Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Chuyên Đề Cơ chế quản lý Ngân sách nhà nước cho ngành giáo dục và đào tạo của Việt Nam. Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.92 KB, 60 trang )

Chuyên đề cuối khóa
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ Nghĩa
NSNN Ngân sách Nhà nước
CSVC Cơ sở vật chất
BHYT Bảo hiểm y tế
BHXH Bảo hiểm xã hội
HCSN Hành chính sự nghiệp
MTEF Khuôn khổ chi tiêu trung hạn
NCKH Nghiên cứu khoa học
SGK Sách giáo khoa
TCC Tài chính công
THCS Trung học cơ sở
THPT Trung học phổ thông
TW Trung Ương
UBND Ủy ban nhân dân
XHH Xã hội hóa
XDCB Xây dựng cơ bản
SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02
1
Chuyên đề cuối khóa
LỜI MỞ ĐẦU
Với mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam “ dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” và đến năm 2020 “ Cơ bản trở thành
một nước công nghệ hiện đại”, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định: “ Giáo
dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu” và “Muốn tiến hành CNH-HĐH
thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục- đào tạo, phát huy nguồn lực con
người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững”.
Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, đầu tư cho giáo dục và
đào tạo trong những năm qua không ngừng tăng lên đã giúp cho giáo dục
đào tạo đạt được nhiều thành tựu, góp phần quan trọng vào công cuộc phát


triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên, đầu tư tăng nhưng việc thực
thi chưa hiệu quả, công tác quản lý chưa chặt chẽ, hiệu quả giáo dục còn
thấp so với yêu cầu, phương pháp giáo dục còn lạc hậu do chậm đổi mới,
đội ngũ giáo viên vừa thừa vừa thiếu, trình độ chuyên môn chưa đồng bộ,
cơ sở vật chất còn thiếu thốn và lạc hậu,….
Từ thực tiễn ấy thi bên cạnh nỗ lực tăng đầu tư NSNN cho giáo dục
và đào tạo, việc không ngừng hoàn thiện cơ chế quản lý NSNN cho giáo
dục và đào tạo là hết sức quan trọng.
Chuyên đề “Cơ chế quản lý Ngân sách nhà nước cho ngành giáo
dục và đào tạo của Việt Nam. Thực trạng và giải pháp” phân tích cơ chế
quản lý NSNN cho giáo dục và đào tại Việt Nam hiện nay, đánh giá những
mặt tích cực và hạn chế đồng thời cũng đưa ra nguyên nhân của những hạn
chế đó. Từ đó, chuyên đề đã chỉ ra sự cần thiết cũng như đề xuất một số
giải pháp để hoàn thiện cơ chế quản lý NSNN cho giáo dục.
SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02
2
Chuyên đề cuối khóa
Chuyên đề được trình bày thành 3 chương.
Chương 1: Giáo dục đào tạo và cơ chế quản lý NSNN cho giáo dục
đào tạo.
Chương 2: Thực trạng cơ chế quản lý NSNN cho giáo dục đào tạo tại
Việt Nam
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
quản lý NSNN cho giáo dục và đào tạo.
SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02
3
Chuyên đề cuối khóa
CHƯƠNG I
GIÁO DỤC ĐÀO TẠO VÀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ NSNN CHO GIÁO
DỤC VÀ ĐÀO TẠO

1.1 VAI TRÒ VÀ HỆ THỐNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TRONG NỀN
KINH TẾ QUỐC DÂN
1.1.1 Vai trò của giáo dục và đào tạo trong nền KTQD
Giáo dục được quan niệm như một hoạt động đặc thù riêng có ở xã
hội loài người với mục đích rõ ràng là duy trì phát triển xã hội loài người
như một thực thể có tổ chức- dù chưa còn hoàn thiện như ngày nay.Thực
chất đó là quá trình hình thành và nâng cao phẩm chất, kiến thức, kỹ năng,
khả năng học tập nhận thức của con người qua học tập.
Bất cứ một quốc gia nào muốn phát triển bền vững cũng phải xây
dựng và phát triển con người, đặc biệt là trong thời kì công nghiệp hoá hiện
đại hoá, khi kinh tế tri thức đang trở thành một xu thế thời đại.Chất lượng
cuộc sống được đánh giá qua các tiêu chí thu nhập, giáo dục, sức khoẻ và
dinh dưỡng, mức nghèo khổ,…Vì vậy giáo dục là một trong những mục
đích phát triển kinh tế.
Giáo dục được xem là hoạt động xã hội rộng lớn có liên quan trực
tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của mọi người dân, mọi tổ chức kinh tế- xã
hội, đồng thời có tác động mạnh mẽ đến tiến trình phát triển nhanh hay
chậm của một quốc gia.Nghị quyết trung ương 4 khoá VII nêu rõ: “cùng
với khoa học công nghệ, GD-ĐT là quốc sách hàng đầu “ và báo cáo Chính
trị của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng tại Đại hội lần thứ IX Đảng
Cộng Sản Việt Nam khẳng định : “Phát triển giáo dục- đào tạo là một trong
những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH- HĐH, là điều kiện để
phát huy nguồn lực con người- yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững”.Giáo dục là tiên đề, là yếu tố hàng đầu
thuộc năng lực nội sinh, có tầm quan trọng hơn so với các hệ thống yếu tố
SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02
4
Chuyên đề cuối khóa
khác như tài nguyên thiên nhiên, vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật.Giáo dục là
nền tảng phát triển khoa học công nghệ. Có kiến thức mới làm chủ được

công nghệ và làm chủ được chính mình không phải phụ thuộc vào bên
ngoài. Nâng cao chất lượng giáo dục đang diễn ra trên quy mô toàn cầu
nhằm tạo ra những thay đổi sâu sắc trong giáo dục, từ xây dựng chất lượng
giáo dục, xây dựng nhân cách người học đến cách tổ chức quá trình và hệ
thống giáo dục.
Giáo dục đào tạo có 3 chức năng chính:
- Chức năng kinh tế: Thứ nhất, giáo dục là con đường cơ bản nhất để
tích luỹ vốn nhân lực- nhân tố quyết định tăng năng suất lao động, góp
phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đào tạo nên một lớp người mới có năng
lực cần thiết để đáp ứng đòi hỏi của nền sản xuất cụ thể. Đối với sự phát
triển nền kinh tế thì đây là lực lượng quan trọng vào bậc nhất. Thứ hai, giáo
dục có vai trò quyết định đến phát triển và làm chủ KHCN hiện đaih – nhân
tố bảo đảm cho sự tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Giáo dục đào tạo
có chức năng truyền bá kiến thức khoa học cho những người có năng lực
học tập và vận dụng vào thực tế. Không những đào tạo được đội ngũ cán bộ
khoa học mà còn sản sinh ra kiến thức khoa học thông qua hệ thống NCKH
của các trường Đại học. Thứ ba, giáo dục góp phần quan trọng thúc đẩy
việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu nền KTQD phù hợp với xu hướng
phát triển của mọi thời đại. Sự phát triển của giáo dục về cả quy mô, cả
chất lượng với một cơ cấu hợp lý về vùng miền, trình độ, nghành nghề đào
tạo… sẽ góp phần tích cực thúc đẩy quá trình hình thành và chuyển dịch cơ
cấu nền KTQD phù hợp với xu thế của thời đại, từ đó đảm bảo cho sự tăng
trưởng cao và bền vững của nền kinh tế.
- Chức năng chính trị- xã hội: Chính trị là lĩnh vực hoạt động của
xã hội loài người mà đặc trưng là các vấn đề liên quan đến quyền lực và
lợi ích của con người, cộng đồng giai cấp trong xã hội. Trong lịch sử phát
triển xã hội loài người, từ khi xã hội có giai cấp, có Nhà nước thì giáo dục
SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02
5
Chuyên đề cuối khóa

đào tạo luôn là công cụ quan trọng của Nhà nước. Xét về bản chất, giáo
dục đào tạo thực sự gắn bó với xu hướng chính trị tiến bộ. Nền giáo dục
nước ta hiện nay là nền giáo dục được ra đời và phát triển nhờ một thể
chế chính trị cách mạng tiến bộ. Mục tiêu xã hội chủ nghĩa và độc lập
được quán triệt một cách sâu rộng trong toàn bộ hệ thống giáo dục giáo
dục Việt Nam.
Như vậy, giáo dục không chỉ tạo ra một lớp người lao động mới
cho xã hội mà còn thay đổi bộ mặt chính trị xã hội thông qua mục đích tổ
chức của nền giáo dục, các chính sách cho giáo dục thể hiện tính nhân
văn, tính đại chúng hay đẳng cấp của giáo dục.
- Chức năng tư tưởng văn hoá: Giáo dục đào tạo không chỉ tạo ra
con người phát triển về trí tuệ, kỹ năng lao động mà còn đảm bảo cho
việc hình thành một hệ tư tưởng, hình thành một nếp sống mới trên nền
tảng của một nền văn hóa mới, nhân sinh quan mới.
Xét về góc độ lịch sử văn hoá chỉ được hình thành thông qua một
quá trình sáng tạo lâu dài, xây dựng và truyền kinh nghiệm từ đời này
sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong quá trình này không
thể thiếu giáo dục đào tạo, đó chính là truyền lại các giá trị văn hoá. Sự
sáng tạo trong quá trình giáo dục đào tạo làm phong phú hơn những giá
trị văn hóa vốn có, làm nảy sinh những giá trị văn hoá mới.
1.1.2 Hệ thống giáo dục quốc dân
Hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam bao gồm Giáo chính quy và
Giáo dục thường xuyên.
Các cấp học và trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân
bao gồm:
• Giáo dục mầm non có nhà trẻ mẫu giáo
SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02
6
Chuyên đề cuối khóa
• Giáo dục phổ thông có tiểu học, trung học cơ sở, trung

học phổ thông
• Giáo dục dạy nghề có trung cấp chuyên nghiệp và dạy
nghề
• Giáo dục đại học và sau đại học đào tạo trình độ Cao
đẳng, trình độ Đại học, trình độ Thạc sỹ, trình độ Tiến
sỹ.
Gắn với hệ thống giáo dục quốc dân nước ta, khối giáo dục bao
gồm giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông; khối đào tạo bao gồm
giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học.
SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02
7
Chuyên đề cuối khóa
SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02
TIẾN SỸ
THẠC SỸ
ĐẠI HỌC
CAO ĐẲNG
TRUNG CẤP
CHUYÊN NGHIỆP
DẠY NGHỀ
TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG
THCS
TIỂU HỌC
MẪU GIÁO
NHÀ TRẺ
8
Chuyên đề cuối khóa
1.2 VAI TRÒ CỦA NSNN VỚI GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
1.2.1 Khái niệm bản chất của NSNN

1.2.1.1 Khái niệm
NSNN với tư cách là một phạm trù kinh tế bao giờ cũng gắn liền
với sự xuất hiện, tồn tại của Nhà nước phát triển đến một trình độ nhất
định. Sự xuất hiện của Nhà nước trong lịch sử đòi hỏi phải có những
nguồn lực tài chính để đáp ứng chi tiêu nhằm phục vụ cho việc thực hiện
các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước.
“NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một
năm để đảm bảo thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước” ( Theo
Luật NSNN )
1.2.1.2 Bản chất
- Về phương diện pháp lý: NSNN là một đạo luật dự trù các khoản
thu, chi bằng tiền mặt của Nhà nước trong một thời gian nhất định thường
là một năm.
- Về bản chất kinh tế: NSNN là hệ thống những mối quan hệ kinh
tế giữa Nhà nước với xã hội, phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động
và sử dụng các nguồn tài chính nhằm đảm bảo yêu cầu thực hiện các chức
năng nhiệm vụ của Nhà nước.
Các quan hệ lợi ích kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể khác:
+ Quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các doanh nghiệp
+ Quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với hộ gia đình
+ Quan hệ kinh tế với cá nhân trong và ngoài nước gắn liền
với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ ngân sách.
-Về tính chất: NSNN là bảng tổng hợp các khoản thu, chi của Nhà
nước, là mức động viên các nguồn tài chính vào tay Nhà nước, là khoản
cấp phát của Nhà nước cho các nhu cầu tiêu dùng và đầu tư phát triển, đó
cũng là đóng góp theo nghĩa vụ hay tự nguyện của mỗi thành viên trong
SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02
9
Chuyên đề cuối khóa

xã hội cho Nhà nước và Nhà nước cấp phát kinh phí đầu tư cho mỗi thành
viên trong xã hội.
1.2.2 Vai trò của NSNN với giáo dục đào tạo
Phát triển GD- ĐT là một trong những động lực quan trọng nhất
thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá, là điều kiện tiên quyết
để phát triển nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Đặc biệt trong bối cảnh thế giới đang
bước sang thời đại mới- thời đại trí tuệ và trong môi trường toàn cầu hóa,
trong đó, các yếu tố tri thức và thông tin trở thành những yếu tố hàng đầu
và là nguồn tài nguyên giá trị nhất thì giáo dục trở thành đòn bẩy cho sự
phát triển kinh tế. Chính vì vậy đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát
triển, đầu tư cho tương lai, đầu tư hiệu quả nhất.
Đầu tư tài chính giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành, mở
rộng và phát triển hệ thống giáo dục quốc dân từ giáo dục mầm non , giáo
dục phổ thông, đáo tạo công nhân, trung học chuyên nghiệp, đại học cho
đến đào tạo sau đai học. Trong số các nguồn lực tài chính đầu tư cho giáo
dục đào tạo thì đầu tư từ ngân sách Nhà nước là tất yếu đóng vai trò chủ
đạo trong việc nâng cao chất lượng và hiệu quả giao dục. Sở dĩ NSNN
đong vai trò chỉ đạo là vì:
- Trong hệ thống tài chính nước ta thì tài chính Nhà nước chiếm
một tỷ trọng lớn. Mà trong tài chính Nhà nước bao gồm NSNN và tín
dụng Nhà nước thì NSNN có tỷ trọng lớn nhất. Trong các nhu cầu tiêu
dùng xã hội mà NSNN đảm bảo thì theo chủ trương đường lối của Đảng
và Nhà nước thì nhu cầu cho giáo dục đào tạo đứng hàng đầu. Mặt khác,
giáo dục đào tạo là dịch vụ hàng hoá công cộng tạo ra những ngoại ứng
tích cực và có vai trò đến sự phát triển nguồn nhân lực- nhân tố quyết
định đến sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Đầu tư từ NSNN cho
giáo dục nhằm đảm bảo điều kiện tài chính để phát triển hệ thống giáo
dục, nâng cao mang lưới các cơ sở giáo dục, điều chỉnh quy mô, cơ cấu
SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02

10
Chuyên đề cuối khóa
và nâng cao chất lượng hiệu quả của giáo dục. Do đó nguồn tài chính từ
NSNN la nguồn cơ bản, to lớn nhất để duy trì và phát triển hệ thống giáo
dục theo đúng đường lối của Đảng và Nhà nước.
- Thứ hai, đầu tư của NSNN có tác dụng hướng dẫn, huy động các
nguồn vốn khác đầu tư cho giáo dục đào tạo vì giáo dục là hàng hoá công
cộng, tạo ra ngoại ứng tích cực và có vai trò quyết định đến sự phát triển
nguồn nhân lực. Đầu tư từ NSNN cho giáo dục khuyến khích nhân dân
đóng góp xây dựng và sửa chữa trường lớp, đóng góp của các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế nhằm thực hiện phuơng châm “ Nhà
nước và nhân dân cùng chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo”,
đồng thời là nguồn chính để phát huy nguồn viện trợ và cho vay của nước
ngoài để đầu tư cho giáo dục đào tạo . Lợi ích của việc đầu tư cho giáo
dục đem lại không chỉ cho những người trực tiếp được hưởng giáo dục
mà còn cho cả xã hội nói chung. Tuy nhiên trong thực tế các cá nhân hầu
như không tính đến những tác động này trong việc lựa chọn quyết định có
nên đầu tư vào giáo dục hay không. Nếu như trong trường hợp họ có biết
tác động tích cực của giáo dục song thiếu sự khuyến khích và tạo điều
kiện của Nhà nước để đi đến quyết định đầu tư. Như vậy, nếu không có
sự đầu tư của NSNN để hỗ trợ và khuyến khích thì mức đầu tư của các tổ
chức cá nhân trong xã hội cho sự phát triển giáo dục sẽ thấp hơn khả năng
sẵn có.
- Thứ ba, NSNN đầu tư cho giáo dục đào tạo sẽ đảm bảo từng bước
ổn định đời sống của cán bộ công nhân viên làm trong nghành giáo dục.
NSNN ngoài chi trả tiền lương chính cho đội ngũ giáo viên giảng dạy còn
dành một phần để ưu đãi riêng cho nghành giáo dục như phụ cấp giảng
dạy, phụ cấp thâm niên, phụ cấp trách nhiệm , phụ cấp dạy thêm giờ,…
- Thứ tư, NSNN có vai trò điều phối cơ cấu giáo dục toàn nghành.
Thông qua định mức chi ngân sách giáo dục đào tạo hàng năm đã góp

phần định hướng sắp xếp cơ cấu các cấp học, mạng lưới trường. Tập
SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02
11
Chuyên đề cuối khóa
trung NSNN cho những chương trình mục tiêu quốc gia như chốn mù
chữ, phổ cập giáo dục, xây dựng hệ thống trường dân tộc nội trú, khuyến
khích phát triển giáo dục ở vùng núi và dân tộc ít người, tăng cường cơ sở
vật chất cá trường học,…
- Thứ năm, đầu tư từ NSNN cho giáo dục nhằm đảm bảo công bằng
xã hội trong giáo dục. Nếu giáo dục được cung cấp hoàn toàn theo cơ chế
thị trường không có sự đầu tư từ NSNN thì bộ phận dân cư không có khả
năng chi trả các khoản chi phí giáo dục sẽ không có cơ hội được học tập,
tiếp thu kiến thức, từ đó mất công bằng xã hội trong giáo dục. Hơn nữa,
công bằng xã hội trong giáo dục còn là điều kiện quan trọng để đạt đến
công bằng xã hội nói chung.
- Thứ sáu, đầu tư của Nhà nước cho giáo dục nhằm để khắc phục
khiếm khuyết của thị trường vốn. Trên thực tế, thị trường vốn cho việc
đầu tư vào giáo dục là không hoàn hảo. Vì hầu như không có cơ sở nào
cho việc xác định khả năng chắc chắn để hoàn trả lại các khoản vay cho
việc học tập của các cá nhân sau khi đã kết thúc khoá học. Do vậy, các
chủ thể cho vay không dễ dàng chấp nhận bỏ vốn để đầu tư vào giáo dục.
Để khắc phục khiếm khuyết này cần thiết phải có sự can thiệp và đầu tư
của Nhà nước cho giáo dục.
Nhìn chung trên thực tế tại Việt Nam hiện nay nguồn lực tài chính
để phát triển giáo dục chủ yếu từ nguồn NSNN. NSNN đóng vai trò quan
trọng, là yếu tố chính quyết định tới sự nghiệp giáo dục đào tạo.
1.2.3 Cơ chế chi tiêu NSNN cho giáo dục đào tạo
Hiện nay, theo Luật NSNN, nội dung chi tiêu NSNN được phân
theo tính chất kinh tế của các khoản chi được sử dụng. Theo tính chất
kinh tế, chi NSNN cho giáo dục đào tạo được phân chia theo các nội

dung:
- Chi thường xuyên bao gồm các khoản chi lương và các khoản
củng cố CSVC, thiết bị trường lớp…Kế hoạch chi thường xuyên được lập
SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02
12
Chuyên đề cuối khóa
chủ yếu dựa trên định mức phân bổ và kế hoạch chi thường xuyên của
năm trước.
- Chi đầu tư bao gồm các khoản chi xây dựng CSVC, củng cố và
phát triển mạng lưới trường lớp cho sự phát triển của nền giáo dục. Chi
đầu tư đóng vai trò quan trọng trong phát triển giáo dục. Chi đầu tư phát
triển cho giáo dục từ NSNN bao gồm: chi xây mới, cải tạo,nâng cấp
trường học, phòng học, phòng thí nghiệm, phòng thực hành, thư viện,
công sở làm việc và mua sắm các trang thiết bị phục vụ cho công tác
giảng dạy học tập và nghiên cứu khoa học ở các cơ sở giáo dục đào tạo.
- Chi NSNN cho CTMT cho quốc gia về giáo dục nhằm thực hiện
những mục tiêu cụ thể có tính cấp bách trong phát triển nền giáo dục quốc
dân ở từng thời kỳ. CTMT quốc gia về giáo dục thường được thực hiện
bao gồm: Phổ cập giáo dục, xoá mù chữ, hỗ trợ giáo dục cho những vùng
miền có điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn như: Vùng sâu,
vùng xa, biên giới, hải đảo; tăng cường CSVC như xoá phòng học cấp 4,
phòng học ca 3, tăng cường chất lượng và chuẩn hoá đội ngũ cán bộ, giáo
viên; đổi mới chương trình, nội dung SGK…
1.3 Cơ chế quản lý NSNN cho giáo dục và đào tạo.
1.3.1 Khái niệm cơ chế quản lý NSNN cho giáo dục và đào tạo
Quản lý NSNN là việc sử dụng NSNN làm công cụ quản lý hệ
thống xã hội thông qua việc sử dụng những chức năng vốn có của nó.
Quản lý NSNN là việc làm cần thiết gắn với việc chi NSNN nhằm tạo ra
những khoản chi đúng mục đích và đạt hiệu quả cao.
Cơ chế quản lý NSNN là hệ thống các nguyên tắc, các hình thức và

phương pháp quản lý điều hành NSNN trong từng giai đoạn phát triển
kinh tế. Cơ chế quản lý NSNN bao gồm các cơ chế thu, chi ngân sách,
cân đối ngân sách, cấp phát ngân sách. Yêu cầu của cơ chế quản lý NSNN
trong nền kinh tế thị trường là ưu tiên sử dụng NSNN để thực hiện những
SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02
13
Chuyên đề cuối khóa
nhiệm vụ của Nhà Nước, những công việc mà thị trường không thể thực
hiện hoặc không thể giao cho thị trường thực hiện.
1.3.2 Nội dung cơ chế quản lý NSNN cho giáo dục đào tạo.
1.3.2.1 Cơ chế phân cấp ngân sách.
Trong cơ chế quản lý NSNN, cơ chế phân cấp ngân sách có
vị trí rất quan trọng, thể hiện mối quan hệ phân cấp, phân quyền, phối hợp
hoạt động giữa các cấp chính quyền trong việc quản lý, điều hành ngân
sách. Yêu cầu đối với cơ quan Trung ương phải giữ vai trò chủ đạo tập
trung các nguồn thu có tính chất quốc gia và giải quyết các nhu cầu chi
tiêu có tính chất trọng điểm trên phạm vi cả nước. Ngân sách địa phương
phải được phân cấp một số nguồn thu và nhiệm vụ chi nhất định để đảm
bảo thực hiện chức năng quản lý Nhà nước của chính quyền địa phương
trên địa bàn. Mối quan hệ giữa ngân sách TW và ngân sách địa phương
phải được giải quyết hài hòa thông qua cơ chế điều tiết và trợ cấp ngân
sách giữa TW và địa phương. Việc địa phương quản lý ngân sách có thể
giúp huy động và phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn và làm cho cung cấp
dịch vụ phù hợp hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu và mong muốn của người
dân địa phương. Tuy nhiên nếu phân cấp không tốt dẫn đến tình trạng
chồng chéo,làm suy yếu sự điều phối TW và địa phương.
Việt Nam có bốn cấp chính quyền. Ở cấp TW, quyền lập pháp
thuộc về Quốc hội, cơ quan có trách nhiệm quyết định ngân sách Nhà
nước. NSNN gồm không chỉ ngân sách của chính quyền Trung ương mà
còn có cả ngân sách tổng hợp của các cấp tỉnh- huyện- xã. Cơ cấu của

ngân sách mang tính thứ bậc: Ngân sách mỗi cấp không chỉ được HĐND
cấp đó quyết định mà còn phải được chính quyền cấp trên phê chuẩn.
Chính quyền ở mọi cấp hoạt động theo một hệ thống song trùng lãnh đạo
và chịu trách nhiệm giải trình. Từng cấp ngân sách phải chịu trách nhiệm
lập dự toán ngân sách hàng năm ( bao gồm các khoản thu, chi trên phạm
vi địa bàn mình quản lý), chịu trách nhiệm hướng dẫn, giám sát việc thực
SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02
14
Chuyên đề cuối khóa
hiện ngân sách cấp dưới. Cấp huyện tổn hợp dự toán ngân sách cấp xã,
báo cáo lên tỉnh. Tỉnh tổng hợp dự toán ngân sách các huyện báo cáo lên
Bộ tài chính.
Mục đích của phân cấp quản lý ngân sách giữa các cấp chính quyền
là nhằm giảm bớt sự ỷ lại của cơ quan cấp dưới, đồng thời xoa bớt sự bao
biện, làm thay đổi của chính quyền cấp trên. Nhờ đó mà sự phân định
trách nhiệm, quyền hạn trong quản lý NSNN một cách rõ ràng hơn và tọa
ra cac điều kiện cần thiết cho việc nâng cao hiệu quả quản lý ở lĩnh vực
này.
1.3.2.2 Cơ chế lấp dự toán và phân bổ NSNN cho giáo dục đào
tạo
* Căn cứ để lập kế hoạch phân bổ NSNN
Căn cứ để lập kế hoạch phân bổ NSNN cho giáo dục đào tạo:
- Đường lối, chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước,
nhiệm vụ công tác được giao trong năm kế hoạch.
- Luật NSNN và thông tư ngân sách hàng năm của Bộ tài chính.
Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng kế hoạch phát
triển nghành giáo dục, thông tư hướng dẫn của Bộ giáo dục và đào
tạo.
- Kế hoạch phân bổ ngân sách năm trước.
- Những nhiệm vụ cụ thể của nghành giáo dục và đào tạo.

- Định mức phân bổ ngân sách cho giáo dục đào tạo.
- Các quy định về phân cấp quản lý ngân sách trong nghành giáo
dục.
* Công tác lập dự toán và phân bổ NSNN:
Trình tự lập dự toán ngân sách và phân bổ NSNN hằng năm được
thực hiện như sau:
SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02
15
Chuyên đề cuối khóa
i) Trước ngày 31 tháng 5, Thủ tướng Chính phủ ban hành chỉ thị về
việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội và dự toán NSNN
năm sau.
ii) Căn cứ vào quyết định của Thủ tướng Chính phủ, trước ngày 10
tháng 6, Bộ tài chính ban hành Thông tư hướng dẫn về yêu cầu, nội
dung, thời hạn nộp dự toán NSNN và thông báo số kiểm tra về dự
toán ngân sách với tổng mức và từng lĩnh vực thu, chi ngân sách
đối với các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ
quan khác ở Trung ương và tổng số thu, chi, một số lĩnh vực chi
quan trọng đối với từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
iii) Căn cứ vào quyết định của Thủ tướng Chính phủ, thông tư hướng
dẫn, số kiểm tra về dự toán ngân sách của Bộ tài chính, Bộ kế
hoạch đầu tư và yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể của cơ quan, địa phương,
Bộ giáo dục và đào tạo, các Bộ, các cơ quan liên quan thuôc Chính
phủ thông báo số kiểm tra về dự toán NSNN cho các đơn vị trực
thuộc; UBND cấp tỉnh tổ chức hướng dẫn và thông báo số kiểm tra
về dự toán ngân sách cho các đơn vị trực thuộc và UBND cấp
huyện; UBND cấp huyện thông báo số kiểm tra về dự toán ngân
sách cho các đơn vị trực thuộc và UBND cấp xã.
iv) Các đơn vị sử dụng ngân sách lập dự toán thu, chi ngân sách thuộc
phạm vi, nhiệm vụ được giao, gửi cơ quan quản lý cấp trên trực

tiếp. Cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp ( Trường hợp không phải là
đơn vị dự toán cấp I) xem xét, tổng hợp dự toán của các đơn vị cấp
dưới trực thuộc gửi đơn vị dự toán cấp I.
v) Bộ tài chính chủ trì phối hợp với Bộ kế hoạch đầu tư tổng hợp, lập
dự toán NSNN trình Chính phủ. Trong quá trình làm việc, lập dự
toán NSNN, xây dựng phương án phân bổ ngân sách TW, nếu có ý
kiến khác nhau giữa Bộ tài chính với Bộ giáo dục đào tạo, các Bộ
và cơ quan liên quan thuộc Chính phủ thì Bộ tài chính phải trình
SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02
16
Chuyên đề cuối khóa
Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ những ý kiến còn khác nhau
để quyết định theo thẩm quyền. Nguyên tắc này cũng được áp dụng
trong quá trình lập dự toán ngân sách, xây dựng phương án phân bổ
ngân sách địa phương.
vi) Chính phủ trình Quốc hội dự toán NSNN và phương án phân bổ
ngân sách TW hàng năm; dự toán điều chỉnh NSNN trong trường
hợp cần thiết. Quốc hội quyết định dự toán NSNN, phân bổ Ngân
sách TW năm sau trước ngày 15 tháng 11 năm trước.
vii) Căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội về dự toán NSNN, phân bổ
ngấn sách TW, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội về tỷ lệ
phần trăm (%) phân chia đối với các khoản thu phân chia, Thủ
tướng Chính phủ giao nhiệm vụ thu, chi cho từng Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở TW,
nhiệm vụ thu, chi, tỷ lệ phần trăm (%) phân chia đối với các khoản
thu phân chia và mức bổ sung từ ngân sách TW cho từng tỉnh,
thành phố trực thuộc TW. Căn cứ vào nhiệm vụ thu, chi ngân sách
được cấp trên giao, UBND các cấp có trách nhiệm lập dự toán ngân
sách địa phương, phương án phân bổ ngân sách cấp mình trình
HĐND cùng cấp quyết đingj và báo cáo cơ quan hành chính nhà

nước, cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp.
HĐND cấp tỉnh quyết định dự toán ngân sách địa phương,
phân bổ ngân sách cấp tỉnh năm sau trước ngày 10 tháng 12 năm
trước. HĐND cấp dưới quyết định dự toán ngân sách địa phương,
phân bổ ngân sách cấp tỉnh năm sau trước ngày 10 tháng 12 năm
trước. HĐND cấp dưới quyết định dự toán ngân sách địa phương,
phân bổ ngân sách năm sau của cấp mình chậm nhất là mười ngày
kể từ ngày HĐND cấp trên trực tiếp quyết định dự toán và phân bổ
ngân sách.
SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02
17
Chuyên đề cuối khóa
viii) Sau khi được Thủ tướng Chính phủ, UBND giao dự toán ngân sách,
các cơ quan Nhà nước ở TW và địa phương, các đơn vị dự toán có
trách nhiệm phân bổ và giao dự toán ngân sách cho các đơn vị sử
dụng ngân sách trực thuộc, đảm bảo đúng với dự toán ngân sách
được giao về cả tổng mức, chi tiết theo từng lĩnh vực chi, đồng thời
gửi cơ quan tài chính cùng cấp.
1.3.2.3 Cơ chế cấp phát và chấp hành chi NSNN
Căn cứ vào dự toán NSNN được giao và yêu cầu thực hiện nhiệm
vụ, thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách quyết định chi gửi Kho bạc Nhà
nước. Kho bạc Nhà nước kiểm tra tính hợp pháp của các tài liệu cần thiết
theo quy định của pháp luật và thực hiện chi ngân sách khi có đủ các điều
kiện: đã có trong dự toán ngân sách được giao, đúng chế độ, tiêu chuẩn,
định mức, được thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người được ủy
quyền quyết định chi. Thủ trưởng cơ quan Kho bạc Nhà nước có quyền từ
chối thaqnh toán, chi trả các khoản chi không đủ các điều kiện quy định
và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
Ở cấp địa phương, cơ quan tài chính có trách nhiệm bố trí nguồn để
thực hiện kịp thời các khoản chi theo dự toán, kiểm tra việc thực hiện chi

tiêu và có quyền tạm dừng các khoản chi vượt nguồn cho phép hoặc chi
sai chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, có quyền yêu cầu cơ quan giao dự toán
điều chỉnh nhiệm vụ, dự toán chi của đơn vị trực thuộc để đảm bảo thực
hiện ngân sách theo đúng mục tiêu, tiến độ quy định. Cơ quan tài chính
cùng cấp có quyền tạm đình chỉ chi ngân sách của các đơn vị, cá nhân
không chấp hành đúng chế độ báo cáo kế toán, quyết toán và báo cáo tài
chính khác và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02
18
Chuyên đề cuối khóa
Các khoản chi thường xuyên theo định kỳ được bố trí kinh phí đều
trong năm để chi. Các khoản chi có tính chất thời vụ hoặc mua sắm lớn
được bố trí trong dự toán chi quý để thực hiện.
Chi đầu tư phát triển phải đảm bảo cung cấp đủ và đúng tiến độ
thực hiện trong phạm vi dự toán được giao.
Đối với những dự án, nhiệm vụ chi cấp thiết được tạm ứng trước
dự toán để thực hiện.
Các cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình
có trách nhiệm đề ra những biện pháp cần thiết nhằm đảm bảo hoàn thành
tốt nhiệm vụ chi ngân sách được giao, thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí,
chống tham ô, chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật tài chính.
Trách nhiệm về việc quản lý, sử dụng ngân sách và tài sản của Nhà
nước theo đúng chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức và dự toán được
giao do thủ tướng cơ quan sử dụng ngân sách chịu trách nhiệm.
Ngoài các cơ quan tài chính, trong Luật NSNN cũng quy định
nhiều cơ quan khác có trách nhiệm giám sát việc thực hiện NSNN như:
- Bộ kế hoạch và đầu tư phối hợp với Bộ tài chính và các Bộ, nghành
hữu quan kiểm tra, đánh giá hiệu quả của vốn đầu tư các công trình
công cộng xây dựng cơ bản.
- Ở cấp địa phương, HĐND giám sất việc thực hiện ngân sách ở cấp

mình.
- Chính phủ kiểm tra việc thực hiện NSNN. ĐỊnh kỳ, Chính phủ báo
cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, UBND báo cáo Thường cụ
HĐND về tình hình thực hiện NSNN, các dự án và các công trình
quan trọng quốc gia, các chương trình phát triển kinh tê- xã hội, các
dự án và công trình xây dựng cơ bản quan trọng khác.
1.3.2.4 Kế toán, kiểm tra và quyết toán NSNN
* Các nguyên tắc phải đảm bảo khi thực hiện nguyên tắc quyết
toán ngân sách và báo cáo quyết toán ngân sách.
SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02
19
Chuyên đề cuối khóa
- Phải lập đầy đủ các loại báo cáo tài chính và gửi kịp thời các loại
báo cáo đó cho cơ quan có thẩm quyền xét duyệt theo đúng chế độ
đã quy định.
- Về số liệu quyết toán NSNN:
+ Số quyết toán thu NSNN là số thu đã thực nộp hoặc đã hạch toán
thu qua NSNN qua Kho bạc Nhà nước.
+ Số quyết toán chi NSNN là số chi đã thực thanh toán hoặc đã
hạch toán chi theo quy định của Luật NSNN và các khoản chi
chuyển nguồn sang năm sau để chi tiếp theo quy định.
- Số liệu trong báo cáo quyết toán Ngân sách phải chính xác, trung
thực, đầy đủ. Nội dung báo cáo quyết toán ngân sách phải theo
đúng các nội dung trong dự toán được giao và theo mục lục NSNN,
thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách Nhà nước phai chịu trách
nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực, đây đủ của báo
cáo quyết toán của đơn vị, chịu trách nhiệm về những khoản thu,
chi hạch toán, quyết toán sai chế độ.
* Trình tự công tác kế toán, kiểm toán và quyết toán NSNN.
i) Các tổ chức, cá nhân có nhiệm vụ chi NSNN phải tổ chức hạch

toán kế toán, báo cáo và quyết toán theo đúng chế độ của Nhà
nước.
Kho bạc Nhà nước tổ chức thực hiện hạch toán kế toán NSNN,
định kỳ báo cáo việc thực hiện dự toán chi ngân sách cho cơ quan
tài chính cùng cấp và cơ quan Nhà nước hữu quan.
ii) Cuối năm ngân sách, Bộ trưởng Bộ tài chính hướng dẫn việc
khóa sổ kế toán và lập báo cáo quyết toán ngân sách theo đúng các
nội dung ghi trong dự toán năm được giao và theo Mục lục NSNN.
Các khoản chi NSNN đến ngày 31 tháng 12 chưa thực hiện được
hoặc chưa chi hết, nếu được cơ quan có thẩm quyền cho phép tiếp
tục thực hiện trong năm sau thì được chi tiếp trong thời gian chỉnh
SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02
20
Chuyên đề cuối khóa
lý quyết toán và hạch toán quyết toán vào chi ngân sách năm trước,
nếu được chuyển nguồn để thực hiện thì hạch toán vào ngân sách
năm sau.
iii) Căn cứ vào hướng dẫn của Bộ trưởng Bộ tài chính, Thủ trưởng
các đơn vị có nhiệm vụ chi Ngân sách kiểm tra và duyệt quyết toán
chi ngân sách của các đơn vị trực thuộc, chịu trách nhiệm về quyết
toán đã được duyệt. Lập quyết toán chi Ngân sách của đơn vị mình
gửi cơ quan quản lý cấp trên.
Đối với các dự án đầu tư xây dựn cơ bản, khi kết thúc năm ngân
sách, chủ đầu tư phải lập báo cáo quyết toán tình hình sử dụng vốn
ngân sách trong năm, khi dự án hoàn thành phải lập báo cáo quyết
toán công trình theo quy định của pháp luật.
Số liệu quyết toán phải được đối chiếu và được Kho bạc Nhà nước
nơi giao dịch xác nhận.
iv) Cơ quan tài chính các cấp ở địa phương thẩm định quyết toán
chi Ngân sách của các đơn vị cùng cấp và quyết toán ngân sách cấp

dưới, tổng hợp, lập quyết toán ngân sách địa phương trình UBND
cung cấp để UBND xem xét trình HĐND cùng cấp phê chuẩn, báo
cáo cơ quan hành chính Nhà nước và cơ quan tài chính cấp trên
trực tiếp.
v) Bộ tài chính thẩm định quyết toán chi ngân sách của Bộ giáo
dục và các cơ quan liên quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở TW
và quyết toán ngân sách địa phương, tổng hợp, lập quyết toán
NSNN trình Chính phủ.
vi) Cơ quan kiểm toán Nhà nước thực hiện việc kiểm toán, xác
định tính đúng đắn, hợp pháp của báo cáo quyết toán NSNN các
cấp, cơ quan, đơn vị có liên quan theo quy định của pháp luật.
vii) HĐND cấp tỉnh phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương
chậm nhất 12 tháng sau khi năm ngân sách kết thúc, HĐND cấp
SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02
21
Chuyên đề cuối khóa
tỉnh quy định thời hạn phê chuẩn quyết toán ngân sách của HĐND
cấp dưới nhưng chậm nhất không quá 6 tháng sau khi năm ngân
sách kết thúc.
viii) Chính phủ phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương, lập
và trình Quốc hội quyết toán NSNN, quyết toán các dự án và công
trình quan trọng Quốc gia do Quốc hội quyết định.
ix) Quốc hội phê chuẩn quyết toán NSNN chậm nhất 18 tháng
sau khi năm ngân sách kết thúc.
SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02
22
Chuyên đề cuối khóa
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CƠ CHẾ QUẢN LÝ NSNN CHO GIÁO DỤC ĐÀO
TẠO TẠI VIỆT NAM

.1 KHÁI QUÁT SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG GIÁO DỤC.
Cùng với quá trình đổi mới và phát triển kinh tế- xã hội, giáo dục
đào tạo Việt Nam thời gian qua đã đạt được những thành tựu to lớn về
nhiều mặt: Nâng cao dân trí, mở rộng quy mô, tăng cường CSVC nhà
trường, xây dựng đội ngũ cán bộ giáo viên,…Về cơ bản xoá được xã
trắng về giáo dục mầm non, hoàn thành và tiếp tục củng cố vững chắc kết
quả xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, đảm bảo đúng tiến độ và chất
lượng phổ cập giáo dục trung học cơ sở theo chuẩn quốc gia, một số tỉnh
thành phố đã bắt đầu thực hiện phổ cập giáo dục trung học phổ
thông.Giáo dục vùng sâu vùng xa có tiến bộ rõ rệt, mạng lưới giáo dục
được mở rộng, con em các dân tộc về cơ bản được học tập ngay tại thôn
bản. Chất lượng giáo dục đã được nâng cao.
Về mạng lưới giáo dục: Đã xây dựng được hệ thống giáo dục thống
nhất, khá hoàn chỉnh, phủ kín tới các xã, phường, thị trấn trong cả nước
bao gồm đủ các bậc học từ mầm non đến sau đại học, đa dạng về các loại
hình trường lớp (công lập, bán công, dân lập, tư thục ) và về phương thức
giáo dục ( chính quy và không chính quy). Năm học 2006-2007, cả nước
đã có khoảng 22 triệu người chiếm tỷ trọng 26,19% dân số theo học trong
39.695 trường và cơ sở giáo dục.
SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02
23
Chuyên đề cuối khóa
Bảng 2.1: Số lượng trường học từ mầm non đến đại học giai đoạn
2002-2007
Nguồn: Thống kê giáo dục và đào tạo, Bộ giáo dục và đào tạo.
Năm học 2006-2007, số lượng trường học mầm non, phổ thông đều
tăng so với năm học trước. Theo số liệu thống kê, cả nước có 39.220
trường học mầm non và phổ thông( tăng 980 so với năm học 2005-2006 và
tăng 3.345 trường so với năm học 2002-2003 ). TCCN có 269 trường. Năm
2007 một số Bộ, nghành và địa phương đã hoàn chỉnh mạng lưới trường

TCCN trên từng vùng, miền cụ thể theo hướng đa dạng hoá các lạo hình,
phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội của nghành, địa phương.
Mạng lưới các trường đại học và cao đẳng tiếp tục được củng cố mở
rộng theo quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Năm học
2006-2007, cả nước đã có 183 trường cao đẳng (tăng 29 trường so với năm
học 2005-2006 và tăng 62 trường, tức tăng 51,2% so với năm 2002-2003)
và 139 trường đại học (tăng 16 trường so với năm 2005-2006 và tăng 58
trường, tức 71,6% so với năm 2002-2003 )
SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02
Cấp học
Năm học
2002-2003 2003-2004 2004-2005 2005-2006 2006-2007
Mầm non 9.715 10.104 10.453 11.009 11.509
Tiểu học 14.163 14.346 14.518 14.688 14.839
THCS 9.593 9.873 10.081 10.275 10.401
THPT 2.055 2.140 2.224 2.268 2.355
TCCN 268 286 285 284 269
Cao đẳng 121 127 137 154 183
Đại học 81 87 93 123 139
24
Chuyên đề cuối khóa
- Quy mô học sinh: Đến năm 2006-2007, tổng số học sinh, sinh viên
trong cả nước là 21.574.172 trong đó, số trẻ em mầm non là 3.147.252 triệu
em. Số học sinh tiểu học là 7.041.312 triệu em, giảm 280.427 học sinh so
với năm học 2005-2006. Số học sinh tiểu học giảm là do trong nhiều năm
qua, nước ta đã thực hiện tốt công tác DS& KHHGĐ, dẫn đến dân số trong
độ tuổi tiểu học giảm xuống đáng kể và công tác phổ cập giáo dục tiểu học
đúng độ tuổi được đẩy mạnh trong cả nước. Số học sinh trung học cơ sở là:
6.218.457, giảm 240.061 học sinh so với năm học 2005-2006 do số học
sinh lớp 5 giảm trong những năm qua và công tác phổ cập THCS được đẩy

mạnh, giảm được số học sinh lưu ban và bỏ học. Số học sinh THPT là
3.111.280 tăng 134.408 học sinh so với năm trước. Số học sinh TCCN là
515.670 tăng 11.418 so với năm trước. Tổng quy mô đại học, cao đẳng là
1.540.201 sinh viên, đạt 183,3 sinh viên trên 1 vạn dân. Như vậy so với
năm học 2002-2003 thì số học sinh THPT, số sinh viên cao đẳng và đại học
năm học 2006-2007 tăng khá nhanh. Chứng tỏ chất lượng giáo dục và trình
độ học vấn của người dân đã có nhiều chuyển biến đáng kể.
- Đội ngũ cán bộ giáo viên: Đến năm 2006-2007, cả nước có 848.659
giáo viên, giảng viên, trong đó: 163.809 Giáo viên mầm non; 344.521 Giáo
viên tiểu học, 310.620 giáo viên THCS, 125.460 giáo viên THPT, 14.540
giáo viên TCCN và 53.518 giảng viên đại học cao đẳng. Tỷ lệ cháu/ cô ở
nhà trẻ là 12,44 và mẫu giáo là 21,6; Tỷ lệ giáo viên/ lớp tính chung trên cả
nước, ở bậc tiểu học là 1,28; THCS là 1,9 và THPT là 1,87 ( Trong năm
học trước năm học 2005-2006, các tỷ lệ tương ứng là: 10; 21; 1,28; 1,83;
1,83 )
SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02
25

×