Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

bài nhóm 2 pháp luật cộng đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.07 KB, 12 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU:
Trong thương mại dịch vụ, các hoạt động tự do hóa thương mại dịch vụ thường được
tiến hành song song cùng các hoạt động thuận lợi hóa thương mại dịch vụ. Công nhận
lẫn nhau giữa các quốc gia thành viên trong lĩnh vực dịch vụ là một hoạt động thuận lợi
hóa như thế. Nó góp phần tạo điều kiện cho các nhà cung cấp dịch vụ chuyên môn nước
ngoài tiếp cận và thực hiện hoạt động cung cấp dịch vụ tại thị trường của quốc gia khác.
Hiện nay đã có 7 Hiệp định chuyên ngành về công nhận lẫn nhau trong thương mại
dịch vụ ASEAN. Với bài tập lần này, nhóm lựa chọn đề tài “Bình luận về hoạt động
công nhận lẫn nhau trong thương mại dịch vụ của ASEAN thông qua Thỏa thuận
ASEAN về công nhận lẫn nhau đối với dịch vụ kiến trúc 2007 dưới các góc độ:
- Chủ thể, đối tượng công nhận
- Phương thức công nhận
- Mức độ công nhận
- Vai trò của công nhận”
B. NỘI DUNG:
I. Khái quát về tự do hóa dịch vụ của ASEAN và công nhận lẫn nhau trong
thương mại dịch vụ ASEAN:
1. Tự do hóa dịch vụ của ASEAN:
Thương mại dịch vụ là khái niệm chỉ các hoạt động thương mại trong lĩnh vực dịch
vụ. Theo quy định tại khoản 2 Điều 1 Hiệp định về thương mại dịch vụ của WTO
(GATS) thì các hoạt động thương mại dịch vụ trong phạm vi quốc tế được thực hiện
theo 4 phương thức:
- Phương thức 1 (Mode 1): Cung cấp dịch vụ qua biên giới. Đây là phương thức mà
dịch vụ được cung cấp từ lãnh thổ của quốc gia thành viên khác. Trong phương thức
này, chỉ có bản thân dịch vụ chuyển qua biên giới còn nhà cung cấp không có mặt tại
quốc gia tiếp nhận dịch vụ.
- Phương thức 2 (Mode 2): Tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài. Theo phương thức này,
người tiêu dùng dịch vụ là công dân của quốc gia thành viên sử dụng dịch vụ tại lãnh
thổ quốc gia thành viên khác.
1
- Phương thức 3 (Mode 3): Hiện diện thương mại. Phương thức này liên quan trực tiếp


đến việc đầu tư tại thị trường quốc gia khác để thiết lập công việc kinh doanh. Theo
phương thức này, người cung cấp dịch vụ thiết lập sự hiện diện thương mại của mình
ở nước ngoài dưới hình thức như văn phòng đại diện, chi nhánh,…nhằm cung cấp
dịch vụ tại quốc gia đó.
- Phương thức 4 (Mode 4): Hiện diện thể nhân. Đây là phương thức mà công dân của
một quốc gia thành viên trực tiếp có mặt và cung cấp dịch vụ tại quốc gia thành viên
khác.
Đây cũng là phương thức thể hiện các hoạt động thương mại dịch vụ được ghi
nhận trong các văn bản pháp lí của ASEAN.
Hiện nay, khu vực ASEAN là một trong những đối tác thương mại dịch vụ lớn
nhất trong nhóm các khu vực đang phát triển, chiếm 4,7% về xuất khẩu và 5,7% về nhập
khẩu thương mại dịch vụ trên toàn thế giới. Nhận thức được vai trò của nó, các nhà lãnh
đạo ASEAN đã tiến hành những nỗ lực đầu tiên nhằm đảm bảo sự tự do của thương mại
dịch vụ trong khu vực bằng việc kí kết Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS) vào
ngày 15/2/1995 trong khuôn khổ Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 5 tại Bangkok (Thái
Lan) nhằm xóa bỏ phần lớn những rào cản dịch vụ giữa các quốc gia ASEAN, mở rộng
phạm vi và mức độ tự do hóa dịch vụ so với các quy định của GATS, qua đó tăng cường
mức độ cạnh tranh giữa các nhà cung cấp dịch vụ trong khu vực. Có thể nói, AFAS là cơ
sở pháp lí nền tảng đầu tiên cho việc thực hiện tự do hóa dịch vụ của ASEAN. Không
chỉ tương thích với các quy định của GATS, trên thực tế mức độ tự do hóa dịch vụ theo
AFAS còn rộng và cao hơn các cam kết của các thành viên trong khuôn khổ GATS.
Bên cạnh đó, để tăng cường tự do hóa dịch vụ, trên cơ sở phù hợp với những đặc
điểm của ASEAN, Nghị định thư sửa đổi Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ đã được
kí kết năm 2003, tạo cơ sở cho việc áp dụng công thức –X trong việc thực hiện các cam
kết về dịch vụ của các quốc gia ASEAN. Theo đó, các quốc gia sẵn sang tiến hành tự do
hóa đối với những ngành dịch vụ xác định và có thể thực hiện quá trình này mà không
phải mở rộng các nhượng bộ đối với các quốc gia chưa tiến hành.
2
Để triển khai thực hiện AFAS, các quốc gia ASEAN đã liên tục tiến hành các vòng
đàm phán về dịch vụ trong khuôn khổ các hội nghị bộ trưởng kinh tế ASEAN. Đến nay

đã có 5 vòng đàm phán được tổ chức với kết quả là 8 gói cam kết đã được kí kết với nội
dung ngày càng mở rộng đến tất cả các ngành và các phương thức cung cấp dịch vụ.
Cho đến nay, ASEAN cũng mới chỉ thực hiện tự do hóa trong một số lĩnh vực dịch vụ,
tuy nhiên, mức độ cam kết mở của ASEAN cao hơn những nghĩa vụ được quy định tại
GATS.
2. Công nhận lẫn nhau trong thương mại dịch vụ ASEAN:
Tại Điều 5 của Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS) vào ngày 15/12/1995 đã
quy định: “Mỗi quốc gia thành viên có thể công nhận trình độ giáo dục hoặc kinh
nghiệm nhận được, các yêu cầu đã được thỏa mãn, hoặc các giấy chứng nhận hoặc giấy
phép đã được cấp tại một quốc gia thành viên khác, để sử dụng cho mục đích cấp giấy
phép hoặc giấy chứng nhận nhà cung cấp dịch vụ… trên cơ sở hiệp định hoặc thỏa
thuận với quốc gia thành viên có liên quan, hoặc có thể đơn phương công nhận”.
Như vậy, Hiệp định này đã phần nào thừa nhận ý nghĩa của việc công nhận lẫn nhau
trong thương mại dịch vụ ASEAN. Qua đó, công nhận lẫn nhau giữa các quốc gia thành
viên trong lĩnh vực dịch vụ hóa là một trong các hoạt động thuận lợi hóa thương mại
dịch vụ, từ đó tạo điều kiện cho các nhà cung cấp dịch vụ chuyên môn nước ngoài tiếp
cận và thực hiện hoạt động cung cấp dịch vụ tại thị trường các quốc gia khác.
Tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 7 năm 2001, các nhà lãnh đạo ASEAN đã giao
nhiệm vụ cho Ủy ban điều phối dịch vụ ASEAN ( CCS) khởi động vòng đàm phán Hiệp
định về công nhận lẫn nhau ( MRA). Ủy ban điều phối dịch vụ đã thành lập một nhóm
chuyên gia đặc biệt về MRA để bắt đầu đàm phán về các thỏa công nhận lẫn nhau trong
dịch vụ. Hiện nay đã có 7 thỏa thuận công nhận lẫn nhau được ký kết, bao gồm: Thỏa
thuận khung ASEAN về công nhận lẫn nhau trong dịch vụ kế toán 2009, Thỏa thuận
ASEAN về công nhận lẫn nhau đối với hành nghề y tế 2009, Thỏa thuận ASEAN về
công nhận lẫn nhau đối với dịch vụ xây dựng 2009, Thỏa thuận ASEAN về công nhận
3
lẫn nhau đối với dịch vụ y tá 2005, Thỏa thuận ASEAN về công nhận lẫn nhau đối với
dịch vụ kiến trúc 2007 và Thỏa thuận khung ASEAN về công nhận lẫn nhau đối với
chứng chỉ đo đạc năm 2007. Ngoài ra còn có các thỏa thuận đa phương, song phương
giữa các quốc gia hay sự đơn phương công nhận từ phía quốc gia tiếp nhận.

Cơ chế công nhận lẫn nhau của ASEAN có ưu điểm là nó hoàn toàn dựa trên sự tự
nguyện, thỏa thuận giữa các quốc gia, không bắt buộc bất kỳ một quốc gia thành viên
ASEAN nào phải chấp nhận hoặc phải tham gia các hiệp định và thỏa thuận công nhận
lẫn nhau. Tuy nhiên, bên cạnh đó, cơ chế này cũng còn tồn tại những hạn chế như: Vì
dựa trên sự tự nguyện của các quốc gia thành viên nên việc kí kết các hiệp định, thỏa
thuận công nhận lẫn nhau phụ thuộc rất lớn vào thiện chí, quan hệ hợp tác của các nước.
Mặt khác, các thỏa thuận công nhận lẫn nhau phải được kí kết trong từng lĩnh vực cụ thể
của AFAS mà hiện tại có 12 phân ngành dịch vụ chính thuộc phạm vi điều chỉnh của
AFAS, mỗi phân nghành chính lại bao gồm nhiều phân ngành dịch vụ nhỏ. Như vậy, để
kí kết được tất cả các thỏa thuận công nhận lẫn nhau trong tất cả các lĩnh vực của
nghành dịch vụ là một khó khăn rất lớn đối với các quốc gia ASEAN.
II. Bình luận về hoạt động công nhận lẫn nhau trong thương mại dịch vụ của
ASEAN thông qua Thỏa thuận ASEAN về công nhận lẫn nhau đối với dịch
vụ kiến trúc năm 2007:
1. Chủ thể, đối tượng công nhận:
- Chủ thể được công nhận : Theo quy định tại các thỏa thuận công nhận hiện nay của
ASEAN, một Kiến trúc sư hoặc một người hành nghề kiến trúc (gọi chung là Kiến
trúc sư) có quốc tịch của một nước thành viên ASEAN có thể cung cấp dịch vụ tại
quốc gia thành viên khác trên cơ sở được công nhận chứng chỉ nghề nghiệp và được
cấp giấy phép hành nghề.
Vậy công nhận dịch vụ kiến trúc theo thỏa thuận chỉ áp dụng với các chủ thể là
kiến trúc sư có quốc tịch ASEAN. Tuy nhiện không phải mọi kiến trúc sư có quốc tịch
ASEAN đều mặc nhiên được các quốc gia ASEAN công nhận tư cách hành nghề mà các
chủ thể này phải nằm trong đối tượng công nhận (được hiểu là tiêu chuẩn, điều kiện để
được cung cấp dịch vụ) theo quy định của thỏa thuận.
4
- Đối tượng công nhận:
+) Theo quy định của Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau về dịch vụ kiến trúc ASEAN thì:
Một Kiến trúc sư đáp ứng được các tiêu chí về năng lực, kinh nghiệm thực tế và các điều
kiện dưới đây thì được quyền đăng ký ghi danh như một Kiến trúc sư ASEAN (AA):

(a) Đã hành nghề liên tục không dưới 10 năm kể từ khi tốt nghiệp, trong đó phải có 5
năm kể từ ngày được cấp chứng chỉ/đăng ký hành nghề;
(b) Đã có ít nhất hai năm đảm nhận trách nhiệm chủ trì công việc kiến trúc quan trọng;
(c) Đáp ứng yêu cầu về phát triển nghề nghiệp liên tục (CPD) ở mức độ thỏa đáng theo
quy định tại nước xin đăng ký;
(d) Đáp ứng và bắt buộc tuân thủ các quy định hiện hành về đạo đức hành nghề tại nước
xin đăng ký.
+) Một Kiến trúc sư có quốc tịch của một nước thành viên ASEAN và có đủ tiêu chuẩn
và kinh nghiệm đáp ứng các yêu cầu đã quy định tại Quy chế đánh giá có thể đăng ký để
được ghi tên vào Đăng bạ Kiến trúc sư ASEAN (AAR) và nhận danh hiệu Kiến trúc sư
ASEAN (AA). Cơ quan thẩm quyền quản lý nghề nghiệp tại mỗi quốc gia thành viên
ASEAN sẽ ủy quyền cho Ủy ban Giám sát tiếp nhận hồ sơ của các Kiến trúc sư, thực
hiện quy trình đánh giá và đăng ký cho các Kiến trúc sư ASEAN và duy trì Đăng bạ
Kiến trúc sư ASEAN. Ở Việt Nam, Bộ Xây dựng là cơ quan có thẩm quyền quản lý
nghề nghiệp này.
+) Ngoài ra, nếu một Kiến trúc sư ASEAN có nguyện vọng cung cấp các dịch vụ kiến
trúc tại một quốc gia thành viên ASEAN khác phải đủ tư cách để đăng ký với Cơ quan
thẩm quyền quản lý nghề nghiệp (PRA) của nước sở tại (là nước thành viên ASEAN có
tham gia Thỏa thuận) để được ghi danh là Kiến trúc sư nước ngoài có đăng ký (RFA);
sau khi đăng kí RFA, họ sẽ được phép làm việc tại nước sở tại nhưng cần tuân thủ luật
pháp và quy định của nước sở tại về việc hành nghề trong lĩnh vực thuộc năng lực của
mình.
5
Ở Việt Nam, một Kiến trúc sư nước ngoài có đăng ký (RFA) cần tuân theo các quy
định do Cơ quan thẩm quyền quản lý nghề nghiệp (mà ở đây là Bộ Xây dựng) ban hành.
Cơ quan thẩm quyền quản lý nghề nghiệp của nước sở tại theo luật định có trách nhiệm
đăng ký hoặc cấp chứng chỉ cho người hành nghề, đồng thời phải đảm bảo mục đích bảo
vệ sức khỏe, môi trường an toàn và lợi ích cộng đồng trong phạm vi quyền hạn của
mình, trong một số trường hợp Cơ quan này có thể đặt ra một số đánh giá bổ sung để
cho phép hành nghề độc lập. Tuy nhiên, để được đăng kí RFA thì kiến trúc sư nước

ngoài cần có một số điều kiện nhất định như: hiểu các nguyên tắc chung của hệ thống
quy chuẩn áp dụng trong lĩnh vực hành nghề và luật pháp của nước chủ nhà; thể hiện
được năng lực thực hiện các nguyên tắc ấy một cách an toàn, hiệu quả và hiểu biết về
các yêu cầu khác hiện hành tại Việt Nam.
2. Phương thức công nhận:
- Phương thức công nhận được hiểu là cách thức mà các quốc gia tiến hành nhằm thực
hiện việc công nhận lẫn nhau trong thương mại dịch vụ. Phương thức tiến công nhận
lẫn nhau bao gồm:
+) Kí kết Hiệp định song phương, đa phương về công nhận lẫn nhau.
+) Đơn phương công nhận
+) Nguyên tắc “có đi có lại” – được vận dụng khi chủ thể cung ứng dịch vụ của
quốc gia này được quốc gia khác đơn phương công nhận có đủ tư cách cung ứng dịch vụ
tại quốc gia mình nên quốc gia có chủ thể được công nhận cũng công nhận ngược trở lại
trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại.
- Phương thức công nhận trong dịch vụ kiến trúc được các nước ASEAN lựa chọn đó
là kí kết điều ước đa phương cụ thể là các quốc gia đã kí kết Thỏa thuận công
nhận lẫn nhau trong dịch vụ kiến trúc năm 2007. Đây cũng là phương thức được
các nước sử dụng trong các ngành dịch vụ khác như nay đã như Thỏa thuận ASEAN
về công nhận lẫn nhau trong dịch vụ kế toán 2009, Thỏa thuận ASEAN về công nhận
6
lẫn nhau đối với hành nghề y tế 2009…(tính đến nay đã có 7 thỏa thuận). Kí kết điều
ước đa phương là phương thức công nhận được các quốc gia lựa chọn sử dụng bởi:
+) ASEAN là tổ chức quốc tế đa phương khu vực nên việc xây dựng thỏa thuận
đa phương giữa tất cả các thành viên của tổ chức sẽ tạo ra cơ sở pháp lí để tất cả các
nước thành viên có nghĩa vụ thực hiện việc công nhận trên thực tế thông qua việc nội
luật hóa nhằm hiện thực hóa thỏa thuận.
+) Các điều ước quốc tế đa phương hay các thỏa thuận đa phương là sự thỏa thuận
của tất cả các quốc gia thành viên ASEAN, qua đó các quốc gia đã có sự trao đổi, đi đến
một kết quả là cho ra đời một thỏa thuận chung nên nó vừa thể hiện được ý chí của mỗi
quốc gia vừa đảm bảo sự thống nhất ý chí giữa tất cả các quốc gia nên nó cân bằng được

lợi ích giữa các quốc gia và có sự nhất quán chung trong việc xác định các tiêu chuẩn,
điều kiện để công nhận lẫn nhau.
- Nhận xét:
Các nước ASEAN thực hiện việc công nhận lẫn nhau thông qua phương thức
xây dựng các thỏa thuận quốc tế đa phương là hoàn toàn hợp lí bởi hai lí do đã phân
tích ở trên: thứ nhất, ASEAN là tổ chức quốc tế khu vực nên việc tất cả các quốc gia
xây dựng thỏa thuận về việc công nhận lẫn nhau sẽ tạo cơ sở pháp lí vững vàng để việc
công nhận lẫn nhau được hiện thực hóa trên thực tế; thứ hai, việc xây dựng các thỏa
thuận đa phương sẽ đạt được sự nhất trí cao giữa các quốc gia khi thỏa thuận đưa ra là
kết quả của quá trình các quốc gia trao đổi, đưa ra các ý kiến để có thể cân bằng lợi ích
của tất cả quốc gia thành viên. Đây cũng chính là ưu điểm của phương thức công nhận
này so với những phương thức công nhận còn lại ( kí kết hiệp định song phương, đơn
phương công nhận, nguyên tắc “có đi có lại”). Phạm vi của công nhận qua việc thực
hiện các phương thức còn lại nêu trên hẹp hơn (hiệp định song phương chỉ có hiệu lực
đối với hai quốc gia kí kết hay đơn phương công nhận thì chỉ là một quốc gia đơn
phương thực hiện việc công nhận cho cá nhân, tổ chức quốc gia khác thực hiện việc
7
cung ứng dịch vụ) và cũng không có được sự thống nhất ý chí chung của các quốc gia
trong việc công nhận như phương thức xây dựng điều ước đa phương.
3. Mức độ công nhận:
- Đối với công nhận lẫn nhau ta có chia thành hai mức độ sau: mức độ công nhận đầy
đủ và mức độ công nhận một phần
+) Mức độ công nhận đầy đủ: đây là trường hợp mà chủ thể có nhu cầu được cung
cấp dịch vụ được cấp giấy phép cung cấp dịch vụ luôn tại quốc gia mà mình muốn cung
cấp dịch vụ khi đã có giấy phép cung cấp dịch vụ đó tại quốc gia sở tại mà không bị đưa
ra nhưng yêu cầu, kiểm tra đánh giá nào cả.
+) Mức độ công nhận một phần: đây là trường hợp mà chủ thể có nhu cầu cung
cấp dịch vụ sẽ được cấp giấy phép tại quốc gia mình có nhu cầu cung cấp dịch vụ khi đã
qua kiểm tra, đánh giá tuy nhiên thủ tục kiểm tra đánh giá là thủ tục rút gọn trên cơ sở
những hiệp định mà các quốc gia đã thỏa thuận với nhau nhằm tạo điều kiện cho các chủ

thể có thể dễ dàng tiếp cận thị trường của quốc gia thành viên và qua đó thúc đẩy tự do
hóa thương mại phát triển.
- Theo Thỏa thuận ASEAN về công nhận lẫn nhau đối với dịch vụ kiến trúc 2007 thì
mức độ công nhận của thỏa thuận là mức độ công nhận một phần bởi theo thỏa
thuận này thì một kiến trúc sư ( bao gồm kiến trúc sư và người hành nghề kiến trúc
khác) sẽ được công nhận là kiến trúc sư ở các quốc gia ASEAN khi thực hiện thủ tục
mà thỏa thuận này quy định. Cụ thể như sau:
+) Khi đáp ứng đủ tiêu chuẩn và kinh nghiệm, kiến trúc sư có thể đăng ký để được
ghi tên vào Đăng bạ Kiến trúc sư ASEAN (AAR) và nhận danh hiệu Kiến trúc sư
ASEAN (AA).
+) Cơ quan thẩm quyền quản lý nghề nghiệp tại mỗi quốc gia thành viên ASEAN
sẽ ủy quyền cho Ủy ban Giám sát tiếp nhận hồ sơ của các Kiến trúc sư, thực hiện quy
trình đánh giá và đăng ký cho các Kiến trúc sư ASEAN và duy trì Đăng bạ Kiến trúc sư
ASEAN.
8
+) Và khi đã được công nhận là Kiến trúc sư ASEAN muốn hành nghề tại một
quốc gia thành viên của ASEAN thì Kiến trúc sư ASEAN phải thực hiện những thủ tục
sau: cho thấy bằng chứng về việc đăng ký với các cơ quan quản chuyên nghiệp; xác định
các nội dung dịch vụ mà mình muốn thực hiện; nộp lệ phí đăng ký theo quy định của cơ
quan quản lý chuyên nghiệp.
- Nhận xét:
Mức độ công nhận trong thỏa thuận này là công nhận một phần. Mức độ công
nhận này làm hạn chế sự tự do hóa thương mại dịch vụ giữa các nước thành viên so
với mức độ công nhận đầy đủ bởi nó vẫn đặt ra những thủ tục để kiểm tra đánh giá
như đã phân tích ở trên tuy có sự đơn giản và thống nhất hóa về thủ tục giữa các quốc
gia thành viên. Tuy nhiên các quốc gia thành viên ASEAN lựa chọn mức độ công
nhận này là hợp lí, phù hợp với điều kiện của các nước thành viên ASEAN bởi rõ
ràng các quốc gia ASEAN có sự chênh lệch lớn về trình độ phát triển kinh tế cũng như
mỗi nước có sự khác nhau lớn trong việc đặt ra các yêu cầu, tiêu chuẩn đối với ngành
dịch vụ nói chung và ngành dịch vụ kiến trúc nói riêng. Nếu chủ thể muốn cung ứng

dịch vụ không trải qua một quy trình đánh giá nào cả mà mặc nhiên được công nhận khả
năng cung ứng dịch vụ của các quốc gia khác sẽ dẫn đến tình trạng nhiều nhà cung ứng
dịch vụ tràn sang các nước phát triển, cung ứng dịch vụ không tốt, gây hỗn loạn thị
trường cũng như làm những nước còn lại trong khu vực thiếu nguồn cung ứng dịch vụ.
4. Vai trò của công nhận:
- Thứ nhất, công nhận lẫn nhau trong lĩnh vực dịch vụ làm nâng cao chất lượng dịch
vụ, người cung ứng dịch vụ kiến trúc trong nước. Sở dĩ việc công nhận lẫn nhau
trong lĩnh vực dịch vụ làm nâng cao chất lượng dịch vụ kiến trúc trong nước bởi khi
những nhà cung ứng dịch vụ có năng lực từ các nước khác được thâm nhập vào thị
trường qua thủ tục công nhận sẽ làm các nhà cung ứng dịch vụ trong nước nâng cao
chất lượng dịch vụ để có thể giữ được khách hàng, duy trì hoạt động của mình khi
xuất hiện các đối thủ cạnh tranh. Dưới một góc độ khác thì sự tham gia vào thị
9
trường của các nhà cung ứng dịch vụ nước ngoài với trình độ chuyên môn cao sẽ tạo
cơ hội cho nhà cung ứng dịch vụ trao đổi, học hỏi kinh nghiệm.
- Thứ hai, việc công nhận lẫn nhau trong dịch vụ kiến trúc sẽ làm tăng tính cạnh tranh
của thị trường dịch vụ kiến trúc. Khi có sự tham gia của các đối thử cạnh tranh như
đã phân tích ở trên thì rõ ràng tính cạnh tranh của thị trường sẽ tăng lên đòi hỏi các
nhà cung ứng dịch vụ nội địa cũng như các nhà cung ứng được tham gia thị trường
do được công nhận phải không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ và qua đó đã tạo
ra vai trò thứ ba của việc công nhận.
- Thứ ba, việc công nhận lẫn nhau sẽ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong dịch
vụ kiến trúc. Do nó tạo điều kiện để các quốc gia có thể tiếp nhận, sử dụng dịch vụ
tốt kiến trúc hơn từ nhiều nhà cung cấp dịch vụ khác nhau, đa dạng hóa ngành dịch
vụ kiến trúc trong nước. Qua việc trao đổi kinh nghiệm cũng như qua quá trình cạnh
tranh thì chất lương nguồn cung ứng dịch vụ sẽ được nâng cao.
- Thứ tư, thúc đẩy và tạo điều kiện thuận lợi cho dịch vụ kiện trúc, kiến trúc sư được
công nhận tiếp cận với thị trường. Các thỏa thuận công nhận lẫn nhau được kí kết
nhằm công nhận chứng chỉ của các nhà cung cấp các dịch vụ nghề nghiệp đến từ các
quốc gia thành viên ASEAN. Nó tạo điều kiện cho các nhà cung cấp dịch vụ chuyên

môn nước ngoài tiếp cận và thực hiện hoạt động cung cấp dịch vụ tại thị trường của
một quốc gia khác.
- Thứ năm, công nhận lẫn nhau trong dịch vụ kiến trúc nói riêng và trong các ngành
dịch vụ nói chung cùng với việc hạn chế và xóa bỏ các rào cản thương mại dịch vụ
là phương thức để thực hiện tự do hóa thương mại dịch vụ trong ASEAN. Thông qua
hoạt động công nhận lẫn nhau sẽ thúc đẩy tự do hóa thương mại dịch vụ giữa các
quốc gia thành viên ASEAN, tiến tới thành lập khu vực dịch vụ ASEAN.
III. Thực trạng việc công nhận trong dịch vụ kiến trúc tại Việt Nam:
- Thứ nhất, Việt Nam đã có động thái tịch cực nhằm thực hiện viện công nhận dịch vụ
kiến trúc theo thỏa thuận đó là ngày 14 tháng 06 năm 2011 Bộ xây dựng đã ra Quyết
định số 554/QĐ - BXD Quyết định về việc ban hành quy chế đánh giá kiến trúc sư
ASEAN. Trên cơ sở Thỏa thuận ASEAN về công nhận lẫn nhau đối với dịch vụ kiến
10
trúc 2007, quyết định đã cụ thể hóa rõ các điệu kiện để một kiến trúc sư được công
nhận là kiến trúc sư ASEAN có quyền hành nghề trên lãnh thổ Việt Nam (điều kiện
về quốc tịch, kinh nghiệm…) đồng thời quy định rõ trình tự thủ tục để được công
nhận; cơ quan nhà nước Việt Nam có thẩm quyền quản lí nghề nghiệp, thành lập và
thẩm quyền của Ủy ban giám sát . Đây là văn bản pháp lí quốc gia quan trọng làm cơ
sở để thực hiện việc công nhận dịch vụ kiến trúc trên thực tế.
- Thứ hai, ta có thể thấy ở hầu hết ở các nước có nền kiến trúc phát triển đều có Luật
Kiến trúc sư hoặc Luật hành nghề Kiến trúc sư. Thực hiện cam kết với các nước
trong cộng đồng ASEAN, các nước như Singapore, Malaixia, Indonesia, Philipin
đã có Luật Kiến trúc sư. Tuy nhiên, trong cộng đồng ASEAN vẫn còn 04 nước chưa
biên soạn thảo Luật KTS là Việt Nam, Lào, Campuchia và Myamar. Xu thế nhất thể
hóa thị trường và công nhận lẫn nhau các chứng chỉ nghề nghiệp, đặc biệt là nghề
Kiến trúc sư trên cơ sở Luật Kiến trúc là tất yếu. Các nước ASEAN cam kết sẽ hoàn
tất công việc này vào năm 2015. Như vậy, không có lý gì Việt Nam không thực hiện
việc soạn thảo Luật Kiến trúc sư ? Ngoài cam kết với ASEAN, Việt Nam cũng đang
ở trong nhiều tổ chức quốc tế quan trọng khác có liên quan đến hoạt động hành nghề
KTS như: UIA, UNESCO, WTO Các tổ chức này cũng có những yêu cầu, cam kết

tương tự trong lĩnh vực đào tạo và hành nghề Kiến trúc sư.
- Thứ ba, điểm yếu hiện tại là kỹ sư và kiến trúc sư Việt Nam tuy có thể đáp ứng về
mặt chuyên môn nhưng còn hạn chế về ngoại ngữ, khả năng khai thác và cập nhật
thông tin, các kỹ năng quản lý dự án, tài chính, môi trường, nguồn nhân lực, kiến
thức về pháp luật thương mại, thông lệ quốc tế Trong khi đó, các doanh nghiệp
nước ngoài, nhất là các doanh nghiệp mạnh của các nước phát triển sẽ có những tính
toán kỹ càng trong việc chọn lựa phương thức đầu tư hoạt động dịch vụ lâu dài tại
Việt Nam và chắc chắn là họ sẽ cố gắng khai thác triệt để những nhân tố, những yếu
tố, điều kiện mang lại lợi ích cho họ nhất. Cùng với sự không phân biệt trong đối xử
quốc gia, với lợi thế về trình độ quản lý, năng lực, kinh nghiệm nghề nghiệp và hiểu
biết thị trường, các doanh nghiệp nước ngoài sẽ chiếm ưu thế trong cạnh tranh, đặc
11
biệt với mục đích làm ăn lâu dài, khả năng nguồn lực cán bộ chuyên gia Việt Nam có
chuyên môn tốt sẽ bị các doanh nghiệp nước ngoài thu hút. Tuy nhiên, do bị ràng
buộc bởi các cam kết song phương và đa phương, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ
không còn sự bảo hộ của Nhà nước thông qua các chính sách hạn chế đối với các
doanh nghiệp nước ngoài. Việc nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghề nghiệp,
nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp tư vấn xây dựng để đáp ứng yêu cầu
phát triển trong hội nhập kinh tế khu vực và thế giới là vô vùng cấp bách. Theo quy
luật của nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp nào không cải tiến, không nâng cao
trình độ cán bộ, không tăng cường năng lực, không nắm bắt kịp thời các thông tin
mới, không áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến, không bảo đảm chất lượng sản
phẩm, chỉ trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước thì chắc chắn, trước sau cũng sẽ bị
đào thải.
 Giải pháp: để khắc phục những hạn chế nêu trên, Việt Nam cần sớm ban hành Luật
kiến trúc sư đồng thời nâng cao công tác quản lí ngành xây dựng nói chung, ngành
dịch vụ kiến trúc nói riêng và thúc đẩy hoạt động đào tạo ngoại ngữ, kiến thức pháp
lí cho đội ngũ kiến trúc sư trong nước để có thể thâm nhập vào thị trường dịch vụ các
nước khác trong khối ASEAN cũng như để có đủ sức cạnh tranh với những kiến trúc
ASEAN hành nghề trên lãnh thổ Việt Nam.

C. KẾT LUẬN:
Tóm lại, thông qua những phân tích và bình luận trên đây, có thể thấy hoạt động
công nhận lẫn nhau trong dịch vụ kiến trúc nói riêng và trong thương mại dịch vụ của
ASEAN nói chung ngày càng được hoàn thiện theo hướng tạo thuận lợi cho các bên chủ
thể. Theo đó, hoạt động này sẽ còn được mở rộng trên tất cả các lĩnh vực dịch vụ nhằm
đưa đến những hiệu quả tốt nhất, đồng thời tăng cường hơn nữa mối quan hệ giữa các
quốc gia trong khối, nâng cao uy tín của ASEAN.
12

×