Tải bản đầy đủ (.docx) (122 trang)

Lv ths luật đấu tranh phòng chống buôn lậu của cục hải quan bình định thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.33 KB, 122 trang )

1

Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tệ nạn bn lậu, gian lận thương mại ở nước ta trong những năm gần
đây diễn biến phức tạp, mang tính thời sự; có xu hướng gia tăng về quy mơ,
chủng loại hàng hóa, thủ đoạn ngày càng tinh vi; có nơi, có lúc trở nên nóng
bỏng, quyết liệt. Bn lậu thật sự trở thành "quốc nạn", gây trở ngại cho công
cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Thực trạng trên đã và đang là những vấn đề bức xúc của toàn xã hội.
Chính vì vậy Đảng, Nhà nước đã đề ra nhiều chủ trương chính sách để ngăn
chặn, phịng ngừa "hiểm họa" này. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa VIII) đã nhấn mạnh: "Tăng cường sự phối hợp
giữa các cơ quan chức năng, phát huy vai trị của nhân dân để tiến hành có
hiệu quả những biện pháp chống buôn lậu trên các tuyến biên giới, vùng biển
và trên thị trường nội địa. Ngăn chặn và xử lý nghiêm mọi hành vi buôn lậu,
gian lận thương mại hoặc tiếp tay, bao che cho buôn lậu". Thủ tướng Chính
phủ cũng đã có Chỉ thị số 853/CT-TTg ngày 16/10/1997 đánh giá: "Buôn lậu
đang diễn biến hết sức nghiêm trọng, đã gây ra những hậu quả nguy hại về
kinh tế - xã hội, cản trở quá trình phát triển lành mạnh của kinh tế đất nước".
Để giải quyết "quốc nạn" này, Đảng và Nhà nước xác định đây là
nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên, cấp bách và lâu dài; địi hỏi tồn Đảng,
tồn qn, tồn dân tích cực tham gia đấu tranh phòng, chống nhằm từng
bước ngăn chặn và tiến tới đẩy lùi tệ nạn buôn lậu. Cuộc đấu tranh này chỉ có
thể giành thắng lợi nếu được phối hợp triển khai mạnh mẽ trên địa bàn toàn
quốc và trên từng địa bàn cụ thể, trong đó đấu tranh phịng chống bn lậu
trên từng địa bàn có ý nghĩa quan trọng.
Là một tỉnh nằm ở vùng duyên hải miền Trung Trung bộ, Bình Định
có đường sắt Bắc - Nam và quốc lộ 1 đi qua, có quốc lộ 19 nối liền ba tỉnh



2
Tây Ngun với các tỉnh Đơng Bắc Cam-pu-chia, có sân bay, ga tàu lửa, cảng
biển Quy Nhơn. Đây là những điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế xã hội, nhưng cũng chính nơi đây từng gây nhức nhối trong dư luận về tình
trạng bn lậu hàng của thủy thủ tàu viễn dương trong những năm 1990.
Trước tình hình bn lậu diễn biến phức tạp trên địa bàn, trong những năm
qua dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Bình
Định và Tổng cục Hải quan (TCHQ), cơng tác đấu tranh phịng chống bn
lậu của Cục Hải quan Bình Định (HQBĐ) đã đạt được những thành tựu nhất
định, tuy nhiên kết quả chưa cao, tình trạng bn lậu tuy có giảm về số vụ,
nhưng thủ đoạn ngày càng tinh vi gây không ít khó khăn cho cơng tác phịng
chống.
Để nhìn nhận và đánh giá đúng thực trạng, tìm ra những giải pháp hữu
hiệu khắc phục tình trạng bn lậu trên địa bàn Bình Định, tác giả chọn đề tài:
"Đấu tranh phịng chống bn lậu của Cục Hải quan Bình Định - thực
trạng và giải pháp" nhằm đáp ứng yêu cầu cấp thiết về mặt lý luận và thực
tiễn đang đặt ra ở Bình Định hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đấu tranh phịng chống bn lậu là một trong những vấn đề được Đảng
và Nhà nước rất quan tâm, đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo công tác này;
trong lĩnh vực khoa học pháp lý đã có khơng ít cơng trình khoa học của các
nhóm tác giả, cá nhân được cơng bố; có liên quan đến vấn đề đấu tranh phịng
chống bn lậu, đáng lưu ý các cơng trình nghiên cứu dưới đây:
Vũ Ngọc Anh, Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về Hải quan ở nước
ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội, 1996; PTS. Lê Thanh Bình,
Chống bn lậu và gian lận thương mại, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1998; ThS. Lê Văn Tới, Buôn lậu và chống buôn lậu, nhận diện và giải pháp,
Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000; GS.TS Nguyễn Xn m - PGS.TS
Nguyễn Hịa Bình (chủ biên), Tội phạm kinh tế thời mở cửa, Nxb Công an
nhân dân (tài liệu lưu hành nội bộ), 2003; TS. Đỗ Đình Hịa, Tổ chức hoạt



3
động điều tra của lực lượng cảnh sát nhân dân, Nxb Cơng an nhân dân, Hà
Nội. 2003.
Các cơng trình, bài viết trên đây tập trung chủ yếu nghiên cứu và làm
rõ về mặt lý luận cũng như thực tiễn những vấn đề về buôn lậu trên phương
diện cả nước, nhưng cho đến nay chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách toàn
diện cả về lý luận và thực tiễn dưới giác độ khoa học luật học về đấu tranh
phòng, chống bn lậu của Cục HQBĐ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích của luận văn
Đề xuất các giải pháp tăng cường cơng tác đấu tranh phịng chống buôn
lậu của Cục HQBĐ hiện nay.
3.2 Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ sau đây:
- Khái quát những vấn đề lý luận về buôn lậu và đấu tranh chống buôn
lậu.
- Làm rõ vị trí, vai trị, chức năng, nhiệm vụ của ngành Hải quan trong
đấu tranh phịng chống bn lậu.
- Đánh giá thực trạng đấu tranh phịng chống bn lậu ở Cục HQBĐ
trong thời gian qua; đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường cơng tác đấu
tranh phịng, chống bn lậu của Cục HQBĐ trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu thực tiễn cơng tác đấu tranh phịng
chống bn lậu của Cục HQBĐ trong giai đoạn 5 năm từ năm 1999 đến năm
2003 và đề xuất các giải pháp tăng cường công tác đấu tranh phịng chống
bn lậu của Cục HQBĐ trong những năm 2005 - 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu



4
Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; đường lối, quan điểm của Đảng về nhà nước và pháp luật đối với
hoạt động Hải quan làm cơ sở lý luận để nghiên cứu.
Tác giả sử dụng các phương pháp: lơgíc và lịch sử, phân tích và tổng
hợp; cụ thể: phương pháp luật học so sánh, phương pháp thống kê, phân tích,
phương pháp điều tra, gắn lý luận với thực tiễn, để chọn lọc tri thức khoa học
cũng như kinh nhiệm thực tiễn để thực hiện mục đích và nhiệm vụ luận văn
đề ra.
Trong quá trình nghiên cứu tác giả tham khảo, kế thừa có chọn lọc các
cơng trình nghiên cứu, bài viết có liên quan đến lĩnh vực luận văn đề cập.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn khơng những góp phần bổ sung làm sáng tỏ thêm về mặt lý
luận đối với công tác đấu tranh phịng chống bn lậu trong cả nước nói
chung và thực tiễn trên địa bàn tỉnh Bình Định nói riêng, mà cịn giúp cho cán
bộ, cơng chức Cục HQBĐ làm tốt trách nhiệm của mình trong việc giải quyết
vấn đề bn lậu trong phạm vi chức năng nhiệm vụ luật định.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần đổi mới tổ chức hoạt
động của Cục HQBĐ đề ra phương án cụ thể, trước mắt và lâu dài nhằm tăng
cường đấu tranh phịng chống bn lậu trên địa bàn Bình Định.
- Đề tài này góp phần cùng với Cục Điều tra chống buôn lậu (Tổng
Cục Hải quan) xây dựng phương án phịng chống bn lậu cho tồn ngành;
đồng thời làm cơ sở để vận dụng chỉ đạo cho các Cục Hải quan địa phương về
đấu tranh phịng chống bn lậu trong tình hình mới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.


5


Chương 1
Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về cơng tác đấu tranh Phịng chống bn
lậu của ngành hải quan

1.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về buôn lậu

1.1.1. Khái niệm buôn lậu
Buôn lậu là hiện tượng kinh tế - xã hội xuất hiện cùng với hàng rào thuế
quan, nó tồn tại phát triển trong hoạt động thương mại của xã hội loài người.
Là một hiện tượng kinh tế - xã hội tiêu cực, buôn lậu xuất hiện cùng
với sự ra đời của bộ máy nhà nước và hàng rào thuế quan quản lý hoạt động
thương mại ở mỗi quốc gia; là hoạt động kinh tế bất hợp pháp, mục đích là
làm sao đạt được lợi nhuận cao nhất.
Việc nhìn nhận đánh giá hiện tượng bn lậu ở từng giai đoạn lịch sử
và mỗi quốc gia cũng khác nhau.
ở Việt Nam thuật ngữ "buôn lậu" đã có từ lâu trong dân gian và đã
được các nhà ngôn ngữ học Việt Nam định nghĩa: "buôn lậu là các hành vi
buôn bán hàng trốn thuế hoặc hàng quốc cấm" hoặc là "mua bán những mặt
hàng cấm và trốn đóng thuế theo quy định" có nghĩa là trong kinh doanh bn
bán, nếu có các hành vi trốn lậu, gian lận... thì đều được xem là bn lậu.
Quan niệm trên đây đến nay vẫn tồn tại phổ biến trong nhận thức của nhiều
người Việt Nam. Nói về bn lậu người ta nghĩ ngay đến việc buôn bán hàng
quốc cấm, trốn lậu thuế, buôn bán không trong sáng, buôn gian bán lậu.
Khác với nhận thức trên, trong Từ điển tiếng Anh, bn lậu (smuggling)
được giải thích là: "hành vi mang hàng hóa một cách bí mật và khơng hợp
pháp vào hoặc ra khỏi một nước mà không chịu trả thuế quan".
Trong Từ điển Bách khoa Việt Nam buôn lậu là:



6
1. Hành vi buôn bán trái phép qua biên giới những loại hàng
hóa hoặc ngoại tệ, kim khí và đá q, những vật phẩm thuộc di tích
lịch sử, văn hóa mà Nhà nước cấm xuất khẩu hay nhập khẩu hoặc
buôn bán hàng hóa nói chung qua biên giới mà trốn thuế và trốn sự
kiểm tra của Hải quan.
2. Hành vi bn bán trốn thuế, lậu thuế những hàng hóa ở
trong nước mà Nhà nước cấm kinh doanh [48, tr 291].
Tổ chức Hải quan thế giới WCO (World Customs Organization) họp
tại thủ đơ Nairobi của nước Cộng hịa Kênia ngày 09/6/1977 thống nhất đưa
ra khái niệm (cịn gọi là cơng ước Nairobi) như sau: "Buôn lậu là gian lận
thương mại nhằm che giấu sự kiểm tra, kiểm soát của Hải quan bằng mọi thủ
đoạn, mọi phương tiện trong việc đưa hàng hóa lén lút qua biên giới".
Bn lậu xuất hiện trước hết là do những mâu thuẫn cơ bản của sự
phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; đó là sự lạc hậu về kinh tế, tình
trạng khơng đồng nhất giữa các nước, nhất là các nước trong khu vực về sức
sản xuất, nhu cầu tiêu dùng và giá cả hàng hóa, đặc biệt là trong điều kiện
quốc tế hóa việc phân cơng lao động sản xuất mang tính chun mơn hóa đã
làm tiết kiệm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, giá thành hạ, sự
chênh lệch quá lớn về giá thành sản phẩm giữa các nước trong khu vực tạo ra
lợi nhuận siêu ngạch cho người làm lưu thơng hàng hóa. Đây chính là điều
kiện sâu xa làm cho buôn lậu tồn tại và phát triển như một tất yếu khách quan.
Với bản chất là một hoạt động kinh tế bất hợp pháp mang tính xã hội,
buôn lậu luôn chịu sự tác động của các quy luật kinh tế. Việc quan niệm về buôn
lậu của từng quốc gia trong từng giai đoạn và điều kiện chính trị, văn hóa, xã
hội cũng khác nhau. Những nước có nền kinh tế phát triển thì khuyến khích
xuất khẩu hàng hóa có sức cạnh tranh ra nước ngồi để chiếm thị trường, mang
lại lợi nhuận cao luôn được các quốc gia đó quan tâm; chỉ ngăn chặn những
hàng hóa nhập khẩu có ảnh hưởng xấu đến xã hội như ma túy, chất nổ....



7
Đối với các nước nghèo, sức sản xuất thấp, giá cả hàng hóa cao, nhu cầu
tiêu dùng của xã hội lớn thì bn lậu và chống bn lậu là vấn đề hết sức nan giải.
Xuất phát từ những yếu tố khách quan của hoạt động buôn lậu, cũng
như thực tiễn tình hình và u cầu đấu tranh chống bn lậu ở Việt Nam, ta
có thể đưa ra khái niệm bn lậu như sau: Buôn lậu là buôn bán trái phép
qua biên giới hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý hoặc các
vật phẩm thuộc di tích lịch sử văn hóa.
Theo khái niệm trên bn lậu có phạm trù điều chỉnh rộng hơn nhiều
so với tội buôn lậu. Sự khác nhau đó khơng phải là về hành vi mà là ở chỗ hậu
quả gây ra cho xã hội của hành vi "buôn lậu trái phép qua biên giới" như thế
nào, tức là nếu hành vi "buôn lậu trái phép qua biên giới hàng hóa, tiền Việt
Nam, ngoại tệ, kim khí quí, đá quý hoặc các vật phẩm thuộc di tích lịch sử
văn hóa" chưa hội tụ đủ các điều kiện pháp luật hình sự quy định (hậu quả
gây ra cho xã hội chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự) thì xử lý
hành chính. Ngược lại, hành vi đó xâm hại các quan hệ xã hội mà pháp luật
hình sự bảo vệ thì được điều chỉnh tại Điều 153 của Bộ luật hình sự (BLHS).
Một số vấn đề đặt ra ở đây là phân biệt giữa hành vi buôn lậu và hành
vi gian lận thương mại.
Gian lận thương mại là hành vi gian lận thể hiện thơng qua mua bán,
trao đổi, dịch vụ hàng hóa; mục đích của hành vi này nhằm thu lợi bất chính.
Cụ thể đối tượng lừa dối cơ quan chức năng nhà nước để thực hiện hành vi
gian lận của mình, như hàng hóa nhiều khai ít, ít khai nhiều hàng có thuế xuất
cao khai thấp, khai khơng đúng chủng loại... nhằm để trốn thuế.
Tại Hội nghị quốc tế lần thứ 5 về chống gian lận thương mại tại Brúcxen (Bỉ) các nước thành viên tổ chức WCO đã đưa ra khái niệm gian lận
thương mại trong lĩnh vực hải quan như sau:
Gian lận thương mại trong lĩnh vực hải quan là hành vi vi
phạm pháp luật hải quan và các quy định liên quan khác nhằm đạt



8
mục đích trốn tránh việc nộp thuế hải quan, phí và các khoản thu
khác đối với việc di chuyển hàng hóa trong thương mại; tiếp nhận
việc hồn trả trợ cấp hoặc phụ cấp cho hàng hóa khơng thuộc đối
tượng đó (mạo nhận); cố ý đoạt được lợi thế thương mại bất hợp
pháp, gây tác hại cho các nguyên tắc và tập tục cạnh tranh thương
mại chân chính.
Cơng ước Nairơbi cũng đưa ra khái niệm buôn lậu là gian lận thương
mại nhằm che giấu sự kiểm tra, kiểm soát của Hải quan bằng mọi thủ đoạn,
mọi phương tiện trong việc đưa hàng hóa lén lút qua biên giới.
Theo các định nghĩa trên của Tổ chức WCO: Buôn lậu và gian lận
thương mại có sự khác nhau đó là, gian lận thương mại là cố ý làm trái các
quy định của Nhà nước, hoặc lợi dụng sơ hở của chính sách, pháp luật và
công tác quản lý của cơ quan chức năng để thực hiện hành vi gian dối công
khai nhằm thu lợi bất chính; cịn bn lậu trước hết phải là hành vi gian lận
thương mại nhưng ở mức cao hơn (hành vi, thủ đoạn, tính chất...). Như vậy,
khái niệm gian lận thương mại rộng hơn, bao hàm khái niệm buôn lậu.
Điều 153 BLHS năm 1999 xác định tội buôn lậu là "buôn bán trái phép
qua biên giới thuộc một trong các trường hợp sau đây " [39, tr 106]:
- Buôn bán trái phép hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý,
đá quý, các vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa; các loại hàng cấm.
- Khơng khai báo hoặc khai báo hàng hóa một cách gian dối, hoặc
giấu giếm hàng hóa, tiền tệ...
- Sử dụng các giấy tờ giả mạo của các cơ quan có thẩm quyền, lén lút
không qua cửa khẩu để trốn tránh sự phát hiện của cơ quan nhà nước.
Theo quy định này, tội buôn lậu bao hàm cả hành vi gian lận trong
lĩnh vực thương mại: không khai báo, hoặc khai báo gian dối, giả mạo giấy tờ,



9

giấu giếm hàng hóa v.v... qua đó ta có thể hiểu: gian lận thương mại trong
lĩnh vực hải quan là nội dung, một phần của tội buôn lậu.
Như vậy việc quy định trong văn bản pháp luật Việt Nam có phần không
giống với quy định của tổ chức WCO. Tổ chức WCO cho rằng: buôn lậu là một
nội dung của gian lận thương mại, trong khi đó pháp luật Việt Nam định
nghĩa buôn lậu và gian lận thương mại riêng biệt, đồng thời coi gian lận
thương mại là một dạng của buôn lậu. Việc không thống nhất này gây rất khó
khăn trong việc giải quyết vi phạm phát sinh trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế.
Từ nhận thức về bn lậu và gian lận thương mại ta có thể phân biệt
hai hành vi này như sau:
Mặc dù mục đích, hậu quả của hai hành vi khá giống nhau nhưng nội
dung và hình thức, thủ đoạn của bn lậu và gian lận thương mại hồn tồn
khác nhau. Trong khi bn lậu thu lợi bằng cách trốn tránh khai báo, có khi
lén lút vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới để trốn thuế, thì gian lận
thương mại là hành vi cơng khai xuất trình hồ sơ và làm các thủ tục hàng hóa
xuất nhập khẩu (XNK) trước sự chứng kiến của cơ quan quản lý.
Bản chất của buôn lậu là mạo hiểm, sử dụng mọi thủ đoạn che giấu và
dùng các phương tiện cần thiết để đưa hàng qua biên giới; còn bản chất của
gian lận thương mại là lợi dụng chính sách, luật lệ của Nhà nước để hợp thức
hóa trái phép hàng hóa XNK nhằm thu lợi bất chính. Biểu hiện của hoạt động
bn lậu thường là lén lút, thậm chí liều lĩnh; cịn gian lận thương mại thường
biểu hiện sự ngoan ngoãn, tuân thủ các quy định, nhưng bên trong che giấu hành
vi bất chính. Vì vậy cuộc đấu tranh chống gian lận thương mại thực sự là cuộc
đấu trí, đấu lực cam go, giữa các cơ quan quản lý nhà nước và những kẻ bất
chính.
Dấu hiệu để nhận biết buôn lậu là hành vi trốn tránh sự kiểm tra, kiểm
soát của cơ quan chức năng, không đăng ký việc buôn bán với cơ quan nhà



10
nước; còn gian lận thương mại là hành vi gian dối trong khai báo làm thủ tục
hải quan để tránh việc kiểm tra, kiểm sốt của Hải quan; cơng khai vận
chuyển hàng hóa XNK qua cửa khẩu, do đó nhận biết khó khăn hơn như núp
bóng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước, do vậy cần phải kiểm tra cụ
thể, tỉ mỉ (cân, đong, đo, đếm, kiểm tra kỹ hồ sơ…) mới phát hiện được.
Xử lý hành vi buôn lậu được qui định cụ thể trong Luật hình sự, Luật
Hải quan, các văn bản pháp luật khác; còn hành vi gian lận thương mại khơng
những khó khăn trong nhận biết mà cịn phức tạp khi xử lý vì hiện nay chưa
có văn bản của cấp có thẩm quyền hướng dẫn thống nhất.
Thực tế đặt ra đòi hỏi pháp luật sớm xác định rõ để phân biệt hai hành
vi này, đảm bảo cơ sở pháp lý cho công tác đấu tranh xử lý đối với hành vi tội
buôn lậu cũng như gian lận thương mại có hiệu quả.
1.1.2. Nguồn gốc, bản chất của bn lậu
Xã hội lồi người cần đến hàng hóa để tiêu dùng và thật sự được thỏa
mãn nhờ sự trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia.
Lịch sử hàng ngàn năm trước đây, một mặt thị trường là sự gặp gỡ
trao đổi sản phẩm của các cộng đồng riêng lẻ, tự cung tự cấp, chủ yếu là trao
đổi với nhau những sản phẩm dư thừa thông dụng, chứ không phải là những
yếu tố quan trọng tạo nên sự cân bằng bên trong của mỗi cộng đồng; mặt khác
"lúc đó những người thực hiện trao đổi ấy lại coi lý do kinh tế không quan
trọng bằng các quy định về tơn giáo, tập qn và dịng họ… đang chi phối
cuộc sống của họ" [4, tr. 10]. Tự cung tự cấp, trao đổi sản phẩm vốn có từ lâu
và gần gũi đối với đời sống sinh hoạt trong buổi bình minh của xã hội lồi người.
Cùng với quy luật phát triển khách quan của xã hội và quy luật kinh
tế đã làm nảy sinh các quan hệ buôn bán, thương mại. Khi sản xuất hàng
hóa phát triển đến một giai đoạn nhất định thì cần có sự trao đổi, "không
những trong nội bộ và ở biên giới của Bộ lạc, mà cả với những nước ở hải



11
ngoại nữa" [31, tr. 234] và thương nghiệp ra đời - "một giai cấp khơng cịn tham
gia sản xuất nữa mà chỉ làm công việc trao đổi sản phẩm đã xuất hiện, đó là
những thương nhân" [31, tr. 246] - nó tồn tại đã "tạo khả năng có quan hệ thương
nghiệp vượt ra ngoài phạm vi của khu vực gần gũi nhất, một khả năng mà sự
thực hiện tùy thuộc vào những phương tiện giao thơng hiện có, vào tình trạng an
ninh công cộng trên đường đi do những quan hệ chính trị quyết định (thời
Trung cổ thương nhân thường đi thành từng đồn có vũ trang) và cịn phụ
thuộc vào sự phát triển nhiều hay ít của những nhu cầu của địa phương mà sự
giao tiếp có thể với tới được" [30, tr.76], Vì vậy, "cùng với thành thị đã xuất
hiện sự cần thiết phải có sự cai trị, cảnh sát, thuế khóa v.v..." [30, tr. 72].
Nói về kinh doanh, trao đổi hàng hóa, Aristốt (383 - 322 tr. CN) - nhà
tư tưởng lớn nhất thời cổ đại - ông đã phân biệt trong kinh doanh có hai loại:
Một là, loại "kinh tế": giá trị sử dụng có tác dụng kích thích là chủ yếu, việc
trao đổi chỉ là phương tiện để tổ chức kinh tế tốt hơn. Loại này gồm thương
nghiệp trao đổi (trao đổi tự nhiên hàng - hàng) và tiểu thương nghiệp hàng
hóa hoạt động, ơng cho là loại này hợp lẽ tự nhiên và hợp quy luật. Hai là,
loại "sản xuất ra của cải": có mục đích làm giàu và tăng khối lượng tiền tệ, và
tiền tệ là mục đích cuối cùng, là sự bắt đầu và kết thúc của vịng chu chuyển,
là mục đích chính của lưu thơng hàng hóa. Ơng cho loại này là trái quy luật,
vì nó làm cho tiền tệ trở thành mục đích cuối cùng, thành phương tiện làm
giàu và dễ làm cho một số người bị đồng tiền nô lệ, bn bán bất chính. Mác
viết:
Lợi nhuận mà thích đáng thì tư bản trở nên can đảm, lợi nhuận
mà đảm bảo được 10% thì người ta có thể dùng được tư bản ở khắp
nơi, đảm bảo được 20% thì nó hăng máu lên, đảm bảo được 50%
thì nó táo bạo khơng biết sợ là gì, đảm bảo 100% thì nó chà đạp lên
tất cả mọi luật lệ, đảm bảo được 300% thì nó chẳng từ một tội ác nào

mà khơng dám, thậm chí có thể bị treo cổ nó cũng không sợ [29, tr.
285].


12
Hơn nữa, trong thương trường sự cạnh tranh tự do không giới hạn,
thường là sự đối đầu giữa những kẻ mạnh và kẻ yếu tất yếu sẽ dẫn đến tình
trạng cạnh tranh, hậu quả sẽ là sự bần cùng hóa và việc gạt ra ngoài lề xã hội
một số tác nhân kinh tế. Nếu để cho sự tự do đó tiếp diễn sẽ làm rối loạn các
mối quan hệ kinh tế - xã hội và tất yếu sẽ làm cho nền kinh tế kiệt quệ, khơng
cịn tái tạo nổi sự trao đổi hàng hóa. Chính vì vậy, Nhà nước cần phải can thiệp
nhằm cân đối, kiềm chế, điều tiết và duy trì "một thế bình quân hợp lý nhất
định giữa nguyên tắc tự do và nguyên tắc bình đẳng" [4, tr. 12] và một trong
những biện pháp của sự can thiệp, điều tiết đó chính là bằng chính sách thuế
và các biện pháp khác.
Việc Nhà nước thành lập các cơ quan Thuế, Hải quan để góp phần
kiểm tra hàng hóa, thu thuế XNK nhằm tăng nguồn thu cho ngân khố, đồng
thời là công cụ để thỏa thuận trao đổi thương mại giữa các quốc gia, bảo vệ
sản xuất nội địa. Nhà nước càng ngày cần những khoản tiền nhất định để bù
đắp chi tiêu, nuôi bộ máy "dường như đứng trên xã hội", trong khi đó bn
bán ngày càng khó khăn do quy định của chế độ phong kiến buộc các thương
nhân phải "thiết kế những con đường vòng" nhằm tránh đóng thuế. "Đó là các
đường dây bn bán nằm ngồi sự kiểm sốt của các quốc gia khác nhau".
Đây chính là nguồn gốc sâu xa của bn lậu.
Như vậy, cùng với sự phát triển của kinh tế, chính trị, xã hội; buôn lậu
đã xuất hiện và tồn tại như là bạn đồng hành với sự phát triển của thương mại.
Lịch sử chứng minh nạn buôn lậu đã xuất hiện từ thời cổ đại. ở Ai Cập
vào thế kỷ XVII - XVI tr. CN khi các đoàn thương nhân mang hàng hóa lên
đường bn bán ở nước khác thường phải thuê đội bảo vệ đi cùng và trả một
khoản tiền lớn, sau này để thay việc chi phí cho các đội bảo vệ đắt tiền, người ta

đã bỏ tiền ra đóng một thứ thuế đặc biệt - mà tiền thân là thuế hải quan sau này một thứ thuế "bắt nguồn từ những khoản cống nạp mà bọn chủ phong kiến bắt
các thương nhân đi qua lãnh thổ của mình phải nộp để khỏi bị cướp bóc, khoản
thuế đó sau này cũng được thành thị đặt ra, và khi các Nhà nước hiện đại xuất


13
hiện, thì khoản đó trở thành thủ đoạn thuận tiện nhất để thu tiền cho kho bạc"
[4, tr. 83]. Hoặc như ở thời Hy Lạp cổ đại (thế kỷ VI tr. CN), các lãnh chúa
cát cứ tự đặt ra các luật lệ về thuế đánh vào nhiều mặt hàng phải di chuyển qua
lãnh thổ của mình; như "thuế hải quan được quy định đối với hàng nhập khẩu là
bằng 1/10 trị giá của hàng, thậm chí tồn tại cả thuế hải quan đối với việc xuất
khẩu nô lệ" [45, tr. 13].
ở Trung Quốc, một trong những nước sớm nổi tiếng về nghề buôn, hoạt
động kinh doanh của thương nhân Trung Quốc xuất hiện từ thời tiền Tần xa xưa,
các quốc gia phong kiến lúc bấy giờ đã định ra những chính sách bất lợi cho
thương nhân. "Ngay từ thời Hán, chính quyền đã thi hành một số biện pháp để
hạn chế hoạt động của thương nhân, ngăn chặn con đường kiếm lời của họ, đặt
ra đủ loại thuế má bắt thương nhân phải đóng, làm đủ mọi cách để họ khơng
có lãi hay khơng được lãi bao nhiêu..." [36, tr. 266]. Để có lợi nhuận họ bất
chấp tất cả: "Ai cũng biết là phạm pháp, nhưng người đi trước, người sau nối
tiếp, cực khổ cũng cam lòng, dần dần thành tập quán. Và trong các đời Chính
Đức, Gia Tĩnh (1506 - 1556), việc ra biển buôn lậu… đã trở thành phong tục"
[36, tr. 292].
ở Việt Nam từ thế kỷ X, khi đất nước bước vào kỷ nguyên độc lập tự
chủ, triều đại nhà Lý đã quan tâm phát triển sản xuất và mở mang giao thương
với bên ngồi, bn lậu và chống buôn lậu đã được đặt ra. Đến các triều đại
Nhà Trần, Lê, Nguyễn sau này công tác chống buôn lậu qua biên giới ngày
càng được chú trọng hơn. Cụ thể ngay từ năm 1149, Vua Lý Anh Tông đã
định ra chức án sát để kiểm sốt việc bn bán của tàu thuyền nước ngoài tại
các "Bạc dịch trường"; thời nhà Lê, triều đình đặt ra chức Tuần ty để thu thuế

ở các cửa ải và chợ búa; lúc đó cả nước có đến 4.000 Tuần ty, chứng tỏ việc
kiểm sốt, thu thuế, ngăn chặn bn lậu đã được coi trọng.
Bn lậu như một căn bệnh có tính lịch sử, do đó các nhà nước phong
kiến trước đây cũng như giai đoạn sau này đã chú trọng đến công tác phịng
chống bn lậu. Trong thời kỳ chống Pháp, hoạt động buôn lậu vẫn diễn ra


14
giữa vùng tự do và vùng tạm chiếm. Đến thời kỳ chống Mỹ, khi cả nước đang
tập trung sức lực cho chiến trường miền Nam thì ở miền Bắc bn lậu hàng
ngoại, thuốc phiện vẫn diễn ra. Từ khi đất nước thống nhất, đặc biệt là sau
Đại hội lần thứ VI của Đảng, với chính sách mở cửa làm cho đời sống của
nhân dân được nâng cao, tình trạng bn lậu và các tệ nạn khác cũng nảy sinh
và diễn biến ngày càng phức tạp.
Nhận diện và hiểu rõ nguồn gốc bn lậu có ý nghĩa quan trọng,
khơng những giúp chúng ta lý giải vì sao bn lậu tồn tại dai dẳng đến ngày
nay - cho dù các quốc gia trên thế giới đều coi buôn lậu như là một kiểu kinh
doanh khơng sịng phẳng, bất hợp pháp và tun bố bài trừ - mà còn chỉ ra nội
dung cốt lõi của buôn lậu để nhận thức sâu sắc về nó, khơng nhầm lẫn bn
lậu với các tội phạm kinh tế khác, từ đó đề ra phương pháp đấu tranh phịng
chống có hiệu quả hơn.
1.1.3. Thủ đoạn bn lậu
Lịch sử quan hệ buôn bán giữa các quốc gia từ trước đến nay, theo
quy luật vừa trao đổi nhưng cũng vừa cạnh tranh gay gắt, bên cạnh đó các đối
tượng bn lậu ln tìm mọi thủ đoạn để kiếm lời bất hợp pháp:
Một là, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới; hoặc thông qua
các cửa khẩu đường bộ, đường biển, đường hàng không, đường bưu điện nhưng
giấu giếm tinh vi, trốn tránh sự quản lý của cơ quan chức năng.
Hai là, khai báo khơng trung thực về hàng hóa thực xuất, nhập khẩu: trị
giá hàng hóa về số lượng, trọng lượng và chất lượng hàng hóa, xuất xứ hàng

hóa.
Ba là, xuất trình khơng đúng chủng loại hàng.
Bốn là, xuất trình giấy tờ, chứng từ hàng hóa xuất, nhập khẩu không
đầy đủ, thiếu chân thực.


15
ở Việt Nam, do những đặc điểm riêng, kinh tế mới phát triển, luật
pháp chưa hoàn chỉnh, quản lý kinh tế - xã hội còn bất cập nên các thủ đoạn
bn lậu cũng có những đặc điểm riêng. Qua khảo sát những năm gần đây
cho thấy bọn buôn lậu dùng các phương thức thủ đoạn sau:
Trên tuyến thương mại, đối tượng thường lợi dụng chính sách cho phép
nhập khẩu linh kiện CKD, IKD, SKD... được hưởng thuế suất thấp; các chính
sách cho đem theo hàng hóa của những người học tập, lao động ở nước ngồi,
tiêu chuẩn hàng hóa được phép mua đối với thuyền viên, chế độ quà biếu;
khai báo sai tên hàng, số lượng, chủng loại; xuất xứ hàng hóa; hoặc lợi dụng
quy định cho phép hàng chuyển tiếp, hàng chuyển khẩu, chế độ kiểm hóa theo
yêu cầu của khách hàng; kiểm hóa theo tỷ lệ phần trăm; móc nối với một số
phần tử thối hóa trong cơ quan chức năng của như Biên phòng, Hải quan
v.v...
Trên tuyến biển, đối tượng buôn lậu hoạt động bán công khai chủ yếu
là các thủy thủ tàu viễn dương, lợi dụng các phương tiện của Nhà nước để buôn
lậu. "Bọn buôn lậu triệt để lợi dụng các phương tiện của Nhà nước để vận
chuyển hàng hóa. Qua khảo sát cho thấy 80% số vụ buôn lậu do sự tham gia
của các doanh nghiệp nhà nước và của các lực lượng vũ trang; trong đó 40%
là trực tiếp bn lậu và 60% là do tư nhân núp bóng để bn lậu" [56, tr. 443],
hoặc lợi dụng các chế độ chính sách quy định về hành lý, chế độ của những
người thường xuyên làm việc trên các tàu biển để buôn lậu.
Khi bị truy bắt gắt gao chúng chuyển sang hoạt động bí mật; cụ thể
các tàu chở hàng lậu ở nước ngoài về thường trốn tránh sự kiểm tra, kiểm soát

của cơ quan chức năng, lén lút đưa hàng vào bờ; hàng hóa thường là hàng
cấm, hàng có giá trị kinh tế cao, lãi suất lớn. Ngồi ra, chúng cịn tổ chức lực
lượng ngầm theo dõi, nắm quy luật hoạt động của các lực lượng Công an, Hải
quan, Quản lý thị trường, Biên phịng v.v... nắm giờ xuất phát và hành trình
của tàu tuần tra, chống buôn lậu của các cơ quan chức năng để đối phó.


16
Tóm lại, vì lợi nhuận đối tượng bn lậu khơng từ mọi thủ đoạn nào
và chống đối ngày càng quyết liệt.
1.1.4. Nguyên nhân và hậu quả của buôn lậu
1.1.4.1. Nguyên nhân và điều kiện buôn lậu tồn tại
Những năm gần đây tình hình bn lậu đã trở thành mối quan tâm của
tồn xã hội, đã và đang có những diễn biến phức tạp, ngày càng nghiêm trọng.
Nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên là các Bộ, ngành,
ủy ban nhân dân các cấp chưa nhận thức đầy đủ về nguy cơ và tác hại
lâu dài của tệ nạn buôn lậu, đã bng lỏng quản lý nhà nước, chưa có
biện pháp kiên quyết, triệt để nhằm đấu tranh có hiệu quả với nạn
bn lậu. Nhiều trường hợp vì quyền lợi cục bộ, lãnh đạo một số Bộ,
ngành, địa phương đã làm ngơ, thậm chí tiếp tay cho bn lậu. Các
lực lượng làm nhiệm vụ chống bn lậu cịn yếu kém, thiếu phương
tiện, hoạt động tản mạn, chưa có sự phối hợp với nhau. Một bộ
phận cán bộ, nhân viên có biểu hiện tiêu cực. Việc xét xử để xử lý
các vụ vi phạm hành vi buôn lậu chưa nghiêm, chưa kịp thời [43, tr.
3].
Nghiên cứu thực tiễn đấu tranh phòng, chống buôn lậu cho thấy buôn
lậu tồn tại do một số nguyên nhân:
Một là, nền kinh tế nước ta chậm phát triển, chất lượng hàng hóa chưa
đáp ứng nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng; giá thành cao, mất cân đối giữa
cung và cầu, chênh lệch lớn về giá.

Thị trường bao giờ cũng tuân theo quy luật cung - cầu và giá trị hàng
hóa; hàng tốt, rẻ sẽ chiến thắng hàng xấu, chất lượng kém, giá thành cao; đây
là quy luật phổ biến vận hành trong bất kỳ nền kinh tế hàng hóa nào. Kinh tế
nước ta trong những năm gần đây mặc dù đã đạt được những thành tựu đáng
kể, sản xuất phát triển, hàng hóa làm ra nhiều, nhưng nhìn chung nền kinh tế


17

cịn nhiều khó khăn, mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu dùng của tồn xã hội vẫn
cịn gay gắt, ln có sự mất cân đối giữa cung và cầu của thị trường trong
nước; hậu quả của việc kéo dài cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao
cấp đã làm xơ cứng nền sản xuất trong nước, làm lạc hậu giữa sản xuất hàng
hóa với nhu cầu tiêu dùng; thiết bị sản xuất cũ kỹ, sản phẩm làm ra chưa được
đông đảo thị trường chấp nhận. Nhiều mặt hàng chất lượng kém, không phù
hợp với thị hiếu người tiêu dùng, chi phí sản xuất và giá cả hàng hóa cao,
chưa đủ sức cạnh tranh với hàng ngoại ngay trên "sân nhà" và thị trường tự do
trong khu vực. Trong khi một số nước ở khu vực hàng hóa trong tình trạng dư
thừa, phong phú về chủng loại, khá tốt về chất lượng, giá cả lại thấp hơn hoặc
ngang bằng hàng hóa cùng loại sản xuất trong nước; có nước thực hiện chính
sách bù lỗ và bằng con đường bn lậu đã đẩy hàng hóa ế thừa vào thị trường
nước ta. Mặt khác, nhu cầu tiêu dùng của xã hội ngày càng tăng khơng chỉ về
lượng mà cịn về chất, nhiều loại hàng trước đây cho là xa xỉ phẩm, cấm đốn
thì nay trở thành nhu cầu tiêu dùng bình thường trong cuộc sống.
Hai là, hệ thống văn bản pháp lý thiếu thống nhất, kể cả trong việc áp
dụng.
Phòng ngừa, đấu tranh chống buôn lậu là nhiệm vụ của tồn Đảng,
tồn dân; thế nhưng cơng tác này khơng thể đạt được kết quả nếu thiếu các
biện pháp quản lý bằng pháp luật của các cơ quan bảo vệ pháp luật và quản lý
của Nhà nước. Trong những năm gần đây Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều

văn bản tổ chức, hướng dẫn công tác đấu tranh chống buôn lậu như: Chỉ thị số
15/CT-TW ngày 20/11/1992 của Bộ Chính trị, Chỉ thị 216/HĐBT của Hội đồng
Bộ trưởng, Quyết định 114/TTg, Chỉ thị 416/TTg, Chỉ thị 701/TTg, Chỉ thị
853/CT-TTg ngày 11/10/1997 của Thủ tướng Chính phủ về đấu tranh chống bn
lậu trong tình hình mới. Và gần đây là quyết định thành lập Ban chỉ đạo đấu
tranh chống buôn lậu 127/TW. Thế nhưng buôn lậu vẫn diễn ra hết sức nghiêm
trọng, nguyên nhân là do thiếu thống nhất, đồng bộ trong ban hành và thực


18
hiện các văn bản pháp luật, quan điểm chỉ đạo, tổ chức thực hiện từ trung
ương đến cơ sở.
Trên thực tế, nhiều quan hệ xã hội đã thay đổi, nhưng các quy phạm
pháp luật chưa kịp điều chỉnh, nhiều văn bản xa rời với thực tiễn, khơng cịn
phù hợp khi điều chỉnh các quan hệ phát sinh nhất là trong lĩnh vực đấu tranh
phịng chống bn lậu. Ví dụ như quy định của Bộ Thương mại cho phép
nhập khẩu khung gầm xe ơtơ có gắn động cơ... chính sách thuế hiện hành của
Nhà nước ta vừa đánh thuế theo tính chất mặt hàng, lại vừa đánh thuế theo
mục đích sử dụng. Ví dụ như xe ơtơ du lịch 12 chỗ ngồi được cải biến thành
xe tải nhẹ hoặc xe cứu thương; xe ơtơ có trọng tải thấp khai trọng tải cao để
được giảm thuế. Hoặc bảng giá tối thiểu đã được xác định trong luật thuế
XNK chưa nhiều, do đó giá tính thuế căn cứ theo giá ghi trên hợp đồng và
hóa đơn thương mại hợp lệ... doanh nghiệp lợi dụng thơng đồng với chủ hàng
ở nước ngồi ghi giá thấp nhiều so với thực tế để trốn thuế. Theo báo cáo của
Chính phủ, thất thu thuế qua giá ước tính khoảng 25% trên tổng số thuế XNK.
Mặt khác, khi thực hiện chuyển sang nền kinh tế thị trường, chúng ta
chưa có nhiều kinh nghiệm trong thực tế, cơ chế thiếu đồng bộ, bộ máy vận hành
chưa tốt, buông lỏng quản lý; quan điểm chỉ đạo có lúc chưa thống nhất, vận
dụng không căn cứ vào quy định chung của pháp luật, thậm chí làm trái pháp
luật vì lợi ích cục bộ của ngành, của địa phương. Công tác điều tra, truy tố,

xét xử thiếu nhất quán, quan điểm xử lý khơng thống nhất, cịn tùy tiện. "Theo
số liệu thống kê, trung bình hàng năm chúng ta mới xét xử được dưới 1% số
vụ buôn lậu bị phát hiện bắt giữ, trong đó có tới 50% là xử án treo" [57, tr.
463].
Ba là, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về phịng
chống bn lậu trong các ngành, các cấp và trong quần chúng nhân dân chưa
được quan tâm đúng mức.


19
Nhận thức của một số cán bộ và nhân dân về cơng tác phịng ngừa đấu
tranh phịng chống bn lậu lại rất hạn chế; nhiều địa phương, cơ quan nhà
nước chưa đặt công tác chống buôn lậu lên ngang tầm với yêu cầu, quản lý
còn lỏng lẻo, chưa thật sự chỉ đạo một cách thường xuyên mạnh mẽ; có nơi
xuất phát từ lợi ích cục bộ đã tham gia bn lậu hoặc tiếp tay, tạo điều kiện
cho bọn buôn lậu núp bóng hoạt động, như thu thuế nhẹ hơn thuế nhập khẩu,
làm ngơ để cho hàng lậu vào nội địa để thu thuế cho địa phương.
Bốn là, sự tác động của kinh tế chung trong khu vực đã kích thích, ảnh
hưởng đến tình hình phát triển kinh tế Việt Nam.
Trong khi nền kinh tế nước ta cịn nhiều khó khăn, thì trong những
năm gần đây phần lớn các nước trong khu vực lại có mức tăng trưởng kinh tế
cao, sản xuất phát triển hàng hóa mạnh; do vậy đã tạo ra sự chênh lệch khá
cao về về giá cả hàng hóa giữa thị trường ở trong nước và các nước trong khu
vực. Sự chênh lệch đó chính là động lực cơ bản để buôn lậu ở Việt Nam tồn
tại và phát triển trong những năm gần đây. Bên cạnh không loại trừ âm mưu
sâu xa dùng kinh tế để phong tỏa, gây sức ép đối với nước ta từ nhiều phía,
tìm mọi cách để đưa càng nhiều hàng hóa vào Việt Nam càng tốt nhằm cạnh
tranh bóp chết nền sản xuất của ta; khuyến khích xuất khẩu nguyên liệu sản
xuất làm cho tài nguyên trong nước kiệt quệ.
1.1.4.2. Hậu quả của buôn lậu

a) Đối với nền kinh tế
Buôn lậu trước tiên ảnh hưởng trực tiếp đến những thành quả của
công cuộc đổi mới của đất nước, nguy cơ kiềm hãm tốc độ phát triển kinh tế,
tạo lực cản đối với quá trình CNH, HĐH đất nước. Hàng nhập lậu trốn thuế
nên giá rẻ, trong khi đó hàng hóa sản xuất trong nước phải chịu nhiều thứ thuế
nên giá thành sản phẩm cao hơn, khơng tiêu thụ được, làm cho tình trạng nợ
đọng vốn, sản xuất hàng hóa đình đốn ảnh hưởng đời sống người lao động.


20
Đối với một số cá nhân, tổ chức và cơ quan nhà nước có hành vi bn
lậu sẽ dẫn đến tình trạng đồng vốn quốc gia bị sử dụng sai mục đích, khơng
tạo ra được sản phẩm thơng qua sản xuất và hiệu quả không hợp pháp trong
kinh doanh, làm mất cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng. "Theo thống kê chưa
đầy đủ mỗi năm (giai đoạn cuối năm 1990) ước tính số hàng lậu xâm nhập
vào nước ta khoảng 2,5 triệu chai rượu; 200 triệu bao thuốc lá; 70 triệu mét
vải. Tổng trị giá hàng nhập lậu vào Việt Nam mỗi năm khoảng 6.000 tỷ đồng,
tức là ngân khố quốc gia bị cướp đi hơn 2000 tỷ đồng" [4, tr. 146].
Như vậy, hàng hóa nhập lậu trốn thuế làm mất đi sự cân bằng trong
cạnh tranh hợp pháp, thất thu thuế XNK, chảy máu ngoại tệ.
b) ảnh hưởng đối với an ninh, chính trị
Vì mục đích lợi nhuận, đối tượng tham gia buôn lậu không từ bất cứ
một mặt hàng nào kể cả những mặt hàng nhà nước cấm kinh doanh, bn bán
như ma túy, vũ khí, đạn dược, vật liệu nổ, quân trang quân dụng v.v...
Buôn lậu ảnh hưởng đối với nền kinh tế, tất yếu sẽ làm cho an ninh
chính trị của đất nước càng khó khăn hơn. Hàng hóa nhập lậu làm cho thị
trường hỗn loạn, Nhà nước khơng kiểm sốt được tình hình hoạt động XNK
và các chính sách đầu tư đối với nước ngoài; ảnh hưởng đến nguồn thu ngân
sách, làm giảm các khoản chi cho các quỹ phúc lợi xã hội, làm cho tệ nạn xã
hội phát triển. Những khoản thu nhập có từ bn lậu làm cho một bộ phận

làm ăn bất chính giàu lên, sống sa đọa, coi thường kỷ cương phép nước, làm
cho Nhà nước không điều hành được cơng việc của mình tất yếu Nhà nước sẽ
suy yếu, ảnh hưởng đến chủ quyền và an ninh quốc gia.
Ngày nay với xu thế tồn cầu hóa kinh tế ngày càng mạnh mẽ; việc
không thắng nổi về mặt quân sự thì việc dùng kinh tế để xâm lược đang được
các thế lực thù địch sử dụng một cách triệt để, vừa tinh vi, vừa thủ đoạn. Với
ưu thế về kinh tế, khoa học kỹ thuật, một số thế lực thù địch đang lợi dụng
chính sách hội nhập để thực hiện "diễn biến hịa bình", "chiến tranh biên giới



×