Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Phân tích các bài bình luận báo chí trên cơ sở lý thuyết lập luận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.47 KB, 90 trang )

Mục lục
Trang
5. Ph ơng pháp nghiên cứu ............................................................................. 7
6. Cấu trúc luận văn ....................................................................................... 7
Một số khái niệm có liên quan đến đề tài ............................................. 9
Danh mục tài liệu tham khảo .............................................................. 87
Mở đầu
1. Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài
1.1. Lịch sử phát triển của hệ thống thể loại báo chí cho thấy những bài
bình luận thờng giữ vai trò quan trọng trong việc định hớng d luận xã hội.. Nó
là thể loại không thể thiếu trong việc giáo dục t tởng chính trị cho quần chúng,
hớng dẫn cách nhìn nhận và đánh giá thông tin. Vì vậy, mỗi tờ báo thờng có
những chuyên mục bình luận riêng và những nhà báo làm công tác bình luận
chuyên nghiệp. Nhiều tác phẩm bình luận báo chí trong những giai đoạn lịch sử
nhất định đã lý giải thành công các hiện tợng xã hội, thay đổi cách nhìn của
công chúng và dự báo đợc các chiều hớng vận động của đời sống xã hội. Trong
một thế giới hiện đại, trong một xã hội bùng nổ thông tin với nhiều biến động
và sự phát triển nh vũ bão của các loại hình truyền thông thì bình luận lại càng
trở nên quan trọng và cần thiết cho đời sống. việc thẩm định, phân tích, đánh
giá các sự kiện, vấn đề, từ đó tìm ra bản chất, tác động của chúng đã trở thành
đòi hỏi bức thiết của công chúng đối với báo chí.
1
1.2. Mỗi một thể loại báo chí đều có những nét đặc trng riêng gọi là đặc
trng loại hình. Đặc trng về ngôn ngữ, cách khai thác thông tin, dung lợng... quy
định sự khác biệt về hình thức thể hiện, cách thức chuyển tải thông tin và đặc
biệt là quy định sự khác nhau trong cách viết loại bài bình luận. Bài bình luận
vừa dựa trên những cơ sở chung nhất nhng lại là một sản phẩm mang dấu ấn cá
nhân. Văn chính luận thờng khô khan, dập khuôn, công thức. Tạo đợc bản sắc
riêng trong viết bình luận là rất khó. Làm cho bài viết trở nên hấp dẫn, sinh
động, lôi cuốn ngời đọc lại là điều khó hơn. Sức hấp dẫn của bài bình luận
không nằm ở chi tiết giật gân, ly kỳ mà chính là ở luận cứ, ở cách phân tích, mổ


xẻ vấn đề một cách lôgíc, mới mẻ, đem lại cho
ngời đọc những thông tin mới, nhận thức mới. Nếu ngôn ngữ là phơng tiện thể
hiện thì lập luận chính là sơng sống, là yếu tố cốt lõi quyết định sự thành công
và cá tính sáng tạo của mỗi nhà báo trong thể loại bình luận. Lập luận là sợi chỉ
đỏ đảm bảo tính mạch lạc về nội dung bên cạnh tính liên kết về hình thức của
văn bản.
1.3. Là thể loại trụ cột trong nhóm báo chí chính luận, bình luận đang
ngày càng đóng vai trò quan trọng khi các tờ báo thờng dành những trang, mục
có vị trí trang trọng, bắt mắt để đăng tải các bài viết này. Tính chất và vị trí đặc
biệt của bài bình luận trong hệ thống thể loại báo chí chính luận đặt ra những
yêu cầu và đòi hỏi cao đối với các nhà báo viết loại bài này. Thực tiễn báo chí
chỉ ra rằng những cây bút viết bình luận xuất sắc thờng là những ngời có kiến
thức sâu rộng, hiểu biết sâu sắc về nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội
từ kinh tế, chính trị đến văn hoá- xã hội và cả thế giới tinh thần phong phú, phức
tạp của con ngời. Những bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong năm tháng
kháng chiến dành độc lập dân tộc, những bài bình luận chính trị sắc sảo của nhà
báo lão thành Hoàng Tùng cho đến loại bài bình luận ngắn, sâu sắc, hàm chứa
của Hữu Thọ, Chu Thợng, là kho t liệu đồ sộ để các thế hệ nhà báo sau này
học tập về phơng pháp thu thập và xử lý thông tin; cách phân tích, đánh giá, kết
2
luận vấn đề một cách xác đáng. Nghiên cứu cách viết bình luận ở những cây bút
nổi tiếng này sẽ cho chúng ta nhiều kiến thức, kinh nghiệm khi muốn tạo ấn t-
ợng với độc giả ở một thể loại báo chí quan trọng và khắt khe này.
Chính từ nhận thức về tầm quan trọng của lập luận trong cách viết bình
luận, xuất phát từ lý luận ngôn ngữ và thực tế báo chí, chúng tôi chọn Phân
tích các bài bình luận báo chí trên cơ sở lý thuyết lập luận ( Qua những bài
bình luận của các nhà báo: Hữu Thọ, Chu Thợng và Quang Lợi) làm đề tài
nghiên cứu cho luận văn của mình.
3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Hình thức đơn giản đầu tiên trong thao tác t duy con ngời thể hiện thái độ
khen, chê trớc một sự kiện, hiện tợng, vấn đề của cuộc sống là nguồn gốc của
bình luận. Và sự đánh giá có thể coi là dấu hiệu đầu tiên của hoạt động t duy
bình luận.
Theo nhiều tài liệu về lý luận báo chí trên thế giới thì bình luận xuất hiện
từ nửa đầu thế kỷ XIX ở Anh và Pháp với tác dụng soi sáng và giải thích một
sự kiện, một vấn đề hoặc một hiện tợng xã hội nào đó [ 1, tr. 96]. Ngay từ khi
mới ra đời, bình luận đã đợc các chủ báo khuyến khích vì nó đem lại cho công
chúng những tri thức mới ẩn chứa đằng sau những tin tức, sự kiện và qua sự giải
thích, phân tích, nó tác động, ảnh hởng đến cách suy nghĩ của ngời đọc. Do báo
chí Việt Nam ra đời muộn nên cũng giống nh nhiều thể loại báo chí khác, bình
luận xuất hiện trên các ấn phẩm định kỳ khi đã là một thể loại hoàn chỉnh.
Lịch sử báo chí nớc ta từng chứng kiến nhiều cách gọi khác nhau trớc khi
đi đến thống nhất tên gọi bình luận cùng với quan niệm đầy đủ về những đặc tr-
ng của thể loại này nh hiện nay. Ví dụ năm 1961, Hội Nhà báo Việt Nam dùng
khái niệm ngôn luận của báo; năm 1974 một số dịch giả ngời Việt dịch từ
tiếng Nga là luận văn. Đến năm 1978, các tác giả cuốn sách Giáo trình
nghiệp vụ báo chí của trờng Tuyên huấn Trung ơng gọi loại bài này là bình
luận trên báo. Sau này, trong cuốn sách Nghề nghiệp và công việc của nhà
báo, tác giả bài Bình luận trên báo chí đã trình bày quan niệm nh sau:
Bài bình luận là một thể loại của báo chí, nhiệm vụ của nó là diễn đạt t tởng của
toà soạn về một vấn đề thời sự hoặc một sự kiện, nghĩa là làm cho độc giả hiểu
đợc mối quan hệ đó theo một quan điểm nhất định và từ sự đánh giá đó rút ra đ-
ợc kết luận có tính chất chính trị [ 12, tr. 241]. Hiện nay, báo chí Việt Nam đã
có cách gọi thống nhất là thể loại bình luận.
Do tính thời sự và sự hấp dẫn của loại bài này nên so với các thể loại
chính luận khác, bình luận xuất hiện nhiều hơn trên mặt báo đặc biệt là trong
4
mấy năm trở lại đây. Nếu nh trớc đổi mới, bình luận là những bài viết lớn phân
tích, đánh giá những vấn đề quan trọng của đất nớc nh: chính sách cải cách giáo

dục, việc phân chia ruộng đất ở nông thôn, công tác tuyên truyền, cổ động thu
thuế... thì nay, loại bài này ít đợc báo chí sử dụng. Thay vào đó là những bài
bình luận ngắn, nhanh gọn, bắt kịp với những sự kiện nóng bỏng đang diễn ra
hàng ngày. Những năm 1980, 1990, bình luận chủ yếu xuất hiện trên các tờ báo
chính trị lớn nh Nhân dân, Quân đội nhân dân, Lao động thì mấy năm trở lại
đây, từ báo trung ơng đến địa phơng, báo ngành, báo tuần hay nhật báo đều có
mục bình luận. Dới những tiêu đề: Sự kiện và Bình luận, Cùng bàn luận, Thời sự
và suy nghĩ, Theo dòng thời sự hay Vấn đề hôm nay, Mỗi ngày một ý kiến, Mỗi
tuần một ý kiến các bài bình luận xuất hiện thờng xuyên, ổn định và rất hấp
dẫn độc giả.
Đã có rất nhiều khoá luận tốt nghiệp, luận văn cao học và cả luận án tiến
sĩ nghiên cứu, tìm hiểu thể loại bình luận báo chí với các đề tài về ngôn ngữ
bình luận, nghệ thuật bình luận, cá tính sáng tạo của nhà báo khi viết bài bình
luận, bình luận quốc tế trên báo Quân đội nhân dân, sự phát triển của loại bài
bình luận ngắn trên báo chí hiện nay. nhng hiếm có ngời viết nào lại đi sâu
nghiên cứu cách lập luận- yếu tố đợc coi là then chốt và quyết định sự thành
công trong thể loại báo chí này. Ngay cả với những sinh viên, học viên ở các
chuyên ngành về ngôn ngữ thì lý thuyết lập luận cha đợc tìm hiểu, vận dụng
nhiều trong khi phân tích các bài báo
Trong khi lý luận báo chí và thực tiễn nghiên cứu cho thấy bình luận mới
chỉ đợc xem xét ở góc độ thể loại chứ ít đề tài nào đi sâu phân tích yêú tố lập
luận thì trong ngôn ngữ học thế giới, lập luận vẫn còn là một lĩnh vực mới. ở
Việt Nam, cho đến trớc năm 1993, lý thuyết lập luận còn lạ lẫm đối với Việt
ngữ học, kể cả những nhà nghiên cứu quan tâm đến ngữ dụng học. Chính vì
vậy, đi sâu tìm hiểu lý thuyết lập luận để trên căn cứ đó áp dụng phân tích các
bài bình luận báo chí là mục đích của luận văn này. Xác định Phân tích các bài
5
bình luận báo chí trên cơ sở lý thuyết lập luận là một hớng đi mới mẻ, một
cách tìm hiểu sâu và có tính hệ thống về thể loại này, chúng tôi đã chọn đề tài
này cho luận văn của mình với mong muốn góp phần công sức nhỏ bé khám

phá những đặc sắc và sáng tạo trong cách lập luận của các nhà báo: Hữu Thọ,
Chu Thợng và Quang Lợi- những nhà báo đã thành danh ở thể loại này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.Mục đích nghiên cứu
- Về lý thuyết: Chúng tôi sẽ đi sâu tìm hiểu thể loại bình luận ở góc độ báo
chí học và chỉ ra vai trò, vị trí của lập luận trong loại bài này. Bên cạnh đó, trên cơ
sở vận dụng lý thuyết lập luận của ngôn ngữ học, ngời viết phân tích cấu trúc, các
thành phần làm nên lập luận và đặt chúng trong kết cấu bài bình luận.
- Về thực tiễn: Đi sâu khám phá cách lập luận khi viết bài bình luận ở 3
tác giả: Hữu Thọ, Chu Thợng và Quang Lợi để chứng minh rằng: lập luận là yếu
tố then chốt trong thể loại này. Nó là xơng sống, cấu trúc và làm nên hệ thống
thông tin lý lẽ trong bài bình luận.
Có thể nói, trong phạm vi luận văn này, từ phân tích, đánh giá, so sánh
cách lập luận của Hữu Thọ, Chu Thợng và Quang Lợi; chúng tôi muốn hệ thống
hoá và đa ra những nhận định chung, rút ra đặc trng lập luận và khái quát nó
thành các cấu trúc, mô hình trong bài bình luận
3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trong luận văn này, bằng những kiến thức về ngôn ngữ học và lý luận báo
chí, ngời viết sẽ cố gắng đi sâu phân tích cách lập luận trong bài bình luận báo chí
để chỉ ra những đặc trng, sáng tạo trong cách viết thể loại này; sự cần thiết và yêu
cầu chú trọng, đầu t cho nội dung này khi bình luận báo chí.
- Chúng tôi sẽ đi sâu tìm hiểu bản chất, cách kết cấu các thành phần
trong một lập luận, đặc tính của quan hệ lập luận xét trên phơng diện ngôn ngữ
6
học từ đó vận dụng vào việc phân tích các bài bình luận báo chí, chỉ ra cách lập
luận vấn đề khi viết một bài bình luận, nghệ thuật lập luận sao cho bài bình luận
đạt hiệu quả thông tin cao nhất.
4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tợng nghiên cứu của đề tài là lý luận về thể loại bình luận báo chí
và lý thuyết lập luận của ngôn ngữ học.

- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là hơn 300 bài bình luận đợc tập hợp và
in trong 3 cuốn: Bản lĩnh Việt Nam ( của Hữu Thọ), Chiếc roi trong tâm tởng (
của Chu Thợng) và ẩn số thời cuộc của Quang Lợi
5. Phơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, để phân tích các bài bình luận báo chí trên cơ sở lý
thuyết lập luận, dựa trên nguồn t liệu là hơn 300 bài bình luận báo chí, chúng
tôi dùng các phơng pháp sau đây:
- Tìm hiểu lý thuyết lập luận của ngôn ngữ học từ đó vận dụng vào việc
phân tích các bài bình luận báo chí
- Phân tích, rút ra đặc trng trong cách lập luận khi viết bình luận của 3
nhà báo: Hữu Thọ, Chu Thợng và Quang Lợi.
- Chỉ ra vai trò, mối quan hệ giữa lập luận với các yếu tố khác trong nghệ
thuật viết bài bình luận báo chí.
Các thao tác trên đây xuất phát từ góc nhìn của ngời tiếp nhận thông tin
báo chí.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Mục lục và Phụ lục,
luận văn gồm có 3 chơng:
Chơng I : Một số khái niệm có liên quan đến đề tài
7
Chơng II: Thử nghiệm ứng dụng lý thuyết lập luận vào việc phân tích
các bài bình luận ( qua tác phẩm của ba nhà báo: Hữu Thọ, Chu Thợng và
Quang Lợi)
Chơng III: Vai trò then chốt và những đặc sắc rút ra từ cách lập luận
trong loại bài bình luận báo chí
8
Chơng I
Một số khái niệm có liên quan đến đề tài
Chơng I của luận văn sẽ tập trung trình bày những khái niệm cần thiết có
liên quan đến lý luận về thể loại bình luận báo chí và lý thuyết lập luận của

ngôn ngữ học. Cụ thể, ngời viết sẽ trình bày đặc điểm của loại bài bình luận báo
chí cũng nh hình thức, đặc trng của lập luận trong các bài bình luận.
1.1. Bình luận
1.1.1. Quan niệm về bài bình luận
Bình luận đợc xem xét ở hai góc độ. Một là xem xét bình luận với ý
nghĩa nh một phơng pháp (cách đánh giá bàn luận về một sự kiện, hiện tợng,
một vấn đề nào đó để đi đến sự nhận thức đầy đủ và sâu sắc về vấn đề đó và
những điều do vấn đề gợi ra) đợc sử dụng trong tất cả các hình thức đăng tải nh
trong tin vắn- dới dạng trích dẫn ý kiến của ngời khác; trong bản tin, xã luận, ký
sự, tổng quan điểm báo. Thứ hai là xem xét bình luận với t cách là một thể loại
báo chí chính luận, mang tính chất tổng hợp, trong đó bao gồm các yếu tố giải
thích, phân tích và có khi cả chứng minh.
Trong cuốn Lý thuyết và thực hành báo chí Xô Viết, E. P. Prôkharốp
có viết Giúp bạn đọc hình thành bức tranh tổng thể của đời sống xã hội từ
những t liệu riêng lẻ trên báo chí là một trong những nguyên nhân làm xuất hiện
thể loại bình luận. Một bài bình luận không chỉ dừng lại ở sự bàn luận, đánh giá
một sự kiện của cuộc sống mà phải từ nhiều sự kiện riêng lẻ, tác giả phải hình
thành đợc bức tranh tổng thể của đời sống xã hội hiện tại. Mặt khác, trên cơ sở
đó phải giúp cho công chúng nhận thức đầy đủ và chính xác về nhiều vấn đề
của quá khứ và hiện tại, biết cách đánh giá thực tế khách quan, hiểu đợc vị trí
của mình để từ đó có hành động cần thiết vì mục tiêu xây dựng cuộc sống ngày
một tốt đẹp hơn [15, tr. 89]. Nh vậy một bài bình luận hoàn chỉnh không chỉ
dừng lại ở sự bàn luận, đánh giá một sự kiện của cuộc sống mà phải từ nhiều sự
9
kiện riêng lẻ hình thành đợc bức tranh tổng thể của đời sống xã hội từ đó giúp
công chúng nhận thức đầy đủ và chính xác về bản chất của sự kiện, hiện tợng
đó.
Còn Karel Storkan thì quan niệm Bình luận là thể loại cơ bản của luận
văn báo chí. Trong đó, tác giả luôn nhằm trình bày với bạn đọc quan điểm của
họ về sự kiện có tính chất thời sự và nhằm thuyết phục bạn đọc rằng quan điểm

này là đúng đắn [ 1, tr. 45]. ở đây, tác giả đề cao nhận xét chủ quan của nhà
báo. Trong bài bình luận, ngời viết phải đa ra những quan điểm, nhận định của
mình về sự kiện, vấn đề để chứng minh quan điểm của mình là đúng rồi từ đó
định hớng d luận quần chúng. Bàn về thể loại này, tác giả Trần Thế Phiệt trong
cuốn Tác phẩm báo chí ( tập 3) cho rằng Bình luận là một kiểu bài nghị
luận mang tính chất tổng hợp trong đó bao gồm các yếu tố giải thích, phân tích
và có khi có cả chứng minh [ 17, tr. 95]. Theo quan niệm của tác giả thì bài
bình luận đợc viết theo phơng pháp nghị luận mang tính chất tổng hợp. Trên cơ
sở nắm bắt sự kiện, ngời viết phải đồng thời sử dụng các yếu tố: giải thích, phân
tích, chứng minh, đánh giá, bàn luận rồi đi đến mục đích cuối cùng là nhằm
thuyết phục ngời đọc. Trần Thế Phiệt cũng nhấn mạnh: muốn bình luận có sức
chiến đấu cao, tính thuyết phục lớn thì tác giả phải hiểu sâu sắc sự kiện, không
xét chúng là những sự kiện đơn lẻ mà phải đặt chúng trong những mối quan hệ
tổng hợp từ đó mới có thể nắm chắc bản chất của sự kiện để nhận định một cách
chính xác nhất.
Nhóm tác giả của Hội Nhà báo Việt Nam lại đề cao đến chức năng dẫn
dắt, định hớng t tởng cho công chúng của bài bình luận trên cơ sở đó khái quát
Bình luận là một thể loại báo chí, nhiệm vụ của nó là diễn đạt t tởng của toà
soạn về một vấn đề thời sự hoặc một sự kiện, nghĩa là làm cho độc giả hiểu đợc
mối quan hệ đó theo một quan điểm nhất định và từ sự đánh giá đó rút ra đợc
kết luận có tính chất chính trị [ 12, tr. 89].
10
Có thể nói, hầu hết các tác giả khi đa ra quan niệm về thể loại bình luận
đều thống nhất nhau ở đặc điểm nổi trội và cũng là điểm mạnh nhất của loại bài
bình luận nói riêng, thể loại bình luận nói chung đó là thông tin lỹ lẽ. Bài bình
luận dù có đề cập đến những sự kiện nóng hổi, đợc công chúng quan tâm song
nếu thiếu những thông tin lý lẽ sắc sảo để bàn luận về vấn đề đó thì cũng không
thể gọi là một bài bình luận.
Ngày nay, chúng ta đang sống trong thế giới của công nghệ truyền thông
với những thông tin hấp dẫn, đang dạng, nhiều chiều. Trình độ học vấn và tri

thức đợc nâng cao, công chúng không chỉ tiếp nhận các tác phẩm báo chí một
cách thụ động mà còn có khả năng đánh giá và thẩm định tác phẩm đó. Điều
này đồng nghĩa với việc bài bình luận giờ đây không thể đơn thuần chỉ là những
ý kiến, quan điểm chủ quan của tác giả. Sự kiện hoặc vấn đề đa ra bình luận
phải là những sự kiện, vấn đề công chúng đang quan tâm và cần có sự định h-
ớng t tởng. Các bài báo thờng đa ra những gợi mở để ngời đọc tự nhận định vấn
đề. Bình luận có định hớng nhng không mang tính áp đặt. Từ những phân tích
và nhận xét trên đây, chúng tôi đi đến quan niệm: Bình luận là một thể loại
báo chí thuộc nhóm chính luận, trong đó tác giả sử dụng hệ thống thông tin lý
lẽ của mình để giải thích, phân tích những vấn đề có ý nghĩa chính trị, xã hội
rồi từ đó đi đến nhận định, đánh giá về vấn đề đó hoặc có thể để công chúng
tự đánh giá.
1.1.2. Các dạng bình luận
Do có nhiều cách hiểu, nhiều quan niệm khác nhau về thể loại bình luận
nên cũng có nhiều cách phân chia khác nhau. Nhóm tác giả Hội Nhà báo Việt
Nam trong cuốn Nghề nghiệp và công việc của nhà báo chia bình luận
thành các dạng bài:
- Loại bài Bình luận ngắn
- Loại bài Bình luận trong ngày
11
- Loài bài Bình luận trong tuần và bài Bình luận phê bình trong tuần
- Bài bình luận mang tính chất bút chiến và tính chất giải thích.
Nhóm tác giả này đã căn cứ trên sự phong phú, đa dạng của chủ đề và sự
phân biệt của từng chức năng để phân chia thành các dạng bài bình luận khác
nhau. Tuy nhiên, cách phân chia này cha thật khoa học, dễ bị trùng hợp. Ví dụ
nh ngay trong bản thân bài Bình luận bút chiến đã là những bài Bình luận ngắn,
hay nh Bình luận trong ngày, trong tuần đã là những bài giải thích, phân tích
rồi
Trần Thế Phiệt [17, tr. 56] có cách phân chia mang tính khoa học hơn đó
là dựa vào những tiêu chí cụ thể để chia thành các dạng bài:

- Dựa theo tiêu chí thời gian:
+ Bình luận ngắn
+ Bình luận trong ngày
+ Bình luận trong tuần
- Dựa trên phơng pháp thể hiện:
+ Bình luận có tính chất giải thích
+ Bình luận bút chiến
- Dựa trên nội dung bài viết:
+ Bình luận sự kiện
+ Bình luận vấn đề
Thực tế cho thấy những sự phân chia này chỉ mang tính chất tơng đối bởi
giữa các thể loại, các dạng bài luôn có sự co giãn, đan xen lẫn nhau. Trên cơ sở
tìm hiểu, nghiên cứu lý luận và thực tiễn báo chí, căn cứ theo thời gian, dung l-
ợng, chúng tôi chia thành 2 loại: Bình luận ngắn, bình luận dài ( Bình luận
chuyên sâu). Bài bình luận ngắn chỉ cần vài trăm từ, dẫn ra một sự kiện, một lời
phát biểu là ngời viết có thể đa ra nhận định của mình: tán thành hoặc bác bỏ.
Dạng bài này xuất hiện nhiều trong các chuyên mục bình luận của các tờ báo
12
nh: Thanh niên, Tuổi trẻ, Nhân dân, Lao động Bài bình luận dài thờng tập
trung vào những vấn đề, sự kiện đang gây xôn xao d luận, cần có sự định hớng
t tởng; hoặc từ nhiều sự kiện có liên quan đến nhau, ngời viết tổng hợp, phân
tích rồi đi đến kết luận về một vấn đề.
Căn cứ vào nội dung có 2 loại: Bình luận trong nớc, bình luận quốc tế.
Trong mỗi dạng bình luận trong nớc hay quốc tế lại có những dạng bài cụ thể
nh: Bình luận về chính trị- xã hội, Bình luận quân sự, Bình luận kinh tế- xã hội,
Bình luận văn hoá- thể thao Căn cứ vào phơng pháp thể hiện cũng có thể chia
thành 2 dạng sau: Bài bình luận giải thích, bình luận bút chiến. Các bài bình
luận mang tính giải thích thờng đi sâu phân tích các chủ trơng, chính sách của
Đảng, Nhà nớc hoặc các hiện tợng tích cực trong đời sống xã hội. Trong bài
bình luận bút chiến, ngời viết thờng đi từ những quan điểm, ý kiến tiêu cực,

phân tích, bác bỏ, phủ nhận các quan điểm đó đồng thời rút ra cái tích cực. Bài
bình luận bút chiến phải có tính chiến đấu cao và thờng là để đấu tranh với quan
điểm của các nhà chính trị đối lập, vạch trần âm mu, thủ đoạn của các thế lực
phản động, thù địch
Hiện nay, báo chí sử dụng rất nhiều hình thức bình luận và phạm vi
nghiên cứu của mỗi bài bình luận cũng rất đa dạng. Có những bài bình luận chỉ
dừng lại ở mức xem xét một sự kiện nhỏ, riêng lẻ nào đó trong đời sống xã hội
nh việc đánh giá hành vi của một cá nhân cụ thể nào đó là tốt hay không tốt.
Cũng có khi nhà báo sử dụng bài bình luận để đánh giá, bàn luận về một sự kiện
nhng sự kiện này đã đợc thông báo trên các phơng tiện thông tin đại chúng. Ng-
ời viết trình bày quan điểm của toà soạn hay của chính mình về sự kiện đó hoặc
từ sự kiện đó liên hệ đến những sự kiện hay vấn đề khác. Đây là loại bài mà các
nhà nghiên cứu và giới báo chí gọi là bình luận ngắn vì đề tài mà nó đề cập
không lớn, dung lợng chỉ từ 250 đến 400 từ. Tính chất hớng dẫn nhận thức và
hành động trong bài này thể hiện rõ.
13
1.1.3. Đặc trng của thể loại bình luận
Cuốn sách Các thể loại báo chí (nxb Thông tấn) [ 13, tr. 48] đã làm
nổi bật đặc điểm của bình luận thông qua việc nêu lên những mục tiêu mà thể
loại bình luận hiện nay theo đuổi:
+ Hớng sự chú ý của bạn đọc vào những sự kiện mới quan trọng, nổi lên
hàng đầu trong đời sống xã hội, đánh giá chúng.
+ Đặt sự kiện đợc bình luận trong mối liên hệ với những sự kiện khác,
phát hiện nguyên nhân của sự kiện đó.
+ Hình thành dự báo phát triển của sự kiện đợc bình luận.
+ So sánh, thờng với sự trợ giúp của các ví dụ, những cách thực hành xử
và giải quyết cần thiết cho bài toán.
Trần Quang trong cuốn Các thể loại báo chí chính luận [ 16, tr. 78]
đã đa ra những nhận xét chủ yếu về thể loại này:
- Bài bình luận là một tác phẩm đặc sắc dùng để tái tạo bức tranh toàn

cảnh về một vấn đề nào đó trong đời sống xã hội. Cơ sở chính của bài bình luận
là các sự kiện, chi tiết điển hình, tiêu biểu của hiện thực khách quan. Bài bình
luận đòi hỏi phải xem xét các sự kiện, hiện tợng đó trong mối liên hệ và phụ
thuộc lẫn nhau để rút ra kết luận chung có tính định hớng cho nhận thức và
hành động của công chúng. Tác giả có thể sử dụng nhiều hình thức và phơng
pháp khác nhau nh so sánh, đối chiếu, hệ thống hoá để làm nổi bật chủ đề tác
phẩm và t tởng của tác giả hay toà soạn.
- Từng mục từng phần của tác phẩm không đứng riêng lẻ, độc lập mà là
những bộ phận cấu thành tác phẩm.
- Từng phần của tác phẩm liên quan mật thiết tới nhau bổ sung cho nhau
để làm nổi bật chủ đề chính.
Ngoài ra tác giả còn so sánh bình luận với tiểu luận để thấy rõ đặc điểm
của thể loại này. Tác giả bài bình luận không chỉ sử dụng một vài sự kiện riêng
14
lẻ mà là toàn bộ các sự kiện, hiện tợng, quá trình của một lĩnh vực nào đó để so
sánh, đối chiếu làm sáng tỏ một vấn đề cụ thể mà tác giả đang nghiên cứu.
Trong bài bình luận tác giả không xem xét đánh giá các sự kiện hiện tợng riêng
lẻ một cách độc lập nh viết tờng thuật hay viết tin mà các sự kiện riêng lẻ đó
trong mối liên hệ chặt chẽ, phụ thuộc lẫn nhau, nhấn mạnh ý nghĩa của chúng
để làm nổi bật cái chung.
Nh vậy, đặc điểm đầu tiên của bài bình luận là không lấy những sự kiện
riêng lẻ mà phải xem xét chúng trong nhiều khía cạnh, đặt nó trong mối
quan hệ nhiều mặt mới có thể phát hiện ra ý nghĩa vấn đề. Yêu cầu đầu tiên
của bài bình luận cũng giống nh bất kỳ một tác phẩm báo chí nào là phải có sự
kiện. Tuy nhiên, do đặc điểm thể loại nên không phải bất kỳ sự kiện nào cũng
có thể đa vào bình luận. Đó phải là những sự kiện tiêu biểu, có liên quan đến
vấn đề tác giả bàn luận. Do đó, tài năng của ngời bình luận đợc thể hiện ngay ở
khâu đầu tiên: lựa chọn sự kiện, vấn đề để bình luận.
Trên cơ sở những sự kiện đã đợc lựa chọn, tác giả sẽ phân tích, lý giải
những sự kiện đó để đi đến kết luận. Nh vậy, trong 1 bài bình luận phải có đầy

đủ 3 yếu tố: thông báo, bình và luận trong đó bình và luận là 2 mặt quan trọng.
Bình là xem xét, phân tích các khía cạnh của vấn đề, đánh giá, khai thác nó ở
các mặt nội dung, ý nghĩa. Luận là bàn bạc, mở rộng vấn đề, đặt nó vào trong
quá trình diễn biến phát triển, nhận định khả năng và triển vọng, nêu tác dụng
của nó trong đời sống xã hội, trong thực tế và trong lý luận.
Một đặc điểm quan trọng của thể loại này chính là khuynh hớng t tởng
của tác giả và toà soạn báo. Khía cạnh chủ quan này thể hiện ở các mặt nh
quan điểm, lập trờng, thái độ, thậm chí là cả trong việc nhận thức các sự kiện,
cách lựa chọn, sắp xếp, giải thích và phân tích các sự kiện. ở bình luận, dấu ấn
của cái tôi- tác giả, ngời bình luận thể hiện khá rõ nét. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt
bài bình luận phải là những nhận xét, đánh giá của tác giả và toà soạn báo đó.
Đặc điểm này khẳng định năng lực cũng nh bản lĩnh của ngời viết bình luận.
15
Bình luận báo chí là 1 trong những thể loại quan trọng trong báo chí hiện
đại. Ngoài những đặc trng mang tính nguyên tắc của báo chí nh: tính Đảng, tính
chân thật, khách quan, tính quần chúng thì bình luận còn có những đặc trng
thể hiện rõ tính trội của thể loại này. Một trong 3 đặc trng quan trọng của loại
bài này là tính khuynh hớng t tởng.
Nội dung thông tin trong bài bình luận là bày tỏ chính kiến, bộc lộ công
khai quan điểm chính trị, t tởng của ngời viết đối với những vấn đề thời sự quan
trọng. Sự phân tích, lý giải của nhà báo giúp bạn đọc nhận thức rõ bản chất của
sự kiện, hiện tợng. Trong thời đại của khoa học, công nghệ với sự phát triển nh
vũ bão của các loại hình truyền thông, bình luận càng phải giữ vững tính
khuynh hớng t tởng. Khuynh hớng chính trị rõ ràng, tác động và hớng dẫn d
luận quần chúng trong khi vẫn hấp dẫn độc giả là thành công lớn của thể loại
bình luận.
Đặc trng thứ 2 của bài bình luận là tính chiến đấu cao. Cũng chính vì
đặc trng này mà báo chí Đức đã gọi thể loại bình luận là bút chiến. Tính chiến
đấu đòi hỏi bình luận phải đợc xây dựng bằng hệ thống lý lẽ sắc sảo, chính xác.
Đó có thể là những lý lẽ để vạch trần bộ mặt của kẻ thù, cũng có thể là những

lời tố cáo, lên án gay gắt những tệ nạn mới trong xã hội hiện đại. Đặc trng này
đòi hỏi ở nhà báo- nhà bình luận phải có tinh thần dũng cảm, dám nghĩ, dám
làm, dám viết và biết đấu tranh bảo vệ ý kiến, quan điểm của mình. Đặc trng
tính chiến đấu còn yêu cầu ngời viết không thể hiện thái độ mơ hồ, không rõ
ràng đồng thời không chấp nhận một kết luận mang tính chất chung chung. Một
bài bình luận thiếu tính chiến đấu là một tác phẩm báo chí thất bại, không có
tính thông tin và không định hớng đợc d luận xã hội.
Đặc trng mà chúng tôi muốn nhấn mạnh hơn cả trong luận văn này đó
chính là tính lý luận. Khác với các thể loại báo chí khác, bình luận trình bày t t-
ởng và thuyết phục ngời đọc chủ yếu bằng lập luận, lý lẽ. Có thể ví thể loại bình
luận thiếu thông tin lý lẽ nh thể ký chân dung mà là lại thiếu nhân vật. Nói nh
16
vậy để thấy đợc tầm quan trọng của lý lẽ trong bài bình luận. Thông tin lý lẽ
trong bài bình luận không phải là sự sao chép một cách máy móc, ghép nối
vụng về của các sự kiện mà nhất thiết phải có sự đánh giá, nhận xét, sự thẩm
định của tác giả về sự kiện đó. Trên cơ sở các dẫn chứng là sự kiện, vấn đề tác
giả đa ra những phân tích, tìm tòi để làm sáng tỏ vấn đề cần bình luận. Ngay
trong phần kết luận cũng không thể xếp đặt một cách lộn xộn mà phải đợc xây
dựng, kết cấu một cách hệ thống, logic rõ ràng, chặt chẽ. Các nhận định, đánh
gía phải đợc xây dựng thành luận cứ, luận chứng, luận điểm rồi từ đó mới đi đến
kết luận then chốt để có sức thuyết phục ngời đọc.
1.2. Cơ sở lập luận theo ngôn ngữ học
1.2.1. Khái niệm lập luận
Ngữ dụng học của ngôn ngữ học hiện đại chỉ ra rằng: lập luận có mặt
khắp nơi, trong bất cứ diễn ngôn nào, đặc biệt trong các diễn ngôn đời thờng.
Không phải chỉ khi nào cần lý luận, tranh luận với nhau chúng ta mới lập luận.
Khi chúng ta kể lại một sự kiện, miêu tả một hiện thực, chúng ta cũng thực hiện
một vận động lập luận. Lập luận là một hành vi ở lời có tính thuyết phục.
Có 2 loại lập luận là lập luận lôgic và lập luận đời thờng. Lập luận đời th-
ờng không bị chi phối bởi các quy tắc, các tiêu chuẩn đánh giá của lập luận

lôgic và giá trị các nội dung miêu tả đợc đa vào trong lập luận đời thờng không
phải ở chỗ các nội dung này đúng hay sai so với thực tế mà là ở giá trị của nó
đóng góp vào lập luận với t cách là những luận cứ của lập luận đời thờng. Trong
văn nghị luận, tức loại văn bản làm việc với các ý kiến có vấn đề then chốt là
lập luận.
Trong cuốn Đại cơng ngôn ngữ học ( tập 2), Đỗ Hữu Châu cho rằng:
Cái mà ngời nói hớng ngời nghe tới qua thông tin miêu tả có thể là một thái độ,
tình cảm, đánh gía hay nhận định, hành động nào đó cần phải thực hiện. Nói
vắn tắt, cái mà thông tin miêu tả hớng tới là một kết luận nào đó rút từ thông tin
17
miêu tả đó. Từ những phân tích cụ thể trong giao tiếp thông thờng, tác giả đi
đến kết luận Lập luận là đa ra những lý lẽ nhằm dẫn dắt ngời nghe đến một
kết luận hay chấp nhận một kết luận nào đấy mà ngời nói muốn đạt tới [ 10, tr.
155]. Lập luận chỉ là một điều kiện để thuyết phục, còn kết luận có thuyết phục
đợc hay không lại là việc khác.
Ngôn ngữ học với tính chất chặt chẽ và chính xác, khoa học đã chỉ ra
rằng: Thuật ngữ lập luận đợc hiểu theo 2 nghĩa:
- Nó chỉ sự lập luận, tức hành vi lập luận
- Nó chỉ sản phẩm của hành vi lập luận, tức là toàn bộ cấu trúc của lập
luận, cả về nội dung, cả về hình thức.
Thuật ngữ quan hệ lập luận dùng để chỉ quan hệ giữa các thành phần của
một lập luận với nhau. Đó có thể là quan hệ lập luận giữa luận cứ với luận cứ,
giữa luận cứ và kết luận. Bên cạnh đó còn quan hệ lập luận giữa 2 hay nhiều lập
luận với nhau trong một phát ngôn hay trong một diễn ngôn. Do đề tài luận văn
là Phân tích các bài bình luận báo chí trên cơ sở lý thuyết lập luận nên chúng
tôi chỉ xin tập trung tìm hiểu về lập luận trong hình thức diễn ngôn độc thoại:
dạng viết.
Trong diễn ngôn độc thoại dạng viết mà cụ thể ở đây là các bài bình luận
báo chí, không phải chỉ có một lập luận mà thờng là sự phối hợp của một số lập
luận ( và phản lập luận) diễn tiến để dẫn đến kết luận cuối cùng- đích của toàn

bộ bài viết.
Khi viết bài bình luận, tác giả thông qua quá trình lập luận, trình bày lý
lẽ và dẫn chứng để thuyết phục ngời đọc đồng tình với ý kiến và quan điểm của
mình. Lập luận thiếu chặt chẽ, phi lôgíc hoặc phiến diện, mơ hồ sẽ khiến cho
ngời đọc không hiểu, không tin từ đó mà bài bình luận không đạt đợc mục đích
đề ra. Trong cuốn Sách làm văn 12, lập luận đợc hiểu là dựa vào các sự
thật đáng tin cậy và các lý lẽ đầy đủ, xác đáng để nêu ra ý kiến, quan điểm của
mình. Khi lập luận, ngời ta một mặt nêu rõ luận điểm để ngời đọc biết đợc ngời
18
viết muốn nói gì, tán thành điều gì, phản đối điều gì. Mặt khác, tiến hành luận
chứng để thuyết phục ngời đọc về luận điểm đó. Lập luận đòi hỏi sự kết hợp các
yếu tố luận điểm, luận cứ, luận chứng
Để có đợc một lập luận lôgíc, ngời viết bình luận phải hiểu biết các quy
luật của nó. Những khía cạnh đợc dẫn ra làm chứng cứ cũng nh những lý lẽ sử
dụng cũng phải phù hợp và trở thành hậu thuẫn cho t tởng chủ đạo của tác giả.
1.2.2. Các yếu tố của lập luận
* Luận điểm
Luận điểm là ý kiến xác định của ngời viết về vấn đề đợc đặt ra. Trong
một bài bình luận có thể có một hoặc nhiều luận điểm. Đó là những ý trực tiếp
cấu thành chủ đề, có sự khái quát cao, chứa đựng những quan điểm, quan niệm,
những t tởng sâu sắc. Các luận điểm trong tác phẩm tơng đối độc lập với nhau
thể hiện ở chỗ trong một tác phẩm, luận điểm này không nằm trong luận điểm
kia. Nó có vai trò liên kết với nhau để soi sáng, thuyết minh cho luận điểm lớn
của toàn bài.
Luận điểm thờng rất ngắn gọn, cô đúc t tởng của ngời viết một cách sâu
sắc. Các luận điểm lớn nhỏ trong bài bình luận đều rất chính xác vì nó nói đúng
đợc đặc điểm của vấn đề, sự việc cần đề cập. Có khi luận điểm đợc khái quát
nh những chân lý, nh một quy luật, một châm ngôn. Có khi luận điểm lại đợc
nêu lên bằng câu hỏi.
* Luận cứ

Để làm sáng tỏ những quan điểm, t tởng kết đọng trong các luận điểm
cần phải có những luận cứ. Cho nên luận cứ là cứ liệu, những bằng chứng, chi
tiết để xây dựng và chứng minh cho luận điểm. Trong một luận điểm có nhiều
luận cứ. Trong bài bình luận, những luận cứ đợc lập luận một cách rất linh hoạt.
Luận cứ có thể là bằng chứng thực tế lấy từ cuộc sống, có thể là các lý lẽ, chân
lý về mặt lý luận đã đợc công nhận. Các luận cứ này rất xác thực, đáng tin cậy.
19
Ngôn ngữ học chỉ ra rằng: luận cứ có hiệu quả lập luận mạnh hơn thờng đợc đặt
ở sau luận cứ có hiệu quả lập luận yếu hơn. Chính vì thế mà hiệu quả lập luận
không chỉ do nội dung của luận cứ mà còn do vị trí của chúng trong lập luận
quyết định [ 10, tr. 69]
Trong thể loại bình luận, rất nhiều luận cứ là con số, dẫn chứng cụ thể.
Điều đó tạo cho loại bài này tính chính xác cao, mang đậm nét tả thực. Mối
quan hệ giữa luận điểm, luận cứ rất khăng khít, chặt chẽ. Luận điểm đứng đợc
là dựa vào luận cứ, còn luận cứ nêu ra là để phục vụ cho luận điểm. Trong nội
bộ các luận cứ: lý lẽ và dẫn chứng cùng soi sáng cho nhau. Lý lẽ tạo cho dẫn
chứng khả năng thuyết minh cho luận điểm, còn dẫn chứng thực tế lại làm cho
lý lẽ có nội dung, sức mạnh.
* Luận chứng
Có luận điểm, luận cứ rồi còn phải biết làm sao cho luận cứ nói lên
luận điểm, làm sao cho lý lẽ và dẫn chứng thực tế phối hợp với nhau để thuyết
minh luận điểm một cách mạnh mẽ, nổi bật, thuyết phục. Luận chứng là sự vận
dụng các phép suy luận lôgíc, phối hợp tổ chức các lý lẽ và dẫn chứng để thuyết
minh cho luận điểm. Luận chứng trong bài bình luận rất chặt chẽ, toàn diện và
có trật tự.
Lập luận chỉ có giá trị thuyết phục khi có các luận cứ tin cậy, bảo đảm sự
tơng hợp giữa luận cứ và kết luận. Tuy nhiên điều kiện đó cha đủ. Ngời lập luận
phải biết sử dụng các phơng pháp lập luận đúng, phù hợp với những quy luật
lôgíc trong t duy.
1.2.3. Các phơng pháp lập luận

Theo ngôn ngữ học thì trong một lập luận, kết luận có thể ở vị trí đầu, vị
trí giữa hoặc cuối của luận cứ. Tuy nhiên, sau luận cứ là vị trí thờng gặp của kết
luận trong lập luận. Và không ít trờng hợp, luận cứ hay kết luận có thể hàm ẩn,
không đợc nói rõ ra mà ngời nghe, ngời đọc phải tự suy ra dựa trên ngữ cảnh,
tình huống mà ngời viết đa ra. Tự tìm ra kết luận để từ đó công chúng có suy
20
nghĩ, nhận thúc đúng đắn về bản chất của vấn đề là yếu tố hấp dẫn trong cách
viết bài bình luận. Nhà báo không can thiệp một cách trực tiếp, lỗ liệu mà
khơi gợi, định hớng để ngời đọc tự rút ra thông tin cốt lõi và nhận định riêng
cho mình là cách viết bình luận phổ biến hiện nay.
Bình luận là thể loại báo chí chính luận sử dụng thông tin lý lẽ là chủ
yếu, nó đợc coi nh một sức mạnh để đạt đợc hiệu quả và mục đích đề ra. Có thể
nói: sự kiện là yếu tố quan trọng đầu tiên để tạo nên bài bình luận: Bản chất của
thể loại bình luận chính là bắt đầu từ các sự kiện đi đến vấn đề mang tính t tởng,
thể hiện qua điểm của ngời viết. Sự kiện trong bình luận vừa là đối tợng phản
ánh, phơng tiện phản ánh đồng thời đợc đặt trong mối liên hệ logic, hệ thống,
tác động qua lại với nhau để làm sáng tỏ vấn đề.
Sự kiện là cái quan trọng, là cái đầu tiên nhng nó mới chỉ là những vật
liệu của ngời bình luận. Tác phẩm bình luận thể hiện nội dung bằng cách dựa
vào các sự kiện mới để lập luận, phân tích tổng hợp, rút ra nguyên nhân, nêu ra
biện pháp, chỉ ra quy luật vận động khách quan của nó. Trong bình luận, tính lý
luận luôn đợc thể hiện rõ ràng. Mục đích của bình luận là tác động vào nhận
thức của công chúng vì vậy nó đòi hỏi những vấn đề mà tác giả bình luận đa ra
phải hết sức logic, chặt chẽ, dẫn dắt ngời đọc theo quan điểm của mình. Và
thông tin lý lẽ trong bình luận không phải và không chấp nhận sự khuôn sáo,
cứng nhắc, giáo điều hay hô khẩu hiệu. Bài bình luận đòi hỏi chính kiến, thái độ
của ngời viết hoặc toà soạn hay chủ bút nhng phải diễn đạt một cách sáng tạo
khách quan hớng về một mục đích cụ thể đã xác định trớc. Và nó đợc trình bày
trên cơ sở hệ thống các luận điểm, luận cứ tuân theo một luận chứng nhất định.
Các phơng pháp lập luận phổ biến trong bài bình luận là:

* Phơng pháp quy nạp
Quy nạp là quá trình lập luận đi từ cái riêng đến cái chung, từ sự quan
sát, nghiên cứu các hiện tợng, đối tợng cụ thể, riêng biệt, đơn nhất tiến đến
những kết luận tổng quát; từ luận chứng riêng suy ra nguyên tắc, nguyên lý phổ
21
biến hay nói cách khác từ việc xem xét những hiện tợng, đối tợng riêng lẻ, tìm
ra mối liên hệ bản chất giữa chúng với nhau từ đó nâng lên thành nhận định
khái quát, trừu tợng về những dấu hiệu chung. Trong phơng pháp quy nạp, thậm
chí từ những tiền đề đúng đắn có thể suy ra đợc một kết luận mang tính xác suất
bởi vì độ tin cậy của tri thức riêng rẽ ( các tiền đề) không thể xác định một cách
giống nhau tính chân thực của tri thức chung.
* Phơng pháp diễn dịch
Là phơng pháp ngợc lại với quy nạp. Vận dụng phơng pháp này, tác giả
bài bình luận đi từ cái chung, khái quát đến cái riêng, cụ thể; vận dụng nguyên
lý chung để xem xét đến những sự vật riêng biệt. Sự suy lý sẽ mang hình thức
diễn dịch nếu ta đặt một hiện tợng riêng dới nguyên tắc chung và từ quan niệm
chung rút ra kết luận về các tính chất một đối tợng, vật thể riêng rẽ. Phơng pháp
này đóng vai trò to lớn trong quá trình t duy của con ngời cũng nh trong thực
tiễn báo chí đặc biệt là ở thể loại bình luận.
* Phơng pháp phối hợp diễn dịch- quy nạp ( còn gọi là phơng pháp tổng-
phân- hợp)
Phân tích chỉ là bớc đầu của sự khám phá các yếu tố có quan hệ tơng hỗ,
các mối liên hệ qua lại giữa nguyên nhân và kết quả còn kết cục của nó là sự
liên kết các yếu tố đợc khảo sát riêng rẽ đó thành một tổng thể toàn vẹn, có
nghĩa là sự tổng hợp. Phép tổng hợp dựa trên những dữ liệu thu nhận đợc từ
phép phân tích. Phơng pháp này gồm có 3 phần: Nêu vấn đề, giải quyết vấn đề,
kết luận vấn đề.
Thực tế cho thấy trong các bài bình luận luôn sử dụng cân bằng 2 cách
lập luận quy nạp và diễn dịch. Đối với những vấn đề cần đa những luận điểm
mang tính tổng quát sau đó dẫn giải, phân tích giúp công chúng hiểu rõ chi tiết

thì tác giả dùng lối viết diễn dịch. Còn những vấn đề cần nêu từng sự kiện nhỏ
rồi tập trung khái quát thành một ý lớn, mục đích chỉ ra cho công chúng thấy ý
nghĩa, bản chất của vấn đề thì cách hiệu quả nhất là dùng phơng pháp quy nạp.
22
Thông thờng thì 2 phơng pháp này luôn đi đôi, bổ trợ cho nhau và nó ít tồn tại
nh một phơng pháp duy nhất trong bài bình luận. Ngời viết thờng kết hợp, vận
dụng chúng với nhau để tạo hiệu quả thông tin cao nhất là thuyết phục độc giả
tin vào những quan điểm mà nhà báo đó đa ra.
Mô hình luận chứng- luận cứ- luận chứng là mô hình chung cho các bài
bình luận. Đa ra một luận điểm, trình bày một luận cứ ( cứ liệu, bằng chứng, chi
tiết) rồi thông qua luận chứng để đánh giá, cắt nghĩa, giải nghĩa sự kiện để rút
ra bản chất của vấn đề, xu hớng vận động của sự vật, hiện tợng. Để lập luận đến
đợc với ngời đọc, ngời viết phải có các phơng pháp lập luận. Các phơng pháp
lập luận trong bài bình luận không đợc tiến hành đơn lẻ mà luôn có sự kết hợp
nhuần nhuyễn với nhau để tạo hiệu quả thông tin cao nhất.
Ngoài 3 phơng pháp có tính chất mô phạm và truyền thống trên, trong thể
loại bình luận, các tác giả còn vận dụng linh hoạt và sáng tạo một số phơng
pháp khác để bài viết thêm sinh động, hấp dẫn. Đó là:
* Nêu phản đề: Nêu ra 1 luận điểm giả định và phát triển nó đến tận cùng để
chứng tỏ đó là luận điểm sai, từ đó khẳng định luận điểm của mình là đúng.
* So sánh: Phơng pháp này đợc sử dụng dới 2 hình thức:
- So sánh tơng đồng: Từ một chân lý đã biết, đã đợc công nhận suy ra
một chân lý tơng tự có chung lôgíc bên trong.
- So sánh tơng phản: Đối chiếu các mặt trái ngợc với nhau ( trắng- đen,
phải- trái) để làm nổi bật điều mình muốn hớng tới.
Trong bình luận, phơng pháp này đợc áp dụng rộng rãi, nhờ so sánh mà
sự khác biệt và tơng đồng của các đối tợng, sự vật đợc xác định một cách chính
xác, đầy đủ hơn.
* Nhân quả: Dựa trên mối quan hệ nhân quả, phơng pháp lập luận nhân-
quả nhằm vạch rõ nguồn gốc của các hiện tợng cụ thể và cũng là nhằm dự kiến

các hiện tợng xảy ra. Trong phơng pháp lập luận này, ngời viết thờng sử dụng 2
cách: trình bày nguyên nhân trớc, kết qủa sau; chỉ ra kết quả trớc, trình bày
23
nguyên nhân sau hoặc trình bày hàng loạt sự việc theo quan hệ nhân- quả liên
hoàn. Việc thiết lập các mối liên hệ nhân- quả của các sự kiện, quá trình, hoạt
động này hay hoạt động khác là nhiệm vụ trung tâm của việc giải thích.
Điểm đặc thù của mối liên hệ nhân- quả là chúng có tính xác định và đơn
nhất, có nghĩa là trong cùng một điều kiện, nguyên nhân nh nhau sẽ tạo ra các
kết quả cùng nhau. Trong cuốn Các thể loại báo chí, A.A. Chertchơni cho
rằng: Để thiết lập mối liên hệ nhân- quả, trớc hết phóng viên cần phải tách tập
hợp các hiện tợng anh ta quan tâm ra khỏi loạt chung các sự kiện khác. Tiếp
theo nên chú ý đến những hoàn cảnh xảy ra trớc sự xuất hiện của mối liên hệ.
Sau đó từ các hoàn cảnh này cần phân biệt những tình tiết xác định cụ thể, có
khả năng trở thành nguyên nhân của hiện tợng này [ 22, tr. 49]. Trong bình
luận, việc làm rõ mối quan hệ nhân- quả của các sự kiện sẽ giúp tác giả khai
thác triệt để đề tài và là chiếc chìa khóa để tạo ra một tác phẩm bình luận có
tính chất phân tích.
* Vấn đáp: Nêu ra câu hỏi rồi trả lời hoặc để tự ngời đọc trả lời.
1.2.4. Lập luận và thuyết phục
Không có một bài báo nào nói chung và bài bình luận nói riêng lại không
nhằm thuyết phục công chúng tin và nghe theo quan điểm của toà soạn hay
chính nhà báo đó. Tuỳ theo năng lực và cá tính sáng tạo mà ngời viết đa ra các
chuỗi lập luận hay phản lập luận để rồi bác bỏ phản lập luận đó, đi đến kết luận
chung có tính khái quát về sự kiện, hiện tợng xảy ra trong đời sống xã hội. GS.
TS Đỗ Hữu Châu trong cuốn Đại cơng ngôn ngữ học ( tập 2) đã khẳng định:
Lập luận và vận động lập luận là một chiến lợc hội thoại nhằm dẫn dắt ngời
nghe, ngời đọc đến chỗ nắm bắt đợc cái kết luận mà ngời lập luận muốn đi tới.
Lập luận là một hành vi ở lời có đính thuyết phục [ 10, tr. 164]. Song để thuyết
phục đợc ngời khác, Aristote có chỉ ra 3 nhân tố cần phải đạt đợc:
- Nhân tố lý lẽ. Muốn thuyết phục đợc phải có lý lẽ

24
- Nhân tố xúc cảm. Có lý lẽ cha đủ để thuyết phục. Lời nói phải gây đợc
tình cảm, thiện cảm của ngời tiếp nhận.
- Nhân tố tính cách, đặc điểm tâm lý, dân tộc, văn hoá của ngời tiếp
nhận. Lời nói chẳng những phải có lý, phải có tình cảm, gây đợc thiện cảm mà
còn phải phù hợp với sở thích, tính cách hoặc truyền thống dân tộc, văn hoá của
ngời tiếp nhận.
Khả năng thuyết phục của thông tin tuỳ thuộc vào chỗ chúng có hội đủ 3
nhân tố trên hay không. Có thể nói: lập luận chỉ là một điều kiện để thuyết
phục, còn kết luận có thuyết phục đợc hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu
tố khác. Trong bài bình luận báo chí thì các yếu tố này có thể là ngôn ngữ, cách
lựa chọn đề tài, góc độ khai thác thông tin, tài năng, sự nổi tiếng của ngời bình
luận. Khi đa ra một lập luận, nhà báo phải tin và chịu trách nhiệm về các luận
cứ và kết luận mà mình đa ra. Đối với ngời tiếp nhận tức là công chúng thì họ
đang ở trạng thái vô can chuyển sang chờ đợi lập luận, chờ đợi kết luận.
1.3. Phơng diện thể hiện bài bình luận
Thông tin trong bài bình luận là thông tin lý lẽ. Nội dung của thông tin lý
lẽ không chỉ đơn thuần là việc lựa chọn khéo léo, chính xác hoặc tập hợp các sự
kiện mà trên cơ sở đó ngời viết phải trình bày cho đợc quan điểm, ý nghĩa, sự
đánh giá của mình về sự kiện, hiện tợng đó. Tác giả phải phân tích mối quan hệ
giữa các sự kiện từ đó rút ra đợc những kết luận có tính định hớng kịp thời. Sự
kiện là cái quan trọng đầu tiên nhng nó mới chỉ là nguyên vật liệu để nhà báo
viết bình luận. Chính đặc trng quan trọng là tính định hớng t tởng cùng thông
tin lý lẽ, lập luận đã quy định văn phong, từ ngữ và cách thức diễn đạt trong loại
bài này.
1.3.1. Văn phong của bài bình luận
* Nhất quán
25

×