Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

Bài giảng cây họ đậu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (510.43 KB, 116 trang )

CHƯƠNG 1 - CÂY LẠC
(Arachis hypogaea .L)
I. GIÁ TRỊ KINH TẾ - PHÂN LOẠI - TÌNH HÌNH SẢN XUẤT
1. Giá trị kinh tế của lạc
1.1 Giá trị thực phẩm
Lạc là một loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao. Lạc là nguồn thức ăn giầu
về dầu lipit và prôtêin, thành phần sinh hoá của lạc có thể thay đổi phụ thuộc vào
giống, vào sự biến động các điều kiện khí hậu giữa các năm, vào vị trí của hạt ở quả,
các yếu tố không bình thường như: Sâu bệnh hại, và phương pháp phân tích khác
nhau cũng ảnh hưởng đến thành phần sinh hoá của hạt lạc.
(Bảng 1.1)
Bảng 1.1: Thành phần sinh hoá của lạc
Các chất
Tử diệp Vỏ quả
(%)
Vỏ lụa
(%)
Phôi
(%)
Hạt bóc
vỏ lụa
Bột lạc
khử dầu
Phạm vi bình quân
Độ ẩm b b b 9,01 - 37 7,3
prôtêin
(%)
25,4 - 33,8 27,6 4,8 -7,2 11,0 -13,4 26,5 - 27,8 43,2 47,9 - 56,8
Lypít
(dầu)
44,5 - 56,0 52,1 1,2-2,8 0,5-1,9 39,4 - 43,0 16,6 8,6 - 9,2


Glu xít 6,0 - 24,9 13,3 10,6 - 21,2 48,3 - 52,2 - 31,2 21,3 - 31,5
Đường
khử
0,1 - 0,4 0,2 0,3 -1,8 1,0 -1,2 7,9 - -
Xáccarô 2,9 - 6,4 4,46 1,7 - 2,5 - 12,0 - -
Pen tôzan 2,2 - 2,7 2,5 16,1 -17,8 - - - -
Tinh bột 0,9 - 5,3 4,0 0,7 - - - -
Hêmi
xenlulô
- 3,0 10,1 - - - -
Xơ thô 1,6 -1,9 - 65,7 - 79,3 21,4 - 34,9 1,6 - 1,8 - 2,7 - 4,0
Tro 1,8 - 2,9 2,44 1,9 - 4,6 2,1 2,9 - 3,2 6,3 4,1
Calo/
100g
-
564/
100g
- - -
415,8/
100g
371/
100g
(b: Thay đổi tuỳ theo kỹ thuật xử lý và cất giữ thường từ 5 - 8%)
(Nguồn:Uatt và Merrill 1963)
* Dầu trong hạt lạc
Dầu lạc là một hỗn hợp glixêrít,bao gồm 80% a xít béo không no và 20% a xít
béo no. Thành phần a xít béo trong dầu lạc thay đổi tuỳ theo giống và điều kiện trồng
trọt. Thành phần a xít béo của dầu lạc như sau:
- A xít béo chưa no (80%): A xít olêic chiếm 39-65,5%.
Axít linoleic chiếm 17-38%.

- A xít béo no (20%): A xít panmitíc chiếm 6-13%; A xít stearic
Trong dầu lạc người ta quan tâm tới tỷ lệ axít oleic/ linnoleic (tỷ lệ này biến
động trong khoảng 1,2 - 1,5, hoặc có thể lên tới 2). Nếu tỷ lệ này càng cao thì dầu
càng dễ bảo quản. Ở nhiệt độ bình thường dầu lạc là 1 chất lỏng màu vàng nhạt.
Ngoài ra,trong thành phần của dầu lạc còn có các buahydro thơm, gây mùi thơm đặc
trưng của lạc, các vi ta min B1, B2, PP, E, F Dầu lạc hầu như không có vi ta min A,
C, K.(Bảng 1.2)
Bảng 1.2: Một số tính chất chung của dầu lạc
Chỉ số I ốt 82-106
Chỉ số xà phòng hoá 188 - 195
Chỉ số a xêtila 8,5-9,5
Độ a xít tự do 0,02- 0,6%
Chỉ số khúc xạ (ND20) 1,4697-1,4719
Tỷ trọng ở 15
0
C 0,917- 0,921
Tỷ trọng ở 20
0
C 0,910- 0,915
Độ nhớt trung bình 20
0
C 71,07- 86,15 centipoise
Độ chuẩn 26 - 32
0
C
Nhiệt lượng nóng chảy 21,7 cal/g (không hiđrô hoá)
24,7cal/g (hiđrát hoá)
Màu sắc Vàng nhặt
Mùi vị và hương thơm Gần như hạt dẻ
* Prôtêin của lạc

Trong một thời gian dài, người ta chỉ chý ý đến dầu trong hạt lạc mà chưa chú ý
đến lượng prôtêin khá cao trong hạt, trong các bộ phận khác của cây lạc. Tình trạng
thiếu prôtêin hiện nay trên thế giới đòi hỏi phải nghiên cứu sử dụng toàn diện loại cây
này, một cây cho dầu và cho đạm.
- Về số lượng, hạt lạc chứa một hàm lượng prôtêin khá cao chỉ kém đậu tương ở
(Bảng 1.4).
- Về chất lượng, prôtêin hạt lạc chủ yếu do 2 globulin (a rachin và conrachin)
hợp thành chiếm 95%. Conrachin hơn hẳn arachin về dinh dưỡng và có hàm lượng
metionin nhiều gấp 3 lần.Trong prôtêin hạt lạc có 2/3 arachin và 1/3 conrachin.
- Thành phần a xít amin, prôtêin của lạc có đủ 8 a xít amin không thay thế so với
chỉ tiêu của F.A.O đề ra về hàm lượng các a xít amin không thay thế trong thành phần
prôtêin thực phẩm thì prôtêin của lạc có 4 a xít amin có số lượng thấp hơn tiêu chuẩn
(Bảng 1.3).
Bảng 1.3: Hàm lượng protêin trong một số loại hạt
Loại cây Tên khoa học Prôtêin
1. Họ đậu
Lạc Arachis hypogaea 25-28
Đỗ tương Glycine Max 32-42
Đậu mỏ két Cicer arietinun 20-28
Đậu lăng ti Lens esculenta 23-27
2. Hạt có dầu
Hạt bông Gossypium hirsutum 17-21
Hạt vừng Sesamum indicum 25
Hạt hướng dương Helianthus annuus 27
Hạt hồ đào juglans regia 15-21
3. Hạt cốc
Lúa mỳ Triticum aetivum 12-14
Ngô Zea mayr 7-9
Lúa Oryzea Sativa 7,5-9
(Nguồn: Altschul, A.M.1964)

Bảng 1.4: A xít amin không thay thế được trong protein 1 số hạt có dầu (g/16gN)
A xit amin
Hàm lượng
chuẩn lý tưởng
Hàm lượng trong hạt
Lạc Đỗ tương Bông
Ly cin 4,2 3,0* 6,8 4,1*
Triptophan 1,4 1,0* 1,4 1,2*
Phenylalanin 2,8 5,1 5,3 4,7
Metionin 2,2 1,0* 1,7* 1,6*
Trionin 2,8 2,6* 3,9 4,7
Lơxin 4,8 5,7 8,0 6,6
I zolơxin 4,2 4,6 6,0 3,7
Valin 4,2 4,4 5,3 5,3*
(* Thiếu so với tiêu chuẩn lý tưởng. Milner, 1962)
Như vậy, thành phần a xít amin của prôtêin lạc phải cần được bổ xung thêm
lycin, Triptophan, Metionin, Trionin để phù hợp với tiêu chuẩn lý tưởng, trong đó
quan trọng nhất là Metionin.
Về mặt cung cấp năng lượng: Do hạt lạc có hàm lượng dầu cao, nên năng lượng
cung cấp rất lớn như: trong 100gam hạt lạc, cung cấp 590cal, cũng lượng như vậy
trong hạt đậu tương cung cấp 411cal, gạo tẻ cung cấp 353cal, thịt lợn nạc cung cấp
286cal, trứng vịt cung cấp 189cal
Do có giá trị dinh dưỡng cao lạc từ lâu loài người đã sử dụng như một nguồn
thực phẩm quan trọng. Sử dụng trực tiếp (quả non luộc, quả già, rang, nấu ) ép dầu
để làm dầu ăn và khô dầu để chế biến nước chấm và thực phẩm khác. Gần đây nhờ có
công nghiệp thực phẩm phát triển, người ta chế biến thành rất nhiều mặt hàng thực
phẩm có giá trị từ lạc, như rút dầu, bơ lạc, pho mát lạc, sữa lạc, kẹo lạc
1.2 Giá trị trong nông nghiệp
* Giá trị chăn nuôi
Giá trị làm thức ăn gia súc của lạc được đánh giá trên các mặt: Khô dầu lạc, thân

lá lạc làm thức ăn xanh và tận dụng các phụ phẩm của dầu lạc. Khô dầu lạc có thành
phần dinh dưỡng tương đối với các loại khô dầu khác.
Bảng 1.5 a:Thành phần dinh dưỡng một số khô dầu thực vật dùng trong chăn
nuôi (% trọng lượng)
Loại khô dầu
Lượng tổng số (%) Lượng dễ tiêu (%)
Prôtêin Lipít Gluxít Xenlulô Prôtêin Lipít Gluxít Xenlulô
Khô lạc 50,8 7,0 24,3 4,4 46,7 6,3 20,6 0,5
Khô đậu
tương
45,2 5,2 25,9 6,5 40,7 4,6 24,3 5,1
Khô dầu bông 24,5 6,5 26,3 25,5 18,1 6,1 13,4 4,0
Khô dầu cải 33,1 10,2 27,9 11,1 27,4 8,1 22,3 0,9
Khô dầu lanh 37,8 12,6 20,6 6,8 35,8 11,3 11,5 2,1
(Nguồn: Sở nghiên cứu lạc Trung Quốc 1964)
Trong khẩu phần thức ăn gia súc, khô dầu lạc có thể chiếm tới 25-30%. Vậy
khô dầu lạc là nguồn thức ăn giầu prôtêin dùng trong chăn nuôi. Hiện nay khô dầu lạc
trên thế giới đứng hàng thứ 3 trong các loại khô dầu thực vật dùng trong chăn nuôi
(sau khô dầu đậu tương và bông) và đóng vai trò quan trọng đối vơí việc phát triển
ngành chăn nuôi. Thân lá của lạc với năng suất 5-10 tấn/ha chất xanh (sau thu hoạch
quả) có thể dùng chăn nuôi đại gia súc (Bảng1.5b).
Bảng 1.5b: Thành phần dinh dưỡng của thân lá lạc và một số loại cỏ
chăn nuôi khác (% trọng lượng chất khô)
Cây trồng Prôtêin Lipít Gluxít
Thân lá lạc 11,75 1,84 46,95
Cỏ 3 lá 12,84 2,11 48,31
Cỏ mục túc 16,48 2,03 42,62
(Nguồn: Chiên Anh Hiền, 1961)
Cám vỏ quả lạc: Vỏ quả lạc chiếm 25-30% trọng lượng quả. Trong chế biến
thực phẩm, người ta thường tách hạt khỏi vỏ quả, vỏ quả trở thành sản phẩm phụ,

dùng để nghiền thành cám dùng cho chăn nuôi. Cám vỏ quả lạc có thành phần dinh
dưỡng tương dương với cám gạo dùng để nuôi lợn, gà vịt công nghiệp rất tốt. Như
vậy, từ lạc người ta có thể sử dụng khô dầu, thân lá xanh và cả cám vỏ quả lạc để làm
thức ăn cho gia súc, góp phần quan trọng trong việc phất triển chăn nuôi.
* Giá trị trồng trọt
Lạc là cây trồng có ý nghĩa đối với nhiều nước trên thế giới, đặc biệt với các
nước nghèo vùng nhiệt đới. Ngoài giá trị kinh tế của lạc, đối với ép dầu, trong công
nghiệp thực phẩm, trong chăn nuôi, lạc còn có ý nghĩa to lớn trong việc cải tạo đất do
khả năng cố định đạm (N) của nó. Cũng như các loại họ cây đậu khác, rễ lạc có thể
tạo ra các nốt sần do vi sinh vật cộng sinh cố định đạm hình thành đó là vi khuẩn
Rhizobium vigna. Rhizôbium vigna có thể tạo nốt sần ở rễ một số cây họ đậu. Nhưng
với lạc thì tạo được nốt sần lớn và khả năng cố định đạm cao hơn cả.
Theo nhiều tác giả, lượng đạm cố định của lạc có thể đặt 70-110kgN/ha/vụ.
Chính nhờ có khả năng này mà hàm lượng của prôtêin ở hạt và các bộ phận khác của
cây cao hơn nhiều loại cây trồng khác. Cũng nhờ khả năng cố định đạm, sau khi thu
hoạch thành phần hóa tính của đất trồng được cải thiện rõ rệt, lượng đạm trong đất
tăng và khu hệ vi sinh vật hảo khí trong đất được tăng cường có lợi đối với cây trồng
sau.
1.3. Giá trị trong công nghiệp
Lạc phục vụ cho công nghiệp ép dầu, dầu lạc được dùng làm thực phẩm và chế
biến dùng cho các ngành công nghiệp khác như (chất dẻo, xi mực in, dầu diesel, làm
dung môi cho thuốc bảo vệ thực vật ), ngoài ra khô dầu lạc còn được dùng làm thức
ăn cho người và chăn nuôi gia súc và gia cầm. Khô dầu lạc, đậu tương dùng chế biến
thành đạm gồm 3 nhóm(bột, bột mịn, thô, đạm cô đặc), khô dầu lạc, đỗ tương có thể
chế biến thành hơn 300 sản phẩm khác nhau phục vụ cho các ngành thực phẩm, trên
300 loại sản phẩm công nông nghiệp.
2. Nguồn gốc phân loại
2.1 Nguồn gốc lịch sử
Cây lạc có nguồn gốc lịch sử ở Nam Mỹ. Vào thời kỳ phát hiện Châu Mỹ, cùng
vói sự thâm nhập của Châu Âu vào lục địa mới, người ta mới biết cây lạc.

Nguồn gốc cây lạc ở Nam Mỹ được khẳng định khi SKiê (E.G.1877) tìm thấy
lạc trong ngôi mộ cổ An Côn ở bờ biển gần LiMa, thủ đô PêRu. Người ta đã phát
hiện ở đây nhiều ngôi mộ có chứa những xác ướp đặt ngồi, xung quanh là những vại
bằng đất nung đựng nhiều loại thực phẩm khác nhau, còn được bảo vệ tốt. Trong đó
có nhiều vại dựng quả lạc. Những mẫu vật về lạc phát hiện ở AnCôn có liên quan với
văn hoá trước AnCôn được xác định vào khoảng 750-500 năm trước công nguyên.
Theo tài liệu của Engen thì lạc tìm thấy ở (Las Haldas) thuộc thời kỳ trước đồ gốm
cách đây khoảng 3800 năm.
Nhưng nguồn gốc chính của loài lạc trồng ở nước nào tại Châu Mỹ, cho tới nay
vẫn chưa được xác định. Nhiều nhà thực vật học cho rằng: Arachis hypôgaea được
thuần hoá ở Granchacô, tây nam Bzaxin. Nhưng Krapôvickas (1968). Qua chuyến đi
thu thập giống lạc khắp Nam Mỹ đã có nêu lên giả định Arachis hypogaea có nguồn
gốc ở miền Đông Bôlivia, tác giả viết:
"
chỉ có thể chắc chắn Arachis hypogaea bắt
nguồn từ Bôlivia, ở chân núi hoặc những đồi thấp của dãy núi AnDơ
"
.
Lịch sử trồng cây lạc tại các nước Nam Mỹ đã có trước khi những người Châu
Âu đầu tiên đặt chân lên Châu Mỹ một thời gian dài, nhưng các tài liệu ghi chép về
cây lạc xuất hiện muộn hơn nhiều. Trước khi thực dân Tây Ban Nha thống trị.
Người
"
Inca
"
ở Pêru. Vốn có 1 nền nông nghiệp phát triển cao thời bấy giờ, đã trồng
lạc ở các vùng dọc bờ biển Pêru. Gareilaso de Vega 1609 đã mô tả cây lạc. Gọi bằng
tên địa phương là
"
Yn chis

"
. Bartolomé Las Casas (khoảng 1527) đã nhận xét: Cây lạc
(người Tây Ban Nha gọi là Mani) là một cây thực phẩm quan trọng thường được dân
bản xứ trồng trọt. Tác giả có thể là người Châu Âu đầu tiên gặp cây lạc ở Châu Mỹ.
Nhưng tác phẩm của ông mãi tới năm 1875 mới được xuất bản. Không có tài liệu về
sự du nhập đầu tiên của cây lạc vào Châu Âu. Việc sưu tập và phổ biến các loại cây
trồng có ích từ Châu Mỹ sang Châu Âu được thực hiện sau chuyến đi thứ nhất của
Columbus. Vậy chắc chắn cây lạc được đưa vào Châu Âu vào thế kỷ XVI.
Krapovickas,1968 cho rằng: Vùng Bolovian (Nam Bolovian- Tây bắc Achentina) là
vùng nguyên sản của loài lạc trồng. Theo Ông, vùng này có 5 trung tâm phát nguyên
của lạc trồng. Gregory (1976) bổ sung thêm trung tâm thứ 6, đó là các vùng:
1. Vùng Gnarani (Paraguay, Parana).
2. Vùng Goias và Minas Gerais (tocantin, san.Fraxisco).
3. Vùng Rondonia và tây bắc Manto (nam Amazôn).
4. Vùng Bôlôvian (tây nam Amazôn).
5. Vùng Pêruvian (trên Amazôn và ven biển miền tây).
6. Đông bắc Bzaxin (bổ sung của Gregory 1976)
Theo Gregory (1979-1980), tất cả các loài hoang dại thuộc chi Arachis tìm thấy
ở Nam Mỹ và phân bố từ Đông Bắc Bzaxin đến Tây- Nam Achentina và từ bờ biển
nam Uruguay đến Tây bắc Manto Grosso. Tức là phía nam sông Amazôn và từ sườn
đông Andes Hồ đại Tây Dương.
2. Phân loại
Lạc thuộc họ đậu: Fabacaea.
Chi: A rachis.
Loài lạc trồng: Arachis hypogaea.
Loài lạc trồng Arachis hypogaea được mô tả như mộ loài thực vật là do
Linnaeus công bố năm 1753, và trong một thời gian dài người ta chỉ biết 1 loài trong
chi A rachis, tức là loại lạc trồng (Arachis hypogaea). Năm 1841 (gần 90 năm sau),
BenTham mô tả 5 loài dại phát hiện ở Bzaxin là các loài A.glabrala, A.piessilla,
A.prôsttrala, A. villosa và A. tuberosa. Ông đã xếp chúng thành 3 chi là: chi Arachis,

chi Stylosanthes và chi chapmannia hợp thành tộc Hedysareae thuộc họ đậu
Leuguminosaea (naylà họ Fabacae). Chi Arachis khác với 2 chi kia ở chỗ: Có tia quả,
quả phát triển dưới đất, và hoa hầu hết ra ở các đoạn gốc của thân và cành. Ngoài ra,
chi A rachis còn có 1 số đặc trưng như: Lá kép 3-4 lá chét, có lá kèm, hoa cánh
bướm, ống đế hoa rộng 2 lá mầm lớn và phôi thẳng. Cấu trúc đặc biệt nhất của chi là
có tia quả. Số nhiễm sắc thể của chi Arachis Có (n=10).
Hiện nay người ta đã phát hiện rằng chi Arachis có thể có khoảng 30-50 loài
khác nhau và chỉ có 1 loài lạc trồng là A. hypogaea. Khởi thủy của loài lạc trồng
(Arachis hypogaea) được nhiều tác giả công nhận ở Bzaxin. Cũng có 1 Số tác giả cho
là ở Bolovia (Krapovickas, 1968; Cardenas, 1969). Husted (1936) giả thiết rằng loài
A. Hypogaea có nguồn gốc là 1 thể dị tứ bội (2n=40). Mendes (1947) và 1 số tác giả
khác cho rằng thể tứ bội này được tạo nên bằng cách nhân đôi một dạng nhị bội.
Gregory (1976) giả thiết rằng thể tứ bội dại có thể là kết quả của sự lai tự nhiên giữa
2 loài lưu niên và hàng năm trong chi Arachis. Tuy nhiên, việc xác định tổ tiên đích
thực của loài A.Hypogaea còn đòi hỏi phải có nhiều thông tin hơn mới có thể trả lời
chuẩn xác.
Phân loại dưới loài của loài lạc trồng (A. hypogaea )khá phức tạp. Các hệ thống
phân loại sớm của Waldron (1919), Cheualiar (1929), Luzina (1954), các học giả
Trung Quốc (1960), đều dựa vào nguồn gốc và đặc điểm hình thái của lạc làm cơ sở
phân loại. Có 2 kiểu phân loại (phân loại theo Waldron; phân loại theo nhóm tác giả
và phân loại theo Nigon 1991).
* Phân loại theo waldro(1919) dựa vào dặc điểm thực vật học
Ông căn cứ vào đặc điểm dạng thân, tính trang kích thước hạt và thời gian sinh
trưởng của cây. Căn cứ vào dạng thân ông chia ra làm 3 dạng thân khác nhau: thân
dứng, thân bò, thân nửa bò.
- Căn cứ vào kích thước hạt (chia làm 3 loại chính): loại hạt to có khối lượng
100 hạt > 70g; loại trung bình P
100
hạt từ 50 - 70g; loại nhỏ có P
100

hạt < 50g.
- Căn cứ vào thời gian sinh trưởng, Ông chia ra làm 3 nhóm chính như: nhóm
chín sớm có thời gian sinh trưởng < 120 ngày; nhóm chín trung bình có tgst từ 130 -
140 ngày; nhóm chín muộn có tgst > 150 ngày.
* Quan điểm của nhóm tác giả Krapovickas (1958, Gregonry(1951)
Gần dây, kết hợp các phương pháp phân loại trên, các tác giả Krapovickas
(1958) và Gregonry (1980) đã mô tả 4 dạng thực vật của loài lạc trồng và xếp thành 2
loài phụ với 4 thứ như sau: Loài lạc trồng Arachis hypogaea gồm 2 loài phụ:
- Loài phụ hypogaea gồm 2 thứ:
+ Thứ Hypogaea: Dạng Virginia (Gregory;1951); (Bolivian, Amazonian).
+ Thứ Hirsuta (Peruvian).
- Loài phụ Pastigiata gồm 2 thứ:
+ Thứ Patigiata; Dạng Valencia.
+ Thứ Vulgaris:DạngSpanish(Gregory,1951),(Guaranian,Goias và Minas
Gerais; Tây bắc Bzaxin).
* Phân loại Grygonry và Bunting (1951)
Hệ thống phân loại dựa trên cơ sở tập tính phân cành của Gregory và
Bunting(1951) được phổ biến rộng rãi hơn cả. Theo hệ thống phân loại này, thì loài
phụ Hypogaea có thứ hypogaea thuộc dạng Virginia- Phân nhánh xen kẽ. Loài phụ
Fastigiata có đặc điểm phân nhánh liền hoa với dạng: Valencia và Spanish.
Đặc điểm chính của các loại hình này như sau:
* Nhóm phân nhánh xen kẽ (Dạng virginia).
- Thân chính không bao giờ có hoa;
- Trên cành thứ cấp, 2 đốt đầu tiên luôn phát sinh cành dimh dưỡng. Đốt mang
cành và đốt mang hoa xen kẽ nhau theo thứ tự 2 đốt mang cành dinh dưỡng xen kẽ
với 2 đốt mang cành sinh thực. Cứ kế tiếp như vậy tới gần đầu cành tận cùng bằng 1
đốt bất dục.
- Số lượng cành và số cấp cành nhiều, cấp cành có thể đạt tới n+4, n+5.
- Dạng cây có thể dạng bò (phổ biến) hoặc dạng nửa bò, dạng bụi.
+ Một số đặc điểm phụ (không áp dụng cho giống lai).

- Lá chét nhỏ, cứng, màu xanh đậm; Quả phần lớn có 2-3 hạt; Vỏ lụa có vân.
- Hoa: cánh hoa hình tam giác, phần trên cánh có vân rõ. Đài không bao giờ lõm
vào ở phần cuối. ống đài và nhị làm thành gốc tù.
- Chu kỳ sinh trưởng dài 110-160 ngày ở điều kiện nhiệt đới xích đạo có thể kéo
dài tới 180 ngày hoặc hơn nếu gặp điều kiện nhiệt độ 20-25
0
C trong thời kỳ sinh
trưởng.
- Hạt có thời gian ngủ nghỉ sau thu hoạch khá dài, có thể đạt 3-5 tháng.
- Dầu trong hạt nghèo axít béo không no.Tỷ lệ axít oleic/axít linoleic lớn hơn 2.
- Chống bệnh đốm lá (Cercospora arachidicola); có 1 số giống chống virus
* Nhóm phân nhánh liên tục (Dạng valencia và Spanish) thuộc loài phụ
Fastigiata.
+ Đặc điểm chính: Có hoa trên thân chính.
- Trên cành thứ cấp, những đốt đầu tiên thường phát sinh cành sinh sản. Có thể
thấy 6-8 đốt mang cành sinh sản liên tục. Sau đó các đốt dinh dưỡng và các đốt sinh
thực kế tiếp nhau không đều. Thực tế, các đốt dinh dưỡng hầu hết là bất dục nên số
cành không nhiều. Ít cành cấp cao, thường chỉ có tới n+2; rất ít giống có tới n+3;
Dạng cây luôn đứng.
+ Đặc diểm phụ (không áp dụng cho giống lai).
- Lá chét lớn, màu xanh nhạt hơn nhóm Virginia, lá cũng mền hơn.Vỏ hạt trơn.
- Cánh hao hình bướm, có vân từ trên xuống dưới. Đài hoa thường lõm ở gốc
khi gặp độ ẩm cao. ống đài và nhị đực làm thành góc vuông.
- Chu kỳ sinh trưởng ngắn: 85-110 ngày ở điều kiện nhiệt đới, xích đạo. Gặp
điều kiện nhiệt độ thấp trong chu kỳ sinh trưởng (20-25
0
C) chu kỳ sinh trưởng có thể
kéo dài 120-135 ngày (điều kiện vụ xuân ở miền bắcViệt Nam).
- Hạt không có thời gian ngủ nghỉ sau thu hoạch, hoặc rất ngắn (9-15 ngày).
- Dầu trong hạt giầu axít béo không no. Tỷ lệ axít olêic/axít linoleic luôn nhỏ

hơn 2. Nói chung, nhạy cảm với bệnh đốm lá. Không có giống nào chống virus.
Bảng 1.6: Phân biệt giữa dạng valencia (loại Fastigiata) với dạng Spanish (loại
vulgaris) thuộc loài phụ Fastigiata theo Bunting
Spanish (A.hypogaea và vulgaris) Valencia (A. hypogaea và pastigiata)
- Thân chính ít hoa,chiều cao thân và
2 cành cấp I đầu tiên gần bằng nhau.
- Thân chính thường cao hơn 2 cành cấp I
đầu tiên.
- Số cành cấp I thường đạt 4-6 cành. - Số cành cấp I ít, thường dưới 4 cành; số
cành cấp II (n+2) thường ít.
- Thân dứng ít nghiêng ngả. - Thân thường có màu đỏ tím.
- Lá chét nhỏ hơn và xanh đậm hơn.
- Quả phần lớn 2 hạt. Rất ít quả 3 hạt. - Tỷ lệ quả 3-4 hạt tương đối cao, số quả
2 hạt vẫn là chính. Có 1 số giống quả 3-4
hạt chiếm >50% tổng số quả.
* Phân biệt các giống lạc
Các tính trạng di truyền độc lập đối với ngoại cảnh được sử dụng có ích nhất để
phân biệt các giống lạc khác nhau là khích thước và hình dạng quả, số hạt trong quả
và màu sắc vỏ lụa. Khích thước quả thay đổi tương đối lớn:
- Loại quả rất to, có đường kính trên 20mm.
- Loại quả to, có đường kính trên 15-20mm.
- Loại quả trung bình, 10-15 mm.
- Loại bé < 10 mm.
Trọng lượng quả biến động P
100
hạt = 80 - 250g.
Quả thắt eo lưng và eo bụng, eo có thể rõ hoặc không, sẽ cho những hạt có 1
phần dẹt ở chỗ tiếp xúc với hạt bên cạnh, quả có eo sâu trái lại cho những hạt có hình
dạng đều đặn, mỏ quả cũng có hình dạng khác nhau tuỳ giống. Đường vân trên vỏ
quả có thể rõ hoặc mờ, đều hoặc không đều. Màu sắc vỏ lụa cũng là 1 chỉ tiêu để

phân biệt chính xác các giống .
* Phân loai theo Nigon 1991 (Krapovickas và Nigon 1960. Krapovickas 1968).
Dựa trên cơ sở đặc tính thực vật học phân loại.
+ Nhóm không có hoa trên thân chính, loài hypogaea dược chia là 4 nhóm chính
như sau:
- Virginia có 5 nhóm phụ sau: Virginia buch; Fung buch; Castle Cary;
Jumborunner; Indian runner.
- Matervere có 5 nhóm phụ sau: Matervere buch; Slim matervere; Mayoba; Lage
chimbiWilla; Chimbi Willa.
- Geogea có 5 nhóm phụ sau: Geogea buch; Horin buch; Samaru bauch; Zaria
runne; Naltalrunne.
- Nambuyquarea có 3 nhóm chính sau: Pintado; Nambyquaea; Rasteiro.
+ Nhóm có hoa trên thân chính, có 4 nhóm chính sau:
- Valencia có 2 nhóm phụ: Valencia; Srom Valencia.
- Spanish có 2 nhóm phụ: Lage Spanish; Spanish.
- Naltall có 2 nhóm phụ: Lage Naltall; Spanish.
- Maryema có 2 nhóm phụ: Long Maryema; Maryema.
* Phân loại theo kích thước quả.
Quả nhỏ, có đường kính <10 mm.
Quả trung bình 11-15 mm.
Quả to 16-20 mm.
Quả rất to > 20 mm.
* Công tác giống ở Việt Nam.
Đối với công tác giống ở nước ta, sau khi Miền Nam hoàn toàn giải phóng công
tác giống mới được chú trọng. Trong báo cáo tiến bộ kỹ thuật về trồng lạc và đậu đỗ
ở Việt Nam. Tiến sĩ Trần Đình Long, kỹ sư Văn Thắng, Kỹ sư Lê Huy Phương đã
công bố kết quả nguồn gen cây lạc ở Việt Nam cho thấy đã nghiên cứu 1.271 mẫu
giống lạc trong nước và nhập nội, trong đó có các cơ sở nghiên cứu khoa học khác
như Trung tâm nông nghiệp Miền Nam, Viện di truyền nông nghiệp đã nghiên cứu
khảo sát tập đoàn giống lạc và địa hình ba nhóm chính dựa vào thời gian sinh trưởng.

- Nhóm chín sớm có thời gian sinh trưởng 120 ngày.
- Nhóm chín trung bình có thời gian sinh trưởng từ 130 - 140 ngày.
- Nhóm chín muộn có thời gian sinh trưởng > 150 ngày.
2.3 Phân vùng sản xuất lạc
Lạc dễ trồng và thích ứng rộng với các vùng sinh thái khác nhau, từ ôn đới đến nhiệt
đới. Cây lạc trồng phân bố rất rộng từ 40
0
vĩ bắc đến 40
0
vĩ nam, cao hơn 1000m so
với mặt nước biển. Trên thế giới nói chung, ở Việt Nam nói giêng phân bố trồng lạc
theo vùng sinh thái khác nhau.
3. Tình hình sản xuất lạc trên thế giới và trong nước
3.1 Tình hình sản xuất lạc trên thế giới
Trong các loại cây trồng làm thực phẩm cho con người, lạc có vị trí quan trọng.
Mạc dù lạc đã có từ lâu đời, nhưng tầm quan trọng kinh tế của lạc chỉ mới được xác
định trong khoảng 125 năm trở lại đây. Khi công nghiệp ép dầu lạc được phát triển ở
Pháp (xưởng ép dầu ở Max xây) bắt đầu nhập cảng lạc từ Tây Phi để ép dầu, mở đầu
thời kỳ dùng lạc đầu tiên trên quy mô lớn. Công nghiệp ép dầu được xây dựng với tốc
độ nhanh ở các nước Châu Âu và trên toàn thế giới.
Trong những năm gần đây, người ta chú ý nhiều đến prôtêin trong hạt lạc, nhân
loại đặt nhiều hy vọng vào các loại cây bộ đậu để giải quyết nạn đói prôtêin trước mắt
và trong tương lai.
Trong các cây bộ đậu của thế giới, lạc có diện tích và sản lượng đứng thứ 2 sau
cây đậu tương, với diện tích 22-26 triệu ha/năm, sản lượng 37.144,13 tấn (Bảng 1.7).
Bảng 1.7: Tình hình sản xuất lạc trên thế giới ( 2002 - 2007)
Chỉ tiêu
Năm
Diện tích
(triệu ha)

Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(Triệu tấn)
2002 23.518,30 14,14 33.265,30
2003 26.181,84 13,49 35.327,94
2004 26.375,76 13,67 36.057,28
2005 25.217,20 14,47 36.492,14
2006 22.122,99 15,73 34.779,14
2007 23.105,41 16,08 37.114,13
(Nguồn: Số liệu thống kê FAOSTAT, 2008).
Trong những năm trở lại đây từ 2002 - 2007 diện tích đất trồng lạc của thế giới
giảm. Năm 2002 diện tích là 23,518 triệu ha. Đến năm 2007 diện tích đất trồng lạc
gảm xuống còn 23.105 triệu ha. Năm 2003 -2004 diện tích lên 26.375,76 triệu ha.
Năng suất của thế giới năm 2002 đạt 13,4 tạ/ha, đến 2005 năng suất tăng lên 14,47
tạ/ha, sản lượng đạt 36.49214 triệu tấn. Năm 2006- 2007 diện tích giảm nhưng năng
suất tăng nhanh đạt 15-16 tạ/ha và sản lượng đạt 34.779 – 37114,13 triệu tấn.
Bảng 1.8: Diện tích, năng suất và sản lượng lạc một số nước trên thế giới
( 2005- 2007)
Nước
Diện tích (triệu ha) Năng suất (tạ/ha) Sản lượng (triệu tấn)
2005 2006 2007 2005 2006 2007 2005 2006 2007
Thế giới 25.217.2 22.122,2 23.105,41 14.71 22,12 23,11 36.492.1 34.799,1 37.144,1
Trung
Quốc
4.871.8 4.595,5 4.573,17 30.04 32,07 38,58 14.368.5 14.737,6 13.067,9
Argentina 210.0 0.163,7 0.215,06 28.23 21,22 27,90 0.593.0 0.347,3 0.600,0
Brazil 125.5 0.110,8 0.113,78 23.26 22,56 23,15 0.291.9 0.249,9 0.263.4
Việt Nam 269.6 0.246,7 0.254,30 17.42 18,75 19,86 0.489.3 0462,5 0.505,0
(Nguồn: Số liệu thống kê FAOSTAT. 2008)

Vùng sản xuất lạc chủ yêu trên thế giới là vùng nhiệt đới và Á nhiệt đới của lục
địa Á-Phi. Song năng suất vùng này không cao (Bảng8).
- Về diện tích, Trung Quốc có diện tích lớn nhất năm 2005 là 4.871,8 triệu ha,
tiếp sau đó là Việt Nam có 269,6 nghìn ha và Argentina, đứng thứ 4 là Braxin có diện
tích 0.125,5 triệu ha.
- Năng suất, Trung Quốc là nước có năng suất cao nhất thế giới đặt từ 30,0-
38,50 tạ/ha, tiếp đến là Argentina năng suất đạt 21 - 28 tạ/ha. Sau đó là Braxin năng
suất đạt từ 22,60- 23,26 tạ/ha.
- Về sản lượng, cao nhất là Trung Quốc và Argentina là 2 nước có sản lượng lớn
nhất trên 14 triệu tấn.
Như vậy, hướng sản suất lạc trên thế giới trong những năm tới tốc độ phát triển
sẽ chậm hơn so với những năm trước. Diện tích trồng lạc sẽ có thay đổi nhiều do các
chính sách quản lý, thương mại. Năng suất là chỉ tiêu để phản ánh tiến bộ nghiên cứu
về cây lạc và cây đậu tương, và chính sách là yếu tố quan trọng quyết định tương lai
của cây trồng này. Những yếu tố quan trọng quyết định năng suất cao là:
- Cải tiến kỹ thuật canh tác và mở rộng diện tích ở các nước nhiệt đới và Á nhiệt
đới, đặc biệt các nước đang phát triển.
- Chú trọng đến công tác chọn tạo giống mới có năng suất cao hơn, phẩm chất
tốt, giống phải phù hợp với từng điều kiện sinh thái, hình thành vùng sản suất hàng
hoá, cơ giới hoá sản suất. Thuốc trừ sâu, trừ cỏ, bệnh tốt hơn.
- Chế biến, đi sâu vào lĩnh vực chế biến dầu thực vật, hỗ trợ và giúp đỡ các nước
đang phát triển về xuất khẩu và nhập khẩu lạc nhân.
Trong tương lai, sự tác động của công nghệ sinh học, di truyền học phân tử đối
với cây trồng có thể mở ra 1 tiềm năng mới trong tương lai phát triển cây lạc, cây đậu
tương ccó thể làm tăng năng suất cây lạc, cây đậu tương lên nhiều thông qua các
giống năng suất cao, chống chịu sâu bệnh tốt. Công nghệ sinh học cũng là yếu tố
quan trọng để cải tiến chất lượng đậu tương, lạc. Những tiến bộ kỹ thuật này cũng có
thể cải tiến hiệu quả sản suất và tiêu dùng sản phẩm lạc, đậu tương.
3.2 Tình hình sản xuất lạc ở Việt Nam
Cây lạc được du nhập vào nước ta và được trồng từ bao giờ không có tài liệu xác

minh cụ thể. Tài liệu cổ nhất nói về lạc là cuốn "Vân đài loại ngữ" của Lê Quý Đôn
thế kỷ XIIX. Căn cứ vào tên gọi - từ "Lạc" có lẽ xuất phát từ âm Hán "Lạc Hoa
Sinh" - thì từ lạc ở Việt Nam có thể được du nhập từ Trung Quốc.
Từ thế kỷ XVI - XVII, thuyền buôn phương Tây đã đến nước ta chủ yếu là từ
Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan. Nhưng không có tài liệu nào nói về sự du nhập
các giống cây trồng do các thương nhân trên. Như vậy, có thể khẳng định con đường
du nhập lạc vào nước ta chỉ có thể qua đường Trung Quốc.
Ngày nay, lạc được trồng rộng rãi khắp trong nước, trên nhiều loại đất và địa
hình khác nhau. Diện tích trồng lạc ở nước ta đặc biệt trong những năm gần đây tăng
nhanh đáng kể (Bảng1.9).
Bảng 1.9: Diễn biến sản xuất lạc ở nước ta
Năm
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(nghìn tấn)
1955 17,70 8,30 14,50
1965 85,90 9,42 80,90
1973 81,50 9,66 78,70
1978 100,00 9,27 92,00
1985 213,00 9,50 202,40
1992 217,30 10,40 226,70
1993 217,20 11,90 259,30
1994 246,60 12,20 300,60
1996 262,80 13,60 300,00
1997 235,50 13,86 351,30
1998 269,40 14,33 386,00
1999 248,20 12,80 381,00

2000 244.900 14,50 355.30
2001 244.600 14,84 363.10
2002 246.700 16,23 400.00
2003 242.800 16,65 406,20
2004 255.000 16,51 489,00
2005 269,600 18,10 489,30
2006 249.300 18,70 464,80
2007 246.700 19,86 505,00
(Nguồn: Niên giám thống kê 2008)
Trong những năm chiến tranh (1955- 1975) diện tích lạc cả 2 miền Nam- Bắc
năm cao nhất chỉ đạt 86.000 ha, nhưng ngay sau ngày thống nhất đất nước, sản xuất
lạc tăng nhânh và trong những năm 80 diện tích lạc đã vượt lên 200.000 ha với sản
lượng trên 200.000 tấn/năm. Đến năm 1994 diện tích đạt 246,600 nghìn ha, sản lượng
đạt trên 300.000 tấn với mức tăng trưởng nhanh như vậy, sản phẩm lạc không chỉ đáp
ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước mà còn là mặt hàng nông sản xuất khẩu quan trọng.
Trong 10 năm trở lại đây,(1997- 2007) năng suất cao nhất là (19,86tạ/ha) năm
2007; thấp nhất là (13,86tạ/ha )năm 1997. Như vậy, có thể nhận thấy rằng diện tích
giảm, năng suất tăng. Sản lượng đạt 505 nghìn tấn năm 2007.
Theo số liệu thống kê năm 2008 của cục thống kê. Việt Nam hiện nay có 8 vùng
trồng chính (Bảng 1.10).
Bảng 1.10: Diện tích, năng suất, sản lượng lạc của các vùng trọng điểm
ở Việt năm 2008
Chỉ tiêu
Vùng
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản Lượng
(nghìn tấn)

Cả nước 251.10 17,5 505,10
Đồng bằng sông hồng 31.10 20,3 73,70
Đông Bắc 36.00 17,0 63,90
Tây Bắc 9.00 10,2 11,40
Bắc Trung bộ 72.00 20,4 147,60
Nam Trung bộ 25.40 20,0 44,80
Tây Nguyên 19.50 10,6 32,00
Đông Nam Bộ 35.50 20,4 88,00
Đồng Bằng Sông cửu Long 12.50 21,2 35,90
(Nguồn: Số liệu thống kê năm 2008)
+ Vùng Bắc trung Bộ, có diện tích lớn nhất (72. nghìn ha) nhưng năng suất đạt
20,3tạ/ha) cao hơn năng suất trung bình của cả nước. Sản lượng lớn nhất so với cả
nước đạt 147,6 nghìn tấn.
+ Vùng Đông Bắc, có diện tích đứng thứ 2 sau Bắc trung Bộ về cả năng suất đạt
17 tạ/ha
+ Vùng Đông Nam Bộ, diện tíc đứng thứ 3 về diện tích và năng suất 20,4 tạ/ha,
sản lượng 88 nghìn tấn.
+ Vùng đồng Bằng sông Hồng, tuy có năng suất cao đạt 20,3tạ/ha diện tích gieo
trồng 31,10 ha,
+ Vùng Đồng Bằng Sông cửu Long, diện tích chỉ có (12.5 ha) năng suất đạt 21,2
tạ/ha cao nhất so với cả nước. Nhưng sản lượng thấp do diện tích ít.
+ Vùng Tây Bắc, đặc biệt vùng này năng suất, thấp nhất so với cả nước.
Nhìn chung các vùng sản xuất lạc của nước ta không đồng đều về trình độ sản
xuất, nhất là về thâm canh tăng năng suất chủ yếu ở vùng đồng bằng sông Hồng,
đồng bằng sông cửu Long, đông nam Bộ và Bắc trung Bộ - Đông Bắc.
* Triển vọng phát triển cây lạc ở nước ta
Ở nước ta, lạc được coi là cây trồng có hiệu quả kinh tế cao và có giá trị đa
dạng. Trước hết, với giá trị dinh dưỡng cao nên lạc là cây thực phẩm quan trọng của
nhân dân ta. Đây là nguồn protein và lipít quan trọng đối với đa số nhân dân, nhất là
nông dân trong điều kiện kinh tế chưa cao. Nước ta vẫn còn nằm trong khu vực thiếu

prôtêin trên thế giới, vì vậy nguồn prôtein thực vật là nguồn đóng góp lớn trong cân
bằng prôtêin cho nhân dân, lạc rễ trồng phù hợp với khí hậu nhiệt đới - sẽ là nguồn
thực phẩm giầu prôtêin chủ yếu của chúng ta.
Đất đai nông nghiệp của ta bị rửa trôi và phong hoá nhanh, hàm lượng mùn và
dinh dưỡng thấp - nhất là đất bạc màu, đất phù sa cổ, đất dốc tụ Lạc trồng là cây cải
tạo đất quan trọng trong hệ thống canh tác đa canh ở nước ta.
Để nâng cao hiệu quả kinh tế của lạc, vấn đề là phải tạo vùng sản xuất tập trung
để nâng cao tỷ lệ lạc thương phẩm và phấn đấu nâng cao năng suất. Cùng với việc
hợp tác quốc tế và công tác nghiên cứu chọn tạo giống trong nước, chúng ta đã phổ
biến một số giống cải tiến trong sản xuất như B5000, 75/23, V79, MD7 Góp phần
nâng cao ổn định năng suất lạc. Trước mắt, với mức đầu tư như hiện nay, nếu năng
suất lạc bình quân 1,3 - 1,7 tạ/ha thì sẽ có khả năng cạnh tranh với các cây trồng
khác, nhất là ở đất bạc màu, đất cằn
* Phương hướng sản xuất lạc của Việt Nam đến năm 2010
Thực hiện chiến lược phát triển nông nghiệp ở Việt Nam cho đến năm 2010 về
sản xuất mặt hàng nông sản (trong đó lạc là quan trọng). Xuất khẩu lạc đạt 40% tổng
sản lượng lạc của cả nước và đáp ứng nhu cầu sử dụng trong cả nước ở nhiều dạng
khác nhau. Chính vì vậy mà sản xuất lạc của Việt Nam ngày càng tăng. Dưới đây là
dự kiến sản xuất, diện tích, năng suất, sản lượng lạc của Việt Nam đến năm 2005 &
2010.
- Diện tích: 400. 000ha.
- Năng suất bình quân 25 - 30 tạ/ha.
- Sản lượng: 900.000tấn/ha.
- Kim ngạch xuất khẩu đạt:150 triệu USD (nguồn: Viện KHKT Nông Nghiệp
Việt Nam).
Để thực hiện chiến lược này, nhà nước ta cần có biện pháp đổi mới bộ giống,
đưa nhanh các giống tốt có năng suất cao, chất lượng tốt phù hợp với đặc điểm từng
vùng sinh thái.
+ Ưu tiên phát triển lạc ở các vùng thâm canh, chuyên canh, các vùng sản xuất
tập trung cho chế biến và xuất khẩu.

+ Mạnh dạn đầu tư thâm canh và áp dụng đồng bộ các biện pháp kỹ thuật canh
tác tiên tiến, bón đủ phân cân đối, sử dụng chế phẩm chuyên dùng, ứng dụng kỹ thuật
IPM, cơ giới hoá các khâu trồng lạc.
+ Tăng cường thông tin, đào tạo, huấn luyện chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho
người sản xuất.
+ Đẩy mạnh chế biến và xuất khẩu.
II. ĐẶC TÍNH SINH HỌC CỦA LẠC
1. Đặc điểm thực vật học
1.1 Rễ
* Hình thái cấu tạo rễ
Bộ rễ lạc gồm rễ cọc, gồm 3 phần (cổ rễ, rễ chính và rễ phụ). Rễ chính có trước, rễ
phụ có sau. Rễ chính của lạc phát triển từ phôi rễ. Rễ nối với thân hạ diệp ở phần cổ rễ.
Thực ra sự phân biệt thân hạ diệp và rễ chính chỉ rõ ở thời kỳ đầu sinh trưởng. Khi lạc ra
hoa đến khi thu hoạch, sự phân biệt này gần như không còn.
Rễ chính của lạc phát triển nhanh trong thời kỳ đầu sinh trưởng. quan sát trong
vụ xuân ở nước ta, sau khi gieo 10 ngày rễ chính ăn sâu 5cm. Sau gieo 20 ngày, rễ
chính ăn sâu 10cm và hệ rễ con đã phát triển. Khi lạc được 5 lá bộ rễ lạc đã tương đối
hoàn chỉnh với 1 rễ chính sâu 15-20cm, hệ rễ con phát triển với rẽ cấp 2, 3 và nốt sần
đã có khả năng cố định đạm.
Bộ rễ lạc có các rễ con rất phát triển. Thời kỳ sinh trưởng đầu, rễ con chủ yếu là rễ
cấp I, phát triển vuông góc với rễ chính; sau đó các rễ cấp II, III phát triển dần xuống
dưới, theo chiều đứng, tạo nên 1 hệ rễ ăn sâu và rộng. Sau khi đạt trị số cao nhất vào thời
kỳ hình thành quả và hạt, trọng lượng rễ giảm dần trong thời kỳ chín do các rễ già bị đứt,
chết mà sự hình thành rễ mới gần như không còn nữa. Trong điều kiện thuận lợi, rễ
chính có thể ăn sâu tới 1m. Tuy nhiên đại bộ phận rễ con phân bố ở tầng đất mặt 0-30cm
(chiếm 60-80% trọng lượng). Trọng lượng rễ thay đổi tuỳ thuộc ở điều kiện canh tác,
tính chất đất đai, chế độ nước trong đất. Bộ rễ phát triển sớm và khoẻ là cơ sở quan trọng
để tăng năng suất lạc.
1.2 Thân - Cành
* Sự phát triển chiều cao thân

Cây lạc lớn lên nhờ mầm sinh trưởng ở ngọn cây và ngọn cành, thân lạc mền,
lúc còn non thì tròn, sau khi ra hoa phần trên thân có cành rỗng, hoặc có cạnh. Thân
có 15-25 đốt, ở phía dưới gốc đốt ngắn, ở giữa và phía trên thân đốt dài, thân thường
có màu xanh hoặc màu đỏ tím, trên thân có lông tơ trắng, nhiều hay ít tuỳ thuộc vào
giống, tuỳ vào điều kiện ngoại cảnh. Thân lạc tương đối cao và phụ thuộc chủ yếu
vào đặc điểm di truyền giống.
Theo Min kevic (1968) thân lạc có thể có chiều cao tới 2m. Những quan sát ở
nước ta cho thấy những giống có dạng bụi thương có chiều cao đạt 70-150cm, dạng
đứng có chiều cao 40-80cm, dạng bò 15-30cm. Trường hợp lạc bị vóng lốp, lạc đứng
có thể cao 100-150cm; trong trường hợp này cây lạc thường hay bị đổ.
Tốc độ sinh trưởng chiều cao thân tăng dần trong thời kỳ sinh trưởng sinh dưỡng
(thời kỳ cây con) và đạt cao nhất trong thời kỳ hoa rộ (khoảng 10-15 ngày), tốc độ
tăng trưởng chiều cao thân trong thời kỳ đầu sinh trưởng (2-5 lá) đạt 0,1-0,3 cm/ngày;
thời kỳ trước ra hoa (5-8lá) đạt 0,3- 0,6 cm/ngày. Tốc độ tăng nhanh trong thời kỳ ra
hoa và cuối thời kỳ ra hoa rộ, dặt tốc độ cao nhất khoảng 0,7-1,5 cm/ngày. Ngay sau
đó, khi cây chuyển sang giai đoạn đâm tia, hình thành quả rộ, tốc độ tăng chiều cao
thân giảm rõ rệt, chỉ còn khoảng 0,2-0,5 cm/ngày. Trong thời kỳ chín, nếu gặp điều
kiện thuận lợi, tốc độ tăng chiều cao thân có thể đạt 0,3-0,7cm/ ngày trong thời kỳ thu
hoạch .
* Sự phát triển cành
Khả năng đam cành của lạc rất lớn, nhất là những giống thuộc loại phụ Hypogaea,
những giống này có thể có tới 4-7 cấp cành với tổng số cành có thể đạt 20-30 cành.
Loại phụ Pastigiata có số cành ít hơn thường chỉ có 2,3 cấp cành (chủ yếu chỉ có 2
cấp cành n+1; n+2) với tổng số cành 6-12. Ở Việt Nam, lạc trồng chủ yếu thuộc
nhóm Spanish, thân đứng có 2 cấp cành với tổng số cành 6-10 cành (thường là 4 - 6
cành cấp I và 2 - 4cành cấp 2). Quy luật phân cành của lạc như sau (loài phụ
Fastigiata).
+ Cành cấp 1: thường có 4- 6 cành.
Cành cấp 1, mọc từ nách lá thân chính. Hai cành đầu tiên mọc từ nách lá mầm.
Vì 2 lá mầm gần như mọc đối nên 2 cành này cũng ở vị trí gần như đối nhau qua thân

chính và thời gian xuất hiện đồng thời.Trong thực tế, rất khó phân biệt cành số 1và số
2 cho nên có thể coi chúng như cặp cành đầu tiên. Cặp cành này xuất hiện khi cây có
2-3 lá thật. Cành số 3, số 4 mọc từ nách lá thật 1, 2. Lá lạc mọc cách, nhưng đốt thứ 2
thường ngắn hơn đốt 1và 3 cho nên cành 3,4 gần nhau hơn và tạo thành cặp cành thứ
2 và cành 5,6 cũng tương đối gần nhau hơn, tạo nên cạp cành thứ 3.
+ Cành cấp 2: cành cấp 2 thường chỉ xuất hiện ở cặp cành cấp 1 đầu tiên. Vị trí
cành cấp 2 thường ở 2 đốt đầu tiên của cành cấp 1. Như vậy, thường chỉ có 4 cành
cấp 2.
Cành cấp 2 xuất hiện khi lạc được 5,6 lá trên thân chính. Số cành của lạc liên
quan trực tiếp đến số quả. Các cành mô tả trên đều là cành quả. Số hoa và số quả ở
tầng cành thứ nhất (cặp cành 1, 2 và các cành cấp 2) chiếm khoảng 50-70% tổng số
hoa, quả/cây; tầng cành thứ 2 chỉ chiếm 20-30% và tầng cành 3 thường dưới 10% số
hoa, quả.
1.3 Lá lạc
* Hình thái cấu tạo lá
- Lá: Lá lạc thuộc loại lá kép hình lông chim gồm 2 đôi lá chét, cuống lá dài từ
4-9cm. Thường có những lá biến thái có 1, 2, 3, 5 hoặc 6-8 lá chét. Lá chết không
cuống mọc đối nhau, thường có hình bầu dục, bầu dục dài, hình trứng lộn ngược, màu
sắc xanh nhạt hay xanh đậm, vàng nhạt hay đậm tuỳ theo giống. Màu sắc lá thay đổi
tuỳ điều kiện trồng trọt. (Đất nhiều nước quá lá màu xanh vàng, đất khô hạn lá màu
xanh tối). Độ ẩm vừa phải, đất thoáng, vi khuẩn cố định N hoạt động mạnh cung cấp
đủ N cho cây thì lá có màu xanh đậm. Có thể nhìn màu sắc để phán đoán tình hình
dinh dưỡng của cây.
Tầng sáp ở biểu bì trên của lá lạc tương đối dầy, thịt lá có những tế bào chứa
nước lớn (chiếm 1/3 bề dầy của lá), do đó lá lạc khó bị khô héo khi ngặp hạn. Lá chét
mang khí khổng ở cả 2 mặt lá. Đây chính là bộ phận tiếp nhận sự khích thích của ánh
sáng gây nên hiện tượng lá ngủ. Lực trương của tế bào vách mỏng ở nửa trên và nửa
dưới gốc thay đổi theo cường độ ánh sáng yếu hay mạnh. Khi ánh sáng yếu lực
trương giảm, lá chét khép lại, do đó lá lạc ban đêm khép lại và ban ngày mở ra. Lá

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×