Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Bảo vệ quyền con người của bị hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh thái bình)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 109 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT

PHẠM TRUNG THNH

BảO Vệ QUYềN CON NGƯờI CủA Bị HạI
TRONG GIAI ĐOạN KHởI Tố, ĐIềU TRA Vụ áN HìNH Sự
(trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thái Bình)

LUN VN THC S LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2023


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT

PHẠM TRUNG THNH

BảO Vệ QUYềN CON NGƯờI CủA Bị HạI
TRONG GIAI ĐOạN KHởI Tố, ĐIềU TRA Vụ áN HìNH Sự
(trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thái Bình)
Chuyờn ngnh: Lut Hỡnh sự và Tố tụng Hình sự
Mã số: 8380101.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. VŨ GIA LÂM

HÀ NỘI - 2023



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong bất kỳ cơng
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Trường Đại học Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

PHẠM TRUNG THÀNH


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ BẢO VỆ QUYỀN
CON NGƯỜI CỦA BỊ HẠI TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ, ĐIỀU
TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ ........................................................................................... 9
1.1.

Một số vấn đề lý luận về bảo vệ quyền con người của bị hại trong
giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự ...................................................9


1.1.1.

Khái niệm, đặc điểm của bảo vệ quyền con người của bị hại trong giai
đoạn khởi tố, điều tra, vụ án hình sự ..............................................................9

1.1.2.

Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền con người của bị hại trong giai đoạn
khởi tố, điều tra vụ án hình sự......................................................................31

1.1.3.

Những yếu tố ảnh hưởng đến việc bảo vệ quyền con người của bị hại
trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự ............................................35

1.2.

Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bảo vệ quyền con người
của bị hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự .....................37

1.2.1.

Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về nguyên tắc tố tụng bảo đảm
và bảo vệ quyền con người của bị hại ..........................................................37

1.2.2.

Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền tố tụng và cơ chế bảo
đảm thực hiện đầy đủ quyền của bị hại trong giai đoạn khởi tố, điều
tra vụ án hình sự ...........................................................................................42


1.2.3.

Quy định pháp luật tố tụng hình sự về trách nhiệm của cơ quan, người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc bảo vệ quyền con người
của bị hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự ............................44


1.2.4.

Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về trình tự, thủ tục khởi tố,
điều tra nhằm bảo vệ quyền con người của bị hại trong giai đoạn khởi
tố, điều tra vụ án hình sự ..............................................................................52

1.2.5.

Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về giám sát việc thực thi và xử
lý hành vi xâm phạm quyền con người của bị hại trong giai đoạn khởi
tố, điều tra vụ án hình sự ..............................................................................54

Tiểu kết Chương 1 ...................................................................................................57
Chương 2: THỰC TIỄN BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA BỊ HẠI
TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI BÌNH VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ........58
2.1.

Thực tiễn bảo vệ quyền con người của bị hại trong giai đoạn khởi
tố, điều tra vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Thái Bình ..........................58

2.1.1.


Những kết quả đạt được trong việc bảo vệ quyền con người của bị hại
trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Thái Bình ....60

2.1.2.

Những hạn chế, vướng mắc trong việc bảo vệ quyền con người của bị
hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh
Thái Bình và nguyên nhân ...........................................................................75

2.2.

Một số giải pháp nâng cao chất lượng bảo vệ quyền con người của
bị hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự trên cơ sở
thực tiễn tỉnh Thái Bình ............................................................................86

2.2.1.

Giải pháp lập pháp .......................................................................................86

2.2.2.

Giải pháp khác .............................................................................................90

Tiểu kết Chương 2 ...................................................................................................97
KẾT LUẬN ..............................................................................................................98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................100


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT:

Cơ quan điều tra

ĐTV:

Điều tra viên

KSV:

Kiểm sát viên

QCN:

Quyền con người

TTHS:

Tố tụng hình sự

VAHS:

Vụ án hình sự

VKS:


Viện kiểm sát

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 của Bộ Chính trị Bộ
chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về “Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020” trong đó đã nêu rõ phương hướng: “hồn thiện các
thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn
trọng và bảo vệ quyền con người” [2]. Cùng với đó, Hiến pháp năm 2013 cũng quy
định cụ thể tại khoản 1 Điều 14 rằng “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
các quyền con người, quyền cơng dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội
được cơng nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” [19,
Khoản 1, Điều 14], đặc biệt trong “Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm 2021 – 2025” tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của
Đảng cũng nêu rõ: “Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chun nghiệp, hiện đại,
cơng bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hoạt động
tư pháp phải có trọng trách bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân” [33]. Bảo vệ QCN trong tố tụng hình sự
(TTHS) luôn là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta quan tâm.
Trong lĩnh vực TTHS, bên cạnh đối tượng được quan tâm đặc biệt và xuất hiện
trong nhiều nghiên cứu là người bị buộc tội thì bị hại cũng là đối tượng yếu thế khác
cần được quan tâm bởi việc tham gia tố tụng của họ không chỉ làm sáng tỏ sự thật

khách quan của vụ án mà họ cịn có thể đã là đối tượng có nguy cơ tổn thương “kép”
do vừa bị người bị buộc tội trực tiếp gây thiệt hại, phải gánh chịu hậu quả do tội phạm
gây ra mà họ hồn tồn khơng mong muốn, vừa phải chịu áp lực từ các cơ quan, người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do vậy, việc tôn trọng, bảo vệ quyền con người,
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại sẽ góp phần thực thi công lý, thể hiện bản
chất nhân văn, dân chủ của pháp luật và hệ thống tư pháp hình sự. Vì vậy, việc bảo vệ
QCN của bị hại, nhất là bảo vệ các QCN ngay từ những giai đoạn đầu như hoạt động
khởi tố, điều tra VAHS là vấn đề quan trọng, thiết yếu.

1


Trong những năm qua, hoạt động bảo vệ QCN của bị hại trong giai đoạn khởi tố,
điều tra vụ án hình sự của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trên địa
bàn tỉnh Thái Bình ln được đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, góp phần
giữ vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của chủ thể trong quan hệ TTHS. Bên cạnh những thành tựu đạt được, thực tế vẫn tồn
tại nhiều hạn chế trong việc bảo vệ quyền con người của bị hại trong giai đoạn khởi tố,
điều tra vụ án hình sự. Do vậy, vấn đề tất yếu đặt ra phải tiếp tục nghiên cứu, hoàn
thiện về bảo vệ QCN của bị hại theo hướng đổi mới từ việc nâng cao chất lượng, hiệu
quả trong các hoạt động TTHS qua đó bảo vệ tốt nhất QCN của bị hại. Vì lẽ trên, việc
lựa chọn đề tài “Bảo vệ quyền con người của bị hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra
vụ án hình sự (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thái Bình)” để nghiên cứu ở cấp độ
luận văn thạc sĩ là cần thiết cả về lý luận và thực tiễn áp dụng, góp phần nâng cao
hiệu quả bảo vệ QCN của bị hại, hướng đến quy trình tố tụng khách quan, minh
bạch, cơng bằng.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Bảo vệ QCN của bị hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS được các
chuyên gia Luật học nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh khác nhau trong đó phải kể
đến một số cơng trình nghiên cứu sau đây:

- Đinh Thị Mai (2014), Quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt
Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện khoa học xã hội. Trong luận án đã phân
tích làm rõ khái niệm người bị hại quyền của người bị hại trong TTHS Việt Nam,
xác định rõ cơ sở pháp lý và nội dung các quyền của người bị hại; nghiên cứu so
sánh lịch sử hình thành và quá trình phát triển về quyền của người bị hại trong hệ
thống tư pháp hình sự thế giới và Việt nam; xác định nội dung cơ bản của các quyền
của người bị hại trong TTHS và các cơ chế, điều kiện bảo đảm hiện thực hóa các
quyền đó trong điều kiện thực tế của Việt Nam. Bên cạnh đó luận án đã đánh giá
thực trạng các quy định pháp luật về quyền của người bị hại và thực trạng thực hiện
quyền của người bị hại ở Việt Nam từ 2003 đến 2012, bao gồm: làm rõ nội dung
quyền của người bị hại và nghĩa vụ thực thi của cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng; luận giải, mô tả, minh chứng bằng các số liệu, tình huống điển

2


hình về bức tranh hiện thực phản ánh việc thực hiện quyền của người bị hại, thực
trạng bảo đảm và thực thi của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bảo vệ quyền của
người bị hại trong TTHS Việt Nam; nghiên cứu cách thức bảo vệ quyền của người
bị hại ở Việt Nam và so sánh với kinh nghiệm một số nước trên thế giới. Ngoài ra
đề xuất luận chứng và kiến nghị các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và hoàn
thiện các cơ chế bảo vệ quyền của người bị hại phù hợp với tình hình của Việt Nam
hiện nay và hướng phát triển đến năm 2020.
- Phạm Thị Lan Anh (2016), Người bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thái Nguyên), Luận văn thạc sĩ Luật học,
Đại học quốc gia Hà Nội. Trong luận văn đã phân tích làm rõ khái niệm người bị
hại, quyền của người bị hại trong TTHS Việt Nam, xác định rõ cơ sở pháp lý và nội
dung các quyền của người bị hại; nghiên cứu so sánh lịch sử hình thành và phát
triển quyền của người bị hại trong hệ thống tư pháp hình sự thế giới và Việt Nam;
Xác định nội dung cơ bản của các quyền và nghĩa vụ của người bị hại trong TTHS

và các cơ chế, điều kiện bảo đảm hiện thực hóa các quyền đó trong điều kiện thực tế
của Việt Nam. Bên cạnh đó luận văn đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về
quyền của người bị hại và thực trạng thực hiện quyền của người bị hại ở Việt Nam
từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên, bao gồm: làm rõ nội dung quyền của người bị hại và
nghĩa vụ thực thi của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; luận giải,
mô tả, minh chứng bằng các số liệu, tình huống điển hình về bức tranh hiện thực
phản ánh việc thực hiện quyền của người bị hại, thực trạng bảo đảm và thực thi của
cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bảo vệ quyền của người bị hại trong TTHS
Việt Nam; Đã đưa ra các luận giải và kiến nghị các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật và hoàn thiện các cơ chế bảo vệ quyền của người bị hại phù hợp với tình hình
của Việt Nam nói chung và trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên hiện nay.
- Lưu Bình Dương (2017), Pháp luật về khởi tố VAHS theo yêu cầu của người
bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay, luận án tiến sĩ luật học, Học viện
khoa học xã hội. Trong luận án, tác giả đã luận giải rõ nguyên lý điều chỉnh pháp luật

3


về khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong TTHS Việt Nam dựa trên
phương pháp điều chỉnh đặc thù là “phương pháp ghi nhận và bảo đảm” quyền tự
quyết định về ý chí của người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của họ trong thực hiện
quyền yêu cầu, rút yêu cầu khởi tố VAHS trong giới hạn pháp luật TTHS quy định;
Làm rõ bản chất của pháp luật về quyền yêu cầu khởi tố vụ án của người bị hại trong
TTHS là “trường hợp đặc biệt” của pháp luật về khởi tố vụ án, đây là quyền “yêu cầu
khởi tố đối với VAHS” của người bị hại trong giới hạn pháp luật quy định; là cơ sở, là
điều kiện để phát sinh quyền công tố nhà nước với các tội phạm khi nhà nước áp
dụng chính sách hình sự dành quyền tự quyết định việc xử lý tội phạm cho người bị
hại. Bên cạnh đó Luận án đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và điều chỉnh
pháp luật về khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong TTHS Việt Nam hiện
nay thông qua các giải pháp cụ thể trước mắt và lâu dài, qua đó góp phần nâng cao

hiệu quả điều chỉnh pháp luật về nội dung này trong thời gian tới.
- Lê Ngọc Duy (2020), “Bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong hoạt
động tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân ở nước ta hiện nay”, luận án tiến sĩ Luật
học, Học viện khoa học xã hội. Theo đó luận án đã xây dựng được hệ thống lý luận
về bảo vệ QCN, quyền công dân trong hoạt động tố tụng của Viện kiểm sát nhân
dân ở Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đã luận án đã phân tích, làm rõ những quy định
pháp luật tố tụng hiện hành về bảo vệ QCN, quyền công dân trong từng lĩnh vực tố
tụng của Viện kiểm sát nhân dân ở nước ta hiện nay, đưa ra một số đánh giá thực
trạng vi phạm QCN, quyền công dân trong hoạt động tố tụng từ phía cơ quan tố
tụng. Từ đó, đánh giá thực tiễn bảo vệ QCN, quyền công dân trong hoạt động tố
tụng của Viện kiểm sát nhân dân trong thời gian gần đây trên hai phương diện là kết
quả đạt được và hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của những hạn chế, vướng
mắc đó. Ngồi ra luận án đã góp phần bổ sung, hồn thiện hệ thống lý luận khoa
học pháp lý về bảo vệ QCN, quyền công dân trong hoạt động tố tụng của Viện kiểm
sát nhân dân ở nước ta hiện nay thông qua đưa ra các vấn đề xây dựng được hệ
thống các quan điểm và giải pháp bảo vệ QCN, quyền công dân trong hoạt động tố
tụng của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam hiện nay.

4


Ngồi ra cịn có thể kể đến một số cơng trình khác có liên quan như: Lê
Ngun Thanh (2011), “Quyền của người bị hại và vấn đề bảo vệ người bị hại trong
tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí khoa học pháp lý Số 6/2011, tr. 41 - 48; Nguyễn
Quang Hiền (2011), “Bảo vệ quyền con người của người bị hại trong tố tụng hình
sự”, Tạp chí Tịa án nhân dân Số 13/2011, tr. 4 - 11; Ngô Quang Cảnh (2016), “Bảo
vệ quyền lợi của người bị hại theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015”, Tạp chí Dân
chủ và Pháp luật Số 8/2016, tr. 52 - 56; Phạm Thanh Tú (2017), “Một số ý kiến
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại dưới 18 tuổi trong
BLTTHS năm 2015”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Số 8/2017, tr. 60 – 64... . Đây

là các cơng trình nghiên cứu khoa học rất cơng phu về lý luận và thực tiễn bảo vệ
QCN của bị hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS. Thơng qua thực tiễn nghiên
cứu tại một số cơng trình nghiên cứu đã kể trên có thể khẳng định rằng vấn đề bảo
vệ QCN của bị hại trong giai đoạn khởi tố điều tra VAHS đã nhận được sự quan
tâm nghiên cứu với hình thức nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu khác nhau với
nhiều góc độ. Các cơng trình đã đánh giá chuyên sâu và làm rõ những vấn đề về mặt
lý luận và thực tiễn hoạt bảo vệ QCN của bị hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra
VAHS khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực thi hành. Trên tinh thần tiếp thu có chọn
lọc những tinh hoa của các cơng trình nghiên cứu đã cơng bố, đề tài tiếp tục nghiên
cứu và làm rõ hơn về những vấn đề lý luận và thực tiễn của hoạt động bảo vệ QCN
của bị hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS trên địa bàn tỉnh tỉnh Thái Bình,
từ đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng bảo vệ QCN của bị hại
trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS trên địa bàn tỉnh Thái Bình trước yêu cầu
của Đảng và Nhà nước hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm đề xuất những giải pháp nhằm bảo vệ
QCN của bị hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS trên địa bàn tỉnh Thái Bình.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Từ mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là:

5


Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận nhằm xây dựng khái niệm bảo vệ
QCN của bị hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS, cơ sở của việc bảo vệ, ý nghĩa
bảo vệ, các yếu tố bảo vệ QCN của bị hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS.
Thứ hai, phân tích, làm rõ những quy định pháp luật tố tụng hiện hành về bảo
vệ QCN của bị hại trong giai đoạn, khởi tố điều tra VAHS, làm rõ thực trạng bảo vệ
QCN của bị hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS kèm theo số liệu cụ thể trên

địa bàn tỉnh Thái bình, nêu những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân của
những tồn tại hạn chế đó để đề xuất các giải pháp nhằm bảo vệ có hiệu quả QCN
của bị hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS trên địa bàn tỉnh Thái Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Với cách tiếp cận nghiên cứu của đề tài, tác giả hướng tới đối tượng nghiên
cứu là những vấn đề lý luận, những quy định của pháp luật TTHS Việt Nam về bảo
vệ QCN của bị hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS và thực tiễn bảo vệ QCN
của bị hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS từ thực tiễn tỉnh Thái Bình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Tác giả hướng đến phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm:
Thứ nhất, đề tài chỉ giới hạn ở việc nghiên cứu các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự hiện hành (BLTTHS năm 2015) về bảo vệ QCN của bị hại trong giai
đoạn khởi tố, điều tra VAHS và một số quy định khác liên quan, không bao gồm bị
hại là người dưới 18 tuổi được quy định tại Chương XXVIII phần thứ bảy Thủ tục
đặc biệt của BLTTHS năm 2015.
Thứ hai, đề tài được nghiên cứu thực tiễn bảo vệ QCN của bị hại trong hoạt
động khởi tố điều tra từ thực tiễn tỉnh Thái Bình tính từ từ ngày 31/12/2018 đến hết
ngày 31/12/2021.
Thứ ba, đề tài giới hạn về giai đoạn tố tụng như sau: phạm vi bảo vệ QCN
của bị hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS bắt đầu từ khi khởi tố VAHS (cả
trường hợp tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố)
đến khi kết thúc việc điều tra VAHS.

6


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
- Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở các phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong Triết học Mác-Lê Nin, tư tưởng

Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng và Nhà nước về
nhà nước và pháp luật; quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về
chiến lược xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020 và những năm tiếp theo.
- Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp
phân tích, so sánh để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về bảo vệ QCN của bị
hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS. Bên cạnh đó, cơng trình cịn sử
dụng phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê và chú trọng phương pháp
nghiên cứu vụ án phù hợp với định hướng nghiên cứu đề tài để làm sáng tỏ
thực tiễn bảo vệ QCN của bị hại trong giai đoạn khởi tố điều tra VAHS trên địa
bàn tỉnh Thái Bình.
6. Những đóng góp mới của đề tài
Bảo vệ QCN của bị hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS (trên cơ sở
thực tiễn địa bàn tỉnh Thái Bình) là cơng trình nghiên cứu hoàn toàn mới về vấn đề
bảo vệ QCN của bị hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS trên địa bàn một tỉnh
ở Việt Nam. Vì vậy đề tài góp phần bổ sung làm rõ hơn những vấn đề lý luận về
bảo vệ QCN của bị hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS hiện nay; là tài liệu
tham khảo, phục vụ cho việc nghiên cứu học tập về hoạt động này trong bộ môn
Luật TTHS Việt Nam ở các cơ sở đào tạo Luật.
Trên phương diện pháp luật, những phân tích, đánh giá của đề tài về thực
trạng bảo vệ QCN của bị hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS là cơ sở để góp
phần hồn thiện pháp luật TTHS Việt Nam. Những giải pháp mà đề tài đưa ra có ý
nghĩa thiết thực trong việc giải quyết những vấn đề còn tồn tại trong thực tiễn thi
hành pháp luật TTHS Việt Nam về bảo vệ QCN của bị hại trong giai đoạn khởi tố
điều tra VAHS, đáp ứng yêu cầu về cải cách tư pháp.

7


7. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
đề tài gồm 02 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận và quy định pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam hiện hành về bảo vệ quyền con người của bị hại trong giai đoạn khởi tố, điều
tra vụ án hình sự.
Chương 2. Thực tiễn bảo vệ quyền con người của bị hại trong giai đoạn khởi
tố, điều tra vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Thái Bình và một số kiến nghị.

8


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI
CỦA BỊ HẠI TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Một số vấn đề lý luận về bảo vệ quyền con người của bị hại trong
giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của bảo vệ quyền con người của bị hại trong
giai đoạn khởi tố, điều tra, vụ án hình sự
1.1.1.1. Khái niệm quyền con người của bị hại trong giai đoạn khởi tố, điều
tra, vụ án hình sự
- Khái niệm quyền con người của bị hại
Quyền con người là một biểu tượng cho giá trị vĩnh cửu của nhân loại, được
tất cả các quốc gia của cộng đồng nhân loại nói chung đặc biệt quan tâm, ghi nhận,
bảo vệ và đảm bảo thực hiện ở những khía cạnh khác nhau tùy thuộc vào các điều
kiện kinh tế, chính trị, văn hóa -xã hội và truyền thống dân tộc. Hiện nay, theo một
tài liệu của Liên hiệp quốc - Question and Answers, Geneva, 1994 thì có khoảng 50
định nghĩa về QCN đã được cơng bố [7, tr.41], mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề từ
một góc độ nhất định: Chính trị, Luật học, Triết học... Để lý giải cho nguồn gốc và
bản chất của QCN, dưới góc độ Luật học tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về

QCN, tiêu biểu là những quan niệm sau đây:
Quan niệm thứ nhất, thuộc trường phái pháp luật tự nhiên cho rằng QCN là
những gì bẩm sinh, vốn có gắn liền với con người vì có “luật tự nhiên” mà mọi cá
nhân sinh ra đều được hưởng chỉ đơn giản bởi họ là thành viên của gia đình nhân
loại. Do đó, các QCN khơng phụ thuộc vào phong tục, tập qn, truyền thống văn
hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức hay cộng đồng nhà
nước nào và khơng có bất kỳ chủ thể nào có thể ban phát hay tước bỏ các QCN bẩm
sinh, vốn có đó. Quan niệm này đã chỉ rõ bản chất tự nhiên của QCN, đã đặt con
người đứng ở vị trí với những quyền năng tự nhiên cao hơn pháp luật thực định

9


nhưng lại tuyệt đối hóa vị trí của cá nhân, coi con người là bất biến, không phụ
thuộc vào không gian, thời gian, quốc gia, dân tộc, tơn giáo, chính phủ. Từ đó dẫn
đến việc phủ nhận tính giai cấp, tính xã hội và tính đặc thù của QCN.
Quan niệm thứ hai, thuộc trường phái pháp luật thực định, quan niệm của
trường phái này đi ngược lại với quan niệm của trường phái pháp luật tự nhiên. Quan
niệm của học thuyết này xuất phát từ việc đặt con người trong tổng thể các mối quan
hệ xã hội cho rằng con người là một thực thể xã hội, do vậy QCN chỉ được xác định
trong mối quan hệ với các thành viên khác trong xã hội, được chế độ nhà nước, pháp
luật ghi nhận và bảo hộ. Tính xác thật của quan điểm này đã coi QCN là khái niệm có
tính chất lịch sử, vì thế QCN ln ln gắn liền với các cuộc đấu tranh chống áp bức
bóc lột, chống bất cơng trong xã hội, gắn liền với từng trình độ phát triển và tiến bộ
xã hội, chịu sự hạn định của chế độ kinh tế và nhất là của chế độ chính trị xã hội; hay
nói cách khác QCN luôn gắn liền với sự tồn tại của nhà nước và pháp luật, hoàn toàn
phụ thuộc và chịu sự định đoạt của nhà nước với hệ thống pháp luật được xây dựng
chủ yếu phục vụ cho giai cấp cầm quyền và các thiết chế quản lý xã hội mang tính
bạo lực (qn đội, cơng an, tịa án, ...). Quan niệm về QCN theo trường phái pháp luật
thực định tuy đã nói lên bản chất xã hội của QCN nhưng lại khơng thừa nhận tính tự

nhiên và tính phổ biến của QCN.
Hai quan niệm về QCN của hai trường phái này đều có những hạt nhân hợp lý
nhưng lại tuyệt đối hóa một trong hai thuộc tính căn bản của QCN nên không tránh
khỏi chủ quan, phiến diện khi nhận thức về bản chất QCN. Khắc phục được điều này,
học thuyết Mác - Lênin đã đưa ra một quan điểm rất biện chứng về QCN, đó là quan
điểm xem con người với tư cách là sản phẩm của tự nhiên và xã hội. Con người tự
nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh học, tính lồi, đây là tiền đề vật chất đầu
tiên quy định sự tồn tại của con người. Nhưng để phát triển ngày một hoàn thiện hơn
địi hỏi con người khơng ngừng tác động vào tự nhiên, tác động qua lại lẫn nhau làm
biến đổi tự nhiên, biến đổi xã hội và tự làm biến đổi mình. Để đáp ứng u cầu đó,
trước hết địi hỏi con người phải lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất, một khi số
lượng của cải trở nên “dư ăn, dư để” thì tư hữu xuất hiện. Sự xuất hiện chế độ tư hữu

10


về tư liệu sản xuất dẫn đến sự xuất hiện các tầng lớp, giai cấp khác nhau trong xã
hội, từ đó nhà nước ra đời. Cùng với xung đột giai cấp là bước ngoặc trong sự biến
đổi tương quan giữa bản tính tự nhiên và bản tính xã hội của QCN. Trong điều kiện
xuất hiện giai cấp và xung đột giai cấp thì bản tính xã hội trở thành bản tính giai
cấp, bản tính tự nhiên của con người lúc ấy sẽ chịu sự chi phối của giai cấp cầm
quyền trong xã hội. Như vậy, QCN dù là quyền tự nhiên nhưng khơng phải tự nhiên
mà có, nó phụ thuộc vào khả năng hồn thiện, phát triển của chính con người, phụ
thuộc vào sự phát triển của chính lực lượng sản xuất và trình độ phát triển kinh tế xã
hội. Nói cách khác, khơng có xã hội con người thì cũng khơng có khái niệm con
người tồn tại với những quyền nhất định.
Qua phân tích mối quan hệ biện chứng giữa mặt tự nhiên và xã hội của QCN,
chúng ta thấy được QCN có những thuộc tính rất phức tạp và luôn là sự thống nhất
giữa các mặt đối lập. Trên tinh thần đó, hàng loạt các khái niệm về QCN lần lượt
được ghi nhận. Ở cấp độ quốc gia, Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 ghi nhận:

“Quyền con người là quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc”; Hiến pháp
của Cộng hòa Pháp năm 1791 ghi nhận: “Quyền con người là quyền tự do, sở hữu,
được an toàn và được chống lại áp bức” ... Ở cấp độ quốc tế, theo định nghĩa của
Văn phòng Cao ủy Liên hiệp quốc về QCN cho rằng: “Quyền con người là những
bảo đảm pháp lý tồn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại
những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được
phép và quyền tự do cơ bản của con người”. Về mặt pháp lý, QCN bao gồm nhiều
quyền cụ thể được quy định trong từng lĩnh vực cụ thể, được cả cộng đồng quốc tế
ghi nhận và xây dựng các cơ chế bảo vệ. Trong đó, pháp luật là phương thức bảo vệ
hữu hiệu nhất; bởi lẽ chỉ có pháp luật mới có thể chính thức hóa các giá trị xã hội
của QCN, làm cho các quyền của con người trở thành quyền pháp định, trở thành ý
chí chung của xã hội, được xã hội thừa nhận và phục tùng. Tun ngơn tồn thế giới
về QCN năm 1948 cịn gọi là Tun ngơn nhân quyền (Universal Declaration of
Human Rights) đưa ra 30 điều khoản có tính ngun tắc, cụ thể hóa các đặc quyền
của con người và đưa ra trách nhiệm cụ thể của từng quốc gia liên quan đến vấn đề

11


nhân quyền, đặc biệt là trong việc bảo vệ các quyền đó. Các cơng ước của Liên hiệp
quốc về các quyền dân sự, chính trị; về các quyền kinh tế, xã hội -văn hóa năm
1966 khẳng định lại và cụ thể hóa 30 nguyên tắc đó thành các quyền dân sự, chính
trị, kinh tế, xã hội, văn hóa... của từng cá nhân con người cụ thể. Từ những phân
tích trên, tác giả cho rằng “Quyền con người là những giá trị cao quý của nhân loại,
phản ánh những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người,
gắn liền với các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa -xã hội nhất định, được ghi
nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế”.
- Khái niệm bị hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS
Khái niệm người bị hại trong pháp luật Việt Nam đã xuất hiện từ rất sớm, kể
từ khi xuất hiện thủ tục TTHS. Trong khoa học pháp lý về TTHS Việt Nam, người

bị hại là một khái niệm quen thuộc và từ khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực, khái
niệm “bị hại” đã được sử dụng thay cho “người bị hại”.
Tiếp cận theo góc độ ngơn ngữ học, có thể hiểu bị hại là một chủ thể trong xã
hội, bị một hành vi tiêu cực hoặc bất kỳ một sự kiện nào gây ra một thiệt hại. Thiệt
hại đó có thể là những thiệt hại về vật chất hoặc phi vật chất, chẳng hạn như những
tổn thất về tài sản, tổn thương về thể chất hoặc tinh thần. Xét theo văn cảnh, ý nghĩa
của thuật ngữ “bị hại”, chủ thể đó chịu những thiệt hại từ bên ngoài đưa đến một
cách thụ động và trái với mong muốn của chủ thể này. Theo cách tiếp cận này thì
khái niệm bị hại dường như tương đồng với khái niệm “nạn nhân”. Từ điển tiếng
Việt định nghĩa “nạn nhân” là: “người bị tai nạn” hoặc “người, tổ chức gánh chịu
hậu quả từ bên ngoài đưa đến”. Tuy nhiên, xét theo khía cạnh này thì khơng phải
mọi “nạn nhân” đều là “bị hại” [32, tr.1165]. Trong các loại nạn nhân như nạn nhân
của chiến tranh, nạn nhân của thiên tai, nạn nhân bị tai nạn lao động, tai nạn giao
thơng, nạn nhân của tội phạm ... thì nội hàm ngữ nghĩa của bị hại được xác định
nằm trong khái niệm nạn nhân của tội phạm.
Tiếp cận dưới góc độ luật học so sánh cho thấy, bị hại hay người bị hại là
một khái niệm mang tính tương đối trong khoa học pháp lý về TTHS. Tùy theo
truyền thống pháp luật, quan điểm của nhà làm luật qua các thời kỳ mà pháp luật

12


TTHS của mỗi nước sẽ quy định khác nhau về khái niệm bị hại. Có thể nói, bị hại
chỉ là một trong số những chủ thể bị thiệt hại trong TTHS bởi có rất nhiều chủ thể
bị thiệt hại về vật chất lẫn phi vật chất do tội phạm gây ra. Ở các nước có truyền
thống pháp luật Châu Âu lục địa (Civil law) thường xem người bị thiệt hại là nạn
nhân của tội phạm hoặc bên bị thiệt hại, có sự phân biệt giữa bị hại và nguyên đơn
dân sự. Đối với các nước thuộc hệ thống thông luật (Common law), đa phần gọi
chung người bị thiệt hại do tội phạm gây ra là nạn nhân (victim) và quy định các
điều kiện để một chủ thể được công nhận là nạn nhân của tội phạm, đồng thời cũng

không phân biệt các khái niệm khác nhau như người bị hại, nguyên đơn dân sự ...
Ngoài ra, khái niệm bị hại cũng có những quan điểm khác nhau như có quốc gia chỉ
coi bị hại là cá nhân nhưng cũng có quốc gia cho rằng bị hại gồm cả tổ chức, pháp
nhân. BLTTHS Liên bang Nga được thông qua ngày 22 tháng 11 năm 2001 và được
Quốc hội Nga chính thức phê chuẩn ngày 05 tháng 12 năm 2001. Từ đó đến nay,
các quy định trong BLTTHS Liên Bang Nga liên tục được sửa đổi, bổ sung, trong
đó có sửa đổi về khái niệm bị hại và lần sửa đổi gần đây nhất vào ngày 17 tháng 4
năm 2019. Theo Điều 6 BLTTHS Liên bang Nga, một trong ba mục tiêu chính của
TTHS Liên bang Nga là: “bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức,
của người bị thiệt hại do tội phạm gây ra” [16, tr. 15]. Để thực hiện mục tiêu của
TTHS, chế định bị hại trong BLTTHS Liên bang Nga quy định cụ thể về định nghĩa
bị hại cũng như các quyền và nghĩa vụ của bị hại trong quá trình giải quyết VAHS.
Tại Khoản 1 Điều 42 BLTTHS Liên bang Nga quy định về khái niệm bị hại như sau:
“Bị hại là một cá nhân đã chịu thiệt hại về thể chất, tài sản, tinh thần do tội phạm gây
ra, hoặc một pháp nhân trong trường hợp bị thiệt hại về tài sản và uy tín do tội phạm
gây ra” [14]. Như vậy có thể nhận thấy rằng, khái niệm bị hại của BLTTHS Liên
bang Nga bao gồm cá nhân hoặc pháp nhân. Quyền và nghĩa vụ của bị hại là pháp
nhân được thực hiện bởi người đại diện theo khoản 9 Điều 42 BLTTHS Liên bang
Nga. Người đại diện đó có thể là người đứng đầu pháp nhân, người đại diện theo
pháp luật hoặc theo điều lệ pháp nhân, hoặc người đại diện theo ủy quyền. Trong khi
đó, nếu quy định bị hại có thể là cơ quan, tổ chức mà khơng phân biệt là có tư cách

13


pháp nhân hay khơng, rất khó để có thể xác định ai sẽ là người thực hiện quyền và
nghĩa vụ của tổ chức đó trong q trình tố tụng, khi mà tổ chức đó khơng có tư cách
pháp nhân. Ngồi ra, theo BLTTHS Liên bang Nga, cơ quan nhà nước không thể trở
thành bị hại. Bởi lẽ khi tội phạm xâm hại đến lợi ích của nhà nước Liên bang Nga
nghĩa là xâm hại đến lợi ích của tồn xã hội. Do đó, một pháp nhân cơng, được coi là

một phần của Nhà nước Liên bang Nga không được tham gia TTHS với tư cách bị
hại khi bị tội phạm xâm hại.
Trong trường hợp tội phạm gây thiệt hại cho một bang, một thành phố, thì
thiệt hại đó được gây ra cho các lợi ích cơng cộng, do vậy, Nhà nước Liên
bang Nga không phải là đối tượng của tội phạm, cũng không thể được công
nhận là bị hại, kể cả thơng qua Bộ tài chính Liên bang Nga hoặc cơ quan
trực thuộc với vai trò là một pháp nhân. Chỉ có KSV mới được quyền khởi
kiện dân sự để bảo vệ lợi ích của Nhà nước [31, Khoản 3, Điều 44].
Quy định về bị hại không phải là tổ chức có tư cách pháp nhân cũng có điểm
hạn chế là “ảnh hưởng đáng kể đến quyền và lợi ích của các tổ chức trong các tội
phạm xâm phạm lợi ích của công dân, tổ chức trong các tội tại khoản 2 Điều 142, Điều
145.1, Điều 148, Điều 176, Điều 185 của Bộ luật hình sự Liên bang Nga”. Theo đó,
đối với các tội phạm xâm phạm lợi ích của các tổ chức khơng có tư cách pháp nhân
như đã liệt kê, thì tổ chức khơng được cơng nhận là bị hại mà người đứng đầu tổ chức
mới là bị hại. Về thiệt hại, loại thiệt hại mà tội phạm gây ra cho bị hại cũng bao gồm
thể chất, tài sản, tinh thần đối với cá nhân và thiệt hại về tài sản hoặc uy tín đối với
pháp nhân. Trong những trường hợp chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt, nạn
nhân mà tội phạm nhắm đến cũng có thể được công nhận là bị hại.
Dường như trong những tình huống như vậy, ln phải xem xét rằng nạn
nhân của tội phạm đã bị thiệt hại về mặt tinh thần bởi hành vi của tội
phạm đã đe dọa xâm hại đến họ. Đặc biệt, kết luận này được khẳng định
từ thực tế là trong trường hợp tội phạm chưa hồn thành vẫn có thể dẫn
đến khả năng khởi tố VAHS đối với các vụ án tư tố, công - tư tố (chỉ
được tiến hành theo yêu cầu của bị hại) [15, tr.15].

14


Mặc dù BLTTHS Liên bang Nga không đề cập trực tiếp đến việc thiệt hại
gây ra cho bị hại có phải là thiệt hại trực tiếp hay không, nhưng thực tiễn tư pháp

trước khi đưa ra BLTTHS hiện nay của Liên bang Nga được dựa trên giả định rằng
bị hại phải chịu thiệt hại trực tiếp từ tội phạm. Tư pháp hình sự của Nga coi việc
quy tất cả những người bị thiệt hại, thậm chí là gián tiếp từ hành vi phạm tội đều có
tư cách bị hại là khơng thỏa đáng. Do đó, bị hại vẫn chỉ nên được coi là những
người bị thiệt hại trực tiếp bởi tội phạm.
Tiếp cận theo góc độ pháp lý, thuật ngữ “bị hại” được phát triển từ thuật ngữ
“người bị hại”. Đây là hai thuật ngữ khác nhau. Khái niệm “người bị hại” được hiểu
“là người bị thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản do tội phạm gây ra.
Người bị hại chỉ có thể là thể nhân bị người phạm tội làm thiệt hại về thể chất, tinh
thần hoặc tài sản chứ không thể là pháp nhân” [11, tr.198]. Đây là quan điểm đã
từng được coi là chính thống trong khoa học pháp lý Việt Nam. Tuy nhiên, có nhiều
nghiên cứu chỉ ra cần bổ sung một số đặc điểm vào khái niệm người bị hại. Một số
quan điểm cho rằng phạm vi của người bị hại khơng chỉ bao gồm cá nhân mà cịn có cả
cơ quan, tổ chức. Cụ thể, “không nên hiểu máy móc từ “người” trong nghĩa tiếng Việt
mà làm hẹp phạm vi chủ thể được coi là người bị hại chỉ là cá nhân” [13, tr.29 - 37].
Bởi lẽ hành vi phạm tội trên thực tế không chỉ giới hạn ở việc gây thiệt hại cho cá
nhân mà còn hướng tới việc xâm hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức. Những thiệt hại đó khơng chỉ là những tổn thất về tài sản mà trong
nhiều trường hợp còn bao gồm những thiệt hại phi tài sản như uy tín kinh doanh,
thương hiệu của doanh nghiệp ... Nếu cho rằng người bị hại chỉ là cá nhân còn cơ
quan, tổ chức bị thiệt hại bởi tội phạm tham gia quan hệ TTHS với tư cách nguyên
đơn dân sự khi có yêu cầu là chưa thật sự hợp lý và là một sự bất bình đẳng giữa cá
nhân với cơ quan, tổ chức cùng bị thiệt hại do tội phạm gây ra. Đồng thời, việc xác
định người bị hại theo nghĩa rộng bao gồm cả cá nhân lẫn pháp nhân, kể cả tổ chức
khơng có tư cách pháp nhân “sẽ đáp ứng được yêu cầu phòng ngừa tội phạm và đem
lại nhiều khả năng hơn trong việc bảo vệ tài sản của các cơ quan, tổ chức, đặc biệt là
tài sản của nhà nước” [24, tr.18-26]. Do đó việc xác định người bị hại chỉ bao gồm cá

15



nhân hay bao gồm cả pháp nhân, cơ quan, tổ chức là cơ sở để xác định tư cách tham
gia quan hệ tố tụng của họ, từ đó thực hiện những quyền và nghĩa vụ của họ trong
quá trình giải quyết VAHS. Về vấn đề thiệt hại mà bị hại phải chịu, cả về phương
diện khoa học lẫn thực tiễn, đã có bình luận rằng thiệt hại này phải do tội phạm trực
tiếp gây ra hoặc đe dọa gây ra chứ không phải thiệt hại gián tiếp. Các nhà lý luận và
thực tiễn đều căn cứ vào đặc điểm này để phân biệt giữa người bị hại và các chủ thể
khác cũng bị thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra như nguyên đơn dân sự, người có
quyền và lợi ích liên quan, cụ thể theo TS. Lưu Bình Dương thì:
Bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam là cá nhân, cơ quan, tổ
chức trực tiếp bị thiệt hại do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra, giữa
hậu quả của thiệt hại và hành vi phạm tội có mối quan hệ nhân quả với
nhau; loại thiệt hại được gắn liền với từng chủ thể là cá nhân hay tổ chức
(thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản đối với chủ thể là cá nhân; thiệt
hại về tài sản, uy tín đối với chủ thể là cơ quan, tổ chức); bị hại trong tố
tụng hình sự có tư cách pháp lý khi được cơ quan tiến hành tố tụng đối
với vụ án thừa nhận hoặc công nhận và đưa vào tham gia tố tụng đối với
vụ án [9, tr.49].
Đối với loại tội phạm có cấu thành vật chất bắt buộc phải có hậu quả xảy ra
và hậu quả đó thường là thiệt hại về thể chất hoặc vật chất. Trong trường hợp này,
thiệt hại gây ra cho người bị hại phải là những thiệt hại cụ thể, có tính hiện tại và
xác định. Sự thiệt hại không thể cụ thể, chưa xác định hoặc có tính chất mơ hồ, chưa
hoặc sắp xảy ra. Sự thiệt hại đó phải là thiệt hại trực tiếp, do chính tội phạm gây ra.
Cịn đối với loại tội phạm có cấu thành hình thức, người có nguy cơ bị xâm hại
cũng được gọi là người bị hại, người bị hại phải được coi là bất kỳ người nào khi
mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ là khách thể của tội phạm cho dù tội phạm đó
chưa hồn thành do những nguyên nhân khách quan, ngoài ý muốn của họ. Quan
điểm này đã trở thành một quan điểm chính thống trong khoa học pháp lý TTHS
của Việt Nam. Những nghiên cứu này đã đặt ra nền tảng để xây dựng thuật ngữ “bị
hại”, theo đó, phạm vi của khái niệm này mở rộng hơn khái niệm người bị hại ở chỗ


16


bị hại ngồi cá nhân cịn bao gồm cả pháp nhân và cơ quan tổ chức, đồng thời bổ
sung thêm điều kiện về thiệt hại trực tiếp đối với bị hại. Nội dung này đã được đưa
vào quy định của BLTTHS năm 2015 của Việt Nam. Trong khoa học pháp lý cũng
như luật thực định của Việt Nam và Liên Bang Nga đều quy định một chủ thể chỉ
được xem là bị hại khi chủ thể đó bị thiệt hại trực tiếp từ hành vi phạm tội, nghĩa là
thiệt hại đó phải có mối quan hệ nhân quả trực tiếp với hành vi phạm tội. Ngoài ra,
BLTTHS 2015 của Việt Nam cũng cho phép nếu một cá nhân bị hành vi phạm tội
đe dọa gây thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc cơ quan, tổ chức bị hành vi
phạm tội đe dọa gây thiệt hại về tài sản, uy tín thì chủ thể đó cũng có thể được xem
là bị hại. Một vụ việc được xem là VAHS khi nó có xảy ra hành vi đã vi phạm pháp
luật hình sự và gây thiệt hại cho nhà nước, tổ chức, cá nhân hoặc xã hội. Tuy nhiên,
thực tế có những VAHS khơng có bị hại như tội gây rối trật tự công cộng, tội không
tố giác tội phạm ... dù những tội phạm này cũng có thể gây thiệt hại đối với một số
chủ thể nhất định. Những chủ thể bị thiệt hại được phát sinh gián tiếp từ hành vi
phạm tội hoặc thiệt hại gián tiếp từ một thiệt hại trực tiếp do hành vi phạm tội gây
ra đều không được công nhận là bị hại. Lúc này, họ chỉ có thể tham gia vào q
trình tố tụng với tư cách là nguyên đơn dân sự nếu có yêu cầu về bồi thường thiệt
hại. Dựa trên quan điểm này, BLTTHS 2015 của Việt Nam định nghĩa bị hại là cá
nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc cơ quan, tổ chức bị
thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra. Như vậy, bị hại
khác với các chủ thể cũng bị thiệt hại khác ở chỗ thể chất, tinh thần, tài sản, các
quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại chính là đối tượng gây thiệt hại của tội phạm,
là cái mà tội phạm mong muốn tác động đến để thông qua đó đạt được mục đích của
hành vi phạm tội. Nhận thức và phân biệt rõ khái niệm giữa bị hại với những chủ
thể bị thiệt hại khác có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định tư cách của bị hại
trong TTHS. Tuy nhiên để được xem là bị hại thì ngồi việc bị thiệt hại trực tiếp do

tội phạm gây ra, chủ thể đó cịn phải được cơ quan có thẩm quyền giải quyết VAHS
cơng nhận là bị hại.

17


Tiếp cận dưới góc độ thực thi quyền, tác giả Đinh Thị Mai cho rằng:
Nghiên cứu về người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam theo cách
tiếp cận dựa trên quyền là cách tiếp cận trong đó khơng chỉ quan tâm đến
mục tiêu người bị hại (khái niệm người bị hại), người bị hại có những
quyền gì (địa vị pháp lý của người bị hại) mà còn phải quan tâm thích
đáng tới: quyền của người bị hại là gì. Chủ thể của quyền và nghĩa vụ
thực hiện quyền, và quy trình, cách thức làm sao để người bị hại thực thi
được trên thực tế những quyền đó (cơ chế thực thi quyền) [15, tr.22].
Như vậy theo quan điểm trên khái niệm người bị hại không chỉ là “người bị
tội phạm gây thiệt hại”, mà còn lại một chủ thể của quan hệ pháp luật hình sự, quan
hệ pháp luật TTHS, mặc khác đây còn là “chủ thể của quyền con người trong tư
pháp hình sự” [30]. Tác giả Đinh Thị Mai đã đưa ra khái niệm người bị hại dựa trên
góc độ thực thi quyền như sau: “Người bị hại là thể nhân hoặc pháp nhân bị tội
phạm gây thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản và có các quyền, nghĩa vụ pháp lý
được bảo đảm thực hiện theo quy định của luật hình sự và luật tố tụng hình sự Việt
Nam” [16, tr.35]. Như vậy với tiếp cận trên đã chỉ rõ được chủ thể mang quyền, chủ
thể có nghĩa vụ thực thi quyền so với cách tiếp cận thông thường là chỉ nêu rõ được
chủ thể mang quyền có những quyền gì, quy định tại đâu, như thế nào nhưng không
chỉ rõ được cơ quan nào, ai là người có nghĩa vụ bảo đảm thực thi các quyền đó. Vì
vậy, việc tiếp cận theo góc độ trên sẽ ràng buộc các cơ quan tiến hành tố tụng có
nghĩa vụ trong việc cũng như trách nhiệm như thế nào nhằm đảm bảo thực thi
quyền của người bị hại trên thực tế thì có quyền của người bị hại khơng chỉ có giá
trị trên giấy (tức là được quy định) mà cịn có giá trị trên thực tế. Mặc dù trong một
nghiên cứu của mình, tác giả Đinh Thị Mai cho rằng việc sử dụng thuật ngữ “người

bị hại” nhưng trong nội hàm khái niệm trên đã xác định bị hại là “thể nhận, hoặc
pháp nhân bị tội phạm gây thiệt hại”, như vậy vẫn phù hợp với lý luận khoa học
hình sự hiện nay.
Tiếp cận dưới góc độ pháp luật thực định, khái niệm người bị hại lần đầu
tiên xuất hiện trong pháp luật thực định nước ta trong Thông tư số 16/TATC ngày

18


27/9/1974 của Tịa án nhân dân tối cao. Theo thơng tư này, người bị hại là “công
dân đã bị kẻ phạm pháp trực tiếp xâm hại đến thể chất, tài sản, hoặc xâm phạm về
tinh thần (như bị lăng nhục, đánh, giết, trộm cắp, lừa đảo...)”. Không những thế,
pháp luật thời kỳ này còn ghi nhận khái niệm người bị hại với phạm vi rộng hơn:
“Người đã can thiệp để ngăn cản bị cáo đánh, giết người khác nhưng bản thân cũng
bị kẻ phạm pháp gây thương tích hoặc người có nhà cửa bị cháy vì bị cáo đốt nhà
của người khác nhưng đám cháy lan sang nhà của họ, cũng là người bị xâm hại
trực tiếp đến thể chất, tài sản”. Như vậy mặc dù ghi nhận chủ thể khá hẹp, chỉ là
“công dân” nhưng quan niệm về phạm vi người bị hại trong thời gian này lại khá
rộng và chưa được xác định rõ ràng để phân biệt với các chủ thể khác cũng bị thiệt
hại bởi hành vi phạm tội. Mặc dù vậy, khái niệm này là nền tảng cơ sở để xây dựng
các quy định sau này về địa vị pháp lý của người bị hại.
Tiếp đó, BLTTHS năm 1988 và sau này là BLTTHS năm 2003 đã ghi nhận
về khái niệm người bị hại theo hướng: “người bị hại là người bị thiệt hại về thể
chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra”. Theo đó, người bị hại được hiểu chỉ
bao gồm cá nhân là một con người cụ thể bao gồm cả cơng dân Việt Nam, người
nước ngồi, người khơng quốc tịch chứ không bao gồm cả cơ quan, tổ chức. Cá
nhân đó đang tồn tại vào thời điểm bị thiệt hại hoặc bị đe dọa gây thiệt hại, các loại
thiệt hại mà người bị hại phải chịu bao gồm thiệt hại về thể chất, thiệt hại về tinh
thần và thiệt hại về tài sản, nguyên nhân của thiệt hại là do tội phạm gây ra. Mặc dù
đã bỏ dấu hiệu “bị thiệt hại trực tiếp”, quy định này của BLTTHS năm 2003 đã làm

cho khái niệm người bị hại trở nên nhất quán hơn so với trước khi có BLTTHS năm
1988. Những quy định về người bị hại của cả hai BLTTHS đã xác lập địa vị pháp lý
cho người bị hại với tư cách là chủ thể có quyền và nghĩa vụ trong quá trình tố tụng,
tham gia tranh tụng để bảo vệ quyền và lợi ích của mình chứ không chỉ đơn giản là
một chủ thể tham gia tố tụng với vai trị cung cấp thơng tin như trước. BLTTHS
năm 2015 được ban hành với nhiều quy định tiến bộ với nhiều quy định là kết quả
của việc tiếp thu, học tập kinh nghiệm lập pháp của pháp luật các quốc gia trên thế
giới, trong đó có BLTTHS Liên bang Nga. Khoản 1 Điều 62 BLTTHS năm 2015

19


×