếu tố trung tâm của sự phát triển. Các kỹ thuật quản lý nhân
lực thường có mục đích tạo điều kiện để vốn con người phát huy hết khả năng
ti
ềm ẩn, giảm lãng phí nguồn lực, quản lý và điều hành hữu hiệu (good
governance) của tổ chức. Di dân là một hiện tượng kinh tế - xã hội mang tính quy
luật, dịch chuyển lao động là một đòi hỏi tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị
trường, là biểu hiện rõ nét nhất của sự phát triển không đồng đều giữa các khu
vực, các ngành, vùng miền lãnh thổ, giữa các quốc gia.
Dịch chuyển lao động góp ph
ần tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội. Cùng
với nhân tố vốn, tài nguyên…, sức lao động được xem là nguồn lực quan trọng
cho sự phát triển kinh tế, xã hội. Các nước đang phát triển như Việt Nam có đặc
4
là một nhà kinh tế học người Hoa Kỳ đoạt giải Nobel Kinh tế, Giải thưởng Nhà nước về Khoa học. Becker sinh
ra tại Pottsville, Pennsylvania, lấy bằng cử nhân tại Đại học Princeton (1951), tiến sỹ tại Đại học Chicago (1955).
Ông từng giảng ở Đại học Colombia một thời gian (1957-1968) trước khi về làm giáo sư Đại học Chicago đồng
thời ở ba khoa là khoa kinh tế học, khoa xã hội học và Trường Kinh doanh Booth. Becker được trao Giải John
Bates Clark vào năm 1967, và Giải Nobel Kinh tế vào năm 1992, Huân chương Tự do của Tổng thống Hoa Kỳ vào
năm 2007
5
C.Mác và Ph.Ăng ghen: Toàn tập, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội-2006, t.1, tr.822-823.
9
trưng bởi nền kinh tế kép
6
(dual economy) có lực lượng lao động dư thừa trong
nông nghiệp và năng suất lao động nông nghiệp thấp. Vì vậy, dịch chuyển người
lao động trong nền kinh tế thị trường là một trong những cách thức khai thác, tận
dụng nguồn nhân lực lao động và phân bổ nguồn nhân lực hiệu quả nhất. Thực tế
ở nhiều nước trên thế giới đã chỉ ra, dịch chuyển lao động là khía cạnh giá trị thự
c
chất nhất của cuộc sống kinh tế và xã hội bởi con người luôn tìm kiếm cơ hội để
nâng cao nhu cầu và mức sống của bản thân và gia đình.
Tăng trưởng kinh tế, phát triển các tổ chức kinh tế, văn hóa, xã hội được
xem là nhân tố thúc đẩy quá trình dịch chuyển lao động. Phát triển và dịch chuyển
lao động luôn đồng hành với phát triển kinh tế, xã hội; tỷ lệ dịch chuyển lao độ
ng
trung bình ở một nước có mức độ phát triển con người thấp khoảng 4%, so với
hơn 8% ở các nước có mức độ phát triển con người cao hơn. Ở Trung Quốc, di
chuyển lao động chiếm ưu thế trong quá trình dịch chuyển, bởi vì những khu vực
tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội nhanh đã tạo ra rất nhiều cơ hội việc làm.
Dịch chuyển lao động từ khu vực này sang khu vự
c khác trong một quốc
gia là hiện tượng thường thấy trên thị trường lao động ở nhiều nước trên thế giới.
Ngày nay, do sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học và công nghệ,
hiện tượng dịch chuyển này đã và đang diễn ra với mức độ, quy mô ngày càng
lớn. Sự mở ra của thị trường quốc tế và khu vực, dòng đầu tư trong và ngoài nước
còn làm xuất hiện hoạt độ
ng dịch chuyển lao động qua lại trong nước với ngoài
nước hoặc với khu vực lao động có vốn đầu tư nước ngoài. Đây không chỉ thuần
tuý là hiện tượng kinh tế, mà nó còn mang màu sắc xã hội. Để phản ánh hiện
tượng này, người ta dùng thuật ngữ “di động” (move), “chảy máu chất xám”
(Brain-drain), luân chuyển chất xám (Brain-circulation), dịch chuyển lao động
(Human capital flight) giữa công và tư, giữa công và công và giữa tư và tư. Vậy,
dị
ch chuyển lao động là hiện tượng người lao động thay đổi nơi làm việc từ cơ
6
Một nền kinh tế kép là sự tồn tại hai nền kinh tế trong một quốc gia.
10
quan, tổ chức này sang cơ quan, tổ chức khác, hoặc từ nước này sang nước khác
từ khu nhà nước sang tư nhân và ngược lại. Tuỳ thuộc vào ai được hưởng lợi hay
ai bị phương hại do các dịch chuyển lao động đó gây ra, mà người ta có thể nhìn
nhận việc dịch chuyển đó là tích cực hay tiêu cực.
1.1.2. Đặc trưng của dịch chuyển lao động trong nền kinh tế thị
trường. Giố
ng như các hiện tượng khác, dịch chuyển lao động cũng có những
nguyên tắc làm cơ sở cho sự hoạt động. Quan hệ cung - cầu là phương pháp cơ
bản để nghiên cứu hiện tượng dịch chuyển lao động. Nhưng, hàng hóa sức lao
động trong dịch chuyển có một số đặc điểm cần lưu ý khi tuyển dụng, quản lý và
sử dụng.
1.1.2.1. Đặc điểm củ
a hàng hóa sức lao động
Một là, hàng hóa sức lao động không tách khỏi sở hữu chủ. Trên thị trường
lao động, người mua chỉ có quyền sử dụng và làm chủ từng phần khả năng lao
động - sức lao động, mà nó hoạt động trong một khoảng thời gian nhất định.
Nhưng người mua không đơn giản là mua sức lao động như những loại hàng hóa
khác, mà có quan hệ với người có những quyền hạ
n nhất đỉnh như một cá nhân tự
do, mà anh ta phải tuân thủ. “Anh ta và người chủ tiền gặp nhau trên thị trường
và quan hệ với nhau với tư cách là những người chủ hàng hóa bình đẳng với
nhau”
7
;
Hai là, giữa người bán và người mua sức lao động có trách nhiệm phối
hợp hành động với nhau. Người mua (thuê) có trách nhiệm phối hợp hành động
tương đối dài với người bán. Điểm này đặt một dấu ấn trong mối quan hệ tương
hỗ hai bên và đóng một vai trò quan trọng trong quá trình lao động. Người lao
động, như một cá thể, có thể tự kiểm soát chất lượng công việc của mình với
nh
ững nỗ lực khác nhau, thể hiện mức độ trung thực khác nhau. Người thuê phải
7
C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội-2006, tr.251.
11
tính đến những yếu tố đó để tuyển dụng, quản lý, sử dụng, nghĩa là phải xây dựng
một cơ chế đãi ngộ và ứng sử thích hợp, như: điều kiện làm việc, tiền lương, tiền
thưởng và các phúc lợi xã hội khác, quan hệ kích thích, tạo động lực đối với
người lao động một cách phù hợp để giữ người có năng lự
c;
Ba là, chất lượng lao động rất khác nhau ở từng hàng hóa sức lao động.
Chất lượng lao động ở từng người lao động có khác nhau theo giới tính, tuổi tác,
thể lực, trí tuệ, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, động lực làm việc v.v… Vì vậy,
mức độ cá thể hóa cao khi ký kết giao kèo, gắn với trình độ chuyên môn “mặc
nhiên thừa nhận sự không ngang nhau về năng khiếu cá nhân và do đó, và năng
lực lao
động, coi đó là những đặc quyền tự nhiên”
8
của mọi cá nhân người lao
động, sự đa dạng của công nghệ và tổ chức lao động, nên việc tuyển dụng, đánh
giá, trả công và ứng sử thích đáng đề người lao động gắn bó với tổ chức, đơn vị;
Bốn là, thị trường lao động liên kết xung quanh mình các thị trường khác
nhau, tiền công lao động phải thay đổi theo giá các hàng hóa vật chất trong từng
giai đoạn. Quá trình trao đổi sứ
c lao động so với trao đổi hàng hóa vật chất được
bắt đầu trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa - quyền sử dụng khả năng lao động
được chuyển sang người mua theo những gì đã được ấn định trong hợp đồng. Quá
trình trao đổi được tiếp tục trong sản xuất dưới hình thức trao đổi sức lao động
đang hoạt động, lao động thực tế thành lương danh nghĩa và kết thúc trong lĩnh
vự
c lưu thông của cải vật chất, có nghĩa là trên thị trường hàng hóa và dịch vụ
được trao đổi lương danh nghĩa thành phương tiện sống. Việc trao đổi hàng hóa
vật chất được bắt đầu và kết thúc trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa vật chất. Từ
đặc điểm đó đưa đến hai kết quả: thứ nhất, thị trường lao động liên kết xung
quanh mình các thị trường hàng hóa khác nhau; thứ
hai, tiền công lao động thực
tế được thực hiện tương ứng với kết quả cuối cùng, có nghĩa là với giá sản phẩm
8
C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, T.19, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.35.
12
mà lao động đó làm ra. Điểm này đặt người sử dụng lao động phải thay đổi mức
lương phù hợp với nhu cầu và giá các hàng hóa vật chất trong từng giai đoạn;
Từ các đặc điểm của hàng hóa sức lao động, người sử dụng lao động cần
tính đến tiền lương, điều kiện lao động, tương lai công việc và triển vọng thăng
tiến c
ủa người lao động đề người lao động gắn bó với cơ quan, đơn vị. Đối với
người lao động vấn đề quan trọng không chỉ là tiền công và tiền lương, mà còn là
nội dung và điều kiện lao động, bảo đảm duy trì chỗ làm việc, tương lai công việc
và triển vọng thăng tiến trong nghề nghiệp, bầu không khí làm việc trong tập thể
và quan hệ giữa người lao độ
ng với người thuê lao động v.v…
1.1.2.2. Đặc trưng của dịch chuyển lao động
Lao động (labor) được liên kết thành nhóm người lao động, có vai trò khác
nhau trong hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Nhóm thứ nhất - những
nhà kinh doanh, những người nông dân làm kinh tế độc lập, đang hoạt động lao
động cá thể. Những cá nhân của nhóm này sử dụng khả năng kinh doanh của
mình để tự tổ chức sản xuất, kinh doanh v
ới mục đích nhận lợi nhuận và siêu lợi
nhuận hoặc là chỉ để thoả mãn những nhu cầu riêng của mình. Nhóm thứ hai, bao
gồm số lượng nhiều hơn, - đó là nhóm những người làm dịch vụ công, thuê, bán
sức lao động của mình cho Nhà nước, các nhà doanh nghiệp để sử dụng trong quá
trình hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội với mục đích nhận thu nhập để
đảm bả
o cuộc sống.
Vì những vai trò khác nhau của các nhóm lao động, trong quá trình sản
xuất họ được phân chia thành hai cặp phạm trù độc lập. Với nhóm thứ hai, sức lao
động thực tế chỉ được tính gồm những người lao động làm thuê và những người
thất nghiệp đang đi tìm kiếm việc làm trên cơ sở bán sức lao động của mình.
Trong lý thuyết kinh tế, sức lao động được hiểu như là một tập h
ợp những
khả năng lao động bằng thể lực và trí lực của con người, được sử dụng để sản
13
xuất ra của cải vật chất và tinh thần. Đại diện cho sức lao động là con người.
C.Mác chỉ rõ: "sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực
thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống, và
được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó"
9
.
Sức lao động luôn có sẵn trong bất kỳ xã hội nào, tồn tại trong cá nhân người lao
động mà không phụ thuộc vào giai đoạn phát triển, cũng như hình thái xã hội.
Tuy nhiên, chỉ trong một trình độ phát triển lịch sử xã hội nhất định, khả năng lao
động - sức lao động - trở thành hàng hóa. Những điều kiện đó là: thứ nhất, “Muốn
cho người chủ sức lao động ấy có thể bán được nó vớ
i tư cách là hàng hóa, thì
người đó phải có khả năng chi phối được sức lao động ấy, do đó, người đó phải là
kẻ tự do sở hữu năng lực lao động của mình, thân thể của mình”
10
, tức là phải
được tự do về thân thể, thứ hai, “anh ta không còn có một hàng hóa nào khác để
bán, nói cách khác là trần như nhộng, hoàn toàn không có những vật cần thiết để
thực hiện sức lao động của mình”
11
, tức là người lao động bị tước đoạt hết tư liệu
sản xuất, thì khái niệm này mới đạt được ý nghĩa kinh tế cụ thể.
Thị trường là một khái niệm rất tổng hợp, thị trường vật phẩm, thị trường
vốn, thị trường khoa học & công nghệ, thị trường lao động. Thị trường vật phẩm,
thị trường v
ốn hay thị trường khoa học & công nghệ được xác định rất cụ thể đối
tượng mua và bán, còn đối tượng mua và bán của thị trường lao động là gì? Thiết
nghĩ rằng, đó là câu hỏi không đơn giản. Một số các nhà kinh tế cho rằng, trên thị
trường lao động, người ta mua và bán “lao động”, các tác giả khác lại cho rằng,
trên thị trường lao động được mua và bán “sức lao động”. Nhà kinh tế người Mỹ
Ronald Erenberg và Robert Smith thì l
ại khẳng định, trên thị trường lao động
được mua và bán “dịch vụ lao động”, hay mua bán vốn con người….
9
C.Mác và Ph.Ăng ghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội-2006, t.23, tr. 251.
10
C.Mác và Ph.Ăng ghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội-2006, t.23, tr. 251.
11
C.Mác và Ph.Ăng ghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội-2006, t.23, tr. 253.
14
Trong nền kinh tế thị trường, sức lao động là một loại hàng hóa, nó được
mua, được bán, có giá cả, có giá trị và có giá trị sử dụng. Đặc biệt, khi mua và
bán hàng hóa này, giá trị hàng hoá sức lao động “do thời gian lao động xã hội cần
thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động quyết định” được thanh toán, còn
giá trị sử dụng được trưng tập, chuyển thành sở hữu của người mua. Nhưng
ở
đây, người chủ sở hữu sức lao động vẫn là chủ sở hữu sức lao động của mình, sức
lao động không bị tách rời và không thể tách rời. Vì vậy, có hai loại ý kiến về vấn
đề này. Một là, các nhà nghiên cứu theo lý thuyết kinh tế thị trường, Adam Smith
(1723-1790), David Ricardo (1722-1823), Các Mác (1818-1883) cho rằng, trên
thị trường lao động chỉ có “mua và bán sức lao động”
12
. Hai là, các nhà kinh tế
theo trường phái tổng hợp tân cổ điển hiện đại như Karl Menger (1840-1921),
Bohn Bawerk (1851-1914), Alfred Marshall (1842-1924), John Maynard Keynes
(1884-1946), Paul. A. Samuelson (15-5-1915 đến 13-12-2009) đưa ra những khái
niệm khác nhau về vấn đề này: Sức lao động không bán được, mà là bán quyền sử
dụng nó, bán dịch vụ lao động; cho thuê trong điều kiện các bên cùng có lợi.
Theo Mác, "Lao động trước hết là một quá trình xảy ra giữa người và tự
nhiên, một quá trình trong đó, một hoạt độ
ng của chính mình, con người làm
trung gian, điều tiết và kiểm tra sự trao đổi vật chất giữa họ và tự nhiên"
13
. Lao
động không thể là đối tượng của mua và bán. Lao động được chuyển đến và
trưng tập về cho nguời mua, để từ đó chiếm hữu về mình những kết quả cụ thể
của lao động. "Với tư cách là sự thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình
tạo ra giá tri, thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất hàng hoá; với tư
cách là sự thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình làm tăng giá tr
ị thì
quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, là hình thái tư bản
chủ nghĩa của nền sản xuất hàng hoá"
14
. Ở đây còn thể hiện thêm một đặc điểm
nữa của sức lao động. Giá trị của những kết quả lao động, do sức lao động tạo ra,
12
C.Mác và Ph.Ăng ghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội-2006, t.23, tr. 250.
13
C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội-2006, tr.266.
14
C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội-2006, tr.294-295.
15
sẽ phải lớn hơn giá trị sức lao động, còn nếu không thì sẽ không có ai quan tâm
để mua nó. C.Mác đã chỉ rõ rằng, giá trị sử dụng của sức lao động chính là ở chỗ,
nó có khả năng tạo ra giá trị thặng dư và lợi nhuận từ nguồn vốn đầu tư. Vậy, khi
nào và cần những điều kiện gì thì sức lao động sẽ chuyển thành hàng hóa? Thực
tế cần 3 đ
iều kiện: Người lao động bị mất công cụ để sản xuất và phương tiện tồn
tại; Người lao động phải được tự do về mặt pháp lý, có khả năng hoàn toàn làm
chủ sức lao động của mình; Trên thị trường có người nắm giữ tư liệu sản xuất và
đồng thời có khả năng mua sức lao động.
Cùng với sự phát triển của Luật Lao động, ngườ
i lao động là người chủ sở
hữu sức lao động đã nhận được sự đảm bảo về mặt pháp lý nhiều hơn trong quá
trình đàm phán với người thuê lao động. Ký kết hợp đồng thuê cho phép người
làm thuê được tiếp cận tư liệu sản xuất, sức lao động được hoạt động, có nghĩa là
quá trình lao động được bắt đầu. Thêm vào đó, người lao động hoàn toàn không
mất quyền sở
hữu sức lao động của mình, bao gồm quyền nắm giữ, làm chủ và
quyền sử dụng. Theo các điều kiện của hợp đồng, “người sở hữu sức lao động
bao giờ cũng chỉ bán sức lao động đó trong một thời gian nhất định thôi”
15
, tức là
chuyển quyền sử dụng sức lao động của mình trong thời gian mà quá trình lao
động diễn ra.
Do ảnh hưởng rộng khắp phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân trên
toàn thế giới, quyền lợi của người làm thuê trong lĩnh vực lao động được mở
rộng, ngày làm việc giảm xuống còn 8 giờ (40-44 tiếng trong một tuần). Đến cuối
thế kỷ XX, ở nhiều nước công nghiệp phát triể
n như Mỹ, Anh, Pháp, Đức…tuần
làm việc chỉ còn 37 - 38 giờ; nhà nước bắt đầu áp dụng chế độ bảo hiểm thất
nghiệp, bảo hiểm rủi ro trong sản xuất, bảo hiểm y tế v.v…
Nhiều nhà kinh tế đương thời cho rằng, cả người thuê lao động và người
lao động tham gia vào thị trường như những bạn hàng bình đẳng, như những
15
C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội-2006, tr.251-252.
16
người sở hữu bình đẳng, người thuê lao động là người chủ tư liệu sản xuất, còn
người lao động là người chủ sức lao động. Nhưng trong thực tế, người lao động
bắt buộc phải bán sức lao động của mình để nuôi sống bản thân mình và gia đình
mình. Trên thị trường lao động, đối tượng để xem xét mua và bán là chỗ làm việc
xác định, những điều kiện lao
động kèm theo và tiền công được đặt ra, và cuối
cùng là xác định người nào vào chỗ làm việc đó, vấn đề sẽ được người thuê lao
động quyết định. Khi đó người thuê lao động luôn có thể không chấp nhận hoặc
sa thải bất kỳ người công nhân nào mà anh ta cảm thấy không có lợi cho hoạt
động sản xuất kinh doanh của mình.
Những yếu tố cơ bản của thị trường lao động là: cầu sức lao độ
ng; cung sức
lao động; giá cả của sức lao động (tiền lương); cạnh tranh trên thị trường lao
động; cơ sở hạ tầng của thị trường lao động. Thị trường lao động bao gồm những
chủ thể sau: những người thuê lao động (người mua); những người làm thuê
(người bán); nhà nước và các đại diện của mình; các tổ chức môi giới trung gian.
Tất cả những người lao động làm thuê khi gặp b
ối cảnh thuận lợi đều sẵn sàng
thay đổi chỗ làm việc. Ngược lại, những người thuê lao động thì chỉ lựa chọn cho
mình những người làm thuê xuất sắc trong số những người đang làm việc.
Trong kinh tế hàng hóa, thị trường lao động được coi như một đầu tầu để
kéo theo sự chuyển động của các thị trường khác. Thông qua thị trường, dịch
chuyển lao động đảm b
ảo việc làm cho dân số tích cực kinh tế, kết nối họ vào lĩnh
vực sản xuất và dịch vụ, tạo khả năng cho họ nhận được những thu nhập thiết yếu
để tái sản xuất sức lao động của chính bản thân mình, cũng như nuôi sống gia
đình họ.
Dịch chuyển lao động sang chỗ làm việc thích hợp, nơi mà thành quả lao
động của họ có năng suất cao hơ
n và có cơ hội nhận được thu nhập cao hơn. Dịch
chuyển lao động bảo đảm việc sắp xếp lại dân số tích cực kinh tế trong trường
hợp cải cách cấu trúc nền kinh tế. Vấn đề này đặc biệt quan trọng và không kém
17
phần khó khăn khi những nước bước vào thời kỳ chuyển đổi, các xí nghiệp chịu
sự sắp xếp lại theo nhiều hướng khác nhau: sát nhập, giải thể, liên kết, liên doanh,
cổ phần hóa, cho thuê hoặc bán doanh nghiệp. Bên cạnh đó sự hình thành và phát
triển đa dạng các loại hình sở hữu, nhiều xí nghiệp mới ra đời đã giải quyết hàng
chục ngàn chỗ làm việc mới cho người lao động. T
ỷ trọng lao động trong các
thành phần kinh tế, các ngành nghề, khu vực dân cư dần dần được thay đổi theo
cơ cấu ngày càng hợp lý, uyển chuyển, thích ứng và phù hợp với cấu trúc mới của
nền kinh tế.
Dịch chuyển lao động trong kinh tế thị trường làm tăng tính cơ động của
sức lao động giữa các xí nghiệp trong một ngành, giữa các ngành và các khu vực
Nhà nước và tư nhân. Trong thời kỳ đầu, dòng chuyể
n động này vẫn chưa mang
tính cơ động cao ở các nước chuyển đổi nền kinh tế như Việt Nam, vì hàng loạt
những nguyên nhân như: tính ỷ lại và trông chờ vào sự sắp xếp công việc của Nhà
nước là thói quen đã ăn sâu vào tiềm thức của cả thế hệ người lao động từ thời
kinh tế bao cấp, thói quen thích ứng với nơi đã sống thường xuyên, sự gắn bó v
ới
công việc, gánh nặng gia đình cùng việc học hành của con cái, những thủ tục
hành chính nhiêu khê như: chế độ hộ khẩu, tạm trú, tạm vắng, vấn đề nhà ở v.v
Nhưng sau đó, Nhà nước đã có nhiều thay đổi trong chính sách điều tiết kinh tế vĩ
mô, cải cách từng bước các thủ tục hành chính cũng như hoàn thiện dần cơ sở hạ
tầng của thị trường lao
động, thì tính cơ động của sức lao động cũng đang dần dần
có nhiều chuyển biến tích cực, đặc biệt là trong giới trẻ.
Tóm lại, thị trường lao động ở các nước chuyển đổi, điều tiết dòng dịch
chuyển theo bốn hướng cơ bản sau: Thứ nhất, chuyển những người làm thuê bị
mất việc vào hàng ngũ người thất nghiệ
p. Thứ hai, sắp xếp những người thất
nghiệp ở xí nghiệp hoặc các công sở và chuyển họ vào đội ngũ người lao
động. Thứ ba, bố trí về hưu hoặc giảm việc tìm kiếm công việc, có nghĩa là
chuyển họ từ dân số tích cực kinh tế vào dân số không tích cực kinh tế. Thứ
18
tư, tìm kiếm và sắp xếp công việc cho những người mới thất nghiệp các trường
đào tạo, cũng như những người trước đây không làm việc và chưa bao giờ tìm
kiếm việc làm, có nghĩa là di chuyển họ từ dân số không tích cực kinh tế vào dân
số tích cực kinh tế.
1.2. Một số quy luật và lý thuyết liên quan đến dịch chuyển lao động
trong nền kinh tế thị trườ
ng
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và trao đổi, đặc biệt cách
mạng KH&CN và phát triển thị trường toàn cầu, hiện tượng dịch chuyển lao
động, nhất là lao động có tay nghề cao từ nơi này sang nơi khác là tất yếu khách
quan. Nhiều nhà kinh tế, chính trị xã hội như Adam Smith (1723-1790) với tác
phẩm The Wealth of Nations (của cải của các dân tộc); Các Mác ( 5/5/1818-
14/3/1883) với tác phẩm Tư bản; After Marshall (1842-1924) v
ới tác phẩm
Principles of Economics (Những nguyên lý của kinh tế học); John Bates Clark
(1847-1938) với The Distribution of Wealth (Việc phân phối của cải); J. M.
Keynes (1883-1946) với The General Theory of Employment, Interest and Money
(Lý thuyết về việc làm, lãi suất và tiền tế); Paul Samuelson (1915-2009) với
Foundations of Economic Analysis (Cơ sở của phân tích kinh tế)… đã nghiên cứu
thị trường lao động và đưa ra những định lý, lý thuyết về tính hiệu quả của thị
trường (Efficlent markets), thu nhập, tiền công, ti
ền lương, việc làm, … đều
khẳng định dịch chuyển lao động là quy luật, mà một trong tín hiệu của nó là giá
cả sức lao đông (tiền lương). Từ khi Alfred Marshall (1842 - 1924) tiếp thu lý
luận của Ricardo (18-4-1772 đến 11-9-1823), bổ sung bằng các lý luận về thỏa
dụng và tính thỏa dụng cận biên, Leon Walras (16-10-1834 đến 5-1-1910)
và Vilfredo Pareto (15-7-1848 đến 19-8-1923) và Francis Ysidro Edgeworth (8-2-
1845 đến 13-2-1926) đã phát triển kỹ thuật phân tích cân bằng tổng thể (General
Equilibrium) và lý luận về đường bàng quan và hiệu qu
ả (Efficlent) thì phân tích,
đánh giá hiện tượng dịch chuyển lao động trong nền kinh tế thị trường một cách
khách quan khoa học. Về hiện tượng này, các ông đã nghiên cứu: cầu lao động và
19
xác định tiền lương, mô hình kinh tế vi mô - cung cấp, mô hình kinh tế vi mô -
nhu cầu, kinh tế vĩ mô của thị trường lao đông với định lý “cái tốt bật nhì"
(second-best theorem); lý thuyết về ngoại ứng (externalities); lý thuyết năng xuất
biên tế lao động (marginal labor productivity); giá trị thu nhập biên tế (marginal
revenue)…
1.2.1. Một số quy luật liên quan đến dịch chuyển lao động
1.2.1.1. Quy luật cung cầu (Law of supply and demand) lao động trên thị
trường. Quy luật
đó phát biểu rằng, thông qua sự điều chỉnh của thị trường, một
mức lương cân bằng (còn gọi là mức giá thị trường) và một lượng giao dịch sức
lao động cân bằng (lượng cung cấp bằng lượng nhu cầu) sẽ được xác định.
Cầu là nhu cầu lao động cộng với khả năng trả lương cho nhu cầu đó; là sự
cần thiết của một cá th
ể về một hàng hóa sức lao động mà cá thể sẵn sàng có khả
năng thanh toán cho hàng hóa hay dịch vụ sức lao động đó. Khi cầu của toàn thể
các cá thể đối với hàng hóa sức lao động trong một nền kinh tế gộp lại, ta có cầu thị
trường lao động. Thực chất, cầu lao động là một thuật ngữ dùng để diễn đạt thái độ
của người mua và khả năng mua về hàng hóa sức lao
động. Như vậy, cầu lao động
xoay quanh hai yếu tố: ý muốn sẵn sàng mua sức lao động và khả năng tài chính.
Lưu ý rằng, số lượng cầu hàng hóa sức lao động tùy thuộc vào hai yếu tố kể trên
mà còn tùy thuộc vào thời giá nữa, vì nếu lương thay đổi thì khối lượng cầu hàng
hóa sức lao động cũng sẽ thay đổi. Số lượng cầu hàng hóa sức lao động là số lượng
mà người mua sẵn sàng mua trong một th
ời kỳ nào đó. Sẵn sàng mua có nghĩa là
người mua sẽ thực sự sẵn sàng trả lương cho số lượng cầu. Điều này rất quan trọng
để phân biệt giữa số lượng cầu và số lượng thực sự mua.
Lượng hàng hóa sức lao động mà một cá thể có nhu cầu, khi có đủ ngân
sách để mua tại một thời điểm nhất định với mức giá (lương) xác định gọi
là lượng cầu. Như vậy, có thể thấy số lượng cầu hàng hóa sức lao động phụ thuộc
20
vào giá cả trên thị trường của chính nó, mức thu nhập của mỗi cá thể phụ thuộc
vào giá cả của các mặt hàng khác (nhất là các mặt hàng thay thế hoặc bổ sung cho
nó), thậm chí vào cả thời điểm, thị hiếu của khách hàng, kỳ vọng giá trong tương
lai, quy mô dân số và thời tiết.
Cung là một thuật ngữ dùng để chỉ thái độ của người bán hàng hóa sức lao
động và khả năng bán. Số lượ
ng cung là số lượng hàng hóa sức lao động mà người
bán sẵn sàng bán trong một thời kỳ nhất định. Cung ứng lao đông, trong kinh tế
học, chỉ việc chào bán hàng hóa sức lao động. Lượng của hàng hóa sức lao động
được chào bán với một mức giá thị trường hiện hành, với những quy chế nhất định
của Chính phủ gọi là lượng cung lao động, hay lượng cung hàng hóa sức lao động.
Các lượng cung hàng hóa sức lao động tạo nên thị tr
ường cung. Tổng những lượng
cung hàng hóa sức lao động trong một nền kinh tế gọi là tổng cung.
Như vậy, quy luật cung cầu sức lao động, phát biểu rằng thông qua sự điều
chỉnh của thị trường, một mức lương cân bằng (còn gọi là mức giá thị trường) và
một lượng giao dịch hàng hóa sức lao động cân bằng sẽ được xác định. Mức
lương và lượng hàng hóa sức lao động
đó tương ứng với giao điểm của đường
cung và đường cầu. Trạng thái cân bằng hàng hóa sức lao động như thế gọi là cân
bằng bộ phận. Khi các bộ phận đều cân bằng, kinh tế học gọi đó là cân bằng tổng
thể sức lao động. Ở trạng thái cân bằng, sẽ không có dư cung hay dư cầu. Giá cân
bằng là mức lương mà ở đó số lượng cung bằng số
lượng cầu.
Khi hàng hóa sức lao động ở trạng thái dư cầu thì giá của người mua sẽ cao
hơn giá của người bán. Ngược lại, khi hàng hóa sức lao động ở trạng thái dư
cung, thì giá của người mua sẽ thấp hơn giá của người bán. Thị trường đạt trạng
thái cân bằng không phải bởi sự điều chỉnh lượng cung cấp, mà bởi sự điều chỉnh
lương. Khi mộ
t mức lương được nêu ra cao hơn mức lương cân bằng cần có
khiến cho lượng cung sẵn sàng nhiều hơn lượng cầu sẵn sàng, thì giá cả sẽ giảm
xuống mức cân bằng để thị trường không còn dư cung. Còn khi mức giá nêu ra
21
thấp hơn mức giá cân bằng, thì lượng cầu sẵn sàng cao hơn lượng cung sẵn sàng
(thị trường dư cầu), thì giá cả sẽ tăng lên. Điều chỉnh mạng nhện là sự điều chỉnh
đồng thời cả giá cả lẫn lượng hàng lao động để đạt tới trạng thái cân bằng. Sự
điều chỉnh diễn ra qua nhiều kỳ. Giá cả thay đổi trong kỳ này sẽ
dẫn tới phản ứng
của lượng cung trong kỳ tiếp theo. Trong cuốn Principles of Economics (1890),
Alfred Marshall cho rằng, cả hai mặt cung và cầu đều quan trọng như nhau và đã
giải thích cơ chế quyết định lương bởi sự giao nhau của hai đường cung và đường
cầu. Ông đã đem kỹ thuật phân tích cân bằng bộ phận vào kinh tế học tân cổ điển.
Theo Alfred Marshall, quan hệ cung - cầu có vai trò quan trọng trong thị trường
s
ức lao động vì nó giải thích cơ chế mà qua đó rất nhiều các quyết định phân bổ
nguồn lực được đưa ra. Thuyết cung - cầu cho rằng, khi hàng hoá sức lao động
được bán trên thị trường mà lượng cầu lớn hơn lượng cung thì sẽ có xu hướng
phải tăng lương. Nhóm người tiêu dùng có khả năng chi trả cao hơn sẽ đẩy giá
của thị trường lên. Ngược lại, lương sẽ có xu hướng giảm n
ếu lượng cung vượt
quá lượng cầu. Chính cơ chế điều chỉnh về lương và lượng hàng hóa sức lao động
giúp thị trường hàng hóa sức lao động đạt đến điểm cân bằng, tại đó sẽ không còn
áp lực gây ra dịch chuyển lao động. Vận dụng lý thuyết cung - cầu của Alfred
Marshall vào việc giải thích hiện tượng dịch chuyển lao động từ khu vực nhà
nước sang tư nhân có thể rút ra nh
ận xét như sau:
Hiện tượng lao động, nhất là lao động từ khu vực Nhà nước sang tư nhân ở
Việt Nam hiện nay là hiện tượng mang tính quy luật cung - cầu. Báo cáo của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam trước Đại hội đại biểu lần thứ
X của Đảng đã đặt vấn đề về phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị
trường trong đó có thị
trường sức lao động. Vì vậy, khi xác định công chức,
viên chức như là một nghề trong xã hội và bản thân lao động của công chức, viên
chức cũng là một loại lao động có tính chất hàng hoá trên thị trường. Như vậy,
khi có những nghề mới, môi trường làm việc mới hấp dẫn, phù hợp với nhu cầu
và khả năng của lao động công chức, viên chức, tất yếu họ sẽ dịch chuyển. V
ấn