Tên tài liệu : Khái niệm, ý nghĩa về phổ biến giáo dục
pháp luật thông qua hoạt động hoà giải ở cơ sở
Lĩnh vực : Tuyên truyền, Phổ biến giáo dục pháp luật
1. Khái niệm về phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hoà giải ở cơ sở
Trong cuộc sống hàng ngày, do sự khác biệt về lợi ích kinh tế, quan niệm, nhận thức, lối sống,
tính cách… nên việc nảy sinh mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên trong gia đình, giữa các hộ
gia đình và giữa các cá nhân với nhau trong cộng đồng dân cư là điều tất yếu không thể tránh khỏi.
Có nhiều nguyên nhân, nhưng nhìn chung đều xuất phát từ những điều rất nhỏ, những người trong
cuộc thường không đủ tỉnh táo để kiềm chế, chẳng ai chịu nhường ai nếu không giải quyết kịp thời thì
"chuyện bé xé ra to", từ tranh chấp thuần tuý dân sự, kinh tế, có thể trở thành vụ án hình sự, gây mất
đoàn kết trong nội bộ nhân dân. Những mâu thuẫn, tranh chấp này có thể giải quyết bằng nhiều hình
thức (các bên tự thoả thuận, trọng tài, toà án và hoà giải). Song thực tế, người Việt Nam vốn coi
trọng tình cảm, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái luôn là nền tảng để giải quyết mọi việc.
Nên khi có mâu thuẫn, xích mích xảy ra nhân dân ta đã biết hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên
tranh chấp tự thương lượng, điều đình "chín bỏ làm mười", vì " một điều nhịn, chín điều lành"…để
giải toả những bất đồng, mâu thuẫn giữa họ. Hoạt động này được gọi là hoà giải ở cơ sở. Ngày nay,
mặc dù dưới tác động của tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc
tế, đời sống kinh tế - xã hội của người Việt Nam đang có những biến đổi sâu sắc, mạnh mẽ song
hoạt động hoà giải vẫn tồn tại và ngày càng phát huy.
Một thực tế hiện nay, dù trình độ dân trí đã từng bước được nâng cao, song nhìn chung trình độ
hiểu biết pháp luật của nhân dân ta còn thấp, đặc biệt là ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa còn ảnh
hưởng nhiều phong tục tập quán, hương ước làng xã nên trong cuộc sống hàng ngày nhiều người
còn có những xử sự có tính chất tự phát không đúng pháp luật, không phù hợp với đạo lý, văn hóa
truyền thống dẫn đến vi phạm pháp luật hoặc những mâu thuẫn, tranh chấp nhỏ không đáng có. Bởi
vậy, việc hướng dẫn, giải thích các quy định pháp luật, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước cho các bên tranh chấp và những người có liên quan trong quá trình hòa giải là một trong
những hình thức quan trọng và thiết thực. Hoà giải viên, trong khi tiến hành hoà giải có thể lồng ghép
các nội dung pháp luật có liên quan đến việc hòa giải để phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân.
Như vậy, phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hoà giải ở cơ sở là việc các Hoà
giải viên bằng hoạt động hoà giải của mình hướng dẫn, giải thích và cung cấp các kiến thức pháp
luật, tình cảm pháp luật cho các bên tranh chấp và những người khác trong cộng đồng dân cư nhằm
mục đích hình thành ở họ sự hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng pháp luật và thói quen hành động
theo pháp luật.
2. Ý nghĩa của việc phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hòa giải ở cơ sở
được thể hiện qua các khía cạnh sau:
- Thứ nhất: Hoà giải viên là người trực tiếp, giữ vai trò trung tâm trong việc phổ biến, giáo dục
pháp luật thông qua hoạt động hoà giải hoặc những người được Hoà giải viên mời tham gia hoà giải.
Hoà giải viên là những người có uy tín, hiểu biết pháp luật, có kinh nghiệm sống, nhiệt tình, sống gần
gũi với các bên tranh chấp với nhân dân hiểu được gia cảnh mỗi gia đình, nắm được phong tục tập
quán ở địa phương nên có ảnh hưởng nhất định đối với các bên tranh chấp. Bởi vậy, hoạt động phổ
biến, giáo dục pháp luật mà họ tiến hành là rất phù hợp với đối tượng cụ thể, dễ đi vào lòng người và
có hiệu quả.
- Thứ hai: Đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật qua hoạt động hoà giải ở cơ sở rất rộng, khác
với đối tượng trong trợ giúp pháp lý (là người nghèo và đối tượng chính sách). Đó là các bên tranh
chấp, những người trong gia đình họ và những người trong cộng đồng dân cư (hàng xóm láng giềng,
bạn bè của các bên tranh chấp…). Những người này đều rất quan tâm đến vụ việc tranh chấp, đến
việc vận dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp; và hậu quả sẽ xảy ra nếu các bên tranh chấp không
thực hiện. Vì vậy, việc phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hoà giải ở cơ sở dễ đi vào
lòng người phù hợp với đối tượng và rất có hiệu quả.
-Thứ ba: Lực lượng Hoà giải viên rất đông đảo có mặt ở từng thôn, xóm, làng, bản, tổ dân phố,
cụm dân cư sống gần gũi với nhân dân, nên mỗi khi xảy ra xích mích, tranh chấp, vi phạm pháp luật
nhỏ trong nhân dân họ kịp thời đến giải quyết các tranh chấp ngay từ khi mới xảy ra, không để vụ
việc tranh chấp kéo dài, phức tạp bằng việc hoà giải, thuyết phục, giải thích, phân tích đúng, sai trên
cơ sở "có tình, có lý" cho các bên tranh chấp, kết hợp với việc phổ biến, giải thích các điều luật có
liên quan đến vụ việc tranh chấp, qua đó hướng dẫn các bên tự giải quyết vụ việc.
- Thứ tư: Thông thường chỉ những vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích và nghĩa vụ của mình thì
các bên tranh chấp, những người liên quan đến các bên tranh chấp mới quan tâm, tìm hiểu các văn
bản pháp luật, tìm đến cán bộ trợ giúp pháp lý, luật sư và nhất là Hoà giải viên để nhờ hướng dẫn,
giải thích, giúp đỡ. Các tranh chấp, vi phạm pháp luật nhỏ thuộc phạm vi hoà giải không chỉ phát sinh
từ một mối quan hệ xã hội mà có thể phát sinh từ mọi quan hệ xã hội : quan hệ gia đình; quan hệ
làng xóm, bạn bè, quan hệ tài sản,…Vì thế, khi tiến hành hoà giải, Hoà giải viên có thể lồng ghép
nhiều lĩnh vực pháp luật như : pháp luật dân sự, pháp luật hình sự, pháp luật đất đai, pháp luật hôn
nhân và gia đình…để phổ biến, giáo dục pháp luật cho các bên tranh chấp hiểu về quyền và nghĩa vụ
của công dân đối với gia đình, quê hương, đất nước.
- Thứ năm: Việc phổ biến giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hoà giải góp phần giữ gìn
tình làng, nghĩa xóm; ngăn ngừa mầm mống phát sinh tội phạm hình sự; hạn chế đơn thư khiếu kiện
của dân; tiết kiệm công sức, tiền bạc của Nhà nước và nhân dân; củng cố và nâng cao niềm tin của
nhân dân vào chủ trương, đường lối, chính sách của đảng, pháp luật của Nhà nước, giữ gìn kỷ
cương xã hội, tạo lập môi trường thuận lợi để phát triển sản xuất, phát huy dân chủ và thực hiện
công bằng xã hội ở cơ sở.
Tên tài liệu : Các giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả PBGDPL trong công tác hoà giải ở cơ sở
Trong tình hình hiện nay, việc nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật
trong cán bộ và nhân dân ngày càng được coi trọng. Phổ biến, giáo dục pháp luật qua hoạt động hoà
giải ở cơ sở là một trong các hình thức tuyên truyền, đơn giản, thiết thực và hiệu quả. Để phát huy
vai trò tích cực của loại hình này cần tiến hành các giải pháp sau đây:
1. Thường xuyên bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho đội ngũ Hoà giải viên.
Đây là nhiệm vụ quan trọng, phải được thực hiện thường xuyên để nâng cao nhận thức cho các
Hòa giải viên về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong từng
lĩnh vực của đời sống xã hội và nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ hòa giải, vì thế hàng năm, tư pháp các
cấp cần có kế hoạch tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng về đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước cho đội ngũ Hòa giải viên. Việc tổ chức bồi dưỡng kiến thức pháp luật có thể tổ
chức định kỳ mỗi năm ít nhất 1 lần, hoặc tổ chức theo chuyên đề để cập nhập kịp thời những văn bản
pháp luật mới vừa được thông qua, các văn bản pháp luật này liên quan chặt chẽ đến đời sống nhân
dân địa phương. Nội dung tập huấn nên xây dựng mềm dẻo, linh hoạt và phù hợp với đặc thù công
tác hoà giải ở địa phương. Có thể tập huấn về kỹ năng, nghiệp vụ hoà giải và phổ biến, giáo dục
pháp luật thông qua hoạt động hoà giải ở cơ sở hoặc giới thiệu các quy định của pháp luật liên quan
trực tiếp đến hoạt động hoà giải ở cơ sở.
2. Tổ chức các hội thi tìm hiểu pháp luật, hội thi hoà giải viên giỏi, tuyên truyền viên
pháp luật giỏi với những nội dung phong phú, đa dạng và sinh động
Các hội thi tìm hiểu pháp luật, hội thi hòa giải viên là một trong các hoạt động tuyên truyền phổ
biến, giáo dục pháp luật có sức hấp dẫn và hiệu quả, thông qua các hội thi những nội dung pháp luật
được truyền tải đến các đối tượng một cách đơn giản, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, sinh động hơn,
tránh được sự cứng nhắc, khô khan; đối tượng của hội thi rất rộng rãi, tiếp nhận các kiến thức pháp
luật một cách thỏa mái và hoàn toàn chủ động qua đó khả năng áp dụng pháp luật của đối tượng
được nâng cao. Vì vậy, pháp luật có điều kiện lan tỏa, phát huy rộng rãi trong cuộc sống người dân.
Các hội thi này một mặt khuyến khích, động viên phong trào hoà giải trong cả nước nói chung và
từng địa phương nói riêng, mặt khác còn là dịp tốt để các Hoà giải viên gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm
hoạt động hoà giải. Ngoài ra, có thể tổ chức những buổi sinh hoạt chuyên môn định kỳ cho các Hoà
giải viên, đưa công tác hoà giải lồng vào các hoạt động phong trào khác của địa phương, như: phong
trào toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống văn hóa ở khu dân cư; phong trào xây dựng nếp sống
văn minh, gia đình văn hóa; phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, trật tự an toàn xã hội
3. Cung cấp tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ, tài liệu pháp luật cho đội ngũ Hoà giải viên.
Việc cung cấp thông tin pháp luật, tài liệu văn bản pháp luật là một trong những nhiệm vụ quan
trọng nhằm tăng cường hiệu quả của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hoà
giải ở cơ sở. Tài liệu nghiệp vụ, tài liệu pháp luật có thể gồm các đề cương tuyên truyền phổ biến,
giáo dục pháp luật; Sổ tay nghiệp vụ hoà giải; báo chí về pháp luật; Sách hỏi - đáp pháp luật phổ
thông; tờ rơi, tờ gấp và các tài liệu cần thiết khác. Vì vậy, các cơ quan tư pháp ở địa phương cần có
kế hoạch và biện pháp cụ thể để cung cấp đầy đủ các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động hoà
giải ở cơ sở cho các Tổ hoà giải. Cần đẩy mạnh công tác xây dựng, quản lý tủ sách pháp luật xã,
phường, thị trấn để có nguồn văn bản cho các Hoà giải viên.
4. Tổ chức hội nghị sơ kết, tổng kết hay toạ đàm trao đổi kinh nghiệm về hoạt động hoà
giải ở cơ sở và công tác phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hoà giải.
Đây là công việc cần thiết phải làm thường xuyên, một mặt theo dõi tổng hợp, đánh giá về tổ
chức và đội ngũ Hòa giải viên của các Tổ hòa giải, mặt khác đây còn là diễn đàn để các Hoà giải viên
có thể trao đổi kinh nghiệm, học tập lẫn nhau, giúp nhau tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong
thực tiễn công tác hoà giải. Đồng thời, qua việc sơ kết, tổng kết về hoạt động hòa giải ở cơ sở giúp
chính quyền địa phương có điều kiện hiểu rõ những thuận lợi, khó khăn, kết quả cũng như kiến nghị
về công tác hòa giải nói riêng và công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung.
5. Bảo đảm kinh phí cho công tác hòa giải ở cơ sở và phổ biến, giáo dục pháp luật.
Để nâng cao vai trò và hiệu quả của công tác hòa giải ở cơ sở trong tình hiện nay. Ngày
05/8/2005 Bộ Tài chính đã có Thông Tư số 63/2005/TT-BTC hướng dẫn việc quản lý và sử dụng kinh
phí bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Căn cứ vào điều kiện kinh tế cụ thể của địa
phương và Thông tư số 63 nêu trên, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo UBND
cấp huyện, cấp xã dành khoản kinh phí nhất định để chi cho các hoạt động hòa giải như: kinh phí cho
việc kiện toàn tổ chức; bồi dưỡng nghiệp vụ hòa giải; sơ kết, tổng kết thi đua khen thưởng công tác
hòa giải; tài liệu nghiệp vụ cho hòa giải viên; tổ chức thi Hòa giải viên giỏi; chế độ thù lao cho Hòa giải
viên; nhằm góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác hòa giải ở cơ sở và công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật ở địa phương.
Tên tài liệu : Phương thức thực hiện PBGDPL
thông qua hoạt động hoà giải ở cơ sở
Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoà giải khác với tuyên truyền miệng về pháp luật ở chỗ chỉ khi nào có
vụ việc vi phạm pháp luật hoặc tranh chấp nhỏ xảy ra thì Hoà giải viên mới có lý do để tiến hành hoà giải và kết
hợp với việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho các bên tranh chấp và những người có liên quan. Vì vậy, phương
thức phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hòa giải ở đây là phương thức tác động trực tiếp từ chủ
thể giáo dục (Hòa giải viên) đến đối tượng giáo dục (các bên tranh chấp và những người khác) với nội dung phổ
biến, giáo dục pháp luật xác định, gắn liền với từng tranh chấp cụ thể Do đó, Hòa giải viên có thể lựa chọn
phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp với từng đối tương.
Để thực hiện tốt phương thức phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hoà giải ở cơ sở, Hoà giải
viên cần thực hiện các bước sau đây:
Bước 1. Trực tiếp nắm rõ nội dung tranh chấp, nguyên nhân phát sinh tranh chấp và yêu cầu cụ thể của các
bên tranh chấp, kết hợp việc phổ biến, tuyên truyền pháp luật .
- Khi có mâu thuẫn, tranh chấp xảy ra, Hòa giải viên phải có mặt kịp thời nắm rõ nội dung tranh chấp, tìm
hiểu nguyên nhân phát sinh tranh chấp để thực hiện công tác hoà giải. Việc nắm rõ nguyên nhân phát sinh tranh
chấp sẽ tạo điều kiện để Hoà giải viên có phương pháp hoà giải đúng, vận dụng, viện dẫn, các điều luật phù hợp
với nội dung tranh chấp xảy ra đồng thời có căn cứ giải thích, hướng dẫn, thuyết phục các bên tranh chấp hiểu
được hành vi của mình đúng hay sai, vi phạm pháp luật hay không vi phạm pháp luật…để các bên hiểu và tự
giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với pháp luật, đạo đức xã hội và phong tục tập quán tốt đẹp của
địa phương.
Trong khi tiến hành hòa giải, trường hợp các bên tranh chấp có yêu cầu về cung cấp, giới thiệu các văn
bản pháp luật liên quan đến tranh chấp, mâu thuẫn này để họ nghiên cứu, xem xét thì Hoà giải viên giúp đỡ,
hoặc hướng dẫn các bên tranh chấp hiểu đúng tinh thần của văn bản pháp luật. Nếu gặp những vấn đề khó, Hoà
giải viên cần hỏi ý kiến các chuyên gia, cán bộ Tư pháp…đảm bảo sao cho các quy định pháp luật, quy phạm
đạo đức vận dụng vào vụ việc tranh chấp là đúng, chính xác. Trong bước này, Hoà giải viên có thể khéo léo lồng
ghép với việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho các bên tranh chấp hiểu về quyền và nghĩa vụ của họ giúp họ
hiểu đúng và tự giác thực hiện pháp luật. Ví dụ : Đối với trường hợp mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên
trong gia đình liên quan đến thừa kế, Hòa giải viên phải xem xét các quy định của Bộ Luật Dân sự liên quan đến
thừa kế như quyền thừa kế của cá nhân, quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của người hưởng thừa kế; giá trị của di
chúc; thủ tục lập di chúc, những quy định của thừa kế theo pháp luật; thông qua các quy định này Hòa giải viên
khéo léo kết hợp với việc phổ biến, tuyên truyền pháp luật gắn với việc thực, người thực nên dễ đi vào lòng
người và rất có hiệu quả.
- Bước 2.: Xác định tính chất của tranh chấp, lựa chọn văn bản có liên quan đến tranh chấp để vận dụng
các quy định đó vào việc giải quyết tranh chấp
Sau khi nắm rõ nội dung tranh chấp, Hoà giải viên cần tìm hiểu xem quan hệ tranh chấp này được văn bản
pháp luật nào điều chỉnh? Đây là một công việc khó, đòi hỏi Hoà giải viên phải lựa chọn đúng điều luật để áp
dụng vào vụ việc tranh chấp này. Nếu lựa chọn sai điều luật điều chỉnh có thể dẫn đến việc phổ biến, giáo dục
pháp luật không đúng và chắc chắn là việc hoà giải các bên tranh chấp không thành công. Vì thế, để lựa chọn
các văn bản pháp luật phù hợp Hoà giải viên phải căn cứ vào tính chất của tranh chấp. Ví dụ : Đối với các mâu
thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên trong gia đình do khác nhau về quan niệm sống, lối sống, tính tình không
hợp, Hoà giải viên phải lựa chọn, áp dụng các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình vào từng trường hợp cụ
thể để giải quyết các vấn đề đặt ra.
- Đối với tranh chấp, mâu thuẫn giữa các cá nhân, các gia đình trong quan hệ xóm giềng liên quan đến sử
dụng lối đi qua nhà, sử dụng điện, nước sinh hoạt, công trình phụ thì hòa giải viên phải xem xét các quy định
của Bộ Luật dân sự về tài sản và quyền sở hữu tài sản, về quyền sở hữu chung của cộng đồng; nghĩa vụ tôn
trọng ranh giới giữa các bất động sản; quyền mắc đường dây tải điện, quyền về tưới nước, tiêu nước trong canh
tác
Ở bước này, khi đã rõ văn bản điều chỉnh cho vụ tranh chấp này, Hoà giải viên tổ chức cho các bên tranh
chấp gặp nhau để thảo luận, giải quyết tranh chấp. Lúc này Hoà giải viên có thể đối chiếu, phân tích các quy
định của pháp luật về vấn đề mà các bên đang tranh chấp cần biết, cần hiểu để họ tự điều chỉnh hành vi của
mình cho phù hợp với pháp luật. Đây không phải là công việc dễ dàng bởi rất nhiều quy định trong văn bản
pháp luật còn chung chung, khó hiểu hoặc hiểu theo nhiều cách khác nhau. Bởi vậy, Hòa giải viên phải lưu ý các
vấn đề sau:
+ Ưu tiên áp dụng quy định trong văn bản có giá trị pháp lý cao;
+ Không nên giải thích pháp luật theo suy diễn chủ quan của mình.
Trong trường hợp gặp những quy định pháp luật khó hiểu, hoặc có nhiều cách hiểu khác nhau cần tham
khảo ý kiến của các chuyên gia pháp luật để được hướng dẫn, giải thích đúng và đầy đủ.
- Bước 3. Hòa giải viên cần gặp gỡ từng bên tranh chấp để hòa giải kết hợp với việc giải thích pháp luật
giúp họ nhận thức được các quyền và nghĩa vụ của mình.
Khi gặp gỡ từng bên tranh chấp, Hòa giải viên cần lựa chọn thời điểm thích hợp để trao đổi, hướng dẫn
thuyết phục các bên tranh chấp, việc lựa chọn thời điểm thích hợp có thể vào buổi tối, ngày nghỉ, ngày lễ, sẽ
tạo tâm lý thỏa mái giúp họ dễ tiếp thu ý kiến đóng góp và bình tĩnh phân tích sự việc hơn. Trong quá trình trao
đổi, Hòa giải viên phải kiên nhẵn lắng nghe ý kiến, hiểu tâm lý của các bên tranh chấp, cố gắng không dùng lời
lẽ khó hiểu, thuật ngữ pháp lý chuyên ngành mà bằng lời giải thích pháp luật giản đơn, dễ hiểu, đi thẳng vào vấn
đề, sau cùng dùng lời lẽ phân tích cho họ thấy các quy định của pháp luật liên quan đến tranh chấp, để mỗi bên
tranh chấp nhận thức được cái đúng, cái sai của mình và đi đến phương án giải quyết phù hợp với pháp luật, đạo
đức xã hội và phong tục tập quán tốt đẹp của nhân dân.
Trong trường hợp cần thiết Hòa giải viên có thể cung cấp cho đối tượng những thông tin chính xác để xóa
bỏ những quan điểm lệch lạc, sai trái, phiến diện, giúp đối tượng hiểu đúng, lựa chọn đưa ra những quyết định
cụ thể, đúng đắn phù hợp với pháp luật. Trường hợp, một trong hai bên tranh chấp có thái độ gay gắt, nóng nảy,
bất hợp tác, hòa giải viên phải bình tĩnh, lắng nghe ( không ngắt lời, khó chịu, sốt ruột ), giữ thái độ bình tĩnh,
đúng mực, tỏ ra thông cảm, quan tâm đến yêu cầu của đối tượng đồng thời, lựa chọn phương án xử lý linh hoạt,
tiếp tục hòa giải hay để vào dịp khác nhằm giải tỏa không khí bớt căng thẳng mà mục tiêu của hòa giải vẫn đạt
được.
Trong trường hợp, khi hòa giải nếu có những quy định pháp luật khó hiểu, Hòa giải viên có thể đối chiếu,
phân tích các quy định của pháp luật về các vấn đề đang tranh chấp, lấy ví dụ minh hoạ, liên hệ với những sự
việc đã xảy ra ở địa phương mà các bên tranh chấp cũng biết rõ. Trên cơ sở các quy định của pháp luật, Hòa giải
viên có thể nêu các phương án giải quyết của mình để các bên tham khảo.
- Bước 4. Tổ chức cho các bên tranh chấp gặp gỡ để thảo luận với nhau việc giải quyết tranh chấp.
Sau khi gặp gỡ từng bên, hiểu rõ tâm tư nguyện vọng của các bên về việc giải quyết tranh chấp, Hòa giải
viên tổ chức cho các bên gặp nhau để thỏa thuận, thống nhất phương án giải quyết tranh chấp.
Khi tiến hành hòa giải các bên tranh chấp, Hòa giải viên cố gắng duy trì không khí hiểu biết, thái độ hợp tác
của họ. Để tạo thuận lợi cho việc hòa giải, Hòa giải viên có thể nêu từng vấn đề đang tranh chấp và đề nghị từng
bên cho ý kiến giải quyết. Tùy điều kiện cụ thể, Hòa giải viên có thể đối chiếu, phân tích các quy định của pháp
luật về các vấn đề các bên đang tranh chấp để các bên hiểu và có thể áp dụng giải quyết tranh chấp. Trên cơ sở
các quy định của pháp luật, Hòa giải viên có thể nêu các phương án giải quyết của mình để các bên tham khảo.
Khi các bên thống nhất được cách thức giải quyết tranh chấp, nếu cần thiết, Hòa giải viên có thể giúp các bên
tranh chấp lập văn bản ghi nhận sự thỏa thuận của các bên làm cơ sở cho việc thi hành sau này.
Như vậy, trong khi tiến hành hòa giải các bên tranh chấp, Hòa giải viên có rất nhiều cơ hội để lồng ghép
việc phổ biến, giáo dục pháp luật, nhấn mạnh những quy định mấu chốt của pháp luật nếu các bên tranh chấp
nghiêm chỉnh trong ứng xử của mình thì sẽ tránh được tranh chấp xảy ra. Đồng thời, qua đó các bên tranh chấp
và những người có liên quan có thể được nâng cao hiểu biết pháp luật và ý thức tôn trọng pháp luật từ đó hạn
chế những vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ xảy ra./.
Tên tài liệu : Giới thiệu chung về tư vấn pháp luật
1. Tư vấn pháp luật là gì ?
Hiện nay còn có nhiều cách tiếp cận và định nghĩa khác nhau về tư vấn pháp luật. Tuy nhiên,
từ góc độ lý luận và thực tiễn, tư vấn pháp luật được hiểu là việc giải đáp pháp luật, hướng dẫn cá
nhân, tổ chức trong nước và nước ngoài xử sự đúng pháp luật; cung cấp dịch vụ pháp lý giúp cho các
cá nhân, tổ chức thực hiện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Hoạt động tư vấn pháp luật không chỉ bao gồm việc chuyển tải nội dung của một điều luật,
một văn bản pháp luật, hoặc cung cấp thông tin về những quy định pháp luật có liên quan mà còn là
việc sử dụng kiến thức pháp luật và kinh nghiệm của các chuyên gia pháp luật. Như vậy, người thực
hiện tư vấn phải sử dụng lao động trí óc của mình để đưa ra một lời khuyên, giúp khách hàng có một
hướng giải quyết đúng đắn.
Đây là cách hiểu phổ biến nhất về “tư vấn pháp luật” và thuật ngữ này thường được sử dụng
với ý nghĩa đó trong các văn bản pháp luật ở nước ta hiện nay.
2. Tư vấn pháp luật do ai thực hiện ?
Hoạt động tư vấn pháp luật hiện nay được thực hiện theo hai mô hình sau đây:
- Thứ nhất là, tư vấn pháp luật của luật sư theo quy định của Luật luật sư năm 2006 (có hiệu
lực thi hành kể từ ngày 01/01/2007);
- Thứ hai là, tư vấn pháp luật do các tổ chức đoàn thể xã hội thực hiện được điều chỉnh bởi
Nghị định số 65/2003/NĐ-CP ngày 11-6-2003 của Chính phủ về tổ chức, hoạt động tư vấn pháp luật.
Hoạt động tư vấn pháp luật này mang tính chất xã hội, không nhằm mục đích thu lợi nhuận, khác với
hoạt động tư vấn pháp luật của luật sư (có tính chất hoạt động nghề nghiệp độc lập, có thu phí dịch
vụ) và hoạt động trợ giúp pháp lý của Nhà nước (giúp đỡ pháp lý miễn phí, mọi chi phí liên quan do
nhà nước chi trả). Để thực hiện hoạt động tư vấn pháp luật cho thành viên của tổ chức mình và các
đối tượng khác theo luật định, tổ chức chính trị -xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp thành lập Trung
tâm tư vấn pháp luật và duy trì hoạt động theo nguyên tắc tự trang trải về tài chính.
Tư vấn pháp luật là hoạt động chuyên môn đặc thù, vì vậy, đòi hỏi người thực hiện tư vấn
pháp luật phải hội đủ các tiêu chuẩn nhất định. Luật sư, tư vấn viên pháp luật và cộng tác viên pháp
luật (gọi chung là người tư vấn) là những người có kiến thức pháp luật (có trình độ cử nhân luật trở
lên), kỹ năng và kinh nghiệm tư vấn, đồng thời phải tuân thủ quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp
(đối với luật sư), có sự tận tâm, nhiệt tình và chịu trách nhiệm cá nhân đối với hoạt động tư vấn pháp
luật của mình (đối với tư vấn viên pháp luật, cộng tác viên pháp luật).
3. Những đối tượng được tư vấn pháp luật
Những đối tượng được tư vấn pháp luật thường rất đa dạng, thuộc nhiều tầng lớp khác nhau
trong xã hội, bao gồm:
- Khách hàng của luật sư: từ cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp đến cơ quan nhà nước đều có
thể được luật sư cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật. Điểm khác biệt cơ bản giữa khách hàng của luật
sư với các đối tượng được tư vấn khác là thông thường khách hàng phải trả phí dịch vụ pháp lý, trừ
trường hợp được luật sư tư vấn miễn phí.
- Đối tượng thụ hưởng tư vấn pháp luật của các tổ chức chính trị -xã hội, tổ chức xã hội -
nghề nghiệp chiếm phần đông dân cư trong xã hội, chủ yếu là được tư vấn pháp luật miễn phí (chiếm
gần 70% khối lượng công việc tư vấn pháp luật của các tổ chức này), trong đó có:
Thành viên của các tổ chức chính trị –xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp (ví dụ: công đoàn
viên, người lao động, nông dân, phụ nữ, thanh niên, cựu chiến binh …);
Người nghèo, đối tượng chính sách theo quy định của pháp luật;
Các doanh nghiệp, tổ chức và đối tượng khác: ngoài đối tượng được hưởng chính sách xã
hội nói trên, các Trung tâm tư vấn pháp luật của các tổ chức đoàn thể còn thực hiện tư vấn pháp luật
có thu phí ở mức thấp đối với doanh nghiệp và các cá nhân khác khi có yêu cầu.
4. Vai trò của tư vấn pháp luật và ý nghĩa của việc lồng ghép phổ biến, giáo dục pháp
luật vào hoạt động tư vấn pháp luật
Tư vấn pháp luật cung cấp cho cá nhân, tổ chức những hiểu biết pháp luật ở mức cơ bản,
phổ thông về một vấn đề nhất định, giúp họ hiểu rõ vị thế, quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình trong
một quan hệ pháp luật cụ thể nảy sinh trong đời sống xã hội. Kết quả của hoạt động tư vấn pháp luật
là lời khuyên, ý kiến pháp lý bằng miệng hoặc có thể bằng văn bản. Hiểu theo nghĩa rộng, đó là
những giải pháp cụ thể, hữu ích giúp đối tượng được tư vấn bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp
của họ. ý nghĩa xã hội của tư vấn pháp luật khá sâu rộng ở chỗ, giúp định hướng hành vi ứng xử của
các cá nhân, tổ chức theo khuôn khổ pháp luật và quy tắc đạo đức. Đồng thời, nó giúp hòa giải hoặc
giải quyết theo một trình tự phù hợp các mâu thuẫn, xung đột liên quan đến quyền, lợi ích, góp phần
giảm thiểu các tranh chấp, giảm bớt tình trạng khiếu kiện tràn lan, kéo dài do người dân hiểu pháp
luật không đúng hoặc không đầy đủ. Hoạt động tư vấn pháp luật còn góp phần giám sát việc tuân thủ
pháp luật của các cơ quan nhà nước, của tổ chức và công dân; phát hiện những khiếm khuyết của
hệ thống pháp luật và kiến nghị sửa đổi, bổ sung, kịp thời hoàn thiện cho phù hợp với thực tiễn.
Qua khảo sát thực tế cho thấy, khi có nhu cầu về giải đáp pháp luật, tháo gỡ vướng mắc pháp
lý, người dân đã tin cậy và thường xuyên tìm đến các tổ chức giúp đỡ pháp lý sau đây: Trung tâm trợ
giúp pháp lý của Nhà nước, Trung tâm tư vấn pháp luật, Văn phòng luật sư. Bên cạnh các Trung tâm
trợ giúp pháp lý của Nhà nước với đối tượng phục vụ còn hẹp, người dân thường yên tâm hơn khi
tìm đến Trung tâm tư vấn pháp luật của các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội- nghề nghiệp. Bởi
lẽ, đây là cơ sở tư vấn pháp luật trực thuộc các tổ chức đoàn thể của họ, là nơi họ có thể trình bày
tường tận hoàn cảnh, tâm tư, nguyện vọng của mình, tin tưởng vào chính sách của tổ chức cũng như
mong được đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ dù là thành viên hoặc không phải là
thành viên của tổ chức.
Xuất phát từ đặc trưng của hoạt động tư vấn pháp luật, mối liên hệ giữa tư vấn pháp luật với
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật được hình thành hết sức tự nhiên và gắn bó với nhau khá chặt
chẽ. Tư vấn pháp luật là quá trình phổ biến pháp luật.Thông qua quá trình thực hiện các công việc cụ
thể của hoạt động tư vấn pháp luật (cung cấp thông tin, giải đáp pháp luật cho cá nhân, tổ chức …),
thì các mục đích và nội dung chính của phổ biến, giáo dục pháp luật đồng thời cũng được triển khai,
lồng ghép, cụ thể là:
- Cung cấp thông tin, văn bản pháp luật, tài liệu pháp lý cho cá nhân, tổ chức: Trước khi đưa
ra một lời khuyên hay các giải pháp để khách hàng lựa chọn, người tư vấn thường phải đưa ra
những thông tin pháp lý cơ bản, văn bản pháp luật trực tiếp điều chỉnh về vấn đề đó hoặc nội dung
chính sách, pháp luật khác có liên quan nhiều nhất. Nhờ vậy, đối tượng đến yêu cầu tư vấn không chỉ
hiểu được cụ thể chính sách, quy định pháp luật về chính vấn đề mình cần mà còn có thể tham khảo
thông tin liên quan một cách tổng thể, đôi khi rộng hơn hoặc sâu hơn về vấn đề mình cần tìm hiểu.
- Giải đáp pháp luật cho cá nhân, tổ chức giúp cho đối tượng được tư vấn hiểu về quyền và lợi
ích hợp pháp của mình trong các quan hệ pháp luật trên cơ sở quy định của pháp luật: Việc tư vấn
thường đòi hỏi phải đặt ra các câu hỏi và trả lời từng câu hỏi để làm sáng tỏ vấn đề cần giải quyết. Vì
vậy, người tư vấn cũng phải đưa ra lời giải thích, giải đáp cặn kẽ, bám sát vào tình huống thực tế để
phân tích giúp cho khách hàng hiểu rõ hơn vấn đề của mình trên cơ sở các quy định của pháp luật.
- Hướng dẫn cho các đối tượng ứng xử đúng pháp luật trong từng hoàn cảnh cụ thể để thực
hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình: Đây là hoạt động mang lại kết quả trực tiếp, dễ
nhận thấy và đánh giá sau một quá trình tư vấn, tuyên truyền pháp luật. Điều quan trọng nhất là giúp
đối tượng được tư vấn pháp luật hiểu rõ hoàn cảnh, vị thế của mình, từ đó lựa chọn cách xử sự phù
hợp với pháp luật và đạo đức xã hội.
- Giúp cho họ nâng cao hiểu biết pháp luật thông qua nhận thức, thái độ và hành vi ứng xử,
hình thành và phát huy ý thức tôn trọng và thi hành nghiêm chỉnh pháp luật: Hệ quả của quá trình tư
vấn, truyên truyền pháp luật là sự chuyển biến trong nhận thức, hiểu biết của từng cá nhân, hoặc một
nhóm người, từ đó hình thành thái độ xử sự tích cực, tôn trọng và tuân thủ pháp luật trong các quan
hệ đời sống xã hội hoặc có sự phản kháng, tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật. Một cá nhân hoặc
tổ chức khi đã được tư vấn, phổ biến pháp luật chắc chắn sẽ có hiểu biết ở mức độ nhất định và
hành vi ứng xử khác với trước đó.
Trên thực tế đã có sự lồng ghép phổ biến, giáo dục pháp luật trong hoạt động tư vấn pháp
luật nhưng chưa được thực hiện thường xuyên, còn mang tính ngẫu nhiên, tự phát mà chưa có mục
đích, kế hoạch cụ thể. Mặt khác, chúng ta cũng chưa có tiêu chí cụ thể để đánh giá chính xác hiệu
quả của việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật thông qua các hình thức tư vấn pháp luật. Sự chuyển
biến trong nhận thức, hiểu biết pháp luật đòi hỏi phải có một quá trình tác động lâu dài, với nhiều
cách thức khác nhau, phù hợp với từng đối tượng cụ thể. Do vậy, sự kết hợp giữa phổ biến, giáo
dục pháp luật trong công tác tư vấn pháp luật trên thực tế còn có những hạn chế sau đây:
- Nhận thức, quan điểm chưa đúng, chưa đầy đủ về việc lồng ghép hoạt động: đó là quan
niệm về phổ biến, giáo dục pháp luật và tư vấn pháp luật là 2 hoạt động tách rời nhau hoàn toàn, việc
ai nấy làm nên chưa có sự quan tâm phối hợp, hoặc nếu có cũng mang tính hình thức, hời hợt.
- Cách triển khai thực hiện cả hai hoạt động nói trên còn trùng lặp về một số nội dung hoạt
động, địa bàn, đối tượng được tư vấn và tuyên truyền pháp luật, dễ dẫn đến tình trạng lãng phí về tài
chính, nhân lực và vật lực một cách không cần thiết.
- Do chưa được bồi dưỡng, trang bị về kỹ năng tuyên truyền, thiếu thông tin và tài liệu nghiệp vụ nên
phần lớn cán bộ tư vấn pháp luật (kể cả luật sư) còn e ngại, chưa nhiệt tình tham gia vào công tác tư
vấn pháp luật có lồng ghép nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật.
Tên tài liệu : Một số vấn đề chung
về PBGDPL thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý
Trợ giúp pháp lý được hiểu là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí của các tổ chức thực hiện trợ
giúp pháp lý cho người nghèo, người có công với cách mạng, đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng đặc biệt khó
khăn và một số đối tượng có hoàn cảnh khó khăn khác theo quy định của pháp luật. Mục đích của hoạt động
trợ giúp pháp lý là nhằm giúp người được trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, nâng cao hiểu biết
pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng
ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật, góp phần bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp
luật, thực hiện công bằng xã hội.
Chủ thể thực hiện trợ giúp pháp lý hiểu theo nghĩa rộng bao gồm các tổ chức trợ giúp pháp lý nhà nước
và các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật của các tổ chức chính trị - xã hội, chính trị xã hội
nghề nghiệp. Còn nếu hiểu theo nghĩa hẹp, chủ thể thực hiện trợ giúp pháp lý chỉ bao gồm các tổ chức trợ giúp
pháp lý nhà nước, đó là các Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và các Chi nhánh của Trung tâm ở địa
phương (hiện nay đã có 64 Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước được thành lập ở các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương).
Theo quy định của Luật trợ giúp pháp lý thì người thực hiện trợ giúp pháp lý bao gồm: Trợ giúp viên
pháp lý, Cộng tác viên, Luật sư, Tư vấn viên pháp luật. Đối tượng được hưởng trợ giúp pháp lý miễn phí là
người thuộc hộ nghèo; người có công với cách mạng; đồng bào dân tộc thiểu số thường trú ở các vùng có điều
kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn; người già cô đơn, người tàn tật, trẻ em không nơi nương tựa. Bên cạnh
đó, trong khuôn khổ Dự án hợp tác quốc tế về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam thì một số đối tượng khác như
người chưa thành niên, đồng bào dân tộc nói chung, phụ nữ, trẻ em là nạn nhân của bạo lực trong gia đình và
tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em cũng được trợ giúp pháp lý miễn phí.
Hoạt động trợ giúp pháp lý được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: tư vấn pháp luật, tham
gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng và một số hình thức khác. Trợ giúp pháp lý được thực hiện đối với tất cả các
vụ việc có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý trong hầu hết các lĩnh vực
pháp luật, trừ các vụ việc có liên quan đến lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Hoạt động trợ giúp pháp lý hoàn
toàn miễn phí đối với người được trợ giúp pháp lý. Người yêu cầu trợ giúp pháp lý không phải trả bất kỳ một
khoản lệ phí hay thù lao nào dưới bất kỳ hình thức nào. Kinh phí hoạt động trợ giúp pháp lý do ngân sách Nhà
nước cấp và nguồn tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
Đặc điểm của phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý
Hoạt động trợ giúp pháp lý có quan hệ mật thiết với hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật.
Tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý ngoài nhiệm vụ thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí cho người
nghèo, người có công với cách mạng, đồng bào dân tộc thiểu số còn tham gia phổ biến, giáo dục
pháp luật cho các đối tượng này (Điều 3 Luật trợ giúp pháp lý). Thông qua hoạt động trợ giúp pháp
lý, bằng các hình thức trợ giúp pháp lý như: tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng, trợ giúp pháp lý lưu
động, sinh hoạt Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý, v.v người thực hiện trợ giúp pháp lý phổ biến, giáo
dục pháp luật cho người được trợ giúp pháp lý, giúp họ nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật để xử
sự phù hợp với các quy định của pháp luật và biết vận dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của bản thân và gia đình khi bị xâm phạm. Khác với các hình thức phổ biến, giáo dục
pháp luật vẫn thường được áp dụng như tuyên truyền miệng về pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp
luật trên các phương tiện thông tin đại chúng, các loại hình báo chí mang tính chất đại trà, hướng
vào số đông, phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý có những đặc điểm
sau đây:
- Chủ thể thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật là các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý,
người trực tiếp thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật trong quá trình thực hiện trợ giúp pháp lý là
các trợ giúp viên pháp lý và cộng tác viên, luật sư, tư vấn viên pháp luật.
- Đối tượng được phổ biến, giáo dục pháp luật là một con người cụ thể, phần lớn là những
người nghèo ở vào hoàn cảnh khó khăn, trình độ dân trí thấp, khả năng giao tiếp hạn chế, nắm bắt
vấn đề chậm.
- Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý tập trung vào những lĩnh
vực pháp luật có liên quan trực tiếp đến những vướng mắc pháp luật hoặc những vụ việc cụ thể của
người yêu cầu trợ giúp pháp lý nên có mức độ ảnh hưởng sâu sắc hơn tới bản thân người được trợ
giúp pháp lý, đồng thời có sức lan tỏa tới những người xung quanh.
- Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý gắn liền với việc thực
hiện tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng và các hình thức dịch vụ pháp lý khác,
hướng dẫn người được trợ giúp pháp lý thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của
pháp luật, đưa ra các giải pháp, phương hướng giải quyết những vướng mắc pháp luật để giúp
người được trợ giúp pháp lý ứng xử phù hợp với pháp luật, biết sử dụng pháp luật để bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp khi bị xâm phạm.
Tên tài liệu : Biên soạn đề cương tuyên truyền pháp luật
1. Một số vấn đề chung
1.1. Khái niệm đề cương
Đề cương tuyên truyền văn bản pháp luật là tài liệu dùng để tuyên truyền, giải thích, hướng
dẫn, phổ biến một văn bản pháp luật, một vấn đề pháp lý mà người sử dụng có thể dựa vào đó để
nghiên cứu nội dung văn bản, các trọng tâm cần tập trung tuyên truyền, phổ biến văn bản hoặc để
biên soạn các tài liệu tuyên truyền khác một cách cụ thể, sát hợp, sinh động, phù hợp với bối cảnh,
đối tượng nhưng vẫn đảm bảo cho đối tượng hiểu chính xác nội dung văn bản và thực hiện thống
nhất. Mặt khác, đề cương tuyên truyền còn có nhiệm vụ hướng dẫn, chỉ đạo việc tổ chức triển khai
tuyên truyền văn bản pháp luật phù hợp với từng loại đối tượng, trên từng địa bàn.
1.2. Sự cần thiết phải xây dựng đề cương tuyên truyền pháp luật
Nhiệm vụ cơ bản của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là làm cho mọi ngành, mọi cấp,
mọi cơ quan, tổ chức, mọi công dân đều hiểu biết pháp luật để nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ,
nhân dân. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật được triển khai ở nhiều ngành, nhiều cấp, bằng
nhiều hình thức, biện pháp khác nhau. Yêu cầu xuyên suốt trong quá trình triển khai là mọi người
phải hiểu đúng các quy định của pháp luật để từ đó vận dụng một cách thống nhất, vì vậy họ phải
nắm bắt được tư tưởng chủ đạo của văn bản trước khi nắm văn bản, những vấn đề cốt lõi khi xây
dựng văn bản quy định những vấn đề gì, quy định như thế nào và tại sao lại quy định như vậy. Việc
xây dựng một quy phạm pháp luật, một văn bản quy phạm pháp luật luôn bị chi phối bởi rất nhiều yếu
tố: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, khoa học, kỹ thuật, tài chính, phong tục, truyền thống, trình độ
dân trí Vì vậy, chỉ với những tài liệu, kiến thức đã tích luỹ được trong quá trình lâu dài và cả những
gì nắm được trong quá trình dự thảo văn bản, với trình độ pháp lý và kinh nghiệm nghề nghiệp nhất
định, người viết đề cương mới thâu tóm được tinh thần văn bản đưa vào đề cương.
Đề cương tuyên truyền văn bản pháp luật còn có tác dụng hướng dẫn chỉ đạo việc triển khai
tuyên truyền văn bản. Vì vậy, viết đề cương tuyên truyền văn bản pháp luật bao giờ cũng giữ một vị
trí quan trọng trong công tác chỉ đạo và tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật.
1.3. Đối tượng sử dụng đề cương
Đối tượng sử dụng đề cương tuyên truyền rất đa dạng, thường là các báo cáo viên, tuyên
truyền viên pháp luật, phóng viên báo đài, cán bộ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của các
cơ quan tư pháp và cán bộ làm công tác pháp chế của các bộ, ngành, đoàn thể và các doanh nghiệp.
1.4. Yêu cầu của việc xây dựng đề cương
Xây dựng đề cương tuyên truyền pháp luật cần bảo đảm các yêu cầu cơ bản sau:
Về hình thức: Bố cục đề cương phải rõ ràng, chặt chẽ, hợp lý. Ngôn ngữ được sử dụng trong
đề cương phải là ngôn ngữ đại chúng, cách hành văn giản dị, trong sáng, dễ hiểu. Diễn đạt phải
mạch lạc, súc tích, ngắn gọn.
Về nội dung: Đề cương phải tạo điều kiện cho người sử dụng hiểu đúng mục đích, ý nghĩa
của việc ban hành văn bản pháp luật, hiểu chính xác quy định của pháp luật, nắm được nội dung
chính, những vấn đề trọng tâm của văn bản pháp luật, cách vận dụng văn bản trong các quan hệ
pháp luật.
Về thời gian: Để đảm bảo tính thời sự của văn bản, đề cương tuyên truyền cần được biên
soạn và cung cấp kịp thời cho các đối tượng để tổ chức triển khai tuyên truyền, phổ biến trước ngày
văn bản có hiệu lực pháp luật, tạo thuận lợi cho quá trình thực hiện và áp dụng pháp luật được thống
nhất.
1.5. Yêu cầu đối với người viết đề cương
Để đề cương tuyên truyền văn bản pháp luật có chất lượng, yêu cầu người viết đề cương
tuyên truyền pháp luật cần đáp ứng các yêu cầu sau đây:
- Có trình độ pháp lý nhất định. Chất lượng của đề cương tuyên truyền pháp luật phụ thuộc
nhiều vào trình độ pháp luật của người viết đề cương, vì thế để đảm bảo yêu cầu tối thiểu của đề
cương, người viết đề cương phải được đào tạo về pháp luật hoặc có nhiều năm công tác thực tiễn
trong lĩnh vực đó.
- Nắm vững nội dung văn bản. Người viết đề cương tuyên truyền pháp luật có thể là người
trực tiếp tham gia vào quá trình soạn thảo, cho ý kiến hoặc thẩm định nội dung văn bản pháp luật đó,
thì họ chính là người hiểu rõ nhất những nội dung quan trọng và những vấn đề cốt lõi của văn bản
pháp luật (như đối tượng, phạm vi điều chỉnh). Trong trường hợp, người viết đề cương tuyên truyền
không phải là người trực tiếp tham gia vào quá trình soạn thảo, cho ý kiến hoặc thẩm định nội dung
văn bản pháp luật đó, thì cần phải tìm hiểu và nắm vững nội dung của văn bản đó trước khi viết đề
cương.
- Hiểu sâu sắc vấn đề mà văn bản pháp luật điều chỉnh. Để đáp ứng yêu cầu này, người
viết đề cương phải nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng về các vần đề cần nêu, các văn bản
gốc và các văn bản có liên quan khác nếu có, tìm hiểu pháp luật của nước ta trước đây và pháp luật
của nước ngoài quy định về vấn đề đó, các tài liệu, lý luận, giáo khoa và đôi khi phải tìm hiểu cả về
mặt kỹ thuật nghiệp vụ trong lĩnh vực đó.
- Hiểu rõ đối tượng sử dụng đề cương. Đối tượng sử dụng đề cương tuyên truyền pháp
luật thường là cán bộ làm công tác tuyên truyền của các ngành, các cấp; báo cáo viên, tuyên truyền
viên pháp luật của các cơ quan, đơn vị, tổ chức và đội ngũ phóng viên, biên tập viên của các cơ quan
thông tin đại chúng chuyên viết về pháp luật để từ đó người viết đề cương tuyên truyền có cách viết
cho phù hợp với trình độ, nghề nghiệp, tâm lý lứa tuổi
- Nắm vững tình hình kinh tế - xã hội, phong tục, tập quán, truyền thống tình hình vi phạm
pháp luật và yêu cầu quản lý về từng lĩnh vực. Do đó, người viết đề cương tuyên truyền cần phải tích
luỹ tài liệu, kiến thức, bám sát thực tế cuộc sống, có quan hệ phối hợp rộng rãi với các cơ quan ban,
ngành.
- Có vốn ngôn ngữ phong phú, lối hành văn giản dị, trong sáng, súc tích, dễ hiểu, dễ nhớ và
dễ vận dụng.
2. Nội dung cơ bản của Đề cương
Đề cương tuyên truyền một văn bản pháp luật thường bao gồm 3 phần chính sau đây:
Phần 1. Những vấn đề chung
Phần này thường nêu sự cần thiết, mục đích, ý nghĩa của việc ban hành văn bản. Phần này
cũng cần nêu nguồn gốc pháp lý của văn bản (xuất phát từ Hiến pháp, Luật hoặc các văn bản quy
phạm khác), vị trí, vai trò của văn bản trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Quan điểm và những nguyên tắc chỉ đạo việc xây dựng văn bản pháp luật; tư tưởng chủ đạo
và yêu cầu của công tác quản lý nhà nước, quản lý xã hội trong đời sống hàng ngày và yêu cầu của
chính sách đối ngoại của Đảng và nhà nước ta.
Phần 2. Giới thiệu văn bản
Một trong những yêu cầu vô cùng quan trọng của đề cương tuyên truyền là giúp đối tượng
nắm bắt một cách khái quát về nội dung của văn bản đó mà không thể đi sâu giới thiệu hết các
chương, các điều của văn bản đó. Vì vậy phần đầu của đề cương phải giới thiệu bố cục của văn bản
với nguyên văn tên các phần, chương, mục để người đọc khái quát được nội dung của văn bản pháp
luật đó.
Giới thiệu bố cục văn bản: số chương, tên các chương, số điều trong chương để người sử
dụng có thể hình dung khái quát nội dung văn bản.
Nội dung chủ yếu của văn bản:
- Nhiệm vụ của văn bản;
- Đối tượng điều chỉnh, phạm vi điều chỉnh của văn bản;
- Những nguyên tắc chung chi phối các quy định trong văn bản;
- Những vấn đề được đề cập trong nội dung văn bản, ý nghĩa các quy phạm, chế định trong
văn bản;
- Những điểm mới trong văn bản so với pháp luật hiện hành, những điểm sửa đổi, bổ sung, lý
do sửa đổi, bổ sung, ý nghĩa của việc sửa đổi, bổ sung. Khi cần thiết có thể nêu một số vấn đề gây
tranh luận, những vấn đề đang tồn tại;
- Quyền, nghĩa vụ của các chủ thể và những người có liên quan, các quy định, thủ tục phải
thực hiện;
- Vị trí của văn bản trong hệ thống pháp luật hiện hành, các văn bản sẽ ban hành kèm theo
(nếu có).
Phần 3. Tổ chức thực hiện
Đây là phần hướng dẫn người sử dụng đề cương chủ yếu là các báo cáo viên, tuyên truyền
viên pháp luật, các cơ quan thông tin đại chúng. Trong phần này cần làm rõ các vấn đề:
- Nêu trọng tâm, trọng điểm tuyên truyền, gắn tuyên truyền văn bản với việc thực hiện những
chủ trương lớn, những vấn đề thời sự và yêu cầu quản lý của ngành, của địa phương;
- Đưa ra các gợi ý về biện pháp tổ chức thực hiện, phương pháp và hình thức tuyên truyền
đối với từng loại đối tượng, từng địa bàn căn cứ vào nhu cầu của đối tượng và điều kiện kinh tế xã
hội của địa phương; đặc biệt là tập trung quan tâm đến đối tượng cần chú trọng tuyên truyền;
- Phương hướng phối hợp giữa ngành tư pháp, các ngành hữu quan và các cơ quan thông tin
đại chúng trong việc tổ chức tuyên truyền văn bản.
Phần 4. Phụ lục (nếu có)
Trong điều kiện có thể, đề cương tuyên truyền văn bản pháp luật nên có các tài liệu tham
khảo kèm theo bao gồm các số liệu, các trích dẫn để khẳng định, chứng minh, so sánh, mở rộng
những vấn đề đã nêu trong đề cương nhằm giúp cho đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền pháp
luật; báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật ở các cấp, các ngành có điều kiện tham khảo, dẫn
chứng khi thực hiện các hoạt động tuyên truyền pháp luật cho cán bộ và nhân dân.
3. Các bước cần thiết để viết Đề cương
Để viết được một đề cương tuyên truyền văn bản pháp luật hoàn chỉnh và có chất lượng,
thường được tiến hành qua các bước sau:
Bước 1: Chuẩn bị
- Nghiên cứu văn bản pháp luật mới ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung.
- Thu thập và nghiên cứu kỹ các tài liệu có liên quan trong quá trình xây dựng văn bản như: tờ
trình về việc ban hành văn bản; báo cáo tổng hợp ý kiến đóng góp cho dự thảo văn bản; các văn kiện
của Đảng, chính sách của nhà nước; các tài liệu trong nước và nước ngoài liên quan đến nội dung
văn bản để nắm được xuất xứ của văn bản (nếu là văn bản ban hành lần đầu), văn bản gốc và yêu
cầu thực tế khách quan liên quan đến những nội dung cần sửa đổi, bổ sung (đối với văn bản sửa đổi,
bổ sung).
- Tìm hiểu đối tượng sử dụng, mục đích sử dụng đề cương để đưa ra các hướng dẫn, chỉ
đạo cách thức, biện pháp tuyên truyền thích hợp.
- Nghiên cứu tình hình kinh tế xã hội, phong tục, truyền thống, tình hình vi phạm pháp luật,
yêu cầu quản lý về lĩnh vực đề cập trong văn bản, để phân tích các vấn đề nêu ra trong văn bản đã
đáp ứng được những đòi hỏi của xã hội và yêu cầu của công tác quản lý trong lĩnh vực đó.
Bước 2: Biên soạn đề cương.
Trước khi viết một đề cương hoàn chỉnh, thường xây dựng bố cục đề cương chi tiết. Sau khi
lãnh đạo thông qua bố cục đề cương, có thể:
- Trực tiếp biên soạn bằng cách dựa trên cơ sở đề cương chi tiết và các tài liệu đã được
nghiên cứu để viết đề cương tuyên truyền văn bản pháp luật.
- Phối hợp với các cơ quan chuyên môn tham gia soạn thảo văn bản đề nghị viết theo bố cục
đề cương chi tiết.
Bước 3: Biên tập đề cương.
Bước 4: Hoàn chỉnh, in ấn và gửi cho các đối tượng sử dụng